← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Ba Mươi Quân sư định kế lên phương Bắc
Thầy chùa khua mõ trước doanh vua

Lúc ấy, đêm đã khuya lắm rồi, xa xa trong thôn xóm vài ba tiếng gà gáy sang canh nghe buồn bã.

Trong nghị sảnh chỉ có động chúa với quân sư Lê Thảo. Động chúa vẻ băn khoăn, Lê Thảo hỏi:

- Bây giờ Nam Tấn Vương lại sắp xuất quân, ý Động chúa thế nào?

Đinh Bộ Lĩnh ngập ngừng giây lát rồi đáp:

- Thật ra cũng chưa biết định thế nào. Theo ý ta, thì việc đã không xoay chuyển thế này, nhưng vì có ông mà quân Hoa Lư ta lại thắng binh Triều mấy lần, mấy lần gặp nguy mà lại được bình an, thành ra ta còn đợi ông định đoạt đây!

Lê Thảo trịnh trọng:

- Binh triều thua ta một trận lửa, một trận nước, đương cự với quân ta suốt ba ngày trời, đấy là chưa kể đến các trận đánh nhau với quân của tướng Phạm Cự Lượng liền mấy ngày, lại thêm quân lương bị tướng Đoàn Phúc Hải đốt sạch cả, như vậy thì cái thế của binh Triều bây giờ là phải bỏ chạy mới đúng chứ tại sao lại dám tiến quân như vậy!

Động chúa đáp:

- Binh Triều tuy thiệt nhiều lắm, nhưng sức tất chưa kiệt hẳn, binh Triều muốn gấp rút đánh ta để cướp lại lợi thế ban đầu đây.

- Động chúa cho là binh Triều sẽ đánh ta như thế nào?

- Một nửa binh Triều án bên này sông, một nửa Nam Tấn Vương đích thân đưa sang bên kia sông lăm le đánh Hoa Lư ta, tế tác vừa cho hay binh Triều đang rục rịch sắp đổ xuống Nam đánh Vũ Lâm. Như thế, đại quân của Nam Tấn Vương quả nhiên sắp lại làm đúng lời ông định trước đây.

Lê Thảo tủm tỉm cười:

- Bẩm Động chúa, tôi không tin là binh Triều lại làm như lời tôi có nói. Tôi không tin là binh Triều sẽ đánh Vũ Lâm...!

Động chúa kinh ngạc, đăm đăm nhìn Lê Thảo không nói gì có ý lạ lùng lắm. Lê Thảo hiểu ý Động chúa muốn được nghe ý kiến, nên thủng thẳng đáp:

- Đành rằng ngọn lửa Đa Giá, dòng nước Sinh Khuyết đốt cháy dìm chết được một ít quân Triều, nhưng cái tiếng vó ngựa binh Hoa Lư từ phương Bắc ập tới lưng mới làm cho Nam Tấn Vương khiếp hãi. Nam Tấn Vương không phải là người u tối quá, tất tỉnh ngộ ngay rằng: đốc đại quân xuống Đa Giá, mà lại bỏ quên mất phía bắc vì tin rằng ta không có quân, mới làm cho Nam Tấn Vương đại bại. Vậy lần này, trước khi xuất quân, nhất định Nam Tấn Vương sẽ tranh thủ với ta ở mạn Bắc chứ không phải ở mạn Nam nữa. Vì thế, tôi mới khuyên Động chúa chỉ để lại Vũ Lâm có một nghìn quân, hai tướng, còn đại quân thì bí mật sang sông vòng lên phương Bắc, nói là để “cầm chân quân của tướng Nguyễn Lạc Bình, khiến quân của Nam Tấn Vương không dám bỏ xa hậu cứ mà xông xáo”, nhưng kỳ thực tôi có ý đợi quân của Tấn Vương ở phương Bắc đấy!

Động chúa bỗng ngửa mặt cười ngất, chuỗi cười thật lâu vừa sảng khoái vừa hào khí, dứt chuỗi cười Động chúa nghiêm giọng:

- Quân sư Lê Thảo, tôi thật không thể nào theo kịp ông được! Ông bảo tôi đem quân sang sông lên phía Bắc là để cầm chân quân triều đình, hóa ra là để đón địch mà đánh, té ra ông lừa cả tôi!

Động chúa lại cười ngất, Lê Thảo cũng cười theo, rồi nói rằng:

- Lừa Động chúa thì tôi chẳng dám, duy có điều việc quân phải thật mà hóa giả, giả mà hóa thật, có thế mới lợi: Nam Tấn Vương đem quân sang sông, rục rịch đánh ta ở mạn Nam, nhưng lại cho tướng Phạm Hoàng Sơn lĩnh thêm ba tướng, vượt sông ẩn phục ở các trọng điểm phía Bắc Hoa Lư, thì chẳng phải là Nam Tấn Vương muốn giả vờ “đấm Nam để đá Bắc” là gì!

Nói xong, Lê Thảo lại cả cười rồi tiếp:

- Hào kiệt của Hoa Lư ta chưa kịp xuất động tranh hùng với thiên hạ, binh lớn đã từ bên ngoài ập đến, toan tính làm cỏ ta, giận này không trả một phen sao cho nguôi được! Chỉ tiếc một điều, Động chúa cai quản cả một vùng núi non hiểm trở, địa thế như chốn rồng uốn khúc cọp đuổi mồi, lại thêm phía Đông được cả vùng Bố Hải của Sứ quân Trần Lãm giao cho, chẳng lo liệu định trước, để nhất thời bị mất hiểm địa rồi chống đỡ loanh quanh thế này!

Nói xong, Lê Thảo thở dài, Động chúa Đinh Bộ Lĩnh cúi đầu không nói gì, tuy thế mặt cũng lộ vẻ băn khoăn chờ đợi Lê Thảo bàn tiếp. Giây lát, Thảo mới nói:

- Bẩm Động chúa, quân ta chưa đủ mạnh để đương cự mãi với triều đình, đánh lâu cả hai cọp cùng bị sứt mẻ. Ta tuy có lợi hơn binh Triều là đi lại ngay trên đất nhà, nhưng cửa ngõ ta không thể tự nhiên ra vào được, lại chưa đủ sức lâu dài, thành ra phải nhận cái thế “bằng với” binh Triều. Nay tôi nghĩ...

Lê Thảo mới nói tới đây, Động chúa cựa mình ngồi thẳng dậy, chú tâm đợi nghe những lời sắp sửa làm “lệch sơn hà, chuyển cả thế đôi bên”.

Động chúa cựa mình ngồi ngay ngắn lại, làm cho Lê Thảo cũng phải ngừng lời, rồi mới tiếp:

- Binh ta vào trận, kể từ lúc tướng quân Phạm Cự Lượng ra trận đầu, đến bây giờ kéo cả sang sông. Tuy thắng nhiều nhưng thiệt hại không phải là không có. Nếu cứ đối mặt đánh nhau mãi, thì ta dù cuối cùng có đuổi được Nam Tấn Vương về, cũng bị sứt mẻ không ít, khiến hao mòn sức lực. Vả chăng, sau trận đương cự với triều đình, tất thanh thế ta lẫy lừng, cả thiên hạ đều nghe biết. Ta không thể nào che đậy được cái lúc hao yếu của ta, để khoe khoang là mạnh mẽ. Đã thế, ta phải tính đến ngày ra khỏi Hoa Lư, tung hoành gồm thâu thiên hạ, như thế ta không thể yếu được, ta cũng không thể dùng cái “thanh thế cũ để lòe bịp thiên hạ”, ta phải có sức mạnh thật, ta phải có thế thật. Muốn vậy ta cần giữ lực hôm nay, mà phải làm sao “không đánh cũng đuổi được binh triều”, có thế uy danh ta mới càng lớn, sức mạnh ta mới không sứt mẻ hao mòn...

Động chúa chăm chú nghe, cặp mày nhíu lại ra chiều suy tính lung lắm, rồi hỏi lại:

- Làm thế nào để không đánh mà binh Triều phải chạy dài? Làm thế nào để không bị hao binh tổn tướng? Khó thật!

Lê Thảo đáp:

- Bẩm, khó thì có khó, nhưng không phải là chịu bó tay...

- Thế Quân sư đã có kế gì chưa?

- Bẩm, kể cũng đã có rồi, nhưng phải đợi ít ngày chứ chưa thể ngay trong lúc này thi hành được.

Động chúa tươi nét mặt:

- Quân sư định kế thế nào?

- Bẩm, trước ta mất thế làm chủ, binh Triều thay ta: sau ta đổi được ngôi, làm cho binh Triều phải tự vào chỗ chết. Nay, ta lại dùng cái thế “chủ dàn người để đón khách”, lại theo “cung cách khách đến mà tiếp đón”, thì mới đuổi được binh Triều chạy dài đấy!

Động chúa Đinh Bộ Lĩnh bồn chồn nóng ruột:

- Quân sư cho tôi được nghe rõ: “chủ dàn người để đón khách” ra sao, lại theo “cung cách khách đến mà tiếp đón” là thế nào?

Lê Thảo đáp:

- Khách đến, chủ nhà ra đón tiếp, nay khách vào hẳn nhà ta rồi, thì ta cứ theo các cửa mà ngó vào, thế là khách trong mà ta ngoài, khách cử động ra sao ta biết hết. Lại theo “cung cách khách đến mà tiếp đón”, tức là “khách” nhàn ta nhàn, khách hòa ta hòa, khách chực hành động bất lương mờ ám, sao thoát khỏi mắt ta dòm ngó, ta biết chỗ nào yếu của khách mà đón đánh, thì chỉ cần một thanh củi cũng hạ được tướng cướp khỏe mạnh”. Ta chia nhau với khách cái thế như vậy, thử hỏi khách có còn dám rục rịch giở trò gì nữa không?

Đinh Bộ Lĩnh tuy nghe vậy, nhưng vẫn còn nhiều thắc mắc, nghi ngờ, lại hỏi:

- Đã đành kế ấy là hay, nhưng ta thực hiện như thế nào?

- Đây là điều khó, đấy là điều tôi có nói lúc nãy là: chưa thể ngay bây giờ mà làm được, phải đợi ít ngày nữa dàn xếp xong xuôi cả mới được...

Quân sư nói xong, vẻ suy nghĩ lung lắm, giây lâu mới nói thêm:

- Nếu nay ta ra quân gấp rút, thì tức là chịu giao tranh với binh Triều. Nhưng ta nhất định gìn giữ sức lực, không xuất trận nữa vậy phải dùng đến mưu kế mới xong. Tuy thế, ta vẫn phải dàn quân, làm cho binh Triều tưởng rằng ta sẽ đánh lớn, hoặc để cho binh Triều thấy cái sức mạnh ghê gớm của ta. Đây là phép “nghi binh”, lấy hư làm thực, lấy thực làm hư. Dù thế mưu lừa của ta cũng chỉ được ít ngày, đợi lâu không thấy ta khai trận tất Nam Tấn Vương biết là ta không có thực lực, lúc ấy binh Triều khai trận ta còn lẩn tránh thì tất bị bại lộ mưu kế. Vậy nay, tôi xin Động chúa cứ đưa đại quân lên ngã ba Lai Xá, tựa vào sông, nhờ vào núi coi cả khu phía Bắc. Động chúa rải binh từ núi Cô Nghĩa, qua Lai Xá, về đến tận Ngọc Lũ, sát sông Lớn. Như thế, đại binh của ta vây kín binh Triều không xa mà cũng không gần, lại liên lạc được với các trọng điểm của Hoa Lư. Động chúa nay còn được tất cả hơn bốn nghìn quân, thì đã mất một nghìn cho hai tướng đóng ở Vũ Lân, vài trăm trấn ở các yếu địa Bắc Hoa Lư, như thế chỉ còn chưa được ba nghìn đóng cả một giải dài hơn bốn chục dặm, nhưng không phải là ta giăng quân, mà chỉ cần đóng ở ba trọng điểm Cô Nghĩa, Lai Xá, Ngọc Lũ làm thế phòng ngự, dọa binh Triều, đợi tôi xem quân ở Đằng Châu về sẽ có kế hay đuổi Nan Tấn Vương chạy dài...

Động chúa kinh ngạc vô cùng hỏi vội:

- Quân sư bảo đem quân ở Đằng Châu về là thế nào?

Quân sự cười mà rằng:

- Đằng Châu là đất hùng cứ của Sứ quân Phạm Bạch Hổ, Đằng Châu đất tốt, địa thế tốt, nhưng chủ nó lại không phải là người đủ tài sức để góp mặt với anh hùng trong thiên hạ. Nay tôi xin lên Đằng Châu, thuyết phục Sứ quân Phạm Bạch Hổ chịu cho vài nghìn quân đi giúp Hoa Lư ta. Vài nghìn quân ấy, chẳng qua cũng là hư thanh để dọa Nam Tấn Vương thôi, tôi có kế để đuổi binh Triều nhưng phải nhờ một chút đến Đằng Châu, sau ta sẽ thu phục Đằng Châu. Lúc tôi đi rồi, Động chúa nên hết sức thận trọng, cố kìm cái nóng của các tướng lại, không cho xuất trận, phải làm sao để trì hoãn đợi tôi ở Đằng Châu về. Tôi tin chắc là Nam Tấn Vương sẽ không xuống đánh Vũ Lâm đâu, đến khi biết đại quân ta đã lên cả phía Bắc thì thế nào hậu quân Phạm Hoàng Sơn cũng hợp với quân bên này sông của Nguyễn Lạc Bình quật ngược lại trở thành tiền quần hai mặt áp bức ta, đại doanh lại đổi thành doanh của Nam Tấn Vương ở hậu cứ trước Hoa Lư ta. Động chúa nên chú ý đến các trọng địa sông núi, lấy cái thế “mờ mịt” của núi rừng mà kìm giữ vùng đất bằng. Lại phải cho lệnh hai tướng trấn ở Vũ Lâm phải đem quân giấu kĩ, không cho binh Triều biết ta yếu thế cũng không được động binh khiến Nam Tấn Vương nghi ngờ, phải để cho Nam Tấn Vương huy động nốt đại quân trở về bên này sông chống đỡ với ta, lúc ấy binh Vũ Lâm mới được lệnh theo sát phía sau mà chờ lệnh khác. Như thế, ta tuy yếu thế, mà khắp cả bốn mặt đều vây hãm được binh Triều. Tới lúc ấy, tôi chỉ xử thêm một mẹo nhỏ nữa là Nam Tấn Vương phải khẩn khoản xin cho được rộng đường mà chạy dài đấy...

Động chúa Đinh Bộ Lĩnh nghe Quân sư định kế, dàn xếp mọi việc, trong lòng chẳng khỏi vừa sợ vừa mừng. Động chúa bàn bạc với Quân sư thêm:

- Thế Quân sư đi Đằng Châu, đi thuyết phục Sứ quân Phạm Phòng Át ra sao? Lê Thảo nheo nheo mắt rồi đáp:

- Bẩm, Sứ quân Phạm Phòng Át là kẻ nhu nhược, không có tài, dưới trướng cũng có được ít tướng, nhưng không biết cái nguy của y là ở sát phương Bắc, y có Sứ quân Ngô Xương Xí dòng dõi quân vương ngày đêm dồn lương tích thảo, luyện tập sĩ tốt, lập căn cứ cực lớn để tung hoành mai sau. Bây giờ tôi lên Đằng Châu, sẽ vạch mắt cho Phạm Phòng Át biết cái thế chết không kịp nhắm mắt của y, lại nói là: “Động chúa Hoa Lư cầu được hòa thuận với y, hứa sẽ cứu y mai sau, còn bây giờ thì muốn cho y được dự phần danh dự trong việc đuổi binh Triều”. Tôi cũng sẽ kể cho y nghe các kì công của Hoa Lư ta để cho y thấy sức ta mạnh lắm.

Động chúa nghe quân sư định kế, gật gù không ngớt ra chiều thích thú lắm. Cuối cùng, Lê Thảo dặn:

- Ngay sáng hôm nay, tôi đi Đằng Châu, đường đi cũng phải đến chiều mai mới tới được. Tôi sẽ ở lại Đằng Châu một ngày, sang đến ngày thứ ba, tức là đúng ngày trăng tròn, Động chúa cứ y theo kế tôi ghi sẵn mà làm nhé!

Vừa nói, Quân sư vừa thò tay vào bọc lấy ra một gói vải, trịnh trọng trao cho Động chúa. Quân sư hai ba lần nhắc Động chúa đừng quên việc gì rồi nói:

- Động chúa đừng để cho các tướng xuất trận, phải cố thủ, nhưng đừng làm cho binh Triều nghi ta không dám chiến, phải cố làm cho binh Triều cho là ta còn dàn quân để giết cho hết địch.

Động chúa hỏi lại:

- Thế quân sư đi Đằng Châu, cần những gì?

- Tôi xin đem theo tướng Đinh Điền với vài giáp sĩ là được rồi. Nhưng xin Động chúa cho tôi mang theo bộ áo giáp của tướng triều đình độ nọ bị tướng của ta bắt được, để làm quà tặng Phạm Phòng Át, nhân thể dọa cho y khiếp vía một phen!

Động chúa cà cười, hỉ hả lắm.

Thế là ngay sáng hôm ấy, trời còn chưa rõ hẳn thì Quân sư Lê Thảo đã cùng với Kim Côn Tướng Đinh Điền đem mười hai giáp sĩ, tải lễ vật và bộ áo giáp của tướng Đỗ Xuân Dũng bị tướng Nguyễn Bặc bắt trong trận Phạm Cự Lượng dữ binh Triều vào cửa núi Đa Giá, gấp rút vượt đường nhằm hướng Đông Bắc tiến phát.

Lê Thảo đi chưa được nửa ngày trời, tế tác về báo: quân triều đình đã nhổ trại. Lập tức, Động chúa hội chúng tướng, nghe trình về các việc, đoạn xuống lệnh đại quân đi đường Cát Đằng, tới Phùng Xá, rồi ngược lên phía Bắc. Quân đi như nước chảy mây trôi, quân kỉ thật nghiêm, dọc đường chẳng tơ hào đến một con gà nhỏ, một cái bát, manh chiếu của dân chúng. Binh Hoa Lư kéo đi, tới đâu dân chúng cũng ra đón rước tiễn đưa, lại nài nỉ xin được kể cho nghe về trận Đa Giá, thảy đều lấy làm thích thú lắm.

Đấy lại kể việc tại doanh Nam Tấn Vương đóng trước Hoa Lư. Quân vừa yên trại, Nam Tấn Vương đã truyền chúng tướng tới nghe lệnh. Vào hội, Vương phán:

- Nay ta đem quân viễn chinh, chưa phá được giặc đã bị thiệt vài tướng, chết hơn nghìn quân. Thua chưa hẳn là thua, được cũng chưa lấy gì làm chắc. Nay binh ta đóng trước cửa ngõ của giặc, giặc lại chạy cả xuống phía Nam lần nữa, Các tướng có ý kiến ra sao?

Lập tức, Đại tướng Lê Hoạt Hoàng đứng lên tâu:

- Tâu Chúa thượng, vào trận thần thấy Hoa Lư có tướng giỏi, nhưng binh ít. Như thế, lực của Hoa Lư không có, đánh lâu tất phải tan. Chỉ tiếc một điều là quân lương của ta thiếu thốn, nếu không, ta thừa sức bắt giặc phải đến lạy quỳ xin hàng. Nay giặc lại xuống Nam, ta có thể đưa quân hai mặt: bên này sông và bên kia sông, cùng ép giặc vào giữa mà đánh thì tất thắng. Sau lưng ta, lần này đã có tướng Phạm Hoàng Sơn phòng bị, không phải lo lắng nữa. Thần xin được lĩnh mệnh cầm tiền quân đi tiễu giặc, trả thù cho các tướng mạng vong!

Hội nghị im phăng phắc, hồi lâu Vương mới phán:

- Thật ra, trẫm được tin là giặc có đưa quân lên mạn Bắc, phương Nam giặc không có quân, hay có thì cũng ít lắm chứ không phải là đưa cả về đấy. Nay trẫm sang sông chẳng qua là muốn nhân kế cũ của giặc mà giết giặc...

Các tướng nghe Vương phán, thảy đều lạ lùng, ngơ ngác, không ai hiểu ra sao cả, Vương mỉm cười mà rằng:

- Giặc có người mưu trí định kế giúp sức, cho nên ta thắng mà hóa bại, giặc đang lại phải chạy về đến tận Hoa Lư, sau bỏ cả mà chạy trốn lên phương Bắc, ta mắc mưu nó dồn quân xuống Nam, khiến bị thiệt. Xong trận, giặc không về Hoa Lư, rõ ràng là biết thế yếu của chúng, nhưng lén đem quân lên phía Bắc chực sẵn, rõ ràng là muốn nương vào hiểm địa để đương cự lại ta. Giặc lại khôn ngoan đóng một ít quân ở mạn Nam, ra vẻ chúng nó dồn hết quân về đấy cốt ý lừa ta lần nữa. Nhưng, ta đã biết trước, cho nên mới để tướng Nguyễn Lạc Bình trấn thủ bên kia sông, lại sai tướng Phạm Hoàng Sơn mang quân vượt sông trấn các hiểm địa Bắc Hoa Lư; đại quân ta tới đây cốt để cho quân của hai tướng Nguyễn - Phạm dễ bề che mắt giặc mà điều động. Bây giờ, trẫm cử một tướng mang ít quân chậm chậm xuống Nam, không cốt đánh giặc, nhưng cốt khoa trương thanh thế để giặc tưởng ta đưa đại quân xuống, còn mặt Bắc, ta dốc lực vây giặc mà giết. Giặc tới, sẽ vào lưới của hai tướng Nguyễn Phạm, lại thêm đại quân do trẫm cầm sẽ tiếp ứng cho hai đạo quân ấy cùng phá giặc. Phen này, thế nào giặc cũng phải tan, phải ra quân gấp mới được!

Các tướng nghe Vương phán, không ai là không xuýt xoa phục Vương là thánh nhân mưu trí hơn người. Vương lại phán tiếp:

- Đành rằng quân ta sẽ đánh mạn Bắc, nhưng cần biết rõ giặc núp ở những chỗ nào, tế tác của ta đưa tin về nhiều nhưng chưa được chắc cho lắm, phải đợi đến chiều tối hôm nay mới biết rõ được.

Phán xong, Vương cử tướng Nguyễn Phí Hồng cầm năm trăm quân xuống Nam hư trương thanh thế, lại truyền Hồng phải thận trọng không cốt đánh nhau với giặc, mà cốt dềnh dang để giặc tưởng là quân đông lắm. Đợi khi quân của Vương đã hợp được với hai đạo quân của Nguyễn Lạc Bình, Phạm Hoàng Sơn, thì lập tức phải vượt sông mà về Bắc, án ở phía sau đại quân của Vương làm thế phòng bị.

Nguyễn Phí Hồng nhận lệnh, điểm quân gióng trống phất cờ, từ từ đưa quân xuống phía Nam, nhằm hướng Vũ Lâm tiến phát.

Đợi cho quân của Hồng đi rồi, Nam Tấn Vương truyền lệnh cho Đại tướng Lê Hoạt Hoàng, bảo hãy lặng lẽ vượt sông trở về hợp với quân của tướng Nguyễn Lạc Bình dàn trận sửa soạn lên đường. Bên này sông, Vương cầm đạo quân một nghìn rưỡi binh trao cờ tiền quân cho tướng Ngự tiền Trung Quân Đặng Ngọc Hợp hộ tống xa giá tiến lên phía Bắc hợp với quân của tướng Phạm Hoàng Sơn.

Binh Triều vừa sắp đặt xong xuôi, quân vừa phát lệnh mở cửa doanh sắp tiến ra, đã có quân vào bẩm trước doanh: “Ngoài doanh, có ông thầy chùa gõ chiếc mõ thật lớn, xin vào lạy trước xa giá để dâng tin cơ mật”.

Vương nghe trình tâu, lấy làm lạ. Lập tức truyền tướng Phạm Văn Tuyên ra đón nhà chùa vào.

Tuyên chưa kịp đứng dậy, dã nghe tiếng mõ nện chói tai, lại thấy tiếng quân canh xôn xao hò hét. Vương đứng dậy bước ra, thấy một nhà sư vóc dáng cao lớn dềnh dàng, mình bận cà sa bạc phếch, nhà sư cổ đeo chuỗi hạt lớn bằng nắm tay, tay trái cầm dùi mõ lớn như chiếc chày, tay phải cầm chiếc mõ lớn dễ thường bằng chân voi nan. Mỗi tiếng chày giáng xuống cái mõ khổng lồ ấy, phát ra tiếng “chát” nghe chói tai. Quân chạy theo níu kéo nhà sư lại, xúm nhau vào giằng co thế mà vẫn không làm sao giữ được nhà sư lại!

Nam Tấn Vương lấy làm kì lắm, truyền quân dừng tay, mời nhà sư vào nghị sảnh. Nhà sư thản nhiên bước lên, chẳng làm lễ ra mắt đấng quân vương, tay tiếp tục nện mõ bước vào đại sảnh.

Chưa biết nhà sư lạ này đến doanh Nam Tấn Vương làm gì, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—