← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Hai Mươi Động chúa nhận kế, ngăn Sinh Khuyết
Trịnh Tú lĩnh mệnh chặn Sào Long

Đoàn Phúc Hải vào doanh, vừa thấy Động chúa Đinh Bộ Lĩnh, đã vội quỳ mọp xuống lạy chào, rồi xin nhận tội. Bộ Lĩnh tuy giận lắm, nhưng không khỏi không vui mừng, các tướng ai cũng nóng lòng muốn được chuyện trò, hỏi han Hải xem sao.

Động chúa lại nghĩ: “Đoàn Phúc Hải có tội, may chưa đến nỗi làm nát việc quân, lại tìm được đường về Hoa Lư, mang lệnh của Lê Thảo gấp lên Kiệm Lộng gặp ta, ắt Lê Thảo cũng đã tính toán kỹ, có ý để Hải đến chịu tội, nhưng cũng ngầm bảo ta đừng quá khắt khe”. Nghĩ thế, Bộ Lĩnh nghiêm nghị bảo:

- Phúc Hải, ngươi không trọng quân kỷ, suýt nữa làm hỏng đại sự, lẽ ra phải chém đầu răn chúng mới phải. Nhưng, ta nghĩ đến tình anh em tha tội cho, từ rày nên phải lấy đấy làm điều ăn năn, tu sửa lại tính tình mới được.

Phúc Hải rạp mình tạ ơn, Bộ Lĩnh lại hỏi:

- Ngươi từ Hoa Lư lên, mang theo lệnh gì của Lê quân?

Đoàn Phúc Hải luồn tay vào ngực, lấy ra phong thư dày, hai tay kính cẩn đưa lên Đông chúa mà rằng:

- Tiểu tướng nhận lệnh lên đây, may được Động chúa khoan hồng tha tội cũ. Quả thật có tin cơ mật của Lê quân, xin Động chúa xem rồi quyết định. Lúc trước khi tôi lên đường, Lê quân có dặn: “Trình Động chúa phong thư, rồi xin với Động chúa nghị sự và hành động gấp!”.

Động chúa Hoa Lư nghe Hải nói vậy, tay đỡ lấy phong thư, lập tức truyền các tướng ai ngồi vào chỗ nấy đề nghị sự ngay.

Động chúa mở phong thư cặm cụi đọc, các tướng thi nhau khẽ hỏi han Phúc Hải mọi chuyện, thảy đều hoan hỷ, sắc mặt thật tươi. Một lát, Động chúa để phong thư xuống bàn, nói rằng:

- Các tướng, Lê quân ngay trong đêm hôm qua đã khích địch, quấy phá Nam Tấn Vương, hiện giờ đang dàn quân để kéo binh Triều về phía Nam mà đánh, có diệu kế gửi lên ta, các tướng nghe xong rồi hãy bàn.

Động chúa trao bức thư cho Đinh lão, nhờ đọc lớn lên cho các tướng cùng nghe. Đinh lão cao giọng đọc:

“Lê Thảo mặc áo vải ngồi ở động Hoa Lư, viết văn biểu kính đệ lên Động chúa xét gấp. Thư này mang đến trình tận tay Động chúa, mọi sự xếp đặt, quả nhiên địch làm đúng ý ta, binh Triều vào Hoa Lư bên ngoài đóng một giải dài từ Bắc xuống Nam, khí thế thật mạnh. Ngay trong đêm qua, tôi đã khích Nam Tấn Vương trong động, bên ngoài tướng Phạm Cự Lượng y kế làm cho địch tưởng ta có muôn binh muôn mã, chẳng biết gì về chỗ phương Bắc ta có quân trấn ở Kiệm Lộng Sơn.

Tôi chắc là binh Triều sẽ không đóng lâu một chỗ, thế nào cũng kéo xuống phía Nam để tiêu diệt quân ta. Mọi việc tôi đã chuẩn bị sẵn. Nhưng, cốt yếu hơn cả là ở phía Bắc này, Động chúa phải lập tức bí mật ra quân, kéo xuống sát Bắc Hoa Lư tàng phục, đợi khi nào binh Triều bị hại ở Văn Lâm thì thúc quân vào quyết phá địch. Ngay bây giờ, tôi xin Động chúa gấp rút cho chặn dòng Sinh Khuyết, chứa nước trong Kẽm Trống, đợi đến khi thấy ở phương Nam lửa cháy lớn thì phá đồ ngăn sông đi, nước xuống sẽ dìm binh Triều ở ngã ba Văn Lâm. Cũng ngay bây giờ, xin Động chúa cho lệnh chặn khe Sào Long, để nước dâng cao trong Hoa Lư động đuổi Nam Tấn Vương ra ngoài, đợi khi lửa cháy ở Văn Lâm thì hãy bỏ đồ chặn.

Đại quân của Động chúa bám sát phía sau binh Triều, đợi khi địch bị lửa thiêu thì hãy xuất trận. Một trận đánh này, ta cũng tiêu diệt được ít ra là một phần ba quân địch.

Việc trình lên Động chúa, kính mong được lệnh thi hành gấp.

Lê Thảo bái.”

Đinh lão đọc xong, các tướng ngẩn người, có người rùng mình kinh hãi cơ trí của chàng mặt trắng Lê Thảo. Đinh lão đặt bức thư xuống bàn rồi nói:

- Thật là diệu ác kế! Thế là nướng chết địch xong, lại dìm cho chết một lần nữa! Binh triều không được thua một lần, mà phải chịu những hai phen điêu đứng! Thật là ghê gớm!

Động chúa nghiêm nghị:

- Kế này hay lắm, các tướng có ai thấy cần phải sửa đổi gì không?

Các tướng làm gì có ai còn có ý kiến hơn được nữa, vì vậy Động chúa lập tức sai tướng Lưu Cơ đem ngay hai trăm quân đi chặn dòng Sinh Khuyết. Lại truyền cho Trịnh Tú mang cũng hai trăm quân đi chặn khe Sào Long.

Tại trung quân, Động chúa truyền tướng Lê Hoàn lĩnh cờ tiên phong, sai Chu Kỷ Toàn giữ trách nhiệm Phó tướng, cả hai mang một nghìn quân kéo xuống phía Nam phải hết sức bí mật, nương vào hang hốc mà tàng ẩn đợi khi binh Triều kéo đi thì bám sát sau lưng.

Lại truyền cho tướng Mạc Sa Cảnh đem một trăm quân đi giúp tướng Lưu Cơ chặn sông Sinh Khuyết, lại dặn rằng: khi nào bỏ các đồ ngăn sông rồi, phải lập tức cùng Lưu Cơ theo dòng sông xuống ngã ba Văn Lâm gấp để trợ chiến. Về mặt khe Sào Long, Động chúa cũng sai Đoàn Phúc Hải đem một trăm quân đi giúp Trịnh Tú, lại dặn: khi bỏ đồ ngăn ra rồi, phải đem quân về Hoa Lư ngay, trấn ở phía sau lưng địch đợi lệnh.

Các tướng lĩnh mệnh đi ngay. Động chúa truyền cho Đinh Liễn sửa soạn nhổ trại, chỉ để lại tướng Đỗ Mậu Đại với một trăm quân trấn giữ cứ địa, còn tất cả hãy theo Động chúa kéo đi tiếp ứng các đạo tiền phương, Động chúa dàn xếp xong, thì trời tờ mờ sáng.

Đây lại kể về Lưu Cơ đem hai trăm quân ngay đêm hôm ấy nỗ lực chặt tre đan sọt, kết vách, lại lấy đất, cát nhét đầy các sọt, trát lên vách mà ngăn dòng Sinh Khuyết. Cuối Hạ nước không mạnh cũng chẳng yếu, hai trăm quân của Lưu Cơ hợp sức với một trăm lính của Mạc Sa Cảnh ra sức chặn sông, mãi đến sáng hôm sau mới ngăn được dòng sông. Dòng sông bị chặn, nước không đổ được xuống Nam, tràn ứ ra khắp nơi, mênh mông một vùng trắng xóa. Hai tướng lại truyền quân lấy tre kết bè nhỏ, mỗi bè chứa được ba chục quân, cột chặt cả lại để khỏi bị trôi mất, đợi đến khi tháo dòng sông thì theo nước đổ xuống Nam. Xong việc, hai tướng cho quân nghỉ ngơi, đợi giờ xuất trận.

Về phía Sào Long, Trịnh Tú với Đoàn Phúc Hải cũng sai quân gấp rút chặn dòng nước. Dòng Sào Long vừa bị chặn, cũng là lúc ở Hoa Lư Nam Tấn Vương truyền các tướng sửa soạn xuống Nam bình giặc. Vương vừa truyền lệnh xong, sực quân vào tâu rằng:

- Tâu thánh thượng, không hiểu vì sao nước trong động đang dâng lên cao, không biết khe mạch ở chỗ nào, xin thánh thượng xa giá ra ngoài Động mới được.

Nam Tấn Vương nghe tâu cả kinh, nhìn lại thì quả nhiên nước lênh láng, mỗi lúc một lên cao. Vương vội truyền di giá ra ngoài. Trong động nước cứ dâng cao ngập lụt cả.

Nam Tấn Vương vừa ra khỏi Động, lại có tin của Tổng quản ngoại doanh tướng Nguyễn Lạc Bình khẩn cáo: “Binh giặc đã kéo đến khiêu chiến!”.

Vương mặc giáp lên ngựa, cùng với Nguyễn Lạc Bình ra xem xét tình hình. Nhìn xuống phương Nam, cây rừng xao động, bụi vẫn vượt ngọn cây, rõ ràng là địch ẩn nấp đông lắm. Nhìn lên các sườn núi, lại thấy giặc lom hom ngó xuống, chỉ chực đánh lén binh Triều.

Nam Tấn Vương truyền Cao Đình Bảo điểm ba nghìn quân, thẳng trọng lộ kéo xuống phía Nam, mang cờ lệnh tiên phong tiêu diệt giặc. Vương lại truyền Phạm Hoàng Sơn ra bày trận ở ngoài doanh, dựa vào mé sông nghênh địch. Phía bên phải, sai tướng Kiêu Kỵ Trần Bích Ngọc tựa vào núi chống đỡ.

Quân vừa bày xong trận thế, binh Hoa Lư đã ào đến khí thế mạnh như gió cuốn nước trôi. Phạm Cự Lượng cưỡi chiến mã sắc đỏ như lửa, thanh đoản đao gác trên lưng ngựa, phong thái thật dũng mãnh. Quân của Lượng vào trận thật đẹp, rẽ thành hình cánh én sẵn sàng đón đỡ các mặt.

Quân Hoa Lư mặc chiến phục tay ngắn, ngang lưng thắt dải vải to bản, vận quần xanh chàm, chân dận thứ dép bện bằng sợi cát đằng chẻ mỏng thật bền, đầu đội nón tre quét nhựa không thấm nước màu đỏ hồng quân, tất cả đều xử đơn đao, khí thế thật kiêu hùng.

Phạm Cự Lượng dừng ngựa trước doanh binh Triều, lớn tiếng thách tướng địch ra trận tranh hùng. Trong doanh, Nam Tấn Vương ngự giữa trung quân, ngó xuống thấy trận thế địch đã dàn trước doanh, nhìn tướng địch hùng dũng thì trong lòng chẳng khỏi khen thầm, liền bảo:

- Tướng giặc này mạnh thật đấy! Tướng nào muốn ra trận lập công đầu nào?

Vương vừa dứt tiếng, thì Ngự Tiền Trung Quân Nam Chinh tướng Đặng Ngọc Hợp đã lên tiếng xin xuất trận. Vương rất đẹp lòng, truyền mở cửa doanh để binh các lộ kéo ra. Đặng Ngọc Hợp mặc giáp trụ sáng ngời, ngang lưng đeo thanh Bích Nguyệt Kiếm lưỡi cong vút, cưỡi con Ô Truy dẫn đầu đám binh Triều kéo ra.

Vừa đối trận, Phạm Cự Lượng chẳng nói chẳng rằng, thúc ngựa vọt lên huơ đao chém nhau. Đặng Ngọc Hợp phải giật cương lùi ngựa lại đến mấy bước mới rút kiếm ra, rồi quát mắng:

- Tên tướng giặc, không được vô lễ, Ngự Tiền Trung Quân Nam Chinh tướng Đặng Ngọc Hợp là ta đã ra đến đây, sao không xuống ngựa khai tên rồi chịu trói cho rồi?

Cự Lượng dừng ngựa cười ngất mà rằng:

- Binh Triều hết tướng rồi sao, mà lại sai anh thái giám ra trận thế này?

Nói xong, lại thúc ngựa nhào tới lưỡi đao trong tay Cự Lượng vun vút qua lại, lăm le chỉ chực chặt tướng Triều đình ra làm mấy khúc. Đặng Ngọc Hợp nghe Cự Lượng nói như vậy thì cả giận, liền thét to lên một tiếng, thúc ngựa vọt tới, thanh Bích Nguyệt kiếm vươn ra như một dải lụa xanh, uyển chuyển đẹp vô cùng, nhưng khí thế cũng lại mạnh mẽ lắm. Hai tướng giáp chiến kịch liệt, quân hai bên reo hò dậy đất. Nam Tấn Vương đứng ở vọng lầu trước doanh giám trận, cũng không khỏi ngợi khen tướng Hoa Lư dũng mãnh. Hai tướng tranh hùng hồi lâu, vẫn không ai hơn ai một bước, càng đánh càng hăng, quân hai bên càng hò reo trợ chiến càng dữ.

Nam Tấn Vương thấy tình hình như vậy, liền gióng trống, phất cờ, phát lệnh cho hai cánh tả dực ở phía bờ sông, hữu dực ở men núi, cùng tiến ra hãm binh Hoa Lư vào giữa. Cự Lượng thấy thế nguy, không ham đánh lâu, lại sử đến cái kế “tung bụi mù mắt địch” để chạy trốn. Cự Lượng thức ngựa lăn xả vào Đặng Ngọc Hợp mà chém xối xả, đao pháp không kể quy củ, phóng ra những đòn giang hồ thật ác liệt, đẩy lui Đặng Ngọc Hợp trở lại. Thừa cơ, Cự Lượng quay ngựa lại, đổi hậu quân làm tiền quân, tiền quân ra làm hậu quân, rẽ hai cánh tả hữu của binh Triều mà đem quân vượt ra vòng chiến.

Phía trước mặt, lại thấy bụi mù bay, một cảnh quân kéo ra tiếp cứu cho Lượng. Phía sau lưng, binh Triều gấp rút đuổi theo, nhưng khi vừa thấy có tiếp viện cho Hoa Lư thì binh Triều chậm bước đuổi, cấp báo về hậu quân cho Nam Tấn Vương biết. Vương lập tức truyền lệnh tạm dừng quân, đợi xem địch bố trí thế nào.

Đợi hồi lâu, không thấy quân Hoa Lư quay lại, chỉ thấy tất cả chạy vào rừng rồi mất hút. Vương truyền tạm đóng binh. Binh Triều lúc ấy đã ra xa khỏi Hoa Lư gần hai dặm đường, vẫn không biết là phía sau có binh của Động chúa đang âm thầm nương vào hang hốc vách núi bám riết theo. Hai đạo tả hữu dực lại rẽ sang hai bên, thế trận lại thành như cũ. Đạo tiền quân của Cao Đình Bảo tiến chưa xa, thì lại gặp binh Hoa Lư chặn đường khiêu chiến.

Số là, Phạm Cự Lượng đem quân cắt đường tắt đến phía sau tiền quân của Cao Đình Bảo mà khiêu chiến đến khi bị ba mặt áp bức liền lui quân bỏ chạy vào rừng, lại vượt rừng theo đường tắt đến trước tiền quân của Cao Đình Bảo chặn lối.

Cao Đình Bảo một mặt cho phi báo về hậu quân để Nam Tấn Vương biết là tiền quân đã gặp giặc, một mặt dàn quân nghênh chiến.

Vương được tin, lấy làm lo ngại lắm, như vậy thì giặc đông lắm, bám sát hai bên sườn binh của Vương mà khiêu chiến. Vương liền thúc hậu quân của Cao Đình Bảo ra trận.

Tướng tiên phong Cao Đình Bảo mặc giáp sợi đồng đen kịt, đầu đội mũ đâu mâu, ngang lưng treo thanh kiếm báu, phong thái thật uy dũng. Đối trận, Cao Đình Bảo vừa thấy Phạm Cự Lượng liền quát:

- Bớ tên giặc kia, chúng bay hết người rồi sao mà trước sau vẫn chỉ có mi ra nạp mạng thế này?

Quát xong, Cao Đình Bảo thúc ngựa phóng lên, thanh gươm trong tay Bảo múa lên như mưa đổ lá bay, đẹp mà mạnh lắm, Phạm Cự Lượng cũng huơ đao nghênh chiến. Hai tướng lại đấu với nhau một trận kịch liệt, quân hai bên lại hò reo cổ xúy tướng nhà rầm rầm. Binh Triều dàn theo vòng cung, khép quân Hoa Lư vào giữa, thế là trận chiến trở thành khốc liệt, quân hai bên tha hồ chém giết. Ngay lúc ấy, cánh quân của Nguyễn Bặc ở trong rừng xông ra tiếp trận.

Nguyễn Bặc để lại hai mươi quân làm kế “hỏa mù” trong rừng cốt làm cho dịch nghi hoặc, còn tám mươi quân thì đem cả ra để giúp Cự Lượng địch với binh Triều. Bọn Phạm Cự Lượng binh ít bị binh Triều vây chặt vào giữa, tình thế thật nguy cấp. Cự Lượng không khỏi kinh hãi lo sợ, nếu bại thật thì làm sao còn thi hành được kế của Lê Thảo nữa, trách nhiệm ấy một mình Lượng gánh cả. Càng nghĩ, Cự Lượng càng hãi, rồi đâm liều mạng, huy động thanh đoàn lao như sét giật, núi đổ, áp đảo tướng Cao Đình Bảo kịch liệt, nhất thời giữ được binh Triều không thể lại gần được, nhưng giữ lâu thì chắc không xong, trong lòng càng lúc càng hoang mang khiếp sợ.

Vừa lúc ấy, ở mạn phía Nam, Nguyễn Bặc xua quân tới, nhất tề đánh thẳng vào binh Triều. Nguyễn Bặc vốn nổi danh là một hổ tướng lầm lì ít nói, sức khỏe như hùm lúc ra trận quen dùng ngọn giáo sắt nặng tám mươi cân, lúc đâm lúc quật, có tiếng là lợi hại. Nay thấy Phạm Cự Lượng bị vây hãm khó bề thoát được, Nguyễn Bặc thúc ngựa xông vào, ngọn giáo sắt quét ngang quật dọc, lúc dâm lúc xỉa cực kì hung hãn, đánh giạt binh Triều ra hai bên. Nguyễn Bặc tiến đến đâu, ở đấy phải có máu đổ thịt rơi, tám mươi quân bám sát chủ tướng được đà chém giết không nương tay. Chẳng mấy chốc, Nguyễn Bặc tới sát được chỗ Phạm Cự Lượng, hai tướng hợp sức áp đảo Cao Đình Bảo kịch liệt, khó lòng họ Cao có thể chống đỡ lâu được.

Trận thế dần dần nghiêng về phía quân Hoa Lư, thì chợt đạo quân của Nam Tấn Vương do tướng tổng quản Nguyễn Lạc Bình đi đầu, tả dực có tướng Phạm Hoàng Sơn, hữu dực có tướng Trần Bích Ngọc rong ruổi, ba mặt tiền lên tiếp trận thật hùng dũng. Nhìn vào trung quân, cờ hiệu của Nam Tấn Vương phất phới cũng vừa kéo đến.

Cao Đình Bảo hứng chí, thanh gươm múa tít ra sức chống trả lại hai tướng Hoa Lư. Tới lúc ấy, Phạm Cự Lượng lẫn Nguyễn Bặc thấy thế nguy, không dám ham chiến, vội chia làm hai. Nguyễn Bặc mở đường, Cự Lượng che chở ở đằng sau, cả bọn cố phá vòng vây mà chạy ra, tình thế thật bi đát.

Thoát khỏi vòng vây, binh Hoa Lư kéo nhau chạy thẳng vào rừng phút chốc mất dạng.

Cao Đình Bảo cũng không ham đuổi, truyền dừng quân để nghênh đón Nam Tấn Vương, vua tôi gặp nhau, cùng bàn việc chống giặc. Lúc ấy trời gần đứng bóng, lại có quân xin vào bẩm trình tướng tiên phong việc khẩn cấp.

—ooOoo—