← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Mười Ba Cổ Loa ba mặt giáp công
Đánh trận đầu Hoa Lư đại bại

Đấy lại nói đến việc binh Cổ Loa do Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn thống lĩnh, theo đường thủy xuống tận Phong Lộc thì bỏ thuyền lên bộ. Nam Tấn Vương chia quân ra làm ba đạo, một do tướng Phạm Hoàng Sơn chỉ huy, đem hai nghìn quân ngược đường lên phía Bắc, rồi lại theo đường sông Sinh Khuyết đổ xuống phía Bắc Hoa Lư, làm thế tiếp trợ cho trung quân do chính Vương cầm trống lệnh; đạo quân thứ ba, do tướng Nguyễn Lạc Bình lĩnh hai nghìn quân vào sông Khuyết Giang, đi vòng xuống phía Nam tới Yên Khánh, rồi theo đường sông lên vây hãm phía Nam động Hoa Lư. Quân triều đình đóng tất cả là sáu nghìn binh, ba mặt ước hẹn giáp công Hoa Lư.

Thế là, Hoa Lư chưa xong rào giậu, binh ngoài đã từ xa ào đến uy hiếp, tình thế cực kỳ khẩn trương, dân tình hết sức náo loạn. Một ngày, tin về Hoa Lư nhiều vô số kể, Động chúa cùng với các Tướng bàn cãi liên miên, vẫn không được biết binh triều chia làm ba đạo tiến đánh, chỉ một mực phòng thủ trước mặt, quên đứt hai bên sườn Bắc Nam đang bị dòm ngó.

Về phần tướng Phạm Cự Lượng, tuyển xong hai ngàn giáp kỵ, đem ra ngoài doanh điểm duyệt, quân thẳng hàng ngay lối, ngựa chiến thật hùng dũng, khí giới sáng lòa trong ánh nắng ban mai, khí thế như dốc biển chuyển núi. Quân điểm xong, Cự Lượng vào mời Động chúa Bộ Lĩnh ra ban lệnh xuất quân, Bộ Lĩnh rất đẹp lòng liền cùng các Tướng, mưu sĩ kéo cả ra ngoài doanh. Bộ Lĩnh cưỡi con Ô Truy dây cương bọc bạc sáng ngời, uy dũng át cả ba quân, Bộ Lĩnh thả ngựa từ từ duyệt quân, cặp mắt sắc như đao chiếu vào quân giáp kị làm như thể tiếp thêm hùng khí cho quân nhà trước lúc lên đường nhập trận. Điểm xong quân, Bộ Lĩnh cùng Tướng thống lĩnh Phạm Cự Lượng trở về đài xuất trận. Bộ Lĩnh dùng ngựa, hướng về hai nghìn giáp kị lớn tiếng phủ dụ, giọng Lĩnh vang âm len lỏi đến tận núi rừng ở mãi xa xa, nghe cực kì uy vũ:

- Hỡi ba quân tướng sĩ, ta nương mình ở Hoa Lư này, nuôi dưỡng sức mạnh để thu phục thiên hạ, cứu dân khỏi vòng cơ cực, đưa nước đến chỗ vinh quang tự chủ. Nay, sức mạnh tuy chưa đủ giơ một tay là lấy được cả thiên hạ, nhưng cũng thừa để đương cự với ngoại binh. Ta chưa xuất động, binh Triều đã tự tìm đến, đây cũng là lúc để ta thử sức hùng, nghiệm xem gươm ta có sắc hay không? Binh Triều dù có đông, binh Triều dù có mạnh, ta tin rằng làm sao mạnh bằng sức mạnh của quân ta, bởi vì quân Triều đi xa chinh phạt, tất chỉ mong mỏi mau mau được trở về với gia đình vợ con, còn binh ta xuất trận là để giữ lấy nhà mình, che chở cho thân mình, cho vợ con mình, binh ta xuất trận là để cứu cả dân, cả nước, sức mạnh ấy sức nào đương cự nổi! Nay, quân ra trận tướng sĩ phải dốc một lòng quyết chiến, không để cho địch được lợi, nhất định đánh lui địch ra khỏi bờ cõi mở ra cho đất Hoa Lư một thời kì tranh hùng mới..

Bộ Lĩnh dứt lời, quân reo hò long trời lở đất, chiến mã dặm vó hí vang, dũng khí át cả núi rừng trùng điệp buổi sớm, Bộ Lĩnh liền truyền lệnh nổ pháo hiệu, quân vào đội ngũ kéo đi như vũ bão, dẫn đầu là tướng Đào Huy Hoàng mang tướng lệnh trên vai, lưng giắt đoản đao, thúc ngựa mở đường. Phạm Cự Lượng cùng các tướng khác đi ở trung quân.

Quân Hoa Lư ra đến bờ Khuyết Giang thì quân tế tác từ bên kia sông về báo tin: “Binh Triều do Nam Tấn Vương thân chinh thống lĩnh, đi đến đâu là trừng trị hỏi tội địa phương đến đấy, có ý bảo rằng địa phương theo giặc không trung với Triều đình. Nay binh Triều cũng sắp đến bờ Khuyết Giang rồi”. Tế tác lại về cho biết: binh Triều đông hai nghìn, tướng tiên phong là Cao Đình Bảo. Quân Hoa Lư liền dừng bước lập thành trận thế ở bờ sông, dựa lưng vào rừng núi để nghênh địch.

Quân vừa đóng xong doanh trại, tế tác cũng về cho hay: binh Triều cũng đã tới sát bờ sông hạ trại. Phạm Cự Lượng liền hội các tướng lại bàn:

- Quân Triều đông ngang quân ta, từ xa mà đến tất mệt nhọc, ta đợi đêm tối xuống, lén qua sông rồi lên đánh úp, thế nào cũng thắng.

Cự Lượng lại chia cho tướng Mạc Sa Cảnh lĩnh năm trăm quân đem lên phía Bắc Khuyết Giang, tìm chỗ nước thấp, đợi đêm xuống thì vượt sông đổ bộ uy hiếp phía Bắc quân Triều; còn tướng Đỗ Mậu Đại lĩnh năm trăm quân đi xuống phía Nam, lén sang sông tiến lên đánh vào sườn phía Nam của quân Triều. Cự Lượng lại hẹn: Khi nào trong quân do chính Cự Lượng thống lĩnh đánh thắng vào doanh trại quân Triều, thì lúc ấy hai cánh quân Nam Bắc mới xuất trận đánh thẳng vào hai sườn của địch. Dặn dò xong, Cự Lượng truyền tướng Đào Duy Hoàng lĩnh hậu quân làm tiếp ứng, để Cự Lượng đích thân mang quân đánh thẳng vào tiền điện dịch.

Đêm hôm ấy, trời sáng mờ mờ, dòng Khuyết Giang không lấy gì làm lớn, thành thử quân của Cự Lượng vượt sông cũng chẳng có gì khó khăn. Vào khoảng tàn giờ Tí, Cự Lượng ước lượng hai cánh quân Nam Bắc cũng đã tới được nơi rồi, liền ra lệnh cho quân lặng lẽ vượt sông bằng bè chuối. Mỗi bè, lại kết sẵn một tấm bích đằng (vách bằng mây) để chắn tên, hai mươi bè chở bốn mươi quân tất cả là tám trăm lặng lẽ sang sông.

Bè quân Cự Lượng vượt được hai phần ba dòng sông thì quân Triều phát giác được ngay. Lập tức, trống hiệu nổi lên, doanh trại quân Triều đèn đuốc tắt hết, rồi tên từ trên bờ bắn xuống như mưa. Cự Lượng truyền quân dựng bích đằng trước mũi bè, bao nhiêu tên của quân Triều bắn tới đều cắm cả vào bích đằng, chi chít như lông nhím. Cự Lượng lại truyền bè dàn thành bốn hàng, ba hàng sau nương vào hàng đi trước, dùng ngay tên của binh Triều để bắn trả.

Cự Lượng biết địch nương vào địa thế bờ sông, phục quân đợi chờ, Cự Lượng cho bè tới gần sát bờ sông, liền truyền lệnh cho giáp kị nhất tề bắn tên lửa lên doanh trại quân Triều, khoảnh khắc lửa bốc ngùn ngụt, nhưng vẫn chẳng thấy binh Triều xuất hiện. Cự Lượng hộ quân gấp đẩy bè sát vào bờ, rồi ào ào đổ bộ.

Phạm Cự Lượng xách cây đoản đao nhảy lên bờ trước mở đường cho quân tiến vào xông xáo trong doanh trại binh Triều. Quân Hoa Lư xông xáo như vào chỗ không người, tuyệt nhiên chẳng thấy bóng dáng một tên quân nào của triều đình. Mới đầu, Cự Lượng còn hăng hái, không kể nguy hiểm, cứ hô quân phá phách tung hoành, nhưng một hồi sau vẫn không thấy địch ở đâu, Cự Lượng dần dần thấy sợ. Lượng dừng ngựa nhìn quanh, chỉ thấy lửa cháy ngùn ngụt, bốn bề vẫn vắng lặng. Nhìn ra xa, doanh trại binh Triều vẫn tối đen, quay lại sau lưng đã thấy cách xa bờ sông.

Lượng còn đang tần ngần chưa biết cho quân tiến lên nữa hay lui về bờ sông, thì nghe tiếng pháp lệnh nổ ầm ầm, quân còn đang hoang mang sực thấy phía bờ sông lửa cháy ngất, thế là nghẽn mất đường về, binh Hoa Lư bị hãm vào giữa thành lửa, chỉ còn có phía trước mặt là bỏ trống. Lượng biết thế nguy, lui lại thì không được, mà tiến lên thế nào cũng bị địch đón đợi đánh ra. Cự Lượng nghiến răng, giơ cao đoản đao hộ quân xông bừa lên phía trước. Lượng cưỡi ngựa đi đầu không kể nguy hiểm, ngựa Lượng vừa xông lên, lập tức có tiếng quân reo như bão biển, như rừng chuyển mình, phía trước mặt Lượng binh Triều xuất hiện như vừa từ dưới đất chui lên, như vừa từ bóng tối hiện ra bít kín cả lối đi. Một tướng cưỡi con chiến mã sắc hồng, mặc chiến bào long lanh xanh biếc. Tướng triều đình gác thanh trường đao ngang lưng ngựa mà nhìn Cự Lượng ra vẻ khinh bỉ, ngạo mạn.

Phạm Cự Lượng thúc ngựa tiến lên quát hỏi:

- Tướng kia tên gì, hãy mau mau thử sức với ta một phen xem sao!

Tướng Triều cả cười khinh mạn:

- Này tướng giặc, hãy mau mau xuống ngựa chịu trói cho rồi! Binh Triều đã đến đây, sao ngươi vô lễ như vậy! Mau xưng tên rồi chịu chết!

Phạm Cự Lượng cả giận quát lớn:

- Hổ tướng Hoa Lư Phạm Cự Lượng là ta! Mi mau xưng tên họ rồi cùng ta thử sức một phen xem nào!

Tướng triều đình quát:

- Bớ tên giặc Cự Lượng, vểnh tai nghe kĩ dây: Kiêu Kị Tướng, lĩnh ấn Tiên Phong Trung Quân chinh phạt bọn giặc Hoa Lư là ta, đại danh Cao Đình Bảo! Nghe xong danh ta rồi, mau xuống ngựa chịu chết!

Phạm Cự Lượng giục ngựa xông lên, đoản đao chiếu vào ngực tướng Cao Đình Bảo đâm tới. Đình Bảo thúc ngựa tránh ra một bên, huơ thanh trường đao quay mình chém bổ xuống. Cự Lượng rạp mình trên yên chiến mã tránh thoát đường đao, rồi quay ngựa lại giáp chiến. Quân triều đình giạt ra ngoài xa, bao vây đám Cư Lượng vào giữa. Trống trận giục ran ran, quân reo dậy đất. Phạm Cự Lượng và Cao Đình Bảo giao chiến thật ngang tài, nhưng Đình Bảo có phần lợi thế vì sử dụng trường đao có thể từ xa chém tới, còn Cự Lượng sử dụng đoản đao phải luôn luôn giục ngựa tới sát địch mà công hãm. Tám vó chiến mã đạp mù bụi chiến địa, ánh đao lấp loáng đi lại vùn vụt. Hai tướng càng đánh nhau càng hăng, quân trợ chiến càng reo hò, trống trận khua vang cả một vùng. Đôi bên giao chiến đã được gần trăm hiệp vẫn bất phân thắng bại. Sực Cao Đình Bảo gạt đoản đao của Phạm Cự Lượng ra rồi thúc ngựa vọt sang một bên quát lớn:

- Tướng giặc Cự Lượng, hãy xuống ngựa chịu trói đi thôi, nay đã bị quân ta bao vây kín cả rồi, nhúc nhích là ta hạ lệnh xạ tiễn chết không còn một đứa!

Phạm Cự Lượng đưa mắt liếc nhanh, quả nhiên thấy quân triều đình đã vây bọc quân mình vào giữa, quân triều lại lắp sẵn tên vào cung lăm le chỉ chực phóng đi. Cự Lượng biết thế nguy không bám chặt lấy tướng địch tất phen này bỏ thây ở đây mất, liền giục ngựa vọt tới, huơ dao quyết tử chiến. Thế là đôi bên lại xáp chiến dữ dội. Đánh được một hồi nữa, bỗng thấy hai cánh binh triều ở hai mặt Nam Bắc xao động, rồi tiếng quân reo rầm rầm. Cự Lượng cả mừng, biết hai cánh quân do Mạc Sa Cảnh ở mạn Bắc và Đỗ Mậu Đại ở phía Nam đã tới, Cự Lượng phấn khởi ra đao tấn công tướng Cao Đình Bảo ráo riết. Tướng triều đình vẫn ung dung đón đỡ, không chút nao núng. Cự Lượng vừa đánh vừa để ý thấy hai cánh quân Nam Bắc đã nhập trận, nhưng sao chẳng thấy xông vào tiếp cứu. Thì ra, tướng tiên phong Cao Đình Bảo quen nghề chiến trận, thấy địch tấn công liền dàn quân lui sâu lại phía trong, lại bày hai cánh quân Tả Hữu mở rộng như cánh chim bay, vừa làm thế hãm địch, vừa phòng bị hai mặt tả hữu khỏi bị địch tấn công bất ngờ. Nay cánh quân Nam Bắc của Cự Lượng tới được chiến trường, nhưng lại bị hai đạo tả hữu của Đình Bảo đón đánh, thành ra chẳng làm sao tiếp cứu cho trung quân của Cự Lượng được.

Cự Lượng thấy thế nguy, chưa biết làm cách nào để tạm lui cho được an toàn, thì Cao Đình Bảo như biết ý liền múa trường đao tấn công ráo riết.

Phạm Cự Lượng đón đỡ một hồi, lòng dạ chẳng còn muốn kéo dài cuộc chiến nữa, chỉ lăm le tìm đường lui quân.

Cao Đình Bảo liền hô quân xạ tiễn, đoạn xông lên đánh nhau với quân của Phạm Cự Lượng. Trận đánh càng hung dữ, quân reo ngựa hí rầm rầm. Thế trận của Phạm Cự Lượng sắp tan vỡ, thì phía bờ sông có tiếng quân reo, tiếp theo là một đạo quân từ ngoài đánh giốc vào, chẻ quân triều đình ra làm hai đến tiếp cứu cho Cự Lượng.

Thì ra, đạo hậu quân tiếp ứng của Phạm Cự Lượng do tướng Đào Huy Hoàng thống lĩnh vẫn đóng yên trên sông. Tướng Đào thấy quân của Cự Lượng lên bộ xông xáo giữa doanh trại quân Triều ngút lửa, hồi lâu lại thấy trống trận thúc ầm ầm, quân reo dậy đất, tiếp đấy là dọc bờ sông phía sau lưng Phạm Cự Lượng lửa cháy rừng rực, thì biết là Cự Lượng bị vây mất rồi, Đào Huy Hoàng vội giục quân lại sát bờ, dẹp lửa lấy đường giáp chiến, thì biết là hai đạo tập kích đã tới được rồi, nhưng bị chặn đánh thành ra ba đạo quân không liên lạc được với nhau, Đào Huy Hoàng cả kinh, giục quân phóng tới. Quân của Đào Huy Hoàng chưa giáp chiến nên sức còn mạnh lắm, tung hoành ngang dọc, đánh giạt quân triều đình cứu đạo quân của Cự Lượng khỏi vòng vây.

Phạm Cự Lượng thấy vậy thì mừng lắm, tinh thần phấn khởi, huơ cây đoản đao đâm chém cật lực khiến Cao Đình Bảo phải kinh hãi kéo cương cho ngựa lùi hoài. Nhờ thế, vòng vây dãn ra, Cự Lượng với Huy Hoàng giáp lưng vào nhau mà chiến đấu, đi đến đâu máu đổ thịt rơi đến đó, chẳng mấy chốc phá vỡ hẳn được vòng vây, liên lạc được với hai cánh quân Nam - Bắc, hợp cùng hai tướng Mạc Sa Cảnh và Đỗ Mậu Đại mở đường máu rút lui.

Quân Phạm Cự Lượng chen nhau xuống bè thật hỗn loạn. Bốn tướng Phạm Cự Lượng, Đào Huy Hoàng, Mạc Sa Cảnh, Đỗ Mậu Đại chia nhau đón đỡ ở phía sau, chặn đánh không cho quân triều đuổi theo. Cao Đình Bảo truyền quân bắn tên như mưa, làm cho quân Hoa Lư trúng tên rất nhiều, tiếng la hét kêu cha réo mẹ nổi lên khắp nơi làm cho bại quân của Cự Lượng càng thêm hoảng hốt.

Lúc sang sông, Phạm Cự Lượng chỉ có mấy chục chiếc bè đủ để chở nghìn quân, nay quân về lại những hai nghìn thành ra không có chỗ. May mà bè chuối chở được khá, quân Cự Lượng chen chúc nhau đứng, không làm sao có chỗ đón đỡ tên từ trên bờ bắn xuống được, thành thử những tên quân đứng ngoài chẳng khác nào những tấm bia đỡ tên cho những tên ở trong, tình cảnh thật bi đát.

Cuối cùng, Cự Lượng cũng về được bên kia sông. Trong trận này, Cự Lượng thiệt hơn trăm quân bỏ mạng, nhiều người bị trúng tên, trong số có cả tướng Mạc Sa Cảnh nhưng may không lấy gì làm nặng. Phạm Cự Lượng trong lòng buồn rầu khôn tả, nhìn đám bại quân muốn ứa nước mắt. Phạm Cự Lượng xem xét quân tình, rồi truyền tạm lui xa khỏi bờ sông, đóng trại tạm nghỉ.

Đêm hôm ấy, Phạm Cự Lượng sai một tên quân gấp đường về Hoa Lư trình việc đại quân, đồng thời xin viện binh để chống đỡ quân triều đình sắp sang sông truy nã.

Sớm tinh mơ hôm sau, đại quân của Nam Tấn Vương xuống thuyền vượt sông. Quân triều đình băng sông giữa lúc mặt trời đang mọc, quang cảnh rộn rịp khiến cho Phạm Cự Lượng được tin trong lòng bồn chồn đứng ngồi không yên.

Phạm Cự Lượng vội hợp với ba tướng Đào Huy Hoàng, Mạc Sa Cảnh và Đỗ Mậu Đại để bàn việc chống đỡ. Mạc Sa Cảnh nói:

- Quân ta vừa thua một trận, một số lại bị thương, hiện giờ không đủ sức chống nhau với địch. Ta nên tạm lui về thế phòng thủ, cố cản quân triều, đợi Động chúa đem quân tiếp viện rồi hãy phản công mới được.

Phạm Cự Lượng cho là phải, truyền cho Mạc Sa Cảnh đưa tất cả những quân bị thương lui hẳn về hậu cứ, lại sai Đỗ Mậu Đại lĩnh năm trăm quân rẽ xuống phía Nam trấn ở An Khánh; lại sai tướng Đoàn Phúc Hải đem năm trăm quân lên trấn ở Bích Sơn; Phạm Cự Lượng thống lĩnh số quân còn lại được hơn bảy trăm người, đóng trại ở ngay chính giữa quyết cản quân Triều.

Lượng phân bố vừa xong, binh vừa được tạm nghỉ tay, thì có tin Nam Tấn Vương đã sang sông, đích thân Vương cầm đạo quân giáp chiến đi đầu, hiện giờ còn đợi các đạo quân khác cùng đổ bộ rồi mới tiến quân, Phạm Cự Lượng liền truyền quân sửa soạn, chia nhau dựa vào gò đống ở quanh vùng làm chỗ tựa quân, lại sai quân tế tác hết sức dò la tin tức, liên lạc đều đều với hai cánh quân của Đỗ Mậu Đại và Đoàn Phúc Hải. Lần này, Lượng ứng chiến thật thận trọng chứ không sơ suất khinh địch như trước nữa.

Đến xế chiều, vẫn chưa thấy quân của Nam Tấn Vương rục rịch, Lượng không dám cho quân nghỉ ngơi, truyền quân thay nhau nghỉ, lúc nào cũng phải ứng chiến. Lượng lại hội mấy bộ tướng bàn việc. Lượng nói:

- Bây giờ, nếu ta hết sức thận trọng cố thủ, tất cũng làm cho địch không tiến được, hoặc ít ra cũng làm cho địch chậm bước để đợi đại quân của Động chúa. Ta chỉ lo có mặt phía Bắc, tướng Đoàn Phúc Hải tuy không đến nỗi kém cỏi, nhưng chưa mấy quen chiến trận, lại không có người cẩn trọng đi kèm kiềm chế chỉ e làm vỡ thế liên hoàn cự địch của ta thì lần bại quân này mới là nguy đấy!

Lượng vừa dứt lời, tế tác vào khẩn báo:

- Trời vừa nhọ mặt người, Nam Tấn Vương đã cho quân nhổ trại tiến binh!

Cự Lượng lập tức nổi hiệu cho quân sẵn sàng, lại cho tế tác gấp rút báo cho hai cánh quân ở An Khánh và Bích Sơn biết để cùng tập thể “ba mặt hợp công” cản địch. Phân bố vừa xong, quân bây giờ đã ở vững vị trí, một mình Cụ Lượng đem hai trăm quân án giữa đường đợi địch. Sực lại có tố tác phi ngựa đến bẩm trình:

- Quân trấn ở Bích Sơn nguy ngập lắm! Tướng Đoàn Phúc Hải lúc này còn đang say sưa!

Cự Lượng được tin, giậm chân than khổ, liền tức thì cử Phó tướng Chu Kỳ Toàn gấp rút đến Bích Sơn thay thế Đoàn Phúc Hải, lại truyền trói ngay Hải lại đợi giải về trung quân xét tội.

Lệnh vừa truyền xong, tin quân Nam Tấn Vương đã tới gần, Cự Lượng lên ngựa độc chiến liền.

Muốn biết chiến trận tiếp diễn thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—