← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Mười Hai Ngàn dặm xuống Nam, Lê Thảo vào Hoa Lư động
Vừa báo tin xong, binh Cổ Loa đã vào bờ cõi

Đây nhắc lại lúc hai anh em Lê Hiền Lê Thảo đốt nhà bỏ quê hương làng mạc, trong đêm tối cuối năm thúc ngựa nhắm phương Nam mà đi. Cuộc hành trình không có mục đích rõ rệt, nên anh em cứ thong dong mà đi, gặp nơi phong cảnh đẹp thì dừng lại thưởng thức, thấy nơi địa thế cổ quái xung yếu thì dừng lại để bàn tán, lại để tâm xem xét dân tình, ngẫm nghĩ về phép cứu dân cứu nước.

Hai anh em xuống đến thành Cổ Loa, thì đúng vào giữa Hạ năm Canh Tuất, tức là hai anh em lang thang trong thiên hạ đến gần một năm rưỡi trời, nhiều phen tưởng như đã quên mất cả việc lớn cứu dân, tìm mình chủ mà thờ; nhưng cũng nhiều lúc tận mắt thấy cảnh sống cơ cực của dân, uất hờn với những hành động của các Sứ quân, thì lửa quật cường lại bừng bừng cháy lớn trong tâm can. Hồi ấy Cổ Loa đang chuẩn bị quân binh, vơ vét lương thảo, bắt thêm lính, mài lại gươm giáo, sắp sửa lên đường xuống Nam đánh Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư. Kinh thành rộn rịp, trăm dân buồn bã không còn thiết làm ăn gì nữa, dân đinh lại bị lập lại, nhà nào còn thanh niên có thể cầm gươm lên ngựa được, đều bị bắt đi, tình cảnh ngày càng khổ cực, đi đến đâu cũng nghe dân oán than. Lại thêm cái nạn lính lệ hoạnh họe, sục sạo vào nhà dân hôi của, ăn cướp công khai, trên thì các quan văn võ tìm đủ mọi cách để vơ vét tài sản của dân làm tài sản của riêng mình. Trong triều đình, thì từ khi Ngô Bình Vương (Ngô Xương Ngập) thấy nguy cơ ở bên cạnh Nhiếp Chính Dương Tam Kha, liền bỏ ngai vàng trốn sang Nam Sách, Nhiếp Chính Vương đem quân truy nã không được, liền bắt em Ngô Bình Vương là Ngô Xương Văn nuôi làm con nuôi để mưu toan việc soán nghịch, thì lòng người không ai là còn tha thiết với triều đình nữa, mầm mống tan rã càng cao, không còn cách gì cứu vãn được. Về sau, Nhiếp Chính Tam Kha bị Ngô Xương Văn lợi dụng binh quyền trong tay, quay lại bắt giam. Ngô Xương Văn lên ngôi lấy hiệu là Nam Tấn Vương, lại xin lệ thuộc Nam Hán, nhận chức Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ kiêm Đô Hộ sứ của nhà Nam Hán, thì cơ nghiệp nhà Ngô coi như sắp tàn vong rồi.

Nam Tấn Vương lúc vừa lên ngôi, đăng triều cùng với các quan bàn việc nước, nhận thấy thiên hạ không còn tin tưởng ở triều đình nữa, nhiều nơi nổi lên xưng hùng xưng bá, ở phương Nam đáng kể hơn cả là Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư.

Vương hiểu rằng: để lâu, thế nào Bộ Lĩnh cũng chiêu mộ được thêm người, nuôi được sức mạnh, càng để lâu mối họa càng nặng thêm mãi, liền quyết định thân chinh cầm quân đi đánh Hoa Lư. Hai anh em Lê Hiền Lê Thảo tới Cổ Loa đúng vào lúc triều đình sắp hưng binh Nam phạt.

Lê Thảo liền thưa với anh:

- Anh em ta đi đã gần năm rưỡi trời, tận mắt được nhìn đã lắm việc, nhưng chưa phải là hết. Nay đến đây, lại được thấy thịnh sự, triều đình cử binh đi đánh Hoa Lư, đúng là điều em mong ước được xem xét. Em quyết định xuống Nam, vào thẳng Hoa Lư, để xem tình hình ra sao. Nếu được anh cùng đi thì hay quá...

Lê Hiền bảo:

- Ý anh không muốn xuống phương Nam, anh muốn ở lại Cổ Loa này, đợi chờ cơ hội để xuất hiện thì hơn. Thế nào chăng nữa, anh thấy cũng nên nương vào cái “nền tảng chính nghĩa” có sẵn để mà hành động là hơn. Còn vào Hoa Lư, thì như em đã thấy: triều đình đem quân đi đánh Hoa Lư, thì Hoa Lư có khác gì quân giặc cướp lớn cần phải tiễu trừ không, trước sau gì cũng bị tiêu diệt cả, em xuống Nam làm gì!

Lê Thảo cười thật buồn, đáp:

- Em thì lại không cho là như thế, tại sao Hoa Lư lại là mối lo tim óc của triều đình, mà các nơi khác lại không đáng kể? Cái thế của Hoa Lư, là cái thế khởi đại nghiệp đấy. Anh không cùng đi với em xuống Nam, là điều thật đáng tiếc lắm.

Hai anh em còn bàn với nhau vài ngày nữa, đi thăm nhiều nơi, nghe ngóng tình hình khắp chỗ, rồi Lê Thảo nói rằng:

- Như thế là đã rõ việc, bây giờ anh em ta chia tay nhau, trời đất rộng, đi đâu cũng chỉ thấy trăm dân ngửa cổ đợi chết, đất nước ta lâm hồi suy sụp bị bọn vô tài vô hạnh, nhưng giỏi nghề tham tàn cai trị, nếu không có một sức mạnh mới quyét sạch phường giết dân hại nước ấy đi, thì làm sao cứu được trăm dân khỏi cảnh cơ cực, làm sao cứu được nước ta khỏi bị tan rã. Công lao của các tiên vương, nay là cái cơ hội để cho bọn kế nghiệp lợi dụng thao túng. Lúc này, không cần có người đứng ra khoe mình có tài cứu được dân, làm cho nước giàu có thịnh vượng, mà chỉ cần có tay dũng lược đủ sức quét sạch phường cẩu quan, tiêu diệt bọn phú hào đang xưng hùng xưng bá mỗi kẻ một nơi, đem giang sơn về một mối, từ đấy lập ra một thời đại có kỷ cương, mở đường cho cuộc dựng nước lâu dài, mới là người đáng để anh em ta cùng chí lớn, nhưng lại chẳng chung đường đi. Đất nước này, thế nào cũng nổi họa can qua ghê gớm, trong cơn binh lửa ấy không biết số phận anh em ta sẽ ra sao, dù thế nào chăng nữa cái số phận ấy cũng sẽ gắn liền với cái số phận của trăm dân. Vậy thì, dù không ở gần nhau, không chung một đường đi nhưng cứ lấy cuộc sống lầm than của dân ta làm cuộc sống của mình, thì ở đâu anh em ta cũng như ở gần nhau rồi...

Lê Hiền cũng cười buồn:

- Phải, ta cùng chí hướng, không cùng đường đi. Thế là được, ở đâu anh em ta cũng là người sống trong lòng trăm họ, trăm họ là anh em ta, xa cách chia li có mối buồn thật, nhưng mối buồn trăm dân đau khổ là nặng hơn cả. Anh em ta chia tay nhau, ước mong ngày gặp lại nhau phải là ngày trăm dân thoát ách cơ cực, đất nước này thanh bình.

Rồi trong cơn năng hạ đến mờ mắt giữa buổi đại loạn, hai anh em Lê Hiền Lê Thảo chia tay nhau. Lê Hiền đưa tiễn Lê Thảo đến tận bến Bồ Đề mới chia tay. Lê Thảo giục ngựa ven theo đường sông mà đi trong nắng bụi giữa Hạ, bóng dáng Lê Thảo mờ dần, lẫn vào bụi mờ của quê hương giữa thời đại loạn.

Lê Thảo men theo đường sông mà đi, rồi đổi hướng quay sang phía Đông, rong ruổi có ý nhân cơ hội xuống Nam, xem xét tình hình các Sứ quân, để tâm quan sát địa hình địa vật từng nơi. Đặc biệt, lúc tới miền biển, nhân thấy địa thế hùng vĩ, để tâm theo dõi, liền nảy sinh ý lạ. Lê Thảo xuống Nam, nhưng vẫn để ý nghe ngóng tin tức quân của Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn, Lê Thảo thấy ở đâu cũng mơ hồ không hiểu rõ việc, thì trong lòng vừa buồn vừa mừng. Buồn vì các Sứ quân quả thật chỉ đáng là những kẻ phú hào không tài cán gì, hoặc là những kẻ chỉ có óc làm loạn chứ không có chỉ mở đại nghiệp; mừng vì những nhân vật như vậy thì chỉ ra tay một trận là quét sạch được ngay, chẳng khó khăn gì. Lê Thảo ở lại miền biển đến gần cuối năm, quan sát đầy đủ tình thế, xét kĩ từng nhân vật, rồi mới lại lên đường tìm xuống Hoa Lư.

Đầu xuân năm Tân Hợi (951), vó ngựa Lê Thảo bắt đầu giẫm vào vùng núi Kiệm Lộng. Mùa xuân ở đây, phong cảnh thật hùng vĩ núi non trùng điệp, lại có những khe nước từ trong núi chảy ra, đổ xuống sông Hát, Lê Thảo vào Kẽm Trống, dừng ngựa tìm hang động tạm trú ẩn quyến luyến mãi nơi này, lang thang khắp nơi, lại lấy gỗ Mạo Hương tạo thành cây đàn, tìm không thấy lá dứa thì lấy tơ Gian Thảo kết thành ba dây đàn, ngồi trên đỉnh Kiệm Lộng Sơn tấu lên những khúc nhạc thần tiên.

Sau, Lê Thảo lại lần bước, cưỡi ngựa vào khe Sào Long, theo sông Kiến Phong đi xuống động Hoa Lư. Dừng bước ở đây, Lê Thảo không khỏi xúc động trước quang cảnh thật hùng vĩ, Hoa Lư động bốn bề vách núi trùng điệp, doanh trại san sát giữa vùng rừng vách núi ngất trời, khí thế thật lẫy lững, chỉ tiếc một điều là dường như chưa có tay thao lược biết cùng một lúc sử dụng được cả những vùng chung quanh, tạo thành thế liên hoàn công cũng như thủ. Lê Thảo lại ngược lên phía Bắc, xem xét địa thế, nhân thể nghe ngóng tình hình. Cuối Xuân năm ấy, Lê Thảo được tin binh triều đình đã lên đường, theo đường sông xuống đến Phong Lộc thì sẽ đổ bộ, thẳng hướng Tây nhắm động Hoa Lư tiến phát.

Được tin, Lê Thảo vội giục ngựa vào động, trà trộn vào người qua lại để dò la động tĩnh, thấy Hoa Lư vẫn im lặng, rõ ràng là chưa được tin gì cả. Lê Thảo cả kinh liền trở lại khe Sào Long, ẩn thân suy nghĩ cách nào để báo được cho Hoa Lư hay, lại có thể gặp gỡ được Đinh Bộ Lĩnh.

Nghĩ chưa ra cách nào, thì đêm đã xuống. Đêm tàn Xuân trời thật dịu, ấm áp, ngồi trên đỉnh Kiệm Lộng Sơn nhìn xuống cả một vùng núi đồi âm u, tối đen, Lê Thảo không khỏi xúc cảm, liền lấy cây đàn gỗ Mạo Hương, dãy tơ Gian Thảo, tấu lên khúc “Quốc loạn”, đem hết tâm tư phổ vào ba giây tơ, tiếng đàn nghe có lúc ai oán không cùng, có lúc lại hùng hồn như thác đổ núi lở, chen lẫn tiếng khóc của muôn dân trong thời đại loạn.

Tiếng đàn theo gió đưa đi, len lỏi qua vách núi, lòng khe, lọt vào tai tướng Lê Hoàn lúc ấy đang cầm quân đi tuần canh ở vùng ngoài phía Bắc, gần rặng Thổ Tích. Lê Hoàn là người đa nghi, nay nghe nửa đêm có tiếng đàn lạ, trong tiếng đàn như có tiếng nói mơ hồ, lúc ai oán, lúc bừng dũng khí, nửa như kêu gọi, nửa như truyền lệnh phải lần theo tiếng đàn mà tìm đến. Lê Hoàn lấy làm lạ, liền truyền quân im lặng, theo tiếng đàn lần tìm đến. Càng đi, tiếng đàn càng như giục giã phải đi cho nhanh. Lê Hoàn truyền quân hết sức thận trọng rảo bước. Đi như vậy được khá lâu, len lỏi hết hang này động nọ, cuối cùng khi ngẩng đầu nhìn lên thấy sao Bắc Đẩu đứng thẳng trên đỉnh đầu, thì cũng là lúc nghe thấy tiếng đàn rõ mồn một từ trên đỉnh Kiệm Lộng Sơn vọng xuống. Lê Hoàn bàng hoàng, ngẩng đầu nhìn lên đỉnh núi tối đen, cây rừng rậm rạp, liền truyền quân vạch lá mà lên.

Đi được nửa đường, núi dốc thoai thoải, càng lên càng quang đãng dễ đi, sực tiếng đàn cũng ngưng bặt. Lê Hoàn sợ mất dấu, hối thúc quân gấp bước trèo lên. Lên đến đỉnh núi, Lê Hoàn thấy rõ ràng một người ngồi trên một tảng đá, quay mặt về hướng Bắc, người lạ vóc dáng nhỏ nhắn, vận áo theo lối văn sinh, tay người lạ còn ôm cây đàn dáng thuôn như trái bầu.

Lê Hoàn bước lên, lên tiếng truyền quân bật hồng. Người lạ nghe tiếng người liền đứng bật dậy, quay nhìn lại. Lửa bật sáng, Lê Hoàn thấy người lạ tuổi trạc ba mươi, mặt đẹp thanh tú, liền hỏi:

- Ngài là ai? Đêm hôm ngồi ở đây làm gì?

Lê Thảo chắp tay, trang trọng đáp:

- Tôi từ phương xa lại, thấy phong cảnh ở đây thật đẹp, nhưng lại đượm màu binh đao chém giết, nên trong lòng cảm khải ngồi nhìn trời đất.

Lê Hoàn hỏi tiếp:

- Có phải tiếng đàn lúc nãy là của ngài đấy không?

- Chính phải!

Lê Hoàn lại hỏi:

- Ngài có biết chỗ này là đâu không? Sao không sợ giặc cướp mà lại một mình đến nơi này như thế?

Lê Thảo trong lòng cũng có ý lo gặp quân cường đạo, nhưng khi được thấy rõ mặt Lê Hoàn thì trong lòng cũng tạm yên đôi chút. Nay nghe hỏi như vậy liền mỉm cười đáp:

- Giặc cướp thì không ai thích, có người sợ, nhưng cũng có người không sợ. Riêng ngài thì tất không phải là người của cường tặc rồi. Dám hỏi, có phải ngài là người của Chúa Động Hoa Lư đấy không?

Lê Hoàn mình cao hơn tám thước, mặt đẹp tuấn tú, vóc dáng hùng dũng, Hoàn lại là người biết suy nghĩ, sắc sảo, nay nghe người lạ hỏi như vậy thì suy nghĩ lắm. Lê Hoàn bèn nói:

- Quả thật tôi là người của Chúa Động Hoa Lư, tên gọi Lê Hoàn đây. Đêm nay lĩnh mệnh đem quân đi tuần canh, gặp ngài ở đây, thế nào cũng phải mời về doanh một phen để Động Chúa xét mới được.

Lê Thảo biết Lê Hoàn muốn bắt mình về, nhưng còn nói thác ra là mời về doanh, liền cố ý trêu tức:

- Đa tạ lời mời của tướng quân, phong cảnh ở đây hùng vĩ quá tại hạ chưa muốn bỏ đi, phiền Tướng quân cứ trở về doanh trước được không?

Lê Hoàn thấy người lạ có ý cưỡng lại lời mình, trong lòng không khỏi có phần tức, nhưng cũng lấy làm lạ, cố nén mà rằng:

- Tôi xin đưa ngài đi, một mình Ngài làm sao biết đường được?

Lê Thảo càng cố trêu, mỉm cười:

- Tại hạ biết đường đi mà! Tại hạ còn biết Hoa Lư sắp có biến nữa đấy!

Lê Hoàn kinh hãi, cho người lạ là kẻ muốn dòm ngó Hoa Lư, một mình đến đây mà lại không tỏ ra chút sợ sệt nào, tất là kẻ nguy hiểm. Nghĩ rồi, quyết phải bắt đem người lạ về doanh cho kỳ được, liền sẵng giọng:

- Bản chức không còn thời giờ để chuyện trò nữa, việc tuần canh còn nhiều nơi phải tới. Vậy ngài có thuận cùng bản chức về doanh không?

Lê Thảo cả cười:

- Có ai ở đời này được mời lại không đi, mà lại đợi bị bắt về mới chịu hay sao! Nào, tướng quân đi trước đi!

Nói xong, Lê Thảo ung dung đi lại hốc đá, cởi dây buộc ngựa, rồi ung dung lên yên, xuống núi làm như thể đã thạo đường lắm rồi. Lê Hoàn sai quan đốt đuốc mở đường, cả bọn rong ruổi về doang Đinh Chúa ở hạ lưu sông Hoàng Long.

Đi đến gần tảng sáng, thì về đến doanh trại. Doanh của Đinh Chúa dựa vào sông Hoàng Long mà lập, thiết trí theo hình “xoáy nước chảy dài” thành một vệt dài bám sát dòng sông. Doanh trại san sát, phần nọ tiếp nối phần kia như móc xích. Trải qua các điểm canh, cả bọn vào cửa doanh. Trống hiệu nổi lên báo hiệu tướng tuần canh hồi doanh. Lê Hoàn thúc ngựa lên trước, đưa Lê Thảo đến trước đại sảnh.

Đinh Chúa có lệ: mỗi sáng đều tụ tập chúng tướng uống trà núi Trường An, bàn luận việc thiên hạ. Sáng nay, vừa ngồi vào bàn, đã nghe trống hiệu ngoài doanh báo tin. Thoáng chốc, Lê Hoàn trở về dẫn theo Lê Thảo. Hoàn bước vào đại sảnh vòng tay thưa:

- Đêm hôm qua đi tuần cùng Kiệm Lộng Sơn, tôi gặp người lạ gảy đàn nói nhiều điều quái gở, liền đưa về đây để đợi lệnh Chúa công.

Đinh Bộ Lĩnh lưng hùm vai gấu, tướng mạo vô cùng hùng dũng, rõ ràng là một dũng tướng, hai con mắt như hai vết dao cắt, sắc mà tình cảm, cặp môi dày dày vẻ cương nghị nhưng lại chứa nhiều tham vọng. Nghe Lê Hoàn bẩm Đinh Chúa hơi nhíu mày bảo:

- Kẻ lạ nói nhiều điều quái gở, thì cứ việc tra hỏi, cần thì giữ, không cần thì giết đi chứ còn đem bẩm trình làm gì nữa?

Lê Hoàn đáp:

- Y nói “biết Hoa Lư sắp có biến”, nên tôi nghĩ y có điều gì hệ trọng muốn nói, xin để Chúa công quyết định.

Bộ Lĩnh truyền đưa Lê Thảo vào. Thảo bước vào đại sảnh, lưng đeo cây đàn gỗ Mạo Hương, dây tơ Gian Thảo, bước chân đi nhẹ nhàng như không đụng đất, mặt tươi như hoa, hai mắt thần khí long lanh, vừa gặp Bộ Lĩnh thì đoán biết là Chúa động Hoa Lư, liền vòng tay thi lễ rồi khoan thai cất giọng, giọng nói thánh thót như nước suối reo mà rằng:

- Tại hạ Lê Thảo, người vùng Tam Đái, vượt đường xa ngàn dặm tìm vào Hoa Lư, phải gần hai năm trời mới được thấy người anh hùng trong thiên hạ, thật là vui mừng lắm!

Bộ Lĩnh vốn tay vũ dũng, rất ít biết văn sách, thưởng nể trọng những người lưng hùm hàm én, sức lực, không mấy thích hạng thư sinh văn nhược, thoạt vừa thấy Lê Thảo thì coi thường lắm, khi Thảo vòng tay thi lễ cũng chẳng buồn đáp lại, khi nghe Thảo nói cũng như chẳng để vào tai, liền hờ hững hỏi:

- Ngàn dặm tới đây, ngài có lấy làm buồn nếu đến không đúng chỗ, gặp người không đúng ý muốn hay không?

Bộ Lĩnh có ý làm Thảo nản lòng vì chối mình không phải là kẻ anh hùng, lại có ý muốn đuổi ngay từ đầu rồi. Lê Thảo mỉm cười đáp:

- Anh hùng trong thiên hạ, tự nhận mình là anh hùng thì nhiều đếm không kể hết, duy có người chối mới hiếm thấy! Còn đường xa ngàn dặm tới đây, gặp được nơi phong cảnh tuyệt vời như thế này, thì làm gì còn có hối tiếc công lao nữa, duy chỉ tiếc chưa có người tài để “biến áo cá thành đầm rồng, đổi hang hốc thanh hang hổ”, làm cho địch đến là phải chạy, mình tiến ra thu được cả thiên hạ đấy thôi!

Bộ Lĩnh và các tướng nghe Lê Thảo nói như vậy thì có ý giận lắm, Nguyễn Bậc liền hỏi:

- Ngài nói như vậy, thì dễ chỗ này toàn là cá là tôm trong ao tù, là giun dế trong hang hốc chắc?

Lê Thảo ung dung:

- Trong ao tù cũng có cá chép, trong hang hốc cũng có dê có bò chứ! Tại hạ dám hỏi: có phải tướng quân là người bưng nước xách cơm trước khi đấy không?

Nguyễn Bậc nghe nói, càng giận tím mặt, chúng tướng cũng không khỏi kinh hãi cái gan của người lạ dám đến chỗ này mà khua môi múa mỏ sỉ vả anh hùng hào kiệt như thế. Nguyên Nguyễn Bậc người cùng làng với Đinh Bộ Lĩnh, lại đồng tuổi Giáp Tý, khi còn nhỏ cùng với bọn Đinh Điền, Lê Cơ, Trịnh Tú... cả thảy bốn người tôn Bộ Lĩnh làm Chủ tướng, thường hộ vệ hai bên tả hữu, lại mỗi khi Bộ Lĩnh thay đổi chỗ ở thì bao giờ Nguyễn Bậc cũng xách cơm nước đi theo hầu hạ, Bậc thân hình tầm thước, khỏe mạnh, mặt vuông, tính nóng nghe Lê Thảo nói như vậy thì giận lắm chưa kịp mở mồm quát mắng, Bộ Lĩnh đã lạnh nhạt hỏi:

- Người nào ở đây là chép là quả, ai là dê là bò nào? Hiện giờ, chỉ có dũng tướng quen việc cắt dầu giặc, cắt lưỡi bọn loạn ngôn mà thôi!

Lê Thảo biết Bộ Lĩnh có ý dọa mình, liền đáp:

- Trương tuần bắt trộm, sao gọi là dũng tướng được, cắt lưỡi người hiền mà gọi là anh hùng được thì có khác gì bảo anh đồ tể là hổ tướng, kẻ câu cá là thao lược hùng tài không! Tại hạ dám hỏi lại Động Chúa một điều rằng: giả sử bây giờ có tay mưu lược đem quên đến vây hãm Hoa Lư, trước hết sai chặn dòng sông Tranh, làm cho nước chảy ngược dòng dìm ngập động Hoa Lư, lại khơi dòng hướng lối cho nước dòng Sinh Khuyết ở phía Bắc tràn vào Động, liệu cá chép cá quả, liệu dê, liệu bò trong động có lối thoát được không? Giả sử, địch lại đem quân theo ngả Hang Luồn từ phía Tây mà vào sông Kiến Phong, đột kích bất thần Động Hoa Lư; lại theo đường sông Hát đến tận Kẽm Trống, vượt núo Kiệm Lộng đổ xuống uy hiếp Hoa Lư thì liệu dũng tướng mãnh tướng có bốn mặt chống đỡ địch được không? Ấy là chưa kể đường núi Thổ Tích, Mã Yên, Bái Đỉnh, Đông Khê, Long Triều, Hải Nham, Thiện Dưỡng, biết bao là hiểm địa trọng yếu như thế mà như là cửa bỏ ngỏ không rào giậu, gió vào không có chỗ che, nước chảy không có cửa đóng, binh hùng tướng mạnh nào lúc đối trận cự địch cho được nữa...

Đinh Điền nghe nói, đứng dậy hởi lớn:

- Cả một vùng Hoa Lư này, núi ngoài sông trong, anh hùng hảo hán nghe theo lệnh của Đinh Chúa, phát lạc mà tuần phòng trấn giữ, giặc nào dám đến gây chiến, người nào dám lại đây làm loạn chứ?

Đinh Điền người cùng làng với Bộ Lĩnh, lại cùng họ, có sức khỏe ngang với hùm beo, lúc nhỏ tự xưng là tướng tiên phong của Bộ Lĩnh, cầm bó cỏ lau đi trước đám rước gặp những trẻ mục đồng khác đứa nào không chịu phục thì lập tức đánh liền, nay theo Bộ Lĩnh xông pha, lập được nhiều công trận, Bộ Lĩnh rất yêu. Đinh Điền quen xử cây côn đồng nặng tám mươi cân, xung trận cực kỳ ác liệt, thường được gọi là Kim Côn Tướng. Nay ngồi nghe Lê Thảo cao giọng chê bai, hạch sách thì ghét lắm, nên mới nói như vậy.

Lê Thảo ung dung đứng dậy, vòng tay hướng về phía Đinh Bộ Lĩnh mà rằng:

- Dám thưa Động chủ, tướng cầm cờ lau tiên phong của ngài nói như thế tôi không tin. Có bao giờ Động Chủ lại mơ hồ không biết rằng Hoa Lư này sắp có nạn binh đao, mà chẳng phát hiệu lệnh chống giữ. Hoặc giả việc quân trọng đại, nên Động chủ không muốn tiết lộ cho người chỉ biết cấm cờ lau, mang gậy tre hung hăng hão đấy không?

Bây giờ đến lượt Đinh Điền giận xám mặt, Bộ Lĩnh nhíu mày hỏi:

- Binh đao thế nào, tại sao lại bảo là Hoa Lư sắp có nạn binh đao? Ý hẳn ngài muốn đến đây gây chiến với ta chắc?

Lê Hoàn từ này đến giờ chưa nói một lời, chỉ im lặng nghe cuộc tranh cãi, quan sát Lê Thảo nay nghe Bộ Lĩnh hỏi như vậy, liền đáp theo:

- Thưa Động Chúa, tôi nhiệm lệnh mang quân tuần phòng ra xa đến cả mấy chục dặm đường, không núi non nào là không để mắt tới, không dòng sông nào là không xét kỹ, chẳng thấy có giặc ở đâu cả...

Lê Thảo liền mỉm cười nói luôn:

- Ý hẳn quân tuần canh của tướng quân hôm qua đến tận Phong Lộc; xuống tắm mát ở ngã ba sông Hoàng cho nên mới biết là không có địch chắc!

Đinh Bộ Lĩnh càng nghe nói càng bực mình, không hiểu Lê Thảo đến đây mưu định gì, mẽ hễ cứ mở miệng là chê bai các tướng của mình, liền gay gắt hỏi:

- Tôi xin hỏi lại, ngài đến đây định làm gì?

Lê Thảo biết chúa động Hoa Lư đã giận lắm rồi, tình thế thật nguy hiểm, nếu có nói thật việc Cổ Loa mang quân đến đánh Hoa Lư, thì chưa chắc Bộ Lĩnh đã nghe, có khi lại còn nghi ngờ mình là nội gián tế tác của địch nữa cũng không biết chừng, tới lúc ấy thì có đến mười lưỡi cũng không cứu được đầu khỏi rụng. Nghe Bộ Lĩnh gay gắt hỏi, Lê Thảo làm ra vẻ suy nghĩ, im lặng cúi đầu, tính toán, được một lát mới ngẩng đầu lên nói:

- Nay thiên hạ đại loạn, sự nghiệp lẫy lừng của Ngô Vương đang đổ nát cả, khắp nơi anh hùng hào kiệt nổi lên mỗi người hùng cứ một nơi lớn hơn cả là mười hai người xưng là Sứ quân, nhưng kỳ thực những người ấy không phải là anh hùng khởi nghiệp cứu nước được. Mới đây, Sứ quân Phong Châu là Kiều Công Hãn nghe lời mưu sĩ dùng li gián phá nát nội bộ Sứ quân Tam Đái là Nguyễn Khoan, thu phục vài tướng tài, gây việc binh đao vài lần. Từ đấy, các Sứ quân khác đều rục rịch, động binh đánh lẫn nhau, trăm dân sắp khổ lớn, nước ta chưa biết tan hợp thế nào! Tôi bỏ Bồ Điền mà đi, theo phương Nam rong ruổi, vào Cổ Loa xem động tĩnh suốt hơn một năm trời, mới biết Cổ Loa chỉ e ngại những người ở Hoa Lư. Mùa hạ năm ngoái Cổ Loa chuẩn bị binh tướng để Nam phạt Hoa Lư, mà không cần để ý đến các Sứ quân khác. Tôi lại bỏ Cổ Loa lần xuống phương Nam, rẽ qua ngả hướng Đông, thăm thú tình hình các Sứ quân, cuối cùng thì mới tới đây, đường đất xa cả mấy trăm dặm, mất gần hai năm trời. Quả nhiên, vào Hoa Lư được gặp Động chúa miệng chưa nói hết được việc lớn nhỏ trong thiên hạ, tai đã chỉ nghe Động chúa với các Tướng dồn ép nghi ngờ. Thế mới biết, Cổ Loa lo lắng là không đúng! Hào kiệt trong thiên hạ chưa thể dựa vào cái dĩ vãng để mà quyết được, hiện tại chưa thông, làm sao ngày mai dám chắc ai là kẻ anh hùng gồm thâu được thiên hạ...!

Bộ Lĩnh nghe Lê Thảo nói một thôi, có ý trách mình không phải là người sáng suốt, chưa phải là kẻ anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, trong lòng bỗng dậy hào khí, nén lòng hỏi lại:

- Ngài bảo ta chưa phải là anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, thì thế nào mới là anh hùng hào kiệt? Ngài thử hỏi xem, trong trời đất này còn có việc gì ta không dám làm nữa nào?

Lê Thảo được đà, quyết không để lỡ, liền đáp:

- Bắt nạt đám trẻ mục đồng yếu hơn, kẻ mục đồng vẫn chỉ là mục đồng, mục đồng khỏe chịu để cho mục đồng yếu bắt nạt để được cả bọn nể vì mới là anh hùng. Nay Động chúa sức mạnh chưa chắc thiên hạ đã hơn được, nhưng chắc chắn không phải là sức để được cả thiên hạ. Giả sử, việc binh đao xảy ra, liệu Động chúa có vượt hơn mười hai sứ quân kia không, hay cũng chỉ đủ sức giữ được nhà mình là hết rồi...

Bộ Lĩnh cắt ngang:

- Thế nào là hơn các Sứ quân, thế nào là đủ sức giữ nhà mình là hết?

Lê Thảo nói ngay:

- Từ Bắc xuống Nam, tôi được thấy tận mắt Sứ quân Tam Chế ở Phong Châu chiêu hiền đãi sĩ, tích trừ lương thảo, hết lòng lo việc lớn mai sau, Sứ quân Thái Bình ở Tam Đái ngày đêm bàn việc với các quân sư hòa thượng, chỉ biết nghe lời khuyên tốt; Đường Lâm thì có Sứ quân Nhật Khánh, thủy trại san sát một giải, binh hùng tướng mạnh có thua ai; Cảnh Thạc trấn giữ Đỗ Động Giang, lập thủy trại chưa từng có ở đâu lại vững vàng quy mô như thế; các Sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại, Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du, Lữ Đường ở Tế Giang, Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt, Kiều Thuận ở Hồi Hổ, Phạm Bạch Hổ như hùm dữ ở Đằng Châu, dòng dõi vương triều thì có Ngô Xương Xí trấn giữ Bình Kiều, ở đâu cũng đều dốc lòng chuẩn bị, hỏi Hoa Lư xưng hùng loanh quanh một vỡi, có thể gọi được là hào kiệt đáng để cho trăm dân ngửa cổ mong đợi hay không? Giả sử, các Sứ quân đánh nhau, binh lửa tràn đến tận đây, thì với cửa ngõ toang hoác như lúc này liệu Hoa Lư chống cự như thế nào? Dám hỏi Động chúa, Động chúa có chịu an phận ở động Hoa Lư bé nhỏ này không, hay là còn nuôi chí thu phục cả thiên hạ?

Bộ Lĩnh cúi đầu suy nghĩ, các tướng tuy có giận Lề Thảo nhưng cũng hoang mang, ai cũng không dám lên tiếng. Hồi lâu, Lê Thảo lại hỏi tiếp:

- Động chúa hùng cứ ở đây, nếu tiến lên thì định nương vào đâu để thu thiên hạ, thủ thì dựa vào đâu để làm sức lâu dài? Đường trường ganh đua với thiên hạ Động chúa nhìn vào đâu? Cập thời dự định việc sắp xảy ra động chúa làm thế nào?

Bộ Lĩnh là một dũng tướng, rất ít biết đến việc đầu óc, nay nghe Lê Thảo hỏi dồn một thôi một hồi, thì tự nhiên lúng túng, chưa biết đáp ra sao. Sực có người nói lớn:

- Đây là người Hoa Lư mong đợi từ lâu đây!

Mọi người nhìn ra đây là một ông già nhưng tóc vẫn đen nhánh, da mặt đã nhăn nhưng cặp mắt còn long lanh sáng. Lê Thảo hỏi:

- Có phải đây là người xưa kia thả rồng trên sông Kiến Phong để giúp kì mục tử cầm đuôi trâu sang sông đấy không?

Ông già cả cười, quả thật ông là chủ của Bộ Lĩnh, hồi còn nhỏ Bộ Lĩnh giữ trâu cho nhà ông, mở trận đánh nhau với bọn mục tử, thắng trận thì giết trâu của chủ làm tiệc khao quân. Chủ giận, đuổi đánh, Bộ Lĩnh chạy đến bờ sông Kiến Phong thì hết đường chạy, còn đang lúng túng bỗng có hai con rồng vàng nổi lên, đón Bộ Lĩnh cười sang bên kia sông thoát nạn đòn của chú. Từ đây, tiếng dẫn khắp nơi là Bộ Lĩnh cưỡi rồng sang sông, ứng “chân mệnh đế vương” rồi! Đấy là kế của người chú, cốt làm cho Bộ Lĩnh nổi danh, chứ thật ra Bộ Lĩnh là tay bơi lội rất tài có thể ngụp lặn cả ngày dưới nước cũng được. Nay nghe Lê Thào hỏi như vậy, Bộ Lĩnh giật mình, còn người chủ thì cười ha hả. Cười xong, cụ bảo:

- Quả thật là tri kỉ của ta rồi!

Từ đầu đến giờ, tình cảnh hết sức gay cấn, nặng nề, bấy giờ mới hết. Bộ Lĩnh có phần vui lây, nhưng các đường thì vẫn còn dè dặt. Đinh Lão thân mật hỏi han cặn kẽ về gia thế Lê Thảo, lại không khỏi tiếc là chẳng có Lê Hiền cùng tới đây. Trong cuộc đàm đạo có phần tương đắc lắm. Lê Thảo nói rằng:

- Tôi từ Tam Đái vào Hoa Lư, dọc đường đi để ý dò la tình hình các Sứ quân, lại cốt ý đi trước binh Cổ Loa để xem động tĩnh các nơi. Đến lúc này, chắc binh Cổ Loa cũng phải xuống sâu lắm rồi, cần phải chuẩn bị ứng chiến ngay mới được.

Động chúa Hoa Lư Đinh Bộ Lĩnh chưa tin hẳn là quân Cổ Loa sắp xuống đánh Hoa Lư, vả lại cũng nghĩ là mình có tướng giỏi binh hùng, địa thế hiểm trở không dễ gì quân ngoài có thể xâm phạm được, cho nên không mấy lo lắng. Về phần Đinh Lão, thì cho rằng Hoa Lư thanh thế có mạnh, nhưng chưa đủ để làm cho Cổ Loa phải lo lắng đến độ cất quần xuống Nam để dành một mình Hoa Lư, Định Lão nghĩ rằng có thể Cổ Loa thi hành cái kế “vờ đánh phía Đông, để đá thẳng phương Tây” chứ thật ra không phải là nhắm vào Hoa Lư, Phía các tướng thì ai cũng hiu hiu tự đắc cho rằng: địch đến tất sẽ bại, vì các tướng đều là hổ tướng không coi thiên hạ vào đâu.

Cuộc tranh cãi còn chưa ngã ngũ, Động chúa Hoa Lư Đinh Bộ Lĩnh còn chưa quyết thế nào, sực quan vào bẩm:

- Cấp bẩm Động chúa, quân ta từ quan ải gấp báo về rằng: Cổ Loa đem thuyền chiến xuống tận Phong Lộc đổ quân, đang sửa soạn để tiến đến Hoa Lư.

Động chúa Hoa Lư Đinh Bộ Lĩnh nghe tin cấp báo mới giật mình kinh hãi, bây giờ mọi người mới thấy lời nói của Lê Thảo là đúng thật. Vừa lúc ấy, có người đứng lên nói rằng:

- Địch đến, ta giàn quân ứng chiến đuổi địch đi, có khó gì đâu mà phải bàn cãi, lo lắng. Tôi xin tình nguyện đem hai nghìn quân đi đuổi quân Cổ Loa.

Mọi người nhìn ra, biết đây là hổ tướng của Hoa Lư, tướng Phạm Cự Lượng vóc dáng nhỏ nhắn nhưng sức rất dẻo dai, có lần thử sức chạy bền với chiến mã, mà chiến mã cũng phải thua. Nay Cự Lượng nghe tin quân Cổ Loa sắp tới, thì hăng hái xin cầm quân ra trận ngăn địch, Bộ Lĩnh nghe lời Phạm Cự Lượng nói, rất hài lòng, truyền Cự Lượng mang cờ trướng, tuyển hai nghìn quân giáp kị ra ngăn địch.

Phạm Cự Lượng lại nói:

- Đám quân xa của triều đình vượt đường nước tới đây, binh chưa đóng yên chỗ, ta đánh trước là hơn. Vậy Động chúa cứ sai người mở sẵn tiệc mừng quân ta thắng trận là vừa.

Bộ Lĩnh nghe nói, càng đẹp ý, các tướng cũng nức lòng. Đây là trận xuất quân đầu tiên của Hoa Lư đương cự với quân triều đình, mà cũng là lần ra quân đáng kể nhất từ lúc xưng hùng đến nay. Ai cũng nô nức lắm, duy có Lê Thảo vẫn chỉ trầm lặng dè dặt bàn chuyện với Đinh Lão.

Cự Lượng nhận lệnh, liền đứng dậy xuất doanh ngay. Muốn biết Cự Lượng ra quân thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—