Hồi Thứ Mười Chín Nam Tấn Vương bị đàn ma trêu ghẹo
Binh Triều dàn thế đánh Hoa Lư
Nam Tấn Vương vào Hoa Lư, ngự tại đại sảnh, lập tức triệu các tướng chỉ huy các lộ quân tới nghị sự. Nam Tấn Vương phán:
- Quân ta chinh phạt phương Nam, đi đến đâu là thắng ở đó, chứ có tên giặc nào dám đương cự. Thế mà đến đây, thằng chăn trâu cắt cỏ Đinh Bộ Lĩnh lại dám đem mấy tên chết đói ra chống lại ta, lại còn dám gửi lời phạm thượng đến ta, tội của y không thể nào tha cho ba đời y được! Nay ta quyết định phải tiến quân gấp, không cho giặc có thì giờ mà thở. Vả chăng, quân lương của ta bị cháy cả, quân không thể ở mãi ngoài xa như thế này, phải mau lẹ chiến thắng khải hoàn, có thế mới tránh được mọi phiền phức đấy. Các tướng có ý kiến thế nào?
Tướng tiên phong Cao Đình Bảo tâu:
- Tân Chúa thượng, quân tế tác ở các mặt về trình rằng: giặc Hoa Lư chạy cả xuống phương Nam, mặt phía Bắc trùng điệp núi non là nơi dụng vũ rất tốt nhưng giặc bỏ cả, thành ra mặt Bắc ta không cần quan tâm. Phía Tây, núi dựng cao như vách thành, là bình phong che đậy cho ta mặt Tây thật tốt. Mặt phía Đông, quân ta trấn giữ, quân ta đóng suốt một giải từ Bắc xuống Nam, dài hơn tám dặm, thế vững như trường thành. Nay vâng lệnh thánh ý muốn tiến quân ngay, là điều rất tốt. Trong quân, quân lương tướng cho biết: vơ vét lương thực từ mấy ngày nay thu của dân chúng khắp vùng, cũng chỉ đủ dùng cho quân được khoảng một tháng là cùng. Nếu tiến quân thì phải gấp đánh không cho giặc có thì giờ lập căn cứ. Ở phương Nam, từ đây đến ngã ba Vũ Lâm, đường đi phẳng phiu, không có gì hiểm trở. Bắt đầu khỏi Vũ Lâm, là rừng núi, sông dài quanh co, giặc biết nương vào địa thế ấy cũng là đáng khen. Nhưng nay, nếu Thánh thượng cho lệnh, quân của ta phải một đạo tiến thẳng vào mặt trước của giặc, lại một đạo men theo đường bờ sông mà xuống, đợi giặc tan chạy về đấy thì đón mà giết. Ở mặt phía Tây, rừng núi không phải là nơi giặc lập căn cứ, nhưng có thế lẻ loi lẩn trốn lúc đại bại. Nhưng, địa thế vùng ấy, làm cho giặc thế nào cũng đổ ra mặt phía Đông, ta án binh đợi ở đấy là giết được hết giặc.
Nam Tấn Vương nghe lời Cao Đình Bảo rất đẹp ý, liền truyền Bảo lãnh đạo tiền quân đông hai nghìn binh, theo đường chính thẳng xuống phương Nam phá giặc. Lại truyền Tả dực tướng Phạm Hoàng Sơn đem một nghìn quân men theo bờ sông xuống ẩn nấp ở ngã ba sông Vũ Lâm, đợi khi nào quân giặc lại chạy tới thì đón mà giết.
Nam Tấn Vương lại truyền Hữu tướng quân Nguyễn Lạc Bình lĩnh mệnh Tổng quản các lộ quân ngoài Hoa Lư, sẵn sàng ứng chiến phá giặc.
Xếp đặt xong xuôi, thì trời tối mịt. Vương truyền sửa soạn để ngài nghỉ đêm trong động Hoa Lư. Các tướng về doanh sửa soạn để sớm mai ra quân phá giặc.
Đêm cuối Hạ ở Hoa Lư, trời bớt oi bức, lâu lâu có cơn gió thoảng từ các khe núi hút về nghe như tiếng hú, người không quen không thể nào ngủ được. Nam Tấn Vương cũng vậy, việc quân xa kinh thành, bộn bề trăm nhẽ, lại lo lắng về việc quân đi chinh chiến ở xa lâu ngày lại bị phá mất quân lương, chưa biết phải làm sao để có thể phá được giặc cho mau mà về, trằn trọc mãi không ngủ được.
Vừa tàn giờ Hợi, sang đầu giờ Tý, Vương trở mình cố dỗ giấc ngủ, bỗng nghe đâu đây có tiếng đàn thật lạ. Tiếng đàn nghe chẳng giống với tiếng đàn Vương từng được nghe không biết bao nhiêu ở chốn cung vị. Vương lắng tai nghe, tiếng đàn nửa như tiếng hồ cầm của rợ Hồ, lại phảng phất âm trầm như nhật cầm của rợ Kim, âm thanh lúc cao vút nghe như tiếng tỳ bà, lúc buông lơi như chỗ nắn của cung điệu nguyệt cầm, có lúc lại nỉ non như than vãn rên rỉ, lúc rầm rập như sôi trào uất khí, lúc xa lúc gần, lúc khoan lúc nhặt, có lúc tiếng đàn như ở ngay đằng sau lưng khiến Vương giật mình vụt quay người lại mà tìm, có lúc lơ lửng như treo trên đỉnh long sàng, tiếng đàn lạ lùng có lúc chập lại ồn ào tưởng như có cả một đại ban hòa tấu loạn xạ thật là lạ kỳ.
Vương cố phân tích, có hình dung, cố vận dụng tinh thần để tìm hiểu xem tiếng đàn lạ này là loại đàn nào, cố mãi cũng không tài nào hiểu được, liền ngồi nhổm dậy gọi quân đốt bạch lạp lên.
Bây giờ, trong ánh nến lung linh, tiếng đàn từng hồi tràn vào trong Động tưởng như từ bên ngoài có hàng trăm người cùng tấu khúc nhạc dị kỳ dồn cả vào Động. Vương chẳng khỏi trong lòng kinh mang, lập tức gọi quan ngự tiền Đặng Ngọc Hợp vào phán rằng:
- Nhà ngươi có nghe thấy tiếng đàn lạ không?
Quan ngự tiền sửng sốt, tại sao trong động lại có tiếng đàn lạ mà ở ngoài chẳng nghe thấy gì cả? Phạm Ngọc Hợp ngẩn người nghe tiếng đàn, như bị ma quỷ thu mất hồn. Vương cũng ngần người, càng nghe đàn càng hoang mang, tâm thần bất định, có lúc lại thấy tự nhiên chán nản không còn thiết tha với việc nào nữa, có lúc tiếng đàn lại ve vuốt như dẫn dụ người nghe vào cơn mê thật trầm trọng.
Đặng Ngọc Hợp đứng ngẩn trước long sàng, Nam Tấn Vương bâng khuâng như người vừa ốm dậy lâu ngày, hồi lâu như sực tỉnh cố cất giọng thu hết nghị lực lớn tiếng phán:
- Quân bay, đốt hết đuốc lên!
Quân Ngự tiền nghe tiếng quát bỗng tỉnh người, lại thêm bên ngoài quân nghe lệnh truyền dạ ran, liền vội vàng rảo bước ra ngoài đốc thúc quân mau mau đốt thật nhiều đuốc. Phút chốc, trong động ánh lửa sáng trưng nhưng tiếng đàn vẫn còn đâu đây. Quân vào trong Động tất thảy đều nghe thấy, ra ngoài thì lại im lặng chẳng nghe thấy gì, ai cũng lấy làm lạ. Quân xì xầm bàn tán: “Chắc trong động có ma”. Có đứa lại lén nói: “Chắc thần động linh thiêng, không cho người lạ vào đấy!”. Phút chốc, cả doanh lan truyền, không ai là không nghe biết việc trong động có tiếng đàn ma, khiến Vương không ngủ được phải truyền đốt đuốc thật sáng để đuổi ám ảnh.
Đuốc cháy được một hồi, thì tiếng đàn lạ đổi cung bậc, nhất loạt ồn ào, xen trong tiếng đàn lại còn có tiếng âm âm như ma kêu quỷ hú càng lúc càng lớn, khiến cho mọi người mặt cắt không còn giọt máu, trong động đuốc cháy sáng nóng rực thế mà ai cũng thấy lạnh từ trong gan ruột lạnh ra, run lập cập!
Nam Tấn Vương từ lúc có đèn đuốc sáng tỏ, tinh thần phấn chấn, ngài liền bước xuống long sàng, ngửa mặt lên đỉnh Động mà quát lớn:
- Hỡi loài yêu quỷ, sao nửa đêm dám tới làm kinh động đến bậc quân vương? Các ngươi không sợ xúc phạm đến thiên nhan là mang trọng tội không thể tha được ư? Hỡi loài yêu quỷ, hãy mau mau lánh đi nơi khác, đợi ta dẹp xong giặc Hoa Lư sẽ có chiếu phong thần, truyền địa phương cúng tế cho chẳng còn phải là yêu đói quỷ khát nữa!
Tiếng Vương sang sảng, nhưng tiếng đàn lạ cũng không im, bây giờ lại rào rào như trăm ngàn lời góa phụ nỉ non khóc chồng chết trận, tình cảnh thật não nề. Cả Nam Tấn Vương, đến quan ngự tiền, xuống đến đám hổ bôn đốt đuốc, tất thảy đều kinh hãi không biết phải làm sao bây giờ!
Sực có người nói lớn:
- Muôn tâu thánh thượng, có tin khẩn tấu của tướng Tổng quản ngoại Hoa Lư, tướng Sứ còn đợi ở ngoại doanh!
Nam Tấn Vương nghe tâu giật mình, vội rảo bước ra ngoài động. Ra đến ngoài, tai chẳng còn nghe thấy tiếng đàn lạ, chỉ nghe gió vi vu trong đêm mờ ảo, không gian thật yên tĩnh, Vương tỉnh hẳn người.
Tướng Sứ vừa thấy Nam Tấn Vương, vội tung hô “Vạn tuế” đoạn tâu:
- Tổng quản ngoại doanh tướng Nguyễn Lạc Bình run sợ khẩn tấu thiên nhan, từ chập tối đến giờ quân giặc lảng vảng rất đông ở chung quanh ta, dòm ngó khắp chỗ. Vì thấy đấng thiên nhan đang nghỉ không dám gây kinh động, nên không dám tâu trình!
Nam Tấn Vương nghe tâu, lấy làm lo lắm, liền lập tức truyền lấy ngự bào, rồi thân ra ngoài doanh xem xét.
Tướng Tổng quản ngoại doanh tâu trình mọi việc, lại đưa nhà vua lên gò cao quan sát. Quả nhiên, dưới ánh trăng hạ tuần mờ mờ, trong rừng cây lá giao động, lắng nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập dường như giặc đang đi lại đông lắm. Vương lại thuật cho tướng Tổng quản nghe việc tiếng đàn ma trong động Hoa Lư, rồi vua tôi ngay trong đêm hội nghị bàn việc quân.
Vương phán:
- Nay cứ chiếu tình hình tai nghe mắt thấy, thì quả thật giặc tụ tập ở phương Nam, lại dám nhân đêm tối đến sát doanh ta dòm ngó. Nếu để lâu, tất giặc lộng hành, phải tiến binh gấp mới xong.
Rồi truyền cho Nguyễn Lạc Bình cử tướng dàn trận phòng ngự, đề phòng giặc bất thần đánh lén. Đoạn lại truyền các tướng cho quân sửa soạn, ngay từ sáng mai đại quân kéo xuống phía Nam, hợp sức với các đạo tiền quân cùng phá giặc.
Vua tôi cũng bàn rất lâu về tiếng đàn quái gở trong động, rốt cuộc chẳng ai hiểu ra sao. Sau cùng, Nam Tấn Vương phán:
- Ta không tin trong động có ma quỷ, chắc là có sự gì lạ lắm. Ở trong động thì nghe có, ra khỏi động lại chẳng thấy gì. Ta chắc trên đỉnh động có những khe hở, gió lùa vào thành ra thanh âm kỳ như thế. Ta có nghe ở phương Bắc Trung Hoa, có những rặng núi quái gở từng mùa phát ra những tiếng nhạc lạ, theo gió đi xa hàng chục dặm. Chắc trên đỉnh động Hoa Lư cũng như vậy.
Rồi Vương truyền Kiêu Kỵ tướng Trần Bích Ngọc điểm quân hộ giá lên đỉnh động Hoa Lư để xem xét.
Quân đốt đuốc, hộ giá Nam Tấn Vương vạch gai góc, lau rừng mà lên đỉnh động. Càng lên cao, tìm lối đi càng khó, núi đá dày đặc, cây mọc cằn cỗi dễ thường cũng có vài trăm tuổi. Leo như vậy vất vả đến giữa giờ Sửu mới tới đỉnh động.
Đứng trên cao, Nam Tấn Vương thấy rõ các vùng chung quanh, núi non trùng điệp đen sì trong đêm tối mờ. Gió thoảng không ngừng, không gian thật tịch mịch, không một tiếng động lớn. Chỉ nghe tiếng giun dế than đêm, lá khô xào xạc, tuyệt không một bóng người lạ, không một hiện tượng quái gở nào. Vương đưa mắt quan sát các phía, thấy cả đạo quân do tướng Nguyễn Lạc Bình tổng quản đóng dài suốt từ mạn Bắc, vòng ra Đông rồi đổ xuống Nam, cong cong như vòng cung ôm lấy cả vùng động Hoa Lư. Nhìn xuống Nam xa tít rừng mù mịt lốm đốm ánh lửa chen lẫn lá cây, nhiều như sao trên trời giữa đêm Trọng Hạ.
Vương cả kinh, không ngờ quân giặc đóng doanh trại lại nhiều đến thế! Mấy dòng sông từ phương Bắc chảy xuống Nam lúc ẩn lúc hiện trong đám cây rừng có chỗ trắng bệch như vôi, có chỗ xám xịt rồi mất hút vào lòng rừng rậm. Vương quan sát hồi lâu lại cho lính đi sục sạo vạch từng ngọn cỏ, bới từng bụi cây, để tìm xem có khe ngách nào thông vào trong động hay không. Quân thám thính hồi lâu trở lại, tất thảy đều tâu trình tuyệt nhiên không thấy gì cả.
Vương đứng trên đỉnh núi cao, tần ngần suy nghĩ giây lâu, rồi lại truyền hạ sơn hồi doanh.
Vừa lúc ấy lửa cháy quân reo, trống trận thúc ầm ầm ở phía dưới. Vương cả kinh dừng bước xuống, thấy ngoài doanh tướng Tổng quản, quá về phía Nam, đuốc sáng một vùng, giặc Hoa Lư nương vào bóng đêm đánh úp quân triều. Quân Hoa Lư có vẻ đông lắm, ngựa chạy vùn vụt khắp nơi, đuốc sáng lòa vây bọc ngoài doanh, Vương biết địch tấn công, vội truyền xuống núi gấp.
Xuống đến nơi quân vào khẩn tâu:
- Giặc định đánh úp, may tướng Tổng quản đã cắt quân canh giữ, nên tướng ra trận ứng chiến tức thì đánh lui giặc rồi.
Vương nghe tâu cũng mừng, vội triệu tập các tướng đề nghị sự. Vương phán:
- Trẫm đứng trên đỉnh núi cao, thấy rõ được cả mọi mặt. Quả thật thế giặc mạnh lắm, ta phải ra quân gấp mới được.
Lại truyền cho các tướng phải gấp rút lập vững doanh trại, chuẩn bị kéo cả trung quân xuống Nam tiếp chiến với hai đạo quân của Cao Đình Bảo và Phạm Hoàng Sơn, Hội nghị đến tờ mờ sáng mới dứt, Nam Tấn Vương trở lại động Hoa Lư, không còn nghe thấy tiếng đàn lạ nữa.
Lại nói về Lê Thảo đem hai mươi bảy quân lên núi, nấp kín trong hang, rình xem quân Cổ Loa động tĩnh thế nào, vạn sự ở dưới chân núi đều thấy rõ mồn một. Đợi đến lúc đêm xuống, Lê Thảo thấy bốn bề lặng lẽ, thì biết là trong quân binh Triều đã tắt lửa đi ngủ, ngó ra bên ngoài thấy quân canh vẫn cẩn mật canh gác, liền bảo hai mươi bảy tên quân nép dọc khe hang, đợi lúc nào Lê Thảo ra hiệu thì nhất tề hai tay bưng lấy miệng mà hú lên thật dài. Dặn dò xong, Lê Thảo đem cây đàn gỗ Mạo Hương, so lại dây “Gian Thảo”, vén tay áo vận hết tinh thần, phổ vào dây đàn nảy lên khúc nhạc kỳ lạ.
Lê Thảo chọn chỗ khe hang hết sức kín đáo, bên ngoài khó lòng phát giác ra được. Khe hang ấy ngoằn ngoèo như xoáy trôn ốc đổ vào trong động Hoa Lư, đường đi cũng phải dài đến mấy chục trượng. Khe hang lại có đường ăn thông mãi xuống mặt phía Nam, luồn qua vách đá lúc lộ thiên, lúc lẩn vào giữa hai vách núi thật khuất khúc, rồi theo triền núi dốc đổ xuống mặt Đông giữa hai triền núi, trở thành một sơn đạo quanh co. Nhờ thế, khi Lê Thảo sử đàn, tấu lên khúc nhạc lạ lùng, thì tiếng đàn cùng với tiếng hú một phần luồn vào trong động Hoa Lư, một phần theo sơn đạo đi thật xa ra ngoài. Bên ngoài, Phạm Cự Lượng đem quân tựa vào vách mà ẩn nấp, lăm lăm nhìn về hướng doanh trại binh Triều, lắng tai đón nghe tiếng đàn thật lạ. Lập tức, Phạm Cự Lượng không dám chậm trễ, đưa quân tiến lại sát doanh trại quân Triều. Nhưng, binh Lượng ít, doanh trại binh Triều san sát một dải thành ra Lượng phân vân không biết phải ra tay như thế nào. Đương trường mà cự địch, thế nào số quân của Lượng cũng bị giết hết mất, Lượng tần ngần suy nghĩ, chưa biết tiến thoái ra sao. Sực lại thấy trong các khu rừng có ngựa dồn dập, thấp thoáng lại có cả ánh lửa nữa, thì không hiểu ra sao, chỉ sợ đấy là binh Triều ép mình vào giữa mà đánh thì thật chí nguy!
Lắng đợi hồi lâu, chẳng thấy cánh quân trong rừng ra mặt, cũng chẳng thấy có điềm gì tỏ ra là cánh quân ấy sẽ đánh mình, Phạm Cự Lượng mới đoán rằng: “Chắc đấy là quân nhà yểm trợ cho mình đánh khuấy phá địch!”. Nghĩ rồi thấy yên bụng, liền thúc quân tiến lại sát doanh trại địch.
Quân của Phạm Cự Lượng chạy sát bên ngoài doanh binh Triều, kéo từ Nam lên Bắc, không dám tấn công vào chỗ nào cả, cứ chạy loanh quanh như vậy mãi có ý đợi quân Triều ra ứng chiến là tranh hùng một phen.
Bên trong doanh, tin báo lên tướng Tổng quản Nguyễn Lạc Bình, Bình dè dặt không dám cho quân xuất doanh cự địch, một mặt cho người vào động Hoa Lư tâu lên Nam Tấn Vương, một mặt truyền các mặt phải canh phòng cẩn mật giữ không cho giặc xâm phạm, đợi lệnh sẽ tiến quân. Rồi Nguyễn Lạc Bình lại lên gò cao quan sát, quả nhiên thấy quân giặc có vẻ đông lắm, đang ào ạt qua lại bên ngoài tìm chỗ đánh vào, lại có thêm đạo trợ chiến còn đóng trong rừng.
Phạm Cự Lượng thúc quân chạy lên phía Bắc, rồi lại quay trở xuống phía Nam hai ba lượt, rồi bỗng quyết định xông bừa vào doanh binh Triều mà đánh phá. Lượng truyền bật hồng sáng rực, dồn cả quân vào phá một nơi. Lập tức trong doanh trống hiệu nổi lên ầm ầm, đuốc hồng cũng rực sáng, binh Triều dàn thành trận thế cự địch. Đấy là lúc Nam Tấn Vương còn đứng trên đỉnh núi quan sát phía dưới, đã thấy tất cả mọi việc xảy ra.
Phạm Cự Lượng nhớ lời dặn của Lê Thảo, không ham quyết chiến, vừa thúc quân vào thấy bên trong ra quân ứng chiến, liền hô quân rút lui tìm chỗ khác đánh vào, cứ thế đến mấy chỗ mới chịu rút lui hẳn.
Về phía Lê Thảo, khi thấy Cự Lượng đưa quân đánh quấy phá doanh trại binh Triều, liền thôi gảy đàn, truyền đám quân lẳng lặng dựa vào vách núi xuống cả phía Nam. Xuống núi rồi, Lê Thảo bảo đám quân: “Như thế là xong một đoạn mưu kế, bây giờ phải cho lệnh đi gấp mới được”.
Nói xong, chọn hai tên quân nhanh nhẹn, lanh lợi, sai đi liên lạc với Nguyễn Bặc dặn rằng: “Ngày mai, khi nào binh của Phạm Cự Lượng giáp chiến với địch, phải ra sức yểm trợ cốt làm cho địch sợ, phải làm ra vẻ muốn thừa cơ đánh úp hậu cứ hay đánh vào sườn địch, cốt làm cho binh Triều sợ hãi, không dám quyết chiến phá binh của Lượng. Lại phải đợi khi nào Cự Lượng thua chạy, ra tiếp cứu nhưng cũng giả vờ thua chạy. Phải nhớ, không được rời địch, phải theo sát địch mà quấy phá”.
Quân lĩnh mệnh đi liền.
Lê Thảo lại chọn hai tên quan khác, truyền đi tìm gặp Phạm Cự Lượng nhắc lại: “Phải hết sức khích địch, nội ngày mai phải liên miên xuất trận, làm sao để dụ địch đến Văn Lâm trong chiều ngày mốt mới được”.
Quân lĩnh mệnh ra đi. Lê Thảo truyền cho toàn quân còn lại kéo cả xuống Nam, vào cửa Văn Lâm để xem xét mọi việc, xem tướng Phạm Hạp đã chuẩn bị xong xuôi cả chưa, đoạn lên núi nghỉ ngơi đợi xem các tướng phá binh Triều.
Đây lại nói Động chúa Hoa Lư Đinh Bộ Lĩnh vừa lên đến Kiệm Lộng Sơn, doanh vừa tạm yên, thì có quan vào bẩm:
- Có tướng sứ Đoàn Phúc Hải vừa nhiệm lệnh ở phương Nam lên xin trình Động chúa.
Bộ Lĩnh nghe báo, biết là có tin gấp của Lê Thảo, lại thấy Đoàn Phúc Hải cũng tìm được về rồi, trong lòng vừa mừng vừa giận, liền truyền quân bảo Hải vào ngay.
—ooOoo—