Hồi Thứ Mười Bốn Cự Lượng lui binh về Hoa Lư
Phúc Hải tỉnh rượu xem trận thế
Cự Lượng vừa dàn quân xong, thì Nam Tấn Vương thân thúc quân tràn tới. Vương quát Phạm Cự Lượng mau xuống ngựa chịu trói, lại truyền Cao Đình Bản xuất chiến bắt giặc.
Phạm Cự Lượng đã biết tài tướng Triều đình, bây giờ lại thêm chính Nam Tấn Vương đốc chiến thì Đình Bảo lại càng phấn khởi tinh thần đánh dữ dội. Phạm Cự Lượng ra hết tài đương cự, quân đôi bên reo hò trợ chiến vang dậy. Hai tướng đang hồi giao chiến kịch liệt, Nam Tấn Vương truyền quân tiến lên vây quân Hoa Lư vào giữa. Vừa lúc ấy, cánh quân của Đỗ Mậu Đại trấn ở An Khánh thấy Cự Lượng bị vây, liền từ trên núi đổ xuống xông vào đánh quân Triều cực hăng. Binh Triều bị đánh bất ngờ vào tả dực cơ hồ muốn tan vỡ.
Quân Hoa Lư dần dần vững lòng, tả xung hữu đột có phần yên tâm chứ không còn náo loạn kinh hãi như trận trước nữa. Phạm Cự Lượng vui mừng lắm, ra sức tranh hùng với tướng triều đình, Nam Tấn Vương thân cầm tay trống thúc quân, trống trận khua ầm ầm. Vương giám trận thấy quân mình không thắng lợi, liền truyền lệnh quân lui về trận tuyến, đoạn lại truyền lệnh cho quân chia làm hai mặt mà cự địch.
Quân triều vừa lui về trận tuyến, sắp sửa chỉnh đốn lại hàng ngũ để hai mặt tiến lên, thì ở mạn Bắc quân reo ầm ầm. Nhìn lên, trên triền Bích Sơn quân Hoa Lư đổ xuống như thác lũ, dẫn đầu là tướng Chu Kỷ Toàn cưỡi chiến mã, thanh trường thương tì trên đầu ngựa chiếu phía trước. Toàn thúc ngựa như bay, rạp mình trên lưng chiến mã mà nhập trận, quân theo đằng sau ào ào, thế mạnh như vũ bão.
Chu Kỷ Toàn nhập trận đúng vào lúc quân Cổ Loa sắp chỉnh đốn xong hàng ngũ, Toàn thúc ngựa đánh thẳng vào hữu dực quân triều. Quân Toàn ào ào chém giết cực hăng, Chu Kỷ Toàn vốn là mãnh tướng, sức mạnh kinh hồn, nay vì việc Đoàn Phúc Hải nên xuống núi tiếp cứu trung quân của Phạm Cự Lượng bị chậm. Vừa vào trận, Chu Kỷ Toàn vung trường thương vun vút, đi đến đâu quân triều rẽ ra đến đấy, thế trận sắp lung lay vì tay Kỷ Toàn. Phạm Cự Lượng thấy tình thế thắng lợi, liền giơ cao đoản đao hô quân ào tới, Đỗ Mậu Đại cũng vội thúc quân tiến tới. Ba mặt quân Hoa Lư giáp chiến vây quân Triều vào giữa mà chém giết.
Phạm Cự Lượng lại nhắm hướng cờ xí, cố vạch đường định tiến đến uy hiếp Nam Tấn Vương, nhưng các tướng triều đình ra sức ngăn cản khiến Lượng không thể nào tiến lên được.
Nam Tấn Vương thấy tình thế như vậy thì giận lắm, Vương một mặt thúc trống trận, một mặt gọi là truyền các tướng sĩ phải hết lòng cự giặc, Vương truyền tướng tiên phong Cao Đình Bảo đem ba tướng Nguyễn Đình Trung, Nguyễn Hữu Biên, Đỗ Xuân Dũng đương cự ở tiền diện; lại truyền hai tướng Đặng Văn Thông và Đào Đình Bính chống đỡ nạn Bắc cự với Chu Kỷ Toàn của Hoa Lư, Nam Tấn Vương lại cử tướng Chu Văn Hải cự phía Nam đánh với tướng Đỗ Mậu Đại.
Thế trận đã tạm yên, đôi bên giao chiến hết sức dữ, trống trận khua vang rừng núi, chiến mã đập vó rung chuyển cả đất. Trời đã tối, hai bên đốt đuốc để tranh hùng, quang cảnh thật bi tráng.
Tiền quân của Phạm Cự Lượng phải đương đầu với bốn tướng triều đình, một mình Lượng địch với tướng tiên phong Cao Đình Bảo còn ngang tài, thì còn địch thế nào được với ba tướng nữa. Cự Lượng thấy nguy, nếu đánh lâu nữa thế nào cũng khó tránh khỏi bị hại, liền nghĩ: “Phải tìm cách loại bớt tướng địch mới mong thoát nguy được!”. Nghĩ rồi vừa đánh vừa để ý xem tướng nào kém nhất thì sẽ uy hiếp tướng ấy. Cự Lượng thấy trong bốn tướng triều đình, có tướng Nguyễn Hữu Biện xử cây trường kiếm có phần non hơn cả, Biện đánh có vẻ hoa mỹ rõ ra là xuất thân từ quan cách triều đình, chứ không phải là tay quen chiến thuật giang hồ.
Lượng liền huơ đao chém bổ xuống đầu tướng tiên phong Cao Đình Bảo, Bảo vừa né tránh thì Lượng thuận đà đao phạt vào ngang sườn Đỗ Xuân Dũng, Dũng giật ngựa lùi lại để tránh, ngựa Lượng vọt lên Lượng dâm một mũi đao vào ngực Nguyễn Đình Trung, Trung vận sức hất thanh gươm gạt đao của Lượng ra. Vừa lúc ấy, tướng Cao Đình Bảo xốc tới, thanh trường đao xả xuống vai Cự Lượng, Lượng vội thúc ngựa bắn về phía Nguyễn Hữu Biện làm ra vẻ vội vã tránh đường đao của Bảo, thừa đà Lượng vận hết sức bình sinh chém xả xuống vai Hữu Biện, Biện giật mình luống cuống giục ngựa né tránh, nhưng cây đoản đao của Lượng cũng đã bổ trúng cánh tay trái Hữu Biện. Biện rú lên một tiếng, cánh tay trái đứt lìa. Cao Đình Bảo cả kinh vội thúc ngựa xông tới cố đánh để giải vây cho Hữu Biện. Hai tướng Đình Trung và Xuân Dũng cũng vội nhào tới che chở cho Biện rồi dìu Biện về hậu quân. Cự Lượng rảnh tay hứng chí, ra sức đánh với Đình Bảo.
Ở mặt phía Nam, tướng Hoa Lư Đỗ Mậu Đại giao chiến với tướng Chu Văn Hải của triều đình. Hải không phải là dịch thủ của Đại, càng đánh Hải càng lui dần, quân Đại được đà tha hồ hò reo chém giết, thế trận phía triều đình từ lúc tướng Nguyễn Hữu Biện bị mất một tay, bây giờ đã có phần lung lay.
Mặt phía Bắc, Chu Kỷ Toàn nóng lòng vì đến chậm, lồng lộn giao đấu với hai tướng Đặng Văn Thông và Đào Đình Bính. Hai tướng triều đình này cũng lại không phải là địch thủ của Chu Kỷ Toàn, tướng Toàn múa cây trường thương vun vút, đâm trước gạt sau, tung hoành thật dũng mãnh đánh giạt hai tướng triều đình ra, không cho hai tướng có thể dựa vào nhau để chống đỡ được. Càng đánh, Toàn càng hăng, bỗng quát lên một tiếng long trời lở đất, trường thương đánh bật gươm của tướng Đặng Văn Thông ra, lại thuận đà đâm thẳng ngọn thương vào ngực Đào Đình Bính. Bính không kịp trở tay trúng một thương lộn nhào xuống ngựa, may nhờ áo giáp có hộ tâm kính đỡ cho, chứ không thì ngọn thương ấy đã xuyên từ ngực ra đằng sau lưng rồi. Quân triều đình hò reo xông vào cố giằng co cứu được tướng Bính chạy về hậu quân. Còn lại một mình Đặng Văn Thông, Thông khiếp hãi không còn lòng dạ nào cự địch nữa.
Nam Tấn Vương thúc trống giám trận, nay thấy tình thế không xong, tướng Nguyễn Hữu Biện bị mất một tay, tướng Đào Đinh Bính bị ngã ngựa suýt chết, thì liền thúc trống thu quân tạm nghỉ.
Đôi bên dàn trận đốt đuốc hữu chiến. Cự Lượng kể như là thắng trận này, trong lòng hết sức phấn khởi, liền truyền tướng sĩ mau mau nghỉ ngơi, lại cắt đặt các đạo tuần phòng thay phiên nhau thăm dò động tĩnh. Đêm hôm ấy, trăng thượng tuần lên sớm, bây giờ đã treo cao, chẳng đủ chiếu sáng cho chiến trường tanh mùi máu, giun dế kêu than không đủ át tiếng quân sĩ bị thương rên rỉ.
Phạm Cự Lượng hội các tướng ở trung quân, Lượng hỏi Chu Kỷ Toàn:
- Tên Đoàn Phúc Hải thế nào?
Toàn đáp:
- Lúc tôi tới, y say bét nhè, quân bảo rằng: Chủ tướng nói là lâu ngày mới được cầm quân xuất trận, giặc chưa tới hãy chè chén một phen cho hăng máu mà đợi giặc. Rồi Hải mở rượu uống liên miên, không biết y lấy rượu ở đâu? Tôi đã tuân lệnh bắt trói y rồi, bây giờ chỉ còn để lại có ba chục quân để canh giữ y, trông nom vị trí mà thôi.
Cự Lượng bảo:
- Ta vẫn biết Đoàn Phúc Hải không phải là người làm bậy, nhưng y còn trẻ, lại chưa ra trận lần nào, chỉ sợ y ngông cuồng làm trái việc quân chứ không ngờ là y lại hứng thú về việc lần đầu tiên được cầm quân một mình chống đỡ một mặt, để đến nỗi bồng bột hóa ra sơ suất, say rượu suýt lỡ cả việc lớn như thế!
Kiểm điểm lại các mặt trận hôm nay, Cự Lượng được báo cáo là thiệt mất gần năm chục quân. Phía triều đình, số quân bị chết phải gấp bốn lần quân Hoa Lư, lại thêm tướng Nguyễn Hữu Biện mất một tay, Đào Đình Bính ngã ngựa suýt chết. Như vậy là quân Hoa Lư thắng trận này, Cự Lượng lấy làm hài lòng lắm, liền truyền cho các tướng phải hết lòng đôn đốc các đạo quân, cố cự địch đợi đại quân tiếp viện. Các tướng cũng phấn khởi lắm, đại hội vừa tan sực có quân tuần canh vào bẩm: “Hai mặt Nam Bắc, binh Triều không biết từ đâu đến uy hiếp Hoa Lư đông lắm, địch ở ngay phía sau lưng ta, nếu không mau mau lui về sát Hoa Lư thì hai mặt sẽ bị địch vây chặt”.
Phạm Cự Lượng nghe tin cấp báo cả kinh, vội truyền cho phó tướng Chu Kỷ Toàn đi xem xét lại lần nữa xem sao, lại truyền các tướng phải gấp rút dời quân trở về Hoa Lư.
Được một lát, Chu Kỷ Toàn về nói rằng: “Quả nhiên quân triều đình hiện giờ đang tiến từ hai mặt Bắc Nam tới, như vậy là quân triều đình chia ra ba đạo đánh Hoa Lư, đạo tiền quân do Nam Tấn Vương thân hành thống lĩnh tới trước, còn hai dạo Nam Bắc bây giờ mới tới sát Hoa Lư!”.
Cự Lượng bảo:
- Như thế là đạo quân của ta bị cắt đứt đường về, phía trước mặt thì Nam Tấn Vương án ngữ, sau lưng hai mặt Nam Bắc thì địch mới tới chưa đánh trận nào sức còn mạnh mẽ, ta khó lòng cự được. Cũng không chắc là lúc này Động chúa đã được tin địch ba mặt uy hiếp Hoa Lư. Ta phải gấp rút lui binh báo cho Động chúa biết, rồi hợp sức với Động chúa mà chống đỡ mới được!
Cự Lượng nói xong, truyền quân ngậm tăm, ngựa tháo nhạc, doanh trại gò ụ như thế nào cứ để nguyên như thế, đèn canh không tắt lửa, lẳng lặng gấp rút lui về Hoa Lư.
Đây lại nói đến việc Đoàn Phúc Hải say khướt bị Phó tướng Chu Kỷ Toàn truyển quân trói lại, đợi giải về Hoa Lư trị tội. Toàn đi được lâu rồi, toán quân canh không dám sai lạc. Đến gần nửa đêm thì Hái ngủ say ngáy như sấm, quân nhìn nhau mà cười.
Được hồi lâu, sao Hôm đứng thẳng trên đầu, sực có tiếng vó ngựa rầm rập đâu xa xa, nghe có vẻ đông lắm. Quân canh Bích Sơn kinh hãi, chia nhau đi dò la thì mới biết có đạo quân triều từ mạn Bắc vừa từ đường sông Sinh Khuyết đổ bộ, đang kéo xuống Hoa Lư, quân nín tiếng, chạy về bàn bạc với nhau không biết làm thế nào. Càng bàn càng khiếp hãi, sau cùng bảo nhau:
- Hay là cố đánh thức tướng Đoàn Phúc Hải dậy, để ông ấy lo liệu xem sao?
- Ông ấy say bét nhè như thế thì có gọi là đến trưa mai chưa chắc đã dậy được!
- Thì lấy nước mà xối vào dầu vào mặt ông ấy, tất ông ta phải tỉnh chứ!
- Mày nói dễ nghe nhỉ! Nước ở đâu mà lấy bây giờ? Mày nói thì mày đi tìm nước xem sao nào!
- Không có nước thì gấp rút quá rồi, ta cứ đái vào mặt ông ấy cũng được chứ sao!
- Mày hiến kế thì mày đái đi, tao chẳng dám!
Bọn quân canh lè lưỡi lắc đầu, cười với nhau không đứa nào dám đái. Cười xong thì lại lo lắng quá không biết làm thế nào bây giờ. Việc gấp rút, cuối cùng chúng đành thỏa thuận, cả ba mươi đứa lấy nón đái vào rồi cả ba mươi đứa cùng đổ cả nước đái vào mặt tướng Đoàn Phúc Hải, như thế thì không riêng đứa nào bị tội cả.
Ba mươi nón nước đái đổ vào mặt vào đầu, tướng Đoàn Phúc Hải cũng vẫn chưa tỉnh, quân phải xúm nhau lại lay lắc, gọi mãi Hải mới ú ớ, quân cả mừng nói rằng: “Có giặc đến sát bên mình rồi!”. Nói mãi, Hải như mới sực nghe ra, giật mình cố nhỏm dậy, đầu tóc ướt đẫm nước đái, ngồi lên nặng đầu quá lại gục xuống. Quân lấy áo lau mặt lau đầu cho Hải, mãi đến giữa giờ Sửu, Hải mới tỉnh. Nghe quân bẩm lại mọi việc, từ việc Phó tướng Chu Kỷ Toàn vâng lệnh tướng Phạm Cự Lượng đến bắt trói đợi giải về Hoa Lư trị tội, đến việc Toàn đem quân ứng chiến rồi bây giờ thì có đạo quân của triều đình lén từ mặt Bắc đánh úp Hoa Lư nhất nhất thuật lại cả.
Đoàn Phúc Hải nghe đến đâu tỉnh rượu đến đó. Nghe dứt, kinh hãi lật đật đến nỗi cứ lính quýnh loanh quanh không biết ra sao nữa. Quân thưa:
- Bẩm Tướng quân, bây giờ ta cứ ở yên đây, hay là phải trở về Hoa Lư phục lệnh động chúa?
Đoàn Phúc Hải vẫn còn bị trói chặt tay chân, liền bảo:
- Bây giờ bay hãy cởi trói cho ta đã!
Quân nhìn nhau, không dám trái lệnh cởi trói cho Hải, cứ loanh quanh đứa nọ đùn đứa kia không dám quyết.
Đoàn Phúc Hải cả giận quát lên:
- Bọn khốn kiếp, có mau mau cởi trói cho ta liệu việc quân không, còn chần chừ mãi để cho giặc nó đánh vào Hoa Lư thì cứ gọi là mất đầu cả bọn!
Quân nghe quát cả sợ, vội hè nhau cắt dây trói cho Hải. Hải đứng lên vuốt mặt kêu:
- Ủa, tại sao lại khai quá thế này?
Quân lật bật mãi mới trình rõ được việc đổ nước đái cho Hải tỉnh rượu! Hải mắng rầm lên là hỗn láo, đợi xong việc quân sẽ trừng trị cả bọn! Quân nghe lấm lét nhìn nhau, không đứa nào dám hó hé nửa lời. Đoàn Phúc Hải mặc lại áo chiến, đeo lại trường gươm, đi đi lại lại cúi đầu suy nghĩ. Hải nghĩ rằng: “Mình say rượu để lỡ việc, lẽ ra bị chém đầu tại chỗ mới phải, anh em thương muốn đem về Hoa Lư trị tội là có ý muốn nương tay. Nay địch lén đem quân đánh úp, Hoa Lư bị nguy khốn, mình phải tận tâm sức lấy công chuộc tội, dù có phải chết cũng không từ mới được!”. Càng nghĩ ngợi, Hải càng lo càng buồn, đến ứa cả nước mắt. Cuối cùng, Hải truyền bọn quân phải hết sức thận trọng theo Hải, bám theo địch mà dò xét, bây giờ một tay gươm của Hải với ba chục quân thì làm nên trò trống gì được, Hải có ý đợi cơ hội rồi mới ra tay.
Bọn Đoàn Phúc Hải bỏ Bích Sơn mà xuống, thận trọng lần theo đường rừng. Chẳng bao lâu, tới gần sáng thì bắt kịp quân triều đình do tướng Phạm Hoàng Sơn thống lĩnh tiến từ mạn Bắc xuống sát Hoa Lư. Hải lại đem quân lẳng lặng đi tắt sang phía Đông dò la động tĩnh thì được biết cánh quân của Phạm Cự Lượng ngay trong đêm đã rút về sát Hoa Lư, tránh khỏi bị nghẽn đường về. Hải biết thế cũng mừng cho anh em đã về thoát. Tiện đường, Hải xuống phía Nam xem sao, thì được tin mặt Nam cũng có một cánh quân triều đình vây hãm Hoa Lư. Hải mồ hôi tháo như tắm, trong lòng kinh hãi quá chừng, lại trách mình bồng bột không nghiêm quân lệnh, say sưa để lỡ việc quân.
Dò xét các tin tức xong, Đoàn Phúc Hải lại đem toàn quân lên mạn Bắc.
Dọc đường, Hải gặp quân của Nam Tấn Vương cũng đang tiến về Hoa Lư, bọn Hải phải nấp kĩ, nằm trong hang hốc núi nhìn xem địch đi qua không dám cựa quậy. Đợi cho quân của Nam Tấn Vương đi đã xa, Hải mới dẫn toán quân ngược lên phía Bắc, đi sát Bích Sơn, rồi hướng về mặt Tây Bắc, đến nấp tại núi Đa Giá.
Hải cùng toàn quân núp trên núi, nhìn xuống cả một vùng bao la, nhận thấy rõ mồn một quân triều len lỏi trong các khe núi, rừng rậm, vây hãm Hoa Lư. Binh Triều đóng dài một giải vòng cung, chạy từ mạn Bắc vòng xuống phía Nam, có nơi dựa vào rừng mà đóng quân, có nơi nương vào núi mà đạt doanh trại, thế vững vô cùng, Nam Bắc liên lạc với nhau thật chặt chẽ. Đoàn Phúc Hải rùng mình nhìn về phía Tây; cả một vùng rừng núi Hoa Lư im phăng phắc, không có dấu hiệu gì chứng tỏ là quân Hoa Lư đã dàn trận nghênh chiến.
Hải lại thấy trung quân của Cổ Loa cờ xí phấp phới, thì biết nơi ấy Nam Tấn Vương đóng. Hải suy nghĩ mãi, cũng không biết làm thế nào bây giờ, bèn lại bảo toán quân cùng theo mình đi dò la tin tức.
Vừa rẽ về phía Tây. có tiếng người lao xao, xì xầm, Hải và toàn quân nép mình vào hốc đá nghe ngóng. Thì ra, dân chúng bên ngoài Hoa Lư, bồng bế nhau chạy vào các hang núi, chia nhau các hang động ẩn thân lánh nạn binh đao, tình cảnh cực khổ, may mà thời tiết đang mùa nắng bức, nếu phải mùa lạnh thì chắc còn khổ hơn nhiều nữa. Hải yên lòng, liền ra gặp dân chúng, hỏi han tin tức, không ai biết địch như thế nào, nhưng ai cũng nói: “Quân triều đình đi đến đâu, cũng đều lấy sự trừng trị làm đầu, cốt ra uy để bắt dân phải theo về với triều đình, không được giúp đỡ cho giặc”.
Đoàn Phúc Hải là tướng của Hoa Lư, người dân ở đây ai cũng biết, tất cả các tướng khác cũng vậy. Nay gặp nhau ở đây, không lấy gì làm khó xử với nhau.
Hải liền bảo toàn quân cởi bỏ chiến phục, mặc quần áo thường dân, rồi chia nhau lẫn vào dân chúng mà ở. Đoàn Phúc Hải cũng cất giấu nhung phục, sống như người đi lánh nạn.
Chiều hôm ấy, Hải tụ tập đám quân, bảo vào rừng cắt thật nhiều cói bó lại thành những bó lớn, đợi đến khi mặt trời ngả bóng, thì vác những bó cói ấy đi về phía Nam, cốt đi gần doanh trại quân triều để dò la tin tức.
Bọn Hải đi một dọc dài, đầu quấn khăn phu rừng, mình mặc áo vải đen dấn bùn, quần xắn quá bắp chuối, lưng giắt dao nhọn, trông ra dáng người vùng núi đi rừng về lắm.
Chạng vạng tối, bọn Hải lại gần doanh trại quân Triều, lính canh quát hỏi, bọn Hải làm ra bộ sợ sệt, người nọ đùn người kia ra đối đáp với quân triều.
Quân vào trình, trong có lệnh bắt cả bọn dẫn vào.
—ooOoo—