Hồi Thứ Hai Mươi Mốt Cự Lượng chạy dài về Đa Giá
Nguyễn Bặc bóp chết tướng Loa Thành
Tướng tiên phong Cao Đình Bảo truyền cho vào. Quân tế tác vào lạy rồi trình:
- Bẩm Đại tướng, tả tướng Phạm Hoàng Sơn khẩn báo: đến đoạn này, sông Sinh Khuyết rất cạn nước, vậy xin Đại tướng gấp cho quân tựa vào vách núi mà đóng quân tránh nắng, lại tiện nước dùng.
Tướng tiên phong kinh ngạc, có bao giờ dòng sông ở gần chỗ ngã ba này lại cạn nước như thế, chắc có gì khả nghi đây. Lập tức, Đình Bảo vào trung quân yết kiến Nam Tấn Vương, tâu trình mọi việc. Vua tôi lại vào bàn nghị sự ngay. Đình Bảo nói:
- Tâu chúa thượng, quân ta xuống Nam, tuy không dùng đường thủy, nhưng cũng phải dùng nước cho việc khác, nay nước sông cạn, tướng tả dực cấp báo xin di quân sát vào vách núi tránh nắng, hà tiện nước dùng, đợi xem tình thế. Xin chúa thượng phán xét xem sao.
Nam Tấn Vương phán:
- Hồi sáng sớm hôm nay, động Hoa Lư bỗng nước dâng ngập, làm mất chỗ đóng quân của ta. Đến đây, thì sông lại cạn nước, làm khó cho ta ở chỗ không có nước dùng. Tựa vào núi đóng quân, cũng là điều hay, nhưng phải xem cho kĩ địa thế kẻo lại sa vào bẫy của giặc thì nguy đấy!
Vương vừa phán dứt lời. Tướng Tổng quan Nguyễn Lạc Bình liền nói:
- Tâu Chúa thượng, vùng này sông cạn, thiếu nước dùng. Đại quân của ta nên gấp rút tiến xuống Nam, phải làm sao đóng quân được ở ngã ba Vũ Lâm trước đêm hôm nay mới được an toàn. Ngã ba sông tất không thể nào cạn được. Vả lại, từ đây đến đêm, tất giặc thế nào cũng còn quấy phá ta, nếu đóng được ở Vũ Lâm, thì ta có nhiều lợi thế, phía Đông là vùng phì nhiêu giúp ta có được quân lương lâu dài, đằng sau lưng là rặng núi cao ở không xa cũng không gần. Nhìn lên phía Bắc, Hoa Lư chỉ già nửa ngày đường là tới được, cái thế lợi như vậy hạ thần nghĩ nên chiếm cho kì được mới xong.
Nam Tấn Vương cùng các Tướng đều cho là phải. Vương truyền ba quân tạm dừng bước ăn cơm, nghỉ ngơi đôi chút rồi đợi quá Ngọ sẽ lại kéo đi.
Vương vừa phán dứt lời, bên ngoài lại có tế tác xin vào trình việc gấp. Thì ra, quân Hoa Lư lại đến khiêu chiến, mang theo cả tên lửa chực bắn vào doanh, hiện giờ Phó tả tướng Đỗ Xuân Dũng đã xuất quân chặn địch, may giặc không kịp bắn tên lửa đốt doanh trại. Nam Tấn Vương cùng các Tướng nghe trình cả kinh, lập tức Vương ra lệnh Tả tướng hồi doanh đem quân đuổi giặc. Lại truyền tướng Tổng quản điểm năm trăm quân gấp rút men theo sông cạn xuống Nam đánh vòng sau lưng giặc, Trung quân thì truyền tướng tiên phong Cao Đình Bảo thúc quân thẳng xuống phía Nam, nhắm ngã ba Vũ Lâm tiến phát.
Quân lên đường rầm rộ, nắng cuối Hạ xế chiều trong loãng như mật ong pha nước. Binh vừa cất bước, tế tác chạy về bẩm báo: “Binh của tướng Tổng quản gặp giặc, đôi bên giao chiến hăng lắm”. Tế tác vừa ra, lại có quan hộc tốc vào trình: “Giặc đánh úp hậu quân của Tả dực, suýt nữa thì hại đến tính mạng của Phó tả tướng”.
Được tin, Vương truyền Trung Quân dựa mé sông tiến yểm trợ cho đạo quân của Tổng quản, tách rời hẳn đạo tiên phong của Cao Đình Bảo. Đường ven sông lau lách, cây cằn cỗi khó đi, quân phải chém bụi đốn gai mới có lối mà bước, thật hết sức vất vả.
Trời xế chiều, nắng còn thoi thóp, chợt phía trước lại có giặc dàn trận đón quân của tướng tiên phong Cao Đình Bảo chỉ còn cách cửa núi Đa Giá chẳng tới mười dặm đường. Vừa được tin, Cao Đình Bảo lập tức truyền dừng quân, dàn thành trận thế giăng dài một giải từ mé sông đến gần chân núi. Suốt từ sáng đến giờ, giặc liên miên quấy phá, binh Triều không lúc nào được yên tay, tướng tiên phong Cao Đình Bảo giận đến sôi máu, điên lên được. Nay giặc lại tới, Đình Bảo quyết dàn trận giết giặc một phen cho hả giận. Trận vừa dàn xong, đã thấy Phạm Cự Lượng xua quân ào tới.
Phạm Cự Lượng nghênh ngang, làm như chẳng biết đại quân của triều đình vây hãm khắp nơi, cất cao giọng hò hét rằng:
- Bớ tướng gà chết của triều đình, hãy mau mang mạng nộp ra đây!
Cao Đình Bảo mấy phen kịch chiến với Cự Lượng bất phân thắng bại, vẫn lấy làm ức ở trong lòng, lần này quyết phải đọ tài đua sức với Lượng một phen cho đến khi nào hắc bạch phân minh mới chịu. Thế là, Cao Đình Bảo truyền nổi trống mở cửa doanh, đem quân ra cự địch.
Vừa thấy Phạm Cự Lượng, Cao Đình Bảo liền mắng:
- Thằng giặc khốn kiếp kia, sao mi ám ảnh ta mãi thế, phen này ta quyết bắt giết mi cho kỳ được mới chịu hồi doanh đấy!
Phạm Cự Lượng cả cười, truyền quân mở rộng phạm vi, phòng bị mọi mặt, ngựa xông lên, thanh đoản đao chiếu thẳng yết hầu tướng Cao Đình Bảo đâm tới. Thế là hai tướng lại giao đấu kịch liệt, quân reo dậy đất, trống trận thúc thùm thùm. Càng đánh, hai tướng càng hăng, cả đôi bên đều thầm phục tài nhau. Cao Đình Bảo thì quyết đấu để hạ tướng giặc, làm sao để khỏi mang tiếng là tướng tiên phong của triều đình lại không hơn được một tên tướng giặc ở chốn rừng rú man rợ. Phía Phạm Cự Lượng, thì lại nghĩ: phải cố làm sao khích cho tướng tiên phong này quá giận mất khôn, theo đuổi mình riết thì mới bị sa vào bẫy được.
Thế là, mỗi bên một chủ ý, cả hai đều dốc hết tài ra để giao đấu, lừa nhau từng miếng. Trời bắt đầu sẩm tối quan đốt đuốc sáng rực, hai tướng quấn lấy nhau mà đâm chém mê man.
Nam Tấn Vương trong doanh truyền các tướng hộ giá vượt trung quân lên tiền quân, để ngài giám trận. Trong quân cứ từ từ tiến, riêng nhà vua thì đi trước. Lúc Vương tới mặt trận, cũng là lúc quân hai bên đốt đuốc sáng rực, Vương dừng ngựa cùng các tướng xem trận đấu, trong lòng không khỏi phục tài hai tướng.
Xem một hồi, Vương quay lại khẽ dặn vào tai quan Ngự Tiền Trung Quân Nam Chinh Đặng Ngọc Hợp mấy câu, Hợp lĩnh mệnh khẽ lui ngựa đi liền.
Khoảng tàn tuần trà, từ mé tả có tiếng quân reo ầm ầm, một tướng phóng ngựa đi đầu, tay vung tít thanh trường kiếm xông vào. Thì ra, Vương đứng xem trận, thấy Cao Đình Bảo khó hơn được tướng Hoa Lư, liền mật truyền Đặng Ngọc Hợp đi tắt đường ra mé sông, truyền Phó tả tướng Đỗ Xuân Dũng mang quân về bất thần đánh vào phía bên phải địch; lại truyền cho tướng Tổng quản cũng phải gấp đưa quân xuống Nam chặn đường rút lui của giặc. Đây là lúc Phó tả tướng vừa kéo binh tới.
Phó tả tướng Đỗ Xuân Dũng xuất thân hàng võ quan, nếu chỉ để làm quan trong triều thì được việc lắm, còn như xông pha trận mạc nhất định không phải là tướng giỏi có tài khuất phục giang hồ được. Vì vậy, vừa nhập trận, là Phó tả tướng Đỗ Xuân Dũng đã huơ gươm, cứ bộ vị phương thế của một võ quan mà ra gươm. Cao Đình Bảo đánh chưa lại Phạm Cự Lượng, nay được thêm tướng nữa giúp sức đáng lẽ ra phải mừng mới phải, nhưng vì Phó tả tướng chỉ quen với lối võ cử nghiệp hóa ra làm bận thêm cho Cao Đình Bảo, có lúc Bảo còn phải hộ cho cả Dũng nữa. Cự Lượng biết thế, cứ nhè Đỗ Xuân Dũng mà tấn công, làm cho Cao Đình Bảo than thầm trong bụng.
Đánh một hồi nữa, Nam Tấn Vương nhận rõ tình thế, liền quay lại truyền tướng Ngự Tiền Trung Quân Nam Chinh mau ra hợp chiến giúp hai tướng bắt tướng giặc. Đặng Ngọc Hợp từ lúc mang mật lệnh đi cho hai tướng trở về lại đứng sau Nam Tấn Vương xem trận, trong lòng lấy làm bứt rứt không yên, vì thấy hai tướng đánh mãi vẫn chưa hơn được Cự Lượng, nay được lệnh Vượng truyền, liền “dạ” lớn một tiếng, tuốt thanh Bích Nguyệt Kiếm vọt ngựa xông ra, hết sức áp đảo phía sườn bên trái Cự Lượng. Phạm Cự Lượng giật cương cho ngựa lùi lại mấy bước rồi cười ngất mà rằng:
- Lại thêm anh thái giám nữa ra múa rối, hay lắm! Bớ Nam Tấn Vương, sao không cùng ra trận một lượt cho vui nào!
Cao Đình Bảo cả giận, thúc ngựa vọt lên, thanh gươm chiếu thẳng vào ngực Cự Lượng đâm tới. Cự Lượng kéo cương, giật ngựa sang bên trái tránh mũi gươm, thì vừa vặn thanh Bích Nguyệt Kiếm trong tay Đặng Ngọc Hợp chém xả xuống. Cự Lượng cả kinh, kéo cương hồi mã, tránh thoát đường gươm thật hung hiểm. Lập tức, ba tướng xông lên, quấn chặt lấy Cự Lượng vào giữa đâm chém túi bụi.
Phen này thì Cự Lượng khó bề cầm cự được lâu, chứ đừng nói là còn mong thủ thắng được gì nữa. Cao Đình Bảo với Đặng Ngọc Hợp liền tay áp đảo Cự Lượng, lại thêm Phó tả tướng Đỗ Xuân Dũng tuy không tài giỏi nhưng cũng biết thừa cơ hội nhiều phen đâm chém làm cho Cự Lượng càng thêm bối rối.
Đứng bên ngoài, Vương thấy tình thế như vậy, liền phất cờ ra lệnh cho quân cùng ùa vào đâm chém, quyết bắt giết cho kì được tướng giặc Phạm Cự Lượng. Binh Triều reo vang, ào ào xông tới thật hung hãn.
Phạm Cự Lượng thấy thế nguy, lại múa đoản đao đánh thục mạng, đâm chém chẳng kể gì phương thức, bộ vị, khiến cho ba tướng nhất thời cũng chưa thể làm gì được Lượng. Thừa cơ, Cự Lượng giật cương quay ngựa hô quân đánh mở vòng vây mà chạy. Lập tức, ba tướng ùa theo, quyết không để cho Cự Lượng chạy thoát. Nam Tấn Vương tự tay thúc trống, giục các tướng phen này địch thì khó lòng thoát chết, trong bụng kinh hãi quá chừng thành ra nổi hung, gầm lên một tiếng thật lớn, thanh đoản đao chém xả xuống vai Cao Đình Bảo, Bảo giật cương vọt ngựa né tránh, thì thanh đao lại phạt vào sườn bên trái Đặng Ngọc Hợp, Hợp thúc ngựa băng lên tránh thì thanh đao lại chém vào mông ngựa, con ngựa đau quá thét lên một tiếng, chổm lên suýt hất Hợp xuống, rồi nó phóng bước chạy như điên cuồng. Cự Lượng được đà, hoa thanh đoản đao nhằm giữa mặt Đỗ Xuân Dũng lấy hết sức bình sinh chém xuống, Xuân Dùng kinh hồn, kéo vội cương ngựa lui đến mấy bước. Vừa lúc ấy, thanh gươm trong tay Cao Đình Bảo đã hạ xuống chỉ còn cách đầu Cự Lượng khoảng vài gang tay, Cự Lượng rạp mình xuống cổ ngựa, hất ngược thanh đao gạt lưỡi gươm ra, rồi không ham đánh lâu quay ngựa ra sức đánh mở vòng vây mà chạy.
Tướng tiên phong Cao Đình Bảo liền hô quân bám riết, ùn ùn đuổi theo bọn Cự Lượng. Quân của Hoa Lư, vốn toàn những tay bạt mạng, theo Động chúa nổi lên hùng cứ một nơi, hào khí ngất trời, có coi cái chết vào đâu, nên trong cơn nguy cũng không sờn lòng, tất thảy đều xung trận đâm chém cực hăng, theo chủ tướng cướp đường chạy. Còn binh Triều quen ở chốn kinh đô nhàn nhã, tinh thần trì trệ vì vợ con gia đình nay phải lên đường Nam chinh xa xôi, lại thấy giặc mạnh đang lúc cùng đường chém giết như lũ điên, thì chẳng ai dại gì lăn vào hứng cái chết. Ấy cũng vì thế, bọn Cự Lượng mới thoát chạy được ra ngoài, kéo nhau nhằm hướng Nam chạy miết, phía sau binh Triều hò hét đuổi theo lấy lệ.
Cự Lượng chạy chưa khỏi một tầm tên, vụt lại thấy phía mé sông một tướng thúc quân ra, nhìn kĩ thì ra là Nguyễn Bặc kéo quân tới tiếp cứu, Cự Lượng cả mừng, liền dừng ngựa đợi binh Triều đến giao chiến nữa.
Binh Triều vừa chạy tới, Nguyễn Bặc cũng vừa thúc ngựa vọt vào, Bặc mặc cho ngựa xong bừa vào đám binh Triều, tay Bặc múa thanh giáo sắt như con mãng xà quẫy lộn, quét ngang, quật dọc, lúc đâm lúc bổ, cực kỳ hung dữ, đánh binh Triều giạt ra, tiếng kêu khóc theo với vó ngựa Nguyễn Bặc mà nổi lên, Nguyễn Bặc đi đến đâu là phải có máu đổ như mưa đến đó. Cự Lượng cũng múa đao tung hoành, thẳng tay chém giết.
Cao Đình Bảo thấy tình cảnh như vậy, liền hô quân vây bọc vào giữa, rồi thúc ngựa băng lên ứng chiến. Thanh gươm trong tay Cao Đình Bảo uốn lượn cực kì uyển chuyển, lúc công kích Cự Lượng, lúc sát phạt Nguyễn Bặc hết sức rát, khiến cho hai tướng cũng không làm sao tiến lên được. Vừa lúc ấy, ngự tiền trung quân nam chinh Đặng Ngọc Hợp đã đổi được ngựa, quay lại cùng với tướng tiên phong cự địch. Thanh Bích Nguyệt kiếm trong tay Đặng Ngọc Hợp cũng lợi hại vô cùng, bao nhiêu tinh hoa vũ học hai tướng đem ra hết để đương cự với hai tướng Hoa Lư. Trận đánh thật long trời lở đất, quân Triều vây bên ngoài reo hò vang cả một vùng, đèn đuốc sáng rực cả một khu. Nam Tấn Vương tay thúc trống trận liên hồi, mắt nhìn bốn tướng quần thảo nhau say mê, Vương lại truyền cho Phó tả tướng Đỗ Xuân Dũng, trung quân tướng Đặng Văn Thông, xuất trận trợ chiến. Hai tướng được lệnh thúc ngựa xông ra, vây hai tướng Nguyễn Bặc, Phạm Cự Lượng vào giữa, chia nhau đâm chém túi bụi.
Nguyễn Bặc giận điên lên, thanh giáo sắt vừa dài vừa nặng quả là món khí giới lợi hại, Nguyễn Bặc quát to lên một tiếng, vươn ngọn giáo sắt tận lực quét tròn một vòng, đánh bật bốn tướng triều đình ra, thừa cơ, Phạm Cự Lượng vọt ngựa lên đâm chém không nương tay.
Tướng triều đình cũng giận không kém, ra sức múa gươm, thúc quân quyết bắt giết cho kì được bọn giặc này! Bọn Phạm Cự Lượng, Nguyễn Bặc vừa đánh vừa lui dần, cuối cùng thì chuyển sang cố phá vòng vây để tháo chạy. Lúc ấy, trận đánh cũng đã quá lâu, các tướng đều mệt mỏi, lại thêm hai bên cùng thiệt hại, nên không bên nào ham chiến nữa.
Nhờ thế, hai tướng Hoa Lư Phạm Cự Lượng và Nguyễn Bặc mới thoát được vòng vây, đem quân chạy miết về phía Nam.
Lúc ấy, trời đã tối mịt. Binh Triều suốt cả ngày đuổi địch, nay đã mệt mỏi lắm rồi. Tướng tiên phong Cao Đình Bảo truyền quân tạm hạ trại nghỉ ngơi, lại cắt đặt các mặt hết sức gìn giữ để phòng dịch đến tấn công lén chăng. Cao Đình Bảo vào trung quân bẩm lên Nam Tấn Vương việc suốt ngày giao chiến, nay đã đuổi giặc đến gần cửa núi Đa Giá, tức là còn cách Vũ Lâm khoảng vài ba dặm đường nữa, vậy xin cho quân tạm nghỉ ăn uống, rồi ngay trong đêm nay tiến chiếm Vũ Lâm chẹn cổ họng xuất binh của giặc, Nam Tấn Vương nghe tấu rất đẹp lòng truyền cho các lộ quân tạm nghỉ ngơi.
Lệnh vừa truyền xong, sực nghe tiếng reo ngựa hí ầm ầm, quân từ ngoài hỏa tốc vào bẩm:
- Kiêu kỵ tướng Trần Bích Ngọc mang quân tựa vào núi yểm trợ cho đạo tiền quân, vừa bị giặc Hoa Lư đánh dồn trở lại. Tướng kiêu kỵ hiện đã mang binh về đến sát doanh. Giặc lại đem quân đến khiêu chiến ngay bên ngoài doanh tiền quân, la hét nói những lời hỗn láo!
Nam Tấn Vương cả giận, truyền tướng tiên phong Cao Đình Bảo phải ra trận ngay, đuổi cho kì được đám giặc này!
Cao Đình Bảo liền về doanh, điểm quân ra cự địch. Ra đến ngoài, Đình Bảo vẫn chỉ thấy tướng Phạm Cự Lượng nghênh ngang khiêu chiến, thì giận lắm. Nhưng Cao Đình Bảo không phải là tướng kém cỏi gì, suốt ngày lâm trận chỉ thấy trước sau vẫn có một tướng địch, lấy làm nghi ngờ lắm. Lại thấy giặc tuy đánh hăng, chém giết cũng dữ nhưng dường như có ý dử cho quân mình vào nơi nguy hiểm thì phải. Nghĩ thì nghĩ thế, nhưng thật ra Cao Đình Bảo cũng chẳng biết chỗ nào là nơi nguy hiểm, từ đây đến ngã ba Vũ Lâm đường trống trải không có núi lớn chắn đường, cũng lại chẳng có rừng hoang rậm rạp ngăn cản, chỉ có bờ cỏ cao ngang ngực thì nhất định không thể là nơi giặc ẩn phục để đánh lén được. Nghĩ thế liền thúc ngựa xông lên quát:
- Bớ thằng giặc kia, sao suốt từ sáng đến giờ chỉ có mình mi ra trận là làm sao? Có phải bọn giặc chúng bay toan tính lừa binh Triều vào phục địa đấy không?
Quát xong, Đình Bảo cười ngất: Phạm Cự Lượng nghe Đình Bảo quát như vậy thì rụng rời tay chân, suýt nữa thì buông rơi thanh đao, Cự Lượng kinh hãi tưởng Cao Đình Bảo đã biết âm mưu của mình là dụ địch, trong lòng sợ quá. Nhưng lập tức, nhờ trong cơn cấp bách có thần linh mặc khải, Phạm Cự Lượng cố nén vùng cười lớn mà rằng:
- Bớ bọn binh Triều ăn hại kia, suốt ngày đánh một mình ta mà còn chẳng nổi, lại còn muốn đọ sức với chúng anh hùng Hoa Lư hay sao, sao không biết thẹn mặt! Cứ bao giờ đánh thắng được ta, sẽ có tướng khác bồi chiến ngay!
Nói rồi, Phạm Cự Lượng thúc ngựa xông lên, tận lực tấn công Cao Đình Bảo. Bảo cũng giận lắm, huy động thanh gươm cự địch. Hai tướng đánh vùi một hồi, chợt thấy từ phía mé sông, một đạo quân của Hoa Lư lại xông tới đánh vào tả dực của quân Cao Đình Bảo. Thì ra, lại Nguyễn Bặc đem quân tập kích. Vừa lúc ấy Nam Tấn Vương xuất doanh giám trận, ngài vừa thấy quân Hoa Lư tập kích liền phất cờ truyền Phó tả tướng Đỗ Xuân Dũng ra trận cự địch.
Đỗ Xuân Dũng chưa phải là thượng tướng, tài nghệ không thể hơn được Nguyễn Bặc nên vừa vào trận đã bị Nguyễn Bặc áp đảo tơi bời. Dũng chỉ còn có nước đón đỡ chứ không thể mở thế công được. Nam Tấn Vương thấy vậy lại truyền cho Kiêu kỵ tướng Trần Bích Ngọc ra hợp sức với Đỗ Xuân Dũng đánh Nguyễn Bặc. Năm tướng quần thảo nhau, quân reo dậy đất, đuốc sáng một vùng. Phía Cao Đình Bảo đánh với Phạm Cự Lượng ngang tài đồng sức, không ai hơn ai một thế, thua ai một bước. Phía Nguyễn Bặc, hai tướng triều đình vây đánh, nhưng Nguyễn Bặc vẫn chưa bị lúng túng, ngọn giáo sắt vẫn tung hoành ác liệt lắm. Nam Tấn Vương giám trận, trong lòng chẳng khỏi thầm khen tướng Hoa Lư.
Nguyễn Bặc vừa giao chiến vừa nghĩ: “Cự Lượng lĩnh mệnh dụ dịch đến cửa Đa Giá, nay chỉ còn vài bước đường nữa là địch sa vào bẫy, sắp thi hành diệu kế của Lê Quân được!”. Nghĩ rồi, lợi dụng sức mạnh của ngọn giáo, quét tròn một vòng đẩy lui hai tướng triều đình, rồi xông lên vươn ngọn giáo sắt quật như núi ập xuống đầu Kiêu kỵ tướng Trần Bích Ngọc. Ngọc cả kinh giật ngựa mà tránh, ngọn giáo bổ xuống đất nghe “chát” một tiếng chói tai. Nguyễn Bặc lại hùng hổ thúc ngựa xông lên, quay cây giáo đâm thẳng vào giữa ngực Đỗ Xuân Dũng. Dũng còn đang kinh hãi vì ngọn giáo quá mạnh của Nguyễn Bặc lúc quật xuống đầu Trần Bích Ngọc, khi thấy ngọn giáo chiếu thẳng vào ngực mình phóng tới thì thất kinh, vội kéo dây cương cho ngựa tránh né. Nhưng ngọn giáo của Nguyễn Bặc đã đâm trúng vai Đỗ Xuân Dũng, may nhờ Dũng mặc giáp sắt nên chỉ nghe “xoảng” một tiếng, Dũng ngã nhào xuống ngựa không bị ngọn giáo đâm xuyên qua vai, Tướng triều đình mặc giáp sắt, cưỡi ngựa giao chiến thì không sao, đến lúc bị ngã xuống giáp sắt lại vướng víu khiến khó xoay sở.
Kiêu kỵ tướng vừa thấy Phó tả tướng trúng giáo ngã ngựa, cả kinh giục ngựa xông lên, vươn lưỡi búa bổ thẳng vào mặt Nguyễn Bặc để cứu Dũng, Nguyễn Bặc không tránh, hai tay cầm ngang cây giáo hất ngược lên đánh bật cây búa của Kiêu kỵ tướng lại, thừa đà vọt lên đâm thẳng ngọn giáo xuống ngực Dũng còn đang lúng túng chưa ngồi dậy được. Dũng mười phần chắc chết cả mười, hồn vía lên mây không còn biết xoay trở ra sao, vội nghiêng mình tránh, ngọn giáo phóng xuống cực mạnh, sạt sườn phía trái Dũng, tuy không đâm thủng da thịt Dũng nhưng lại xuyên thủng giáp sắt. Nguyễn Bặc kéo mạnh để thu hồi ngọn giáo, thì mũi giáo vướng chặt vào phía bên kia giáp sắt, khiến Bặc không thu được ngọn giáo về.
Vừa lúc ấy, Kiêu kỵ tướng xốc tới vung luỡi đại phủ chém xuống ngang lưng Nguyễn Bặc. Nguyễn Bặc vướng tay vì ngọn giáo, không có khí giới chống đỡ, bèn nằm rạp trên lưng ngựa mà tránh. Con ngựa chạy vòng tròn, hai tay Bặc nắm chặt cán giáo sắt, khiến cho Dũng ở dưới đất cũng bị kéo theo. Nguyễn Bặc thấy thế, liền quát to lên một tiếng lôi Dũng lên lưng ngựa rồi cặp cả Dũng lẫn ngọn giáo vào nách bên phải, tay trái cầm cương điều khiển ngựa bỏ chạy. Kiêu kỵ tướng thấy vậy, cũng vội thúc ngựa xông lên chặn lối. Nguyễn Bặc hô to:
- Cự Lượng chạy đi thôi, ta bắt được tướng giặc rồi!
Cự Lượng giao chiến dữ dội với Đình Bảo, nhưng vẫn để ý đến tình hình chung quanh, thấy Nguyễn Bặc cả thắng trong lòng mừng lắm, lại nghe thấy Bặc hô như vậy, không ham đánh nữa liền mở đường tháo chạy.
Cự Lượng khua đoản đao mở đường, đi đến đâu đánh giạt quân Triều ra đến đó, theo sau là Nguyễn Bặc tay không khí giới, nách bên phải kẹp chặt Đỗ Xuân Dũng, tay trái cầm cương điều khiển ngựa.
Bọn Cao Đình Bảo, Trần Bích Ngọc hết sức thúc ngựa xông lên, cố chặn đường Nguyễn Bặc để cứu Đỗ Xuân Dũng, Nguyễn Bặc không có khí giới, cứ giục ngựa chạy né tránh, để cho Phạm Cự Lượng một mình chống đỡ với hai tướng triều đình. Quân Hoa Lư ùa theo chủ, cũng xông xáo dữ lắm, cả bọn nhắn phía Nam mà chạy. Nam Tấn Vương thấy tình hình như vậy, cũng thúc trống trận xua đại quân gấp rút theo giặc. Bạn Phạm Cự Lượng, Nguyễn Bặc vì quen địa thế, tản mác lẫn vào bờ bụi lau lách mà chạy, nên chẳng mấy chốc đã bỏ xa binh Triều.
Bấy giờ, là vào khoảng cuối giờ Hợi, binh triều đã vào đến cửa Đa Giá. Từ trên cao, Lê Thảo thấy rõ mồn một mọi sự, trong lòng mừng lắm, liền bảo đám quân: “Ta đợi xem hội trăm đèn rồi ra cửa sông xem đua thuyền đêm nay!”.
Lê Thảo vừa nói dứt lời, lửa phựt cháy dữ dội, suốt một vùng cửa núi Đa Giá ra sát bờ sông, xuống đến tận ngã ba Vũ Lâm, lửa cháy rực trời, hãm đạo tiền quân của triều đình vào trong biển lửa. Ở phía Bắc, đại quân của Nam Tấn Vương cũng vừa ào đến, thành lửa ngăn lại không tiến được. Lập tức, ngay sát sau đại quân của Nam Tấn Vương, binh Hoa Lư khắp ngả ào ra, mạnh như thác đổ, đánh thúc vào hậu quân binh Triều, thế mạnh như chẻ trúc đập ngói.
Nhắc lại, Phạm Cự Lượng và Nguyễn Bặc chạy vào cửa Đa Giá, cả hai khấp khởi mừng thầm, biết là địch đã vào bẫy. Cả hai thúc ngựa chạy miết xuống phía Nam ra khỏi vòng vây, đợi Phạm Hạp nổi lửa. Quả nhiên tướng Phạm Hạp đã đợi lâu, núp trên sườn núi thấy từ xa hai tướng Phạm Cự Lượng, Nguyễn Bặc đem trá bại quân gấp rút chạy về, trong lòng hồi hộp lắm. Lại thấy phía sau hai tướng, binh triều đốt đuốc rượt theo hối hả, trong lòng chẳng khỏi mừng thầm. Phạm Hạp đợi cho binh triều lọt vào giữa vòng vây, mới phóng phát tên lửa đầu tiên ra hiệu, lập tức quân nổi lửa, phút chốc biến cả một vùng cửa Đa Giá thành biển lửa, vây hãm binh triều vào giữa.
Hỏa liệu đổ đã nhiều, lại thêm cỏ khô mọc cao ngang bụng người, bờ bụi rậm rì, nay gặp hỏa hoạn thì bén cháy mau lắm. Ngọn lửa bốc cao ngất, rít rào rào, hun đốt binh triều không có đường chạy. Trong biển lửa, tình cảnh binh triều thật lúng túng, hết sức bi đát. Tướng tiên phong Cao Đình Bảo mới đầu còn hô quân tìm đường rút lui, nay thấy khắp nơi thành lửa ngất trời, trong lòng kinh hãi quá cũng thúc ngựa lo tìm đường thoát thân. Theo sau Bảo, là Kiêu kỵ tướng Trần Bích Ngọc lại càng bi đát hơn nữa. Con ngựa của Ngọc cưỡi không phải là chiến mã hạng cự phách, rong ruổi đã lâu mệt lắm rồi, nay ngã gục trong biển lửa. Ngọc đành phải bỏ ngựa chạy bộ tìm đường thoát thân. Binh Triều trước còn kinh hoảng la hét, sau đâm ra khóc lóc vang trời, ùn ùn đổ xô nhau, xéo lên nhau cướp đường chạy ra mé sống là nơi không có lửa cháy. Đám loạn quân mạnh ai nấy chạy, xéo lên nhau chết rất nhiều, trong số ấy, thảm thương thay, có cả Kiêu kỵ tướng quân Trần Bích Ngọc bị loạn quân xéo, chiến bào vướng víu làm cho Ngọc khó bề xoay trở, chẳng mấy chốc thì thành đống thịt nát sau lại bị lửa đốt cháy ra than.
Hai tướng Phạm Cự Lượng, Nguyễn Bặc chạy được một hồi, thấy lửa bốc cháy, liền cả mừng hô quân dừng ngựa. Nguyễn Bặc ném tướng Đỗ Xuân Dũng xuống đất, hô quân mau trói y lại. Quân xô đến đè lên Dũng, lúc ấy mới biết là Đỗ Xuân Dũng đã chết. Thì ra, Nguyễn Bặc kẹp Dũng, ngọn giáo vẫn vướng trong chiến bào của Dùng làm cho Dũng bị thanh giáo sắt đè ngang ngực nghẹt thở, thêm Bặc kẹp chặt quá vô tình làm cho Phó tả tưởng Đỗ Xuân Dũng bị nghẹt thở mà chết. Nguyễn Bặc thấy thế tần ngần giây lâu, không ngờ một tướng triều đình lại bị chết vì tay mình bóp chết như thế Đến khi thấy Phạm Cự Lượng hô quân quay lại đón đợi binh triều chạy ra thì chém giết. Nguyễn Bặc mới sai quân xúm lại rút ngọn giáo ra khỏi chiến bào của tướng triều đình, rồi đem xác Đỗ Xuân Dũng đặt nằm ngay ngắn, sau mới kéo nhau tiến ra phía bờ sông.
Từ trên núi cao, Lê Thảo cũng thấy rát mặt vì lửa cháy, cùng với dám quân xem hồi lâu, đoạn truyền cả bọn xuống núi, đi vòng ra bờ sông xem xét tình hình.
—ooOoo—