← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Ba Mươi Mốt Thiền sư phá kế Quân sư
Phúc Hải tin về Ngọc Lũ

Tướng Phạm Văn Tuyên thấy vậy liền đứng chắn ngay trước mặt nhà sư, nhà sư cao hơn hẳn Tuyên một cái đầu. Nhà sự đổi mõ sang tay trái tay phải cầm chiếc chày giáng xuống thật mạnh, tiếng mõ phát ra nghe như có dùi nhọn đục vào tai, đâm vào tim phổi, Tuyên là tướng từng xông pha trận mạc, tai quen nghe tiếng hò reo, tim óc từng quen với xúc động chém giết, thế mà hồi mõ của nhà sư làm cho Tuyên chịu không nổi, thân hình lảo đảo cơ hồ muốn gục xuống. Phạm Văn Tuyên kinh hãi, vội ngưng thần tụ khí, lấy hết sức lực quát lớn lên:

- Dị tăng! Không biết chỗ này là đâu chăng?

Nhà sư chẳng nói chẳng rằng, quăng mõ vứt chày, vươn hai tay nhấc chuỗi hạt ở cổ ra rung lên một hồi, chuỗi hạt va vào nhau bật lên tiếng kêu bốp bốp nghe đến chát chúa. Rung một hồi, nhà sư dừng tay, lần từng hạt bồ đề lớn ngoại khổ, cất giọng ồm ồm mà rằng:

- Nam mô bản sư, lạy Phật chí tôn, người tu hành muốn quên chuyện cũ, nhưng lửa nung nấu trong lòng còn chưa tắt hẳn! Ắt đây cũng là cơ duyên để cho đệ tử được rửa sạch hận cũ! Nam mô bản sư Chí Tôn Mâu Ni Phật!

Nam Tấn Vương thấy cử chỉ nhà sư lạ, lại nghe nói những điều nghe ra chẳng phải là bậc chân tu đắc đạo, trong lòng lấy làm nghi hoặc lắm, liền đưa mắt ra hiệu, quan Ngự tiền Trung Quân Đặng Ngọc Hợp hiểu ý liền bước ra vòng tay vái nhà sư mà rằng:

- Cao tăng từ đâu lại, chắc hẳn có điều hay chỉ vẽ cho chúa thượng. Xin mời Cao tăng hãy ngồi xuống đã.

Nhà sư bước tới, thản nhiên ngồi xuống ghế, Nam Tấn Vương truyền các tướng cùng ngồi xuống, đợi xem nhà sư muốn gì.

Nhà sư đặt chuỗi bồ đề khổng lồ xuống đùi, ngẩng đầu lên hướng về phía Nam Tấn Vương mà rằng:

- Tân Chúa thượng, nhà chùa quê kệch không hiểu lễ triều đình xin Chúa thượng tha thứ…

Rồi không để Nam Tấn Vương kịp nói gì, nhà sư tiếp luôn, giọng như lệnh vỡ:

- Thế đang thắng, tại sao Chúa thượng lại ngập ngừng đợi cho giặc cao chạy xa bay cả rồi mới tiến binh hay sao? Thời vừa đến tại sao lại trì hoãn đợi cho giặc kịp xoay sở chống đỡ rồi mới ra tay hay sao?

Trên từ Nam Tấn Vương, xuống đến các hàng tướng, ai cũng lấy làm ngạc nhiên lắm lắm về lời nhà sư. Mọi người chăm chú nhìn nhà sư lạ. Nhà sư tuổi trên dưới năm mươi, mặt dài mắt xếch, hai tai đầy mà nhỏ, mũi dài đầu mũi nhìn rõ là tướng tiểu nhân ưa những chuyện ân oán, vóc dáng nhà sư thật lớn, ngồi giữa các tướng trông như pho tượng. Nam Tấn Vương nghe nhà sư nói thế liền hỏi:

- Cao tăng trụ trì ở đâu, pháp danh là gì? Có điều gì muốn chỉ vẽ cho trẫm xin cứ nói rõ ra.

Nhà sư khẽ cúi đầu tỏ ý ra lễ, rồi tiếp:

- Hạ tăng ẩn thân ở núi Màng Luông suốt ba mươi hai năm trời nay, lòng cố quên hận cù, dốc tâm tu luyện Phật pháp, nhận Phật danh là Tịch Mịch thiền sư. Ba mươi hai năm về trước, là kình địch của chúa giặc Đinh Bộ Lĩnh, lớn lên cùng tranh hùng nhưng thua trí Đinh Bộ Lĩnh thân lưu lạc thêm toàn gia tru lục, hận ấy nhiều phen muốn rửa mà không được, liền ra biên giới lên núi cao quyết dứt lụy trần. Chợt đêm Khuyết Hạ, vào giữa giờ Sửu, thấy sao Chủy, sao Tỉnh vượt Ngũ Lăng, phạm phần dã Thuộc ứng vào nạn binh đao giáng xuống Hoa Lư. Lại thấy sao Dực, sao Quỷ mờ mờ muốn tắt, ứng vào điềm Hoa Lư tất tàn vong. Hạ tăng lại gieo quẻ Thái Ất, biết được ngày tàn của Bộ Lĩnh tới rồi, lòng chẳng khỏi bồi hồi suy nghĩ hận xưa bị thằng chăn trâu động Hoa Lư đánh bại, giết cả nhà, thù chất cao như núi, hận lớn tựa biển Đông, nhiều phen vẫy vùng mong rửa nhục, trả thù mà không xong. Hạ tăng những tưởng: một am vắng trên đỉnh núi Màng Luông, quanh năm chẳng có bóng người, bạn cùng với chim rừng núi đá, nghiền ngẫm Phật pháp ắt dập tắt được lửa lòng, biến được sôi nổi thành băng giá. Nào ngờ ung nhọt cũ lâu lâu lại đau nhói, hờn thù xưa không tài nào tiêu sạch được. Nay nhìn thấy thời, xét thấy thế, biết binh Triều Nam chinh phạt Hoa Lư, biết mệnh Bộ Lĩnh sắp hết, trí thù lại bùng dậy ngày đêm cố nén mà không được, đành rời am xuống vùng trần tục. Hạ tăng đến đây, chỉ xin được chúa thượng cho góp sức, may ra đích tay rửa được thù cũ thì lúc trở lại am vắng mới thanh thản trong lòng được!

Giọng nói của Tịch Mịch thiền sư nghe như tiếng tù và thổi lên trong hốc đèo chiều tịch mịch, nghe hiu hắt, buồn thê thảm trong cái giọng ồm ồm rộng vô biên, Nam Tấn Vương cũng như các tướng, hiểu rằng mối thù của nhà sư này với Bộ Lĩnh lớn quá, lòng đã quyết quên cả mấy chục năm dài cũng không sao quên được, nay nhìn thiên văn vấn quẻ Thái Ất nhận rõ thời thế mới xuống núi tìm đến trước doanh, vậy đây tất là kẻ có tài, dị tăng ắt giúp được nhiều việc.

Nghĩ vậy, Vương liền hỏi:

- Cao tăng từ xa lại, trẫm rất mừng. Chẳng hay cao tăng vừa nói về thiên văn, xem quẻ Thái Ất thì vận số của Bộ Lĩnh sắp hết thật rồi chăng?

Nhà sư đáp:

- Nếu thiên văn không hiện rõ, nếu Thái Ất chẳng linh, thì chẳng bao giờ hạ tăng lại xuống núi, thà mai một với cây rừng đá núi còn hơn khơi lại lửa hận xưa làm gì?

Vương lại hỏi:

- Vậy Cao tăng thấy cái thế của giặc Bộ Lĩnh ngày nay ra sao?

Tịch Mịch thiền sư nhấc chuỗi bồ đề ngoại khổ đeo vào cổ, hai mắt nhìn thẳng ra đằng trước, long lanh như hai vì sao, rồi đáp:

- Hạ tăng xuống núi cũng đã lâu, chu du khắp vùng nghe ngóng tin tức. Hạ tăng nghe có tay hùng tài thao lược mới từ phương Bắc xuống giúp Bộ Lĩnh, vì thế Bộ Lĩnh mới cầm cự được với binh của chúa thượng như vậy. Phải chi binh Triều Nam phạt sớm ít nữa, thì giặc Hoa Lư đã bị làm cỏ sạch cả rồi. Nay hạ tăng được biết: sau trận Đa Giá, Hoa Lư tự biết sức yếu, không dám cự với binh Triều, đã kéo lên cả mạn Bắc, mong nương vào thế núi non hiểm trở để cầm cự đấy.

Nam Tấn Vương nghe Tịch Mịch nói vậy, thì rất tin vì đúng sự thực là thế, Vương lại hỏi:

- Như Cao tăng thấy, thì hiện giờ giặc Hoa Lư ẩn nấp ở những chỗ nào?

Tịch Mịch thiền sư khoan thai:

- Một vùng phía Bắc, núi nhiều, hiểm địa nhiều vô kể, nhưng không cần phải chiếm lấy hết các hiểm địa ấy, không cần mỗi nơi phải có quân trấn giữ, mà chỉ cần đặt quân vài nơi liên lạc được với nhau mau lẹ, là đã có được cái thế “dây dài chẳng dứt, lớp lớp gắn bó với nhau” đấy.

- Cao tăng thấy giặc đóng ở đâu?

- Giặc Hoa Lư đem quân về cố thủ ba nơi: Cô Nghĩa, Lai Xá, Ngọc Lũ, tức là đã tạo được cái thế “tay vòng tay giăng dài chẳng hết”. Kẻ mưu lược tài trí giúp Đinh Bộ Lĩnh quả thật là kẻ đáng sợ lắm. Quân Hoa Lư lui về ba nơi ấy, nếu đủ sức thì chắc chắn binh Triều sẽ không làm gì được. Nhưng, nếu Hoa Lư mạnh, thì nhất định là đã xuất trận ngay rồi chứ không phải là đóng cửa thành, rút cao cầu mà tìm thế tạm yên như vậy. Hạ tầng chắc Hoa Lư còn đang tìm cách để cứu lấy cái sức yếu giữa chốn lợi địa ấy đấy.

Nam Tấn Vương hỏi thêm:

- Như thế, Cao tăng bảo ta nên làm gì?

- Chúa thượng phải gấp rút ra quân, không để cho giặc Hoa Lư có thì giờ bồi đắp chủ yếu cho thành khỏe. Trước hết, chúa thượng phải cho quân chặn đường liên lạc giữa Cô Nghĩa, Lai Xá, với Ngọc Lũ, như thế sẽ giữ được hai phần ba binh Hoa Lư ở Lai Xá, Cô Nghĩa, chỉ còn lại mặt Ngọc Lũ. Tiêu diệt vong Ngọc Lũ cô lập Lai Xá và Cô Nghĩa tức là đẩy giặc đến chỗ kiệt lượng tận sức, phải tan rã mà không cần phải ra sức tranh hùng gì nữa.

Nam Tấn Vương hỏi vặn:

- Thế nhỡ Hoa Lư kéo binh từ phía Nam lên giải vây, đánh lén sau lưng ta thì sao?

- Hoa Lư không có binh ở Nam, còn nếu chuyển quân từ Cô Nghĩa vòng xuống Nam để ngược lên Bắc mà đánh lén ta, thì con đường dài như thế làm sao binh Hoa Lư kịp cứu Ngọc Lũ? Sau khi phá Ngọc Lũ, chúa thượng xua quân sang sông phá Lai Xá, thì đạo quân Cô Nghĩa vòng phương Nam còn có đáng gọi là đạo quân muốn đánh úp ta được nữa không?

Nam Tấn Vương nghe Tịch Mịch thiền sư bày tỏ thế trận, trong lòng hết sức vui mừng, vì ý Vương cũng quyết là đưa bịnh về Bắc, chặn đánh Hoa Lư nhưng chưa biết phải ra quân ở những nơi nào, nay được Tịch Mịch chỉ về cho chẳng khác nào người đang mò mẫm trong đêm tối bỗng gặp kẻ vác đuốc đi cùng một đường. Vương đứng dậy vui vẻ phán:

- Trẫm đem quân Nam phạt, ra trận cũng đã nhiều mà chưa phá được giặc Bộ Lĩnh. Nay sau trận Đa Giá trẫm quyết là giặc rút về Bắc cả, vừa sắp phát quân sang sông vây bọc mạn Bắc thì Cao tăng đến chỉ vẽ cho, thật là lòng trời giúp trẫm!

Các tướng nghe Tịch Mịch tâu bày, thật đúng với ý của Vương lúc trước, nhưng lại rất rành mạch tỏ ra hiểu rõ nội tình giặc, thì ai cũng phấn khởi, mừng lắm.

Lập tức Nam Tấn Vương truyền sửa soạn nơi sạch sẽ nhất để Tịch Mịch thiền sư ở, lại truyền tướng tiên phong Lê Hoạt Hoàng sang sông ngay, tiến lên dàn trận để đón binh Hoa Lư ở Ngọc Lũ mà đánh. Nam Tấn Vương truyền Ngự tiền trung quân Đại tướng Phạm Ngọc Hợp lĩnh án tiên phong cầm quân men theo đường sông Sinh Khuyết ngược lên phía Bắc, giăng đại quân chen đứt liên lạc giữa Ngọc Lũ với Lai Xá và Cô Nghĩa. Lệnh truyền xong, Nam Tấn Vương truyền quân dọn yến để ngài thù tiếp Tịch Mịch thiền sư. Từ đấy coi thiền sư như quân sư, mọi việc nhất nhất đều nghe lời khuyên bảo của thiền sư.

Đây lại nói đến đại quân của Động chúa Đinh Bộ Lĩnh theo hướng Bắc lên tới Ngọc Lũ, Động chúa truyền cho hai tướng Lê Hoàn, Nguyễn Bặc lĩnh một nghìn quân hướng về phía Tây, vượt sông đến trấn ở các điểm địa núi Cô Nghĩa, Động chúa dặn hai tướng phải hết sức cẩn thận, phòng thủ cho vững, không được khinh xuất ra trận, cái thế lợi là phục được ở đằng sau binh của tướng triều đình Phạm Hoàng Sơn, hãy đợi lệnh mà giáp chiến. Hai tướng Lê Hoàn, Nguyễn Bặc lĩnh mệnh, cầm quân gấp rút lên đường ngay.

Động chúa lại truyền hai tướng Trịnh Tú và Lưu Cơ đem một nghìn quân vượt sông đến trấn ở Lai Xá, truyền hai tướng phải chuẩn bị sẵn sàng thuyền bè để tiện đi lại, không được khinh xuất ra trận, phải tìm trọng địa đóng quân, địch có đến cũng phải cố tìm cách lánh mặt, nhưng phải luôn luôn giữ lấy các nơi hiểm yếu. Hai tướng lĩnh mệnh đi ngay.

Động chúa thân ở lại Ngọc Lũ cầm quân, sai tướng Chu Kỳ Toàn giữ việc tuần canh. Quân ra sức dựng trại, đến chiều tối thì đã dựa được vào núi mà lập doanh vững vàng. Động chúa lại truyền cho tướng Đoàn Phúc Hải giữ việc liên lạc giữa ba doanh, phải luôn luôn nghe ngóng binh Triều xem động tĩnh ra sao rồi báo ngay cho Động chúa biết. Hải lĩnh mệnh cùng với quân của hai tướng Trịnh Tú, Lưu Cơ kéo về Lai Xá.

Đoàn Phúc Hải là tướng trẻ rất lanh lợi, sau lần say rượu suýt làm lỡ việc quân rồi làm liều hóa lập đại công đốt cháy cả quân lương của binh triều, thì trong lòng rất lấy làm kinh sợ, từ đây không dám nói đến rượu, ngửi thấy mùi rượu là vội bịt mũi bỏ chạy cho xa. Nay được Động chúa giao cho việc nghe tin, liên lạc, thì tự biết là Động chúa tin cẩn, hiểu mình lanh lợi giao cho trọng trách như vậy trong lòng chẳng khỏi xúc động. Hải theo quân của hai tướng đến bờ Sinh Khuyết, thì nói với hai tướng cứ việc lo liệu thuyền bè sang sông, Hải một mình một ngựa vượt dòng sông sang bên kia trước.

Hải đi đến lúc trời chiều bảng lảng sắp tắt nắng, đúng lúc quân của hai tướng lục tục xuống bè để vượt sông, thì hai tướng thấy Hải thúc ngựa ra sức băng sông mà đến, ra vẻ gấp rút lắm. Hai tướng trong lòng nghi hoặc, truyền quân đừng tách bến vội, đợi xem Hải có tin gì lạ không.

Quả nhiên, ngựa Hải vừa tới bờ, Hải đã tung mình xuống ngựa tới trước hai tướng cấp báo rằng:

- Binh Triều chia hai ngả tiến lên phía Bắc, một chẹn Lai Xá, một vượt sông tiến tới Ngọc Lũ, tình hình rất nguy ngập!

Hai tướng kinh hoàng chưa biết nói sao, Đoàn Phúc Hải vừa thở vừa nói tiếp:

- Hai tướng nên gấp rút sang sông, sông không lớn binh ta còn đủ thời giờ để tiến quá lên phía Bắc mà ẩn quân. Tôi chắc là binh Triều không tiến xa đâu, vì binh Triều đúng như lời Quân sư nói: đã đem một đạo quân đến đóng ở Khắc Cân rồi, nay viện quân tất cũng chỉ đến Khắc Cân là hạ trại thôi. Hai tướng cứ sang sông, Lai Xá còn cách xa Khắc Cân mấy chục dặm đường mà.

Hai tướng Trịnh Tú, Lưu Cơ nghe Đoàn Phúc Hải cho biết đầy đủ tin tức, trong lòng cũng tạm yên, lập tức ra lệnh cho quân đẩy thuyền sang sông.

Đoàn Phúc Hải dặn hai tướng báo tin cho Cô Nghĩa rõ, rồi chẳng kịp chào hai tướng, lại vội nhảy lên ngựa nhắm hướng Đông ra roi miết. Trời bắt đầu xế về chiều, Đoàn Phúc Hải ruột nóng như lửa đốt, chỉ mong sao mau mau về tới Ngọc Lũ báo cho Động chúa biết tin, Hải rạp mình trên lưng ngựa cố vượt đường xa quên cả con ngựa đã mệt lắm rồi. Lúc nãy, Hải thúc ngựa băng sông nước mát làm cho ngựa đỡ mệt, lại được nghỉ vó một lúc trong khi Hải nói chuyện với hai tướng Trịnh Tú và Lưu Cơ, còn bây giờ thì bốn vó con chiến mã bình thường này khua chẳng còn mau lẹ nữa, nó thở hổn hển. Lúc ấy, Đoàn Phúc Hải mới giật mình, trong lòng kinh hãi quá. Nhìn ra phía Đông, đường còn xa, Hải bồn chồn trong dạ chỉ sợ về không kịp binh Triều đến hãm Ngọc Lũ trước thì nguy lắm. Càng lo lắng, ngựa càng chậm bước lại, cuối cùng bước một mà đi thất tha thất thểu. Hải đành xuống ngựa cho nó nghỉ ngơi một lát, Hải đi bộ tay cầm cương dắt ngựa đi. Đi một hồi đến vài dặm đường thì trời tối hẳn, ước lượng đường xa cũng còn phải hơn mười dặm nữa, Đoàn Phúc Hải cho là ngựa đã bớt mệt, liền lại lên yên giong cương cho ngựa chạy chậm chậm. Đi thêm một thôi nữa, con ngựa kiệt sức muốn quỵ xuống, Hải kinh hãi xuống ngựa, lần này thì biết không còn cách gì để đi được nữa rồi. Hải tần ngần nhìn con ngựa đang hổn hển thở, rõ ràng là nó vừa mệt quá sức lại bị rong ruổi liên miên không được ăn uống, nay mệt quá rồi nước cũng chẳng thiết uống, cỏ cũng chẳng buồn gặm nữa. Hải trong lòng như có lửa đốt, loanh quanh một hồi chẳng biết tính sao, đành liều bỏ ngựa lại nhắm hướng Đông chạy bộ.

Đêm nay trăng mười ba thật sáng, Hải cứ cắm đầu chạy miết. Suốt ngày hôm nay Đoàn Phúc Hải theo quân mà đi, hoạt động liên miên không dứt, trước nhờ có ngựa cưỡi nên không thấy mệt mấy, Hải vẫn hăm hở băng rừng vạch lá mà chạy, chẳng kể gai góc, rách cả áo quần. Đến khi trăng lên đến đỉnh đầu, dễ thường cũng phải nửa đêm rồi, Đoàn Phúc Hải bước đi thất thểu không vững, mắt hoa, hơi thở phì phò ứa ra cả đằng tai. Hải vừa mệt vừa đói, lại thêm trong lòng lo lắng quá chừng thành ra tinh thần căng thẳng, càng làm cho mệt thêm nữa. Lúc sắp sửa ra khỏi vùng Cổ Viên thì cả hai chiếc giày đi rừng chịu không nổi nữa đứt cả hai, Hải ngồi phệt dưới gốc cây mà thở, tình cảnh thật bi đát. Trên người Hải, không biết bao nhiêu là vết rách, áo quần tơi tả, máu me khắp chỗ; Hải ngồi nghỉ một hồi, lại bứt cỏ nhai lấy chút nước đỡ mệt, rồi lại đứng lên thất thểu bước đi, bên cạnh sườn chiếc gươm chỉ còn có vỏ lủng lẳng đập vào chân, lưỡi gươm chẳng biết rơi mất lúc nào rồi, Hải chưa ra khỏi rừng, chợt thấy có tiếng người ngựa lao xao, vội núp vào bụi rậm đợi nghe ngóng. Giây lát, một đoàn người ngựa vượt qua, Hải giương mắt nhìn: dưới ánh trăng xuyên qua lá rừng, rõ ràng là binh mang hiệu quân triều đình, quân trẩy về phía Bắc ào ào nhưng không đông, thoắt cái đã khuất dạng. Đoàn Phúc Hải đang mệt bã người cũng phải vã mồ hôi kinh hãi quá chừng. Hải không biết quan triều đình đi đâu, nhưng đoàn quân ít như vậy chắc không phải là đi đánh nhau rồi. Hải không kịp nghĩ gì thêm nữa, lại vội vàng cắm đầu chạy quên cả mệt. Bây giờ Hải như có thêm sức mạnh, càng nghĩ đến đoàn quân triều đình vừa trẩy qua lại càng thấy náo nức trong lòng, chân lập tức khua vội cố chạy cho mau.

Độ khoảng sang canh, Đoàn Phúc Hải lại nghe có tiếng vó ngựa rầm rập phía sau lưng, Hải vội tìm chỗ núp nhìn ra, thì hóa ra đoàn quân triều đình lúc nãy trở về, nhắm hướng Nam đổ xuống. Phúc Hải lại vã mồ hôi, binh Triều đi chẳng cách Ngọc Lũ bao xa!

Thế là, bao nhiêu sức lực còn lại trong người Hải như vụt bùng lên, Hải cắm đầu chạy miết, mảnh vải áo cuối cùng cũng tuột nốt, Hải cũng chẳng hay cứ chạy miết.

Trăng nghiêng bóng, Đoàn Phúc Hải về đến doanh Hoa Lư. Quân trên vọng lâu thấy người lạ thất thểu đi tới thì quát hỏi, Hải chẳng dừng bước cứ lảo đảo đi tới. Quân canh liền bắn xuống rào rào, Hải chẳng kịp la lên thì đã bị trúng một phát tên vào vai trái. Đến lúc này Hải như người đã chết hẳn rồi, liền từ từ đổ xuống. Quân liền báo cho tướng trấn doanh Chu Kỷ Toàn rõ. Toàn truyền quân mau mau mở cửa doanh đem kẻ lạ vào xét hỏi.

Giây lát, quân khiêng Hải vào, Hải vẫn mê man mà quân thì chẳng nhìn ra Hải.

Tướng Chu Kỷ Toàn bước tới, sai quân đốt đuốc để nhìn cho rõ. Hải nằm thoi thóp thở, hai mắt nhắm nghiền khắp mình đầy những vết cắt của cành gai hoặc sứt sẹo vì đá đâm, máu me khô cứng khắp cả, trên vai trái mũi tên còn cắm ngập. Chu Kỷ Toàn chăm chú nhìn Hải, rồi bật kêu lên:

- Đoàn Phúc Hải! Hải dây mà! Sao thế này?

Toàn lập tức truyền quân cấp báo ngay cho động chúa biết, một mặt vội vực Hải dậy, lấy nước lau rửa cho Hải, lại lấy quần áo khác mặc vào rồi đem đặt nằm ngay ngắn trên giường. Động chúa vừa được tin, đã vội chạy tới chưa kịp mặc lại áo. Các tướng cũng lục tục theo sau. Vừa vào đến nơi, Động chúa đã gạt mọi người ra mà lấn tới. Động chúa gọi vội:

- Hải! Hải!

Đoàn Phúc Hải vẫn nằm im, thoi thóp thở. Chợt Chu Kỷ Toàn bảo:

- Mau đi gọi Thần y! Mau!

Xử Sĩ Quách Nghiệp Đường ứng tiếng đáp lớn một tiếng, rồi co chân chạy đi ngay. Giây lát Thần y mình khoác áo rộng, tay xách túi thuốc bước vào, Thần y rõ mọi người đến bên cạnh Hải, bắt mạch rồi nói rằng:

- Không sao! Không sao! Sức kiệt vì âm dương đều thoát cả, nhưng nội tạng không bị thương. Ta cho một liều thuốc là tỉnh ngay!

Nói rồi, Thần y mở đẫy lấy ra bảy viên thuốc lớn bằng bảy hạt ngô, bảo quân hâm rượu cho nóng thả thuốc vào, thuốc tan ra bay mùi cỏ thơm ngào ngạt. Thần y truyền cạy miệng Đoàn Phúc Hải ra đổ thuốc vào. Quả nhiên, giây lát Hải cựa mình rên rỉ. Động chúa cả mừng nắm tay Hải mà lay, Hải mở mắt ra nhìn ngơ ngác. Thêm một lát nữa, thì Hải tỉnh hẳn, mỗi người hỏi một câu Hải chẳng biết đằng nào mà trả lời. Trên vai trái, mũi tên vẫn cắm ngập.

Thần y liền sẵn sàng lá thuốc, rồi bảo Chu Kỷ Toàn mạnh tay rút bật mũi tên ra. Mũi tên tre đầu có ngạch móc theo cả thịt Hải dính theo, máu ứa ra thâm sì. Hải nhăn mặt có vẻ đau đớn, Thần y lẹ tay dịt thuốc dấu vào, máu cầm lại ngay. Hải nén đau, thuật lại mọi việc, rồi nói rằng:

- Binh Triều đóng ở Mai Cầu, phía Bắc Ý Yên tức là ở xã Ngọc Lũ cách ta khoảng ba chục dặm đường. Vừa mới đây tôi thấy binh Triều kéo qua doanh ta ở phía Tây mà lên Bắc, rồi lại đổ xuống Nam, chắc là dò đường. Bây giờ hai đạo Lai Xá - Cô Nghĩa đều đã được tin cả rồi, xin Động chúa định liệu!

Mọi người nghe Đoàn Phúc Hải kể, ai cũng giật mình kinh hãi, ai cũng thán phục Hải. Hải được Động chúa truyền dọn cơm ngon cho ăn, lại cho nghỉ ngơi, rồi Động chúa truyền các tướng vào nghị sảnh bàn việc ngay.

Động chúa bảo:

- Lúc Quân sư đi Đằng Châu, có dặn dò ta mọi việc, bảo ta đừng động binh cứ cố thủ ba nơi Ngọc Lũ, Lai Xá, Cô Nghĩa. Không thấy Quân sư nói gì đến việc binh Triều tiến đánh ta như thế này. Ta không tin là Quân sư tính sai, chắc phải có gì lạ lắm đây!

Các tướng mỗi người một lời chẳng biết định liệu ra sao, bàn bạc mãi đến tảng sáng cũng chưa quyết. Hội nghị còn đang bí thế, thì Đoàn Phúc Hải đã bước vào. Thần sắc Hải bây giờ xem ra đã hồi phục như trước, duy có cánh tay trái thì còn buộc vết thương chưa lành hẳn. Động chúa hỏi Hải:

- Khi ngươi được tin các cánh quân Cổ Loa tiến lên mạn Bắc, có được tin gì thêm về hành động của binh Triều không?

Hải đáp:

- Theo chỗ tôi được thấy, thì binh Triều chắc muốn cắt liên lạc của Ngọc Lũ với Lai Xá. Lại thêm đoàn quân hư trương thanh thế của Triều đình ở phía Nam, lúc đầu ra vẻ xuống Vũ Lâm, nay cũng đã vượt sông theo binh Triều về cả Mai Cầu rồi. Tôi chắc chỉ nay mai là binh Triều đến khiêu chiến đấy.

Phúc Hải báo trình, càng làm cho các tướng chẳng biết định liệu ra sao. Giây lâu Động chúa bảo:

- Quân sư dặn ta cố thủ, địa thế Ngọc Lũ không lấy gì làm vững cho lắm, chỉ trông nhờ vào Lai Xá tiếp ứng, nay Lai Xá bị cắt đứt, thì Ngọc Lũ ta khó giữ được lâu. Lúc Quân sư lên đường, có đưa cho ta túi vải, dặn đến ngày trăng tròn hãy mở ra, ngày mai trăng tròn, không biết trong túi nói gì. Bây giờ, ai lo phận sự người nấy, phải canh phòng nghiêm ngặt, binh Triều đến cũng không ra, các hiểm địa trọng yếu đã có quân ta mai phục cả, nhưng cốt kín tiếng đợi kế lớn cùng hành động một lúc.

Các tướng vâng lệnh, Động chúa nói thêm:

- Tình hình đổi khác, phải chi có Quân sư lúc này!

Đoàn Phúc Hải đứng bật dậy mà rằng:

- Tiểu tướng lại xin đi Đông Bắc gặp Quân Sư trình mọi việc, để Quân sư kịp ổn định tình thế xem sao?

Động chúa cảm động:

- Ngươi vừa trải qua chín phần chết một phần sống, nay chưa khỏe hẳn thì đi sao được!

Hải khẳng khái đáp:

- Thuốc của Thần y hay lắm, nay tôi thấy khỏe hẳn rồi, chỉ có tay trái còn ngượng chưa được như cũ. Lần này ra đi tôi xin đem theo lương thức ăn đường, chắc không đến nỗi chết đói như vừa rồi.

Động chúa chưa kịp nói sao, tướng Chu Kỷ Toàn đã cướp lời mà rằng:

- Ở đây còn có các tướng, thêm tướng Phạm Cự Lượng cũng đã gần bình phục, một tay Động chúa điều động là yên rồi. Vậy tôi xin thay cho Đoàn Phúc Hải để đi gặp Quân sư!

Đoàn Phúc Hải cãi:

- Tướng quân giữ trọng trách trấn thủ Ngọc Lũ, làm sao lại bỏ mà đi được, thảng hoặc binh Triều tới thì mệnh lệnh tướng trấn thủ ai phát lạc được? Việc đi gặp Quân sư chẳng khó khăn gì, tôi bất tài đi là phải, tướng tài phải ở lại đây để đương cự với địch chứ!

Động chúa đành để cho Hải ra đi lần nữa, lại dặn dò Hải đủ điều ra chiều thương quý lắm. Lúc Hải ra đi, các tướng tiễn đưa không thiếu một ai, ai cũng quyến luyến. Hải xốc lại gươm, giật cương cho ngựa thả vó, lúc ấy trời chưa sáng hẳn.

Chưa biết việc ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—