Hồi Thứ Mười Tám Phúc Hải lĩnh mệnh trình Động chúa
Lê Thảo lui binh khích Tấn Vương
Tiểu tướng ra trận lỡ phạm quân kỉ thật đáng tội. Vì không còn đường về nên mới làm liều đốt quân lương của binh Triều không biết hậu quá nghiêm trọng ra sao...
Lê Thảo liền đỡ Hải dậy, ôn tồn mời ngồi cạnh các tướng khác, rồi bảo rằng:
- Như vậy, là không còn tướng nào của Hoa Lư còn ở ngoài nữa, tình cờ mà ông Hải cũng kịp về được đây, thế là may lắm. Ông Hải mới về không biết, tôi xin nói thêm để ông ấy hay rằng: tôi nhiệm mệnh Động chúa, đợi các Tướng ở đây để rồi lui về Vũ Lâm làm thế cự địch. Còn ông từ lúc mang quân ra trận ra sao, xin nói rõ một lượt để mọi người nghe nào?
Đoàn Phúc Hải bẽn lẽn, gãi đầu gãi tai, lấm lét liếc nhìn tướng Phạm Cự Lượng, rồi thưa:
- Tôi vâng mệnh ông Lượng, cầm quân lên Bích Sơn. Tình cảnh thật cao hứng nên lấy rượu ra uống, nghĩ rằng cho hơi men bốc một phen rồi xung trận giết địch, nào ngờ quá chén thành ra say sưa làm lỡ việc!...
Rồi Đoàn Phúc Hải thuật lại thật tỉ mỉ mọi việc, kể đến chỗ bóp cổ giết tên quân canh trên chòi thì không ngăn được nước mắt. Phúc Hải nói rõ việc đốt quân lương cốt làm cho binh Triều gặp khó khăn nhất thời, không ngờ lại được việc cho Hoa Lư lui binh. Rồi Phúc Hải nói:
- Sau khi đốt quân lương và một khu của doanh trại binh triều, tôi đem ba chục quân chạy vòng lên phía Bắc, toan tính ẩn nấp trong các hang động rình mò xem binh triều tiến thoái ra sao, cố tìm công chuộc tội rồi sau hãy về trước Động chúa mà chịu phạt. Chiều hôm trước thấy dân chúng bồng bế nhau bỏ nhà bỏ cửa tìm vào các hang động hẻo lánh xa xôi lánh nạn, tôi gạn hỏi thì họ bảo rằng:
Binh triều mạnh lắm, Hoa Lư cự không lại phải tạm rút đi, vì vậy dân chúng cũng phải tìm đường ẩn thân. Nghe nói thế, tôi cảm khái vô hạn, liền nghĩ rằng: Động chúa bỏ Hoa Lư mà đi, tất thế nào địch cũng vào đấy, bây giờ mình bơ vơ bên ngoài không dám về, nay nhân cơ hội trở lại Hoa Lư liệu xem tình thế thế nào, nhờ vào chỗ thông thạo đường lối ở trong tìm cách quấy phá địch, cũng là điều hay. Vì vậy tôi gấp rút về Hoa Lư, mong được vào trước binh triều, nào ngờ còn được gặp mọi người ở đây:
Phúc Hải kể xong, mọi người thở “phào” một tiếng, ai cũng vui mừng, tranh nhau ca ngợi Phúc Hải trong cơn quẫn bách lập được kỳ công!
Đợi cho cơn xúc động qua đi, Lê Thảo bảo:
- Việc của chúng ta bây giờ, là kéo cả xuống Vũ Lâm, bỏ trống nơi đây cho địch. Nhưng trước khi đi, tôi muốn ta phải giăng sẵn cái bẫy để địch chui đầu vào. Chỉ tiếc một điều, là binh ta so với địch chẳng thấm vào đâu. Tuy thế, dụng binh có lúc không cần binh đông làm gì, vậy có ông nào có kế gì hay chăng?
Bốn tướng nhìn nhau, chưa ai biết phải dàn xếp thế nào, đợi địch ra sao. Lê Thảo bảo:
- Quân Triều đông sáu nghìn, tới đây tất không bao giờ lại dồn cả vào một chỗ. Địa thế ở đây, chỉ chừa mặt phía tây là vướng núi cao trùng điệp, ba mặt kia cũng có núi nhưng phong thổ mở rộng. Như vậy tất thế nào binh triều cũng chỉ trấn giữ ba mặt trừ phía Tây. Tuy thế, ta cũng khó dùng được mặt phía Tây mà ép địch. Một mai, khi hạ trại yên rồi, thế nào binh triều cũng phải tìm xem ta ở đâu mà đánh. Cho nên, tôi muốn dụ địch xuống phía Nam, bỏ quên mặt Bắc, để cho Động chúa thừa cơ hội địch chú ý đến bọn ta, sẽ ra quân đánh vào trọng địa của địch. Phía ta, sẽ vừa là miếng mồi dụ địch, vừa là đạo xung kích khi nào địch quay lại cự với binh của Động chúa. Như thế, các ông có ý kiến thế nào?
Phạm Hạp bàn:
- Đã vậy, ta cần giữ lại một ít quân ẩn trong động Hoa Lư này không?
- Đây cũng là cái ý của ông Hải lúc về đây đấy. Nhưng binh ít, có thể làm gì được giữa lòng địch? Nếu có gì đi nữa, chẳng qua cũng chỉ là con muỗi vo ve trong đêm tối mà thôi, làm sao cho địch chết được?
Nguyễn Bặc góp lời:
- Địa thế Hoa Lư hiểm trở, ta dùng kế “cọp trong hang rình mồi qua lại bên ngoài” được không?
- Thế nào là “cọp rình mồi qua lại bên ngoài”?
- Tức là ta chia nhau đóng quân ở khắp nơi, lấy ít bất thần đánh lén địch, không cho địch ăn ngon ngủ yên, phải bị mệt mỏi.
- Như thế thì ta cũng mệt mỏi, đánh nhau sẽ mãi không thôi. Vả lại, địch đến đây không cốt ăn ngon ngủ yên, mà cốt sao mau chóng tiêu diệt được ta. Vả lại ông Hải đốt mất cả quân lương của họ, thì bây giờ họ càng rút ngắn thời gian viễn chinh này được bao nhiêu càng hay bấy nhiêu, làm gì còn chịu ngồi yên cho ta khuấy phá nữa!
Đến lượt Phạm Cự Lượng lên tiếng:
- Nếu thế, ta dụ cho địch xuống Nam, dàn sẵn quân mà tranh hùng cho thỏa sức.
- Ta dụ địch như thế nào?
- Ta cứ ồn ào kéo đi, cốt để cho dịch tưởng là cả Hoa Lư, tất địch sẽ đuổi đánh, ta có thể phục kích giết địch được.
- Đấy cũng chỉ là một phần kế hoạch mà thôi, còn sức ta làm sao đương cự được với cả đạo quân lớn như vậy của địch!
Các tướng không biết phải bàn ra sao nữa, đành ngồi im đợi kế của Lê Thảo. Lê Thảo trầm ngâm giây lát, liền ngẩng đầu thong thả nói:
- Việc của ta là về Vũ Lâm. Khi xin Động chúa cho ta về Vũ Lâm, là tôi đã xếp đặt sẵn kế trong đầu rồi. Trước, địch từ Gia Khánh kéo lên, nay ta cũng xuống tận Gia Khánh mà đóng. Ở Vũ Lâm, ta dễ liên lạc với cửa núi bước vào Văn Lâm, lại có thể tựa vào núi ấy để cự địch. Thêm rặng núi dài đổ về Bắc, phía Tây Hoa Lư, là vùng ra quân lý tưởng của ta, bắt liên lạc được với núi Kiệm Lộng, nhìn được xuống vùng Sinh Khuyết, Đại Hoàng, giữ vững được rặng Mã Yên, để dành được Xuyên Thúy, tất cả mở đường cho ta đẩy dịch về hướng Đông, sau mới đuổi địch chạy hẳn về Cổ Loa đấy.
Các tướng ngồi nghe, chưa ai hiểu kế của Lê Thảo như thế nào, đành ngồi im đợi nghe tiếp.
Lê Thảo nói tiếp:
- Bây giờ, ta phải kéo về Vũ Lâm. Trước khi đi, ta phải khích binh Triều dốc lực đuổi theo rồi sa vào bẫy của ta. Tới khi nào binh Triều vào đến cửa núi Đa Giá, đây là lúc ta ra tay giết địch. Ở mặt Bắc, Động chúa cũng phải đưa binh xuống sát Bắc Hoa Lư. Đợi địch xuất động là tiến đánh. Phía Tây Hoa Lư, theo đường Xuyên Thủy Động đợi địch xuất động là tràn vào, hư trương thanh thế cốt làm địch kinh hoàng tưởng là bị bao vây. Động chúa cũng lại phải cho quân chặn dòng Sinh Khuyết, phía dưới Kẽm Trống, khiến cho tất cả các dòng Hoàng Long, Hoàng Chu, Vũ Lâm, thảy đều bị khô cạn. Nước chứa đầy Sinh Khuyết, Kẽm Trống, đợi lúc sẽ đắc dụng để dìm giặc.
Bốn tướng ngồi nghe, hoang mang kinh hoàng, không ngờ nhân vật nho nhã thư sinh đang ngồi trước mặt họ, lại là tay đáng sợ như vậy. Các tướng, tuy theo lệnh Giao Long truy thủ của Động chúa mà chịu Lê Thảo phát lệnh nhưng trong lòng vẫn còn nhiều chỗ chưa phục. Nay nghe Lê Thảo định kế, thì ai cũng sợ, cũng nể nang lắm. Riêng Phạm Cự Lượng thì lại hơn các tướng khác ở chỗ đã được biết uy vũ của Lê Thảo, khi chàng vận sức bẻ gãy cây đao. Cả bốn tướng gật gù, lắc đầu lè lưỡi, tỏ vẻ kinh hãi mưu kế của Lê Thảo, rồi lại chăm chú nóng lòng đợi nghe tiếp. Lê Thảo bảo:
- Nếu nói cho hết mọi chi tiết, e rằng mất thì giờ lắm. Vậy ta nên hành động ngay đi là hơn!
Bốn tướng cho là phải, Lê Thảo hướng về Đoàn Phúc Hải bảo:
- Tướng quân từng lập đại công, ba tướng ở đây biết rồi, nay nên về Kiệm Lộng để mọi người cùng ca ngợi một phen xem sao?
Ba tướng Phạm Cự Lượng, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp cả cười, duy có Đoàn Phúc Hải thì vừa ngượng vừa sợ, mà rằng:
- Tôi phạm trong tội, bây giờ về gặp mặt Động chúa sợ lắm, ngài có cách nào khác cho tôi được không?
Lê Thảo cả cười:
- Thân làm tướng ra trận hào khí bốc lên tận mây xanh, nghiêng vò mà uống đến mê tít chẳng còn biết trời đất, không còn coi giặc ra gì, nay đem đại công về trình động chúa, sao lại sợ như thế?
Nói rồi, cười rồi, Lê Thảo nghiêm nét mặt mà rằng:
- Tướng quân đừng e ngại, ta chắc thế nào Động chúa cũng không trị tội đâu! Duy phải nghe cho rõ những điều ta dặn, rồi trình lên Động chúa, đừng quên sót một chỗ nào cả.
Lê Thảo dặn dò Đoàn Phúc Hải về kế hoạch ra binh như thế nào, lại giao cho Hải một phong mật thư, bảo trình lên Động chúa. Đi đường, phải cẩn thận, đừng để trễ việc lớn, cốt sao tới Kiệm Lộng Sơn cho kịp ngày Nhâm Dần, tức là còn bốn ngày nữa, để cho kế hoạch ăn khớp với nhau, quyết động binh vào ngày cuối tháng, đưa binh Triều vào chỗ chết. Nếu đi trễ, Động chúa không kịp hành động thì lỡ cả mọi việc.
Đoàn Phúc Hải lĩnh mệnh lo lắng lắm. Đường từ Hoa Lư lên Kiệm Lộng Sơn lúc này còn dễ đi, nhưng làm sao để Động chúa sắp đặt được ngay mọi việc như kế đã định chỉ trong vòng có bốn ngày, thật là khó.
Ngay trong đêm hôm đó, Đoàn Phúc Hải nai nịt gọn gàng mang theo ba tên quân, nhằm hướng Kiệm Lộng Sơn đi liền.
Lê Thảo sai quân hết sức dò la động tĩnh của bình Triều, rồi ra lệnh cho ba tướng chuẩn bị để sáng sớm mai lui binh về Vũ Lâm. Lê Thảo bảo:
- Bây giờ, ta có tất cả một nghìn rưỡi quân, so sức thì chẳng thể nào cầu hòa được với binh Triều, chứ đừng mong thủ thắng nữa. Nhưng, đợi khi Động chúa xếp đặt xong mọi việc như đã dự định, thì lúc ấy binh ta tuy ít nhưng lại rất nhàn nhã, tuy yếu mà hóa rất khỏe, một người đáng bằng mười địch. Từ đây về đến Vũ Lâm tướng Phạm Hạp lĩnh cờ tiên phong dọc đường phải hết sức tích trữ các đồ bén lửa, cốt thu thập càng được nhiều càng tốt. Tướng quân Phạm Hạp mang theo một nghìn quân, đến đóng ở của núi Đa Giá, đem đồ bén lửa ẩn phục sẵn, lại chuẩn bị cung cứng cho một nghìn quân, tên cho thật nhiều. Tướng quân Phạm Hạp cứ phục yên ở đấy, đợi đến khi nào tướng Phạm Cự Lượng kéo trá bại quân chạy qua, dụ binh Triều vào chỗ phục binh thì phải nổi lửa tức thì. Tên binh Triều nào thoát được ra ngoài, thì dùng tên cứng mà hạ. Khi ngọn lửa tàn, lại phải kéo binh ra ngã ba dòng Vũ Lâm, ứng chiến ngay.
Tướng Phạm Hạp lĩnh mệnh ra khỏi doanh, điểm đúng một nghìn quân lên đường xuống Nam.
Lê Thảo lại bảo Phạm Cự Lượng:
- Tướng quân xông pha trận mạc dũng mãnh có tiếng, phải dùng để lừa địch mới được. Trưa mai, binh ta sẽ rời Hoa Lư, ẩn nấp cho thật kín đừng để bị phát giác. Đợi đến đêm mai, lúc nào nghe thấy tiếng đàn trên đỉnh động vọng xuống, là lúc binh Triều thức dậy ra trận đấy. Thấy binh Triều, tướng quân cứ thúc quân đánh tràn, rồi làm bộ không đương cự được, chạy về phía Nam, phải làm sao giả vờ cho khéo để dụ dịch đến tận cửa núi Đa Giá mới xong. Trận này, phải tướng quân mới hi vọng lừa địch được, nhiệm vụ nặng nề lắm đấy nhé!
Phạm Cự Lượng lại lĩnh mệnh, ra khỏi doanh trại để lo điểm quân, xếp đặt mọi việc, chờ đem ra phục bên ngoài phía nam động Hoa Lư.
Còn lại tướng Nguyễn Bặc, Lê Thảo bảo:
- Binh ta ít, nếu chỉ trông mong vào bốn trăm quân của Phạm Cự Lượng, thì chẳng thể nào dụ được đại binh của Nam Tấn Vương ào ạt đuổi theo về Nam. Nay phải nhờ đến tướng quân mang một trăm quân chia ra nhiều ngả, trương cờ gióng trống, một quân cưỡi ngựa giắt theo một ngựa, đuôi ngựa lại buộc cành lá, mình ngựa cột cành khô, rồi yểm trợ cho binh của Phạm Cự Lượng, thúc quân, ngựa chạy mù lên trong rừng núi, cốt đánh lừa địch ra vẻ “quân Hoa Lư đông lắm, còn ẩn nấp chưa ra mặt”. Có thế, binh Triều mới chịu kéo đi thật đông tìm đánh ta, có thế “hỏa công” của ta mới bõ một phen đấy!
Nguyễn Bặc lại lĩnh mệnh đứng dậy, lo đi điểm quân thi hành mưu kế của Lê Thảo.
Cuối cùng, chỉ còn lại hai mươi bảy tên quân của Đoàn Phúc Hải, Lê Thảo giữ để làm toán liên lạc, phát lạc mệnh lệnh đi các nơi.
Đêm hôm ấy, quân về báo rằng: “Binh Triều sau khi bị thiêu rụi cả quân lương, lại được biết Hoa Lư đã bỏ căn cứ rút đi rồi, thì tức lắm. Nay dò la biết tin quân ta kéo về phía Nam, không biết đại quân đã lên phía Bắc, cho nên khoảng độ xế trưa mai thì sẽ kéo vào Hoa Lư hạ trại, để cử quân Nam phạt sau”.
Lê Thảo nghe báo cáo, cả mừng, mọi xếp đặt như vậy là đúng với ý muốn.
Sáng hôm sau, Lê Thảo đem đám quân còn lại, đi xem xét Hoa Lư một lần nữa, lại cho quân ra các mặt dò xét xem binh Triều rục rịch thế nào.
Tới gần trưa, quân hớt hơ hớt hải về báo: “Binh Triều đã nhổ trại, bắt đầu kéo vào Hoa Lư.”
Lê Thảo liền dẫn toán quân đi vòng lên đỉnh động Hoa Lư phía Tây, phục kín trong vách núi, lẳng lặng đợi xem tình thế.
Trước đấy, Lê Thảo lại thảo một phong thư, để gửi cho Nam Tấn Vương, kí tên “Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh”, đoạn đặt phong thư trên bàn nghị sự trong đại sảnh,
Trời gần về chiều hôm ấy, quả nhiên tiền quân của Tấn Vương kéo vào Hoa Lư, dẫn đầu là tướng tiên phong Cao Đình Bảo. Quân đi trống đánh thùm thùm, cờ xí phất phới, đợi cho đoàn tiền thám báo cáo trong động Hoa Lư vắng vẻ, tướng tiên phong mới kéo binh vào. Bên ngoài, Tả dực tướng Phạm Hoàng Sơn, Hữu lực tướng Nguyễn Lạc Bình, cũng đưa quân đến trấn ở hai phía Nam Bắc Hoa Lư. Nam Tấn Vương đi sau, chỉ huy trung quân còn đóng ở bên ngoài, phía sau Vương là đạo Cung Thủ Cận Chiến, đạo quân này từ xa thì sử dụng cung cứng tên dài mà uy hiếp địch, tới khi xáp chiến thì chỉ dùng đoản đao thật to bản mà chém giết.
Tiền quân của Cao Đình Bảo lục soát Hoa Lư động, không thấy có gì khả nghi, bước vào đại sảnh thấy mọi thứ vẫn y nguyên, bụi chưa đóng ở nơi nào, rõ là quân Hoa Lư mới bỏ căn cứ đi chưa xa, Chợt lại thấy trên đại án có phong thư dài, để gửi Nam Tấn Vương, liền với truyền quân mang phong thư đệ trình lên Vương ngự lãm.
Nam Tấn Vương tiếp thư thấy đề:
Hoa Lư Động chủ thân gửi Nam Tấn Vương Ngô Triều.
“Kể từ khi đấng anh hùng Ngô Quyền lập nghiệp lớn xưng vương, đem đất nước ta từ chỗ lệ thuộc bước vào tự chủ, oai khí ấy làm rạng non sông, cỏ cây còn thì thầm bàn chuyện Hoàng Thao bại trận trên sông, núi rừng còn rung chuyển chưa thôi vì vó ngựa đuổi giặc của Tiên Vương. Thế mà đến nay, việc sáng ngời như sét giật lưng trời chưa tắt, oai vũ của Tiên Vương còn như sấm rền trời cao chưa dứt tiếng, con cháu của Ngô Vương đã hiện hình thành những kẻ bất tài thiếu đức! Chốn triều đường, biết bao việc ô nhục xảy ra, ngoài dân già không còn đâu là không oán khổ! Hào kiệt khắp nơi nổi lên, hùng tài cũng có, mà tham tàn cũng có, thi nhau làm hại trăm dân, thế quốc loạn xem ra khó bề sửa trị!
Ấy vậy, mà việc nhà còn chưa biết xếp đặt, nay lại đem quân đi chinh chiến xa, Nam Tấn Vương Hậu Ngô Triều như thế phỏng có phải là vì Vua đáng được cả thiên hạ theo về hay không? Đã không biết thế, lại chẳng tự lượng sức, dám kéo quân xuống náo động Hoa Lư, khiến cho chúng anh hùng hào kiệt phải nghiến răng giận dữ, làm cho con dân tất thảy đều cất tiếng nguyền rủa.
Nay, theo phép đối xử của người quân tử, lại thuận theo quy tắc tranh hùng của người hào kiệt, Hoa Lư ta tạm nhường một bước, để cho Nam Tấn Vương được yên ổn mà vào Hoa Lư đợi chết. Hoa Lư ta trốn ở phía Nam, nửa đêm lên núi cũng thấy đèn đuốc trong quân át cả sao trên trời, ban ngày áp tai xuống đất cũng nghe rõ tiếng vó ngựa chân quân. Như thế, Hoa Lư ta chỉ ra tay một trận, là cũng đủ giết hết binh Triều không còn một mống!
Nhưng nghĩ lại, thì dại dột là chỉ một mình Nam Tấn Vương gánh chịu, ngu muội cũng chỉ một mình Nam Tấn Vương chẳng thức thời đạt thế mà gây nên, cho nên ta nhường một bước là để Nam Tấn Vương còn có cơ hội tỉnh ngộ, mau mau rút quân về, đợi ngày Hoa Lư ta xuất động tranh hùng với thiên hạ, thu giang sơn về một mối, cứu trăm dân ra khỏi ách nước Hậu Ngô. Nếu tìm đúng như vậy, là Nam Tấn Vương đã tự kéo dài được mạng sống của mình, lại chẳng phụ lòng rộng lượng của ta!
Ngẩng nhìn lên các đỉnh núi, lắng nghe trong các rừng rậm, hỏi còn đâu là chẳng có binh Hoa Lư phục ẩn? Nam Tấn Vương nên nghe lời ta mà lo liệu sớm!
Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh chấp bút. Ngày Kỷ Hợi, Tân Hạ, Canh Tuất niên”.
Nam Tấn Vương đọc xong, bừng bừng nổi giận, vò nát bức thư rồi đập án truyền quan ngự tiền Trung quân Nam chinh Đặng Ngọc Hợp vào phán rằng:
- Tên giặc Đinh Bộ Lĩnh, không biết sức mình, dám đương cự với binh của ta, lại còn mở lời hỗn xược phạm thượng, tội không thể không giết ba đời nhà y! Truyền tướng tiên phong khai lộ để trẫm vào Hoa Lư định đoạt mọi việc!
Thế là, xa giá Nam Tấn Vương rời vào trong Hoa Lư, bên ngoài các đạo Tả, Hữu Dực vẫn đóng y nguyên, quân triều đình đóng một dọc dài từ Bắc vòng xuống Nam, che kín lấy ba phía Bắc Đông Nam Hoa Lư, thế vững như núi đá, mạnh tưởng có thể xô non khuấy biển được.
Bắt đầu từ đấy, cuộc tranh hùng giữa Cổ Loa với Hoa Lư mới thật là quyết liệt.
—ooOoo—