← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Ba Mươi Hai Hồi Chúc Tiên Nương thử tài sứ
Vượt sông dài Lê Thảo tới Đằng Châu

Đây lại kể việc Lê Thảo đem theo Kim Côn Tướng Đinh Điền cùng mười hai giáp sĩ ngay sáng tinh mơ hôm ấy nhắm hướng Đông Bắc mà đi. Cả bọn rong ruổi đến xế trưa thì đụng sông Xích Đằng.

Xích Đằng thuộc địa phận Đằng Châu, sông sâu nước lớn rất khó qua, nếu không có thuyền thì không làm cách nào vượt sông được. Nhiều khi mùa nước lớn, dù có thuyền cũng ít ai dám mạo hiểm. Hồi Lê Thảo vào địa phận Đằng Châu, tế tác đã báo lần về các trạm dịch, Sứ quân Phạm Phòng Át đã biết tin rồi.

Sứ quân Phạm Phòng Át tên gọi là Phạm Bạch Hổ, là phú hào nhân lúc loạn li đứng lên xưng hùng xưng bá một nơi. Phạm Phòng Át chiếm được nơi đất phẳng, địa thế không có gì hiểm trở, nhưng đất đai lại phì nhiêu, ruộng màu mỡ, người nhiều, nếu là nơi thời bình thì rất tốt, nhưng thời loạn thì chẳng khác nào nhà trống chẳng có rào giậu, bốn phía trống trải. Người Đằng Châu tính tình điêu ngoa, đàn ông con trai thường là du đãng. Sứ quân Phạm Bạch Hổ dựng cờ xưng hùng, chiêu tập tay chân, thảy toàn là phường du thủ, quen nghề tâng bốc nịnh bợ, giỏi hống hách nạt nộ kẻ yếu nhưng cũng giỏi nghề lật lọng khiếp nhược. Sứ quân Phạm Bạch Hổ người tầm thước, mắt xếch, mũi thẳng miệng chúm chím như đàn bà. Sứ quân để râu năm chòm đen biếc, tóc thường búi giữa đỉnh đầu rồi cài thêm hoa lòe loẹt bảo là cho giống các danh nhân kiệt sĩ thời xưa!

Sứ quân Phạm Bạch Hổ tuyển nhiều gái đẹp nuôi dưới trướng, lấy cuộc truy hoan quanh năm suốt tháng làm trọng. Trong đám mĩ nhân, có nàng Hồi Chúc Tiên Nương người ở Ngọc Đồng, thật tên là Thị Dung, vì là dân ở ven sông nước nên giỏi bơi lội, có tài ở dưới nước hàng nửa ngày mới phải ngoi lên. Hồi Chúc thường xúi bẩy Phạm Sứ quân mọi việc, ngược lại không việc gì Sứ quân lại không hỏi ý nàng. Vì thế, khắp bọn tay chân thủ hạ Sứ quân đều thi nhau nịnh bợ, tâng bốc, tìm đủ mọi cách để lấy lòng nàng Hồi Chúc, cốt sao được nàng thương mà cất nhắc cho. Hồi Chúc Tiên Nương là tên Sứ quân đặt cho, cũng có óc thông minh, đa đoan, tuổi chưa tới hai mươi nhưng sắc đẹp thì tuyệt vời, sứ quân ngày đêm cho nàng ở bên cạnh, lúc cùng thủ hạ nghị việc cũng để cho nàng ngồi nghe. Vì thế, mỗi lần bàn việc, đều có nàng Hồi Chúc dự bàn, sau lưng nàng lại có bốn ả hầu gái trang điểm nõn nà cầm quạt bưng nước đứng hầu. Đám con gái này thường lạm dụng khúc khích cười trong lúc Sứ quân cùng thủ hạ bàn bạc, khiến cho mất cả vẻ trang nghiêm: nhiều lúc, Sứ quân hứng thú, còn kéo cả nàng Hồi Chúc vào lòng mà cười đùa ngay trước mặt thủ hạ, đám thủ hạ được thể cũng đua nhau chọc ghẹo bốn ả hầu gái, liếc mắt đưa tình, nói năng bóng gió thật chẳng còn kỉ cương gì nữa.

Lúc Sứ quân được tin nói rằng: “Có sứ của Hoa Lư tới”, liền truyền hội chúng thủ hạ để nghị sự.

Vào hội, Sứ quân bảo:

- Hoa Lư trước được Sứ quân Trần Lãm yêu giao cho binh quyền, sau lại bỏ Bố Hải để trở lại nơi cũ. Mới đây, Nam Tấn Vương thân cầm quân xuống đánh Hoa Lư, ai cũng tưởng là thế nào Bộ Lĩnh cũng phải chạy dài, nào ngờ Hoa Lư có người tài giúp đỡ đánh nhau với binh Triều nhiều phen nghiêng ngửa, suýt đốt chết cả Nam Tấn Vương, chỉ một tí nữa thì dìm chết được cả đạo binh Cổ Loa. Từ đây, thanh thế Hoa Lư lên cao lắm. Nay binh Cổ Loa không làm gì được, còn vây hãm Hoa Lư, chưa biết có việc gì mà Hoa Lư lại cho sứ tới đây. Ai có ý nào không?

Đám thủ hạ ngơ ngẩn, không biết tính việc ra sao, nếu hỏi về cách rong chơi thì chắc chẳng ai nhường ai. Tuy thế, “người ngu thường hay được thánh trợ”, cho nên Sứ quân Bạch Hổ dưới trướng cũng có mấy tướng có tài cầm cương lên ngựa xông pha trận mạc. Nay nghe Sứ quân hỏi chưa ai biết nói ra sao, thì nàng Hồi Chúc đã cất tiếng êm như giọng oanh ca mà rằng:

- Hoa Lư đánh nhau với Cổ Loa, thế thì là thắng, tại sao quân không thừa cơ mà đuổi binh Triều về, lại còn cho sứ đến cầu ở đây là ý làm sao?

Hồi Chúc nói xong, mắt liếc sứ quân ra chiều nũng nịu, Sứ quân cả cười mà rằng:

- Thì chính ta cũng vừa hỏi như vậy, nếu nàng biết thì hãy nói ra!

Hồi Chức nũng nịu thêm:

- Tướng công có biết bao nhiêu tướng tài, mưu sĩ giỏi, hà cớ gì phải hỏi đến thiếp?!

Sứ quân kéo Hồi Chúc vào lòng mà rằng:

- Tướng tài để ra trận, tuần giữ đất đai, chứ tướng tài làm sao lại bằng nàng được!

Hồi Chúc rúc rích cười, các tướng cũng cười nịnh theo, chẳng ai có vẻ gì là giận cả. Sứ quân bảo:

- Nay sứ của Hoa Lư tới, ta nên đối xử thế nào?

Hồi Chúc ngồi thẳng dậy mà rằng:

- Hoa Lư tự thị lắm tướng tài, giao tranh với binh Triều chẳng hề sứt mẻ. Thiếp lại nghe Hoa Lư được một người rất giỏi về giúp sức, người ấy từ phương Bắc xuống, giúp Hoa Lư nhiều việc kinh thiên động địa, nay chắc người ấy mang lệnh lên Đằng Châu ta. Đã thế, Sứ quân cứ thử tài anh hào Hoa Lư một phen xem sao đã!

Sứ quân cười ha hả mà rằng:

- Nàng khéo lắm chuyện! Ừ thì thử tài anh hào Hoa Lư, thể thử như thế nào?

- Lúc này người của Hoa Lư chưa tới đây, chưa biết nên thử thế nào? Thiếp có nghe tin báo là: sứ giả của Hoa Lư sắp tới Xích Đằng, khoảng chiều tối hôm nay thì tới đây. Vậy tướng công cứ ra lệnh cho tướng Trấn Giang đợi ở bên kia sông, khi nào sứ của Hoa Lư tới cứ nói là: “Đã thông tin về sứ quân hay rồi, nay phải trấn ở bên sông để phòng binh Triều nhỡ thất bại chạy tới đây xâm phạm bờ cõi, nên không thể đưa sứ đi được. Vả lại thuyền bè đang mùa nước lớn bận việc quân cả, không sẵn để sứ giả mượn mà qua sông”. Để xem người tài của Hoa Lư làm cách nào vượt sông lớn dược nào!

Sứ quân nghe Hồi Chúc bày kế, đã chẳng nghĩ xa gần hơn thiệt gì cả, còn một mực cười ha hả cho là “diệu kế”. Các tướng cũng hùa nhau cười nịnh, thật chẳng ra gì?

Thế là, Sứ quân cứ y lời Hồi Chúc xúi bẩy, truyền đưa tin ra biên ải, rồi lại truyền sửa soạn yến tiệc để mua vui, đợi xem sứ giả Hoa Lư làm cách nào để vượt sông cho được.

Lệnh của Sứ quân Bạch Hổ được quan gấp bay ngựa truyền ra Xích Đằng, tướng Trấn giang của Đằng Châu là Nghi Bá Tường được lệnh liền sửa soạn để đón sứ giả. Tường là tướng trung thành của Sứ quân Bạch Hổ, có tài nhưng ngay thẳng không ưa nịnh bợ nên Sứ quân trọng mà không quý, giả sử có người thay thế được chắc Sứ quân đã cho thay Tường rồi. Nghi Bá Tường biết mình chọn không đúng chủ mà thờ, nhưng đã trót rồi thì đành hết dạ trung thành, cố bồi đắp cho Sứ quân, Sứ quân không biết lòng Tường khiến Tường nhiều phen chán nản, nhưng Tường không nỡ bỏ Sứ quân mà đi, biết là mai sau Sứ quân thế nào cũng chẳng ra gì, vì thế Tường mới xin ra trấn ở xa, lấy cớ bận việc quân nên chẳng về Đằng Châu.

Nay Tường được lệnh, trong lòng chẳng vui, cho là Sứ quân không biết phép đối xử với người ngoài, làm như vậy có khác gì muốn gây sự với Hoa Lư. Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng đến lúc quân vào báo: “Có sứ giả Hoa Lư tới”, thì Nghi Bá Tường một mặt cứ tiếp đón niềm nở, một mặt cứ y lời dặn của Sứ quân mà ôn tồn nói:

- Thưa ngài, tôi hết sức ân hận vì việc quân quá bận, chẳng làm sao được hầu tiếp ngài lâu. Nay Hoa Lư binh hùng tướng mạnh đánh quân Triều tan nát, tôi chắc binh Triều trong lúc bại vong thể nào cũng chạy tới đây, tôi nhiệm lệnh Sứ quân trấn giữ ở đây không làm sao theo gót ngựa ngài để cùng về Đằng Châu được, trong lòng thật áy náy lắm!

Lê Thảo thoạt nghe nói, lại thấy tướng Trấn Giang của Đằng Châu tiếp đón niềm nở, thì lại tưởng rằng Nghi Bá Tường ân hận không đưa mình về Đằng Châu được, liền kính cẩn đáp:

- Tôi từ đường xa đến quý cõi, mang lệnh của Đinh Động chúa đi giao hảo, được tướng quân tiếp đón trọng hậu, sao còn dám phiền tướng quân đưa về ra mắt Phạm Sứ quân nữa! Tôi chỉ xin tướng quân cấp cho tôi một vài chiếc thuyền đủ để người ngựa chúng tôi sang sông, rồi tự lần đường đi lấy là quý hóa lắm rồi!

Nghi Bá Tường băn khoăn, ấp úng mãi mới nói được rằng:

- Thưa ngài, ngài là người mắt nhìn như sao sáng, quay lưng lại cũng biết tất cả thành ra tôi không dám nói sai! Số là, Sứ quân tôi cho lệnh thuyền bè phải ngày đêm tuần canh, không được ngưng nghỉ, việc quân thật vất vả, vì thế suốt một giải sông dài chẳng có thuyền bè rảnh rỗi, mỗi lúc muốn sang sông cũng phải đợi năm ba ngày mới có thuyền rảnh, quả thật là như thế, xin ngài hiểu cho nỗi khổ của tôi!

Lê Thảo nghe xong, cười lên ha hả, duy có Đinh Điền thì từ lúc vào thủy doanh của Đằng Châu, thấy tướng Trấn Giang tuy tiếp đón có vẻ vồn vã, nhưng toàn là nhì nhằng ngoài mặt, trong bụng đã thấy nóng. Nay nghe Nghi Bá Tường nói như vậy, thì chỉ muốn ra tay bé họng Tường một phen mới hả. Đinh Điền day tay mím miệng, hai mắt như muốn tóe lửa, Lê Thảo phải mấy lần đưa mắt ra hiệu Điền mới chịu ngồi yên, mặt hầm hầm.

Lê Thảo thừa biết tướng Trấn Giang không muốn cấp thuyền cho mình sang sông, còn nói loanh quanh để che đậy, trong cũng lấy làm nghi hoặc không biết Đằng Châu định bày đặt mưu mô gì với mình đây. Thảo còn đang suy nghĩ, ngoài mặt làm ra vẻ tự nhiên, thì tướng Nghi Bá Tường lại nói thêm:

- Thưa ngài, Sứ quân tôi có dặn: binh Hoa Lư đánh binh Cổ Loa thất điên bát đảo, Cổ Loa thua to thế nào cũng chạy đến đây...

Tướng chưa nói dứt câu, Lê Thảo đã vui vẻ cướp lời mà rằng:

- Quả có thế, liền trong hai ngày ba trận đánh từ Sinh Khuyết, về đến trước Hoa Lư, tướng Phạm Cự Lượng của Hoa Lư giết gần một nghìn binh Cổ Loa; lại một trận Đa Giá ngọn lửa cũng đốt chết được nghìn binh Triều nữa, đến lúc nước dòng Sinh Khuyết đổ xuống lại dìm chết thêm vô số binh của Nam Tấn Vương; bây giờ Hoa Lư tôi bốn mặt vây địch, chỉ một trận là binh triều tan thành mây khói. Nhưng Hoa Lư tôi nhân nghĩa, không nỡ tận sát binh Triều, cố ý mở đường cho binh của Nam Tấn Vương có lối mà chạy, nhưng lại thấy binh Triều khi được chạy về Đông Bắc, sao cho chẳng xâm phạm bờ cõi Đằng Châu, nên Chúa động tôi mới sai tôi gấp lên Đằng Châu báo trước, lại cùng với Sứ quân Đằng Châu nghị sự cốt để Đằng Châu yên lòng, cho binh Triều có đường chạy về Cổ Loa chứ không phải là có ý xua binh Triều hãm hại Đằng Châu đâu. Nay đến đây, tôi thấy Sứ quân Đằng Châu quả là người lo xa biết nhìn mọi việc, mới truyền cho Tướng quân phải ngày đêm tuần phòng canh giữ như vậy là phải lắm. Tướng quân không có thuyền rảnh thì thôi, chúng tôi không dám kêu nài để lỡ việc quân của tướng quân, chỉ mong tướng quân hết sức đề phòng, tôi e chỉ nay mai thôi là thế nào tướng quân cũng được đón tiếp binh Triều bại tẩu đến nơi này đấy!

Lê Thảo cười nói thật tự nhiên, dọa không ra dọa, báo tin chẳng là báo tin, làm cho Nghi Bá Tường hồ nghi lắm lắm! Tường nghe nói trong lòng bối rối không biết hư thực ra sao, lại càng nóng ruột hơn nữa không biết Sứ quân Bạch Hổ có biết như vậy không, và tại sao lại ra lệnh không cấp thuyền cho sứ! Tường còn ngẩn ngơ kinh hãi, chưa biết nói sao, thì Lê Thảo đã vui vẻ mà rằng:

- Việc quân của tướng quân bận lắm, tôi xin cáo từ. Tôi có nghe Xích Đằng một giải chẳng khác nào Trường Giang của nước Tàu, nay nhân tới đây xin được ngắm cảnh trước, sau rẽ sang sông!

Lê Thảo nói xong, đứng dậy vòng tay thi lễ. Nghi Bá Tường cũng lật đật đứng lên theo ngẩn ngơ chẳng biết nói sao. Lê Thảo lại nói:

- Chẳng dám phiền tướng quân đưa tiễn, chỉ mong hẹn được gặp lại sau này!

Nói xong, Lê Thảo rộng bước đi ra, Đinh Điền mặt đằng đằng sát khí theo bén gót.

Ra đến ngoài, bọn Lê Thảo còn vui vẻ lạy chào tướng Trấn Giang của Đằng Châu lần nữa rồi mới thúc ngựa chạy đi. Tường đứng trước doanh ngơ ngẩn, trong lòng hoang mang chẳng hiểu ra sao, vấn vương mãi với hình ảnh Lê Thảo đầu vấn khăn văn sĩ, mặt đẹp như ngọc, nói cười thật chẳng có gì là con nhà võ, chẳng hiểu nhiệm mệnh Hoa Lư Động chúa tới Đằng Châu có việc gì, lại không biết những lời Lê Thảo nói ra có thật hay không. Lại nhớ đến hùng khí của tướng Đinh Điền, mặt vuông mắt long lanh, lưng như lưng cọp, vai mạnh như vai gấu, mấy phen Đinh Điền hầm hầm giận dữ, khí sắc thật kinh người, càng nghĩ càng thấy lạnh ở xương sống!

Ngựa bọn Lê Thảo ra khỏi doanh, rồi khuất ở phía Bắc, Nghi Bá Tường ngẩn ngơ giây lát rồi thở dài trở vào doanh. Tường lập tức truyền quân lấy thuyền nhẹ, vượt sông gấp rút tin về Đằng Châu cho Sứ quân biết mọi việc. Được tin, Sứ quân còn đang giữa tiệc, lấy làm thích thú lắm, ba bốn lần khen ngợi mãi nàng Hồi Chúc là mưu mẹo thông minh!

Lại nói bọn Lê Thảo ra khỏi doanh tướng Trấn giang của Đằng Châu, cứ thúc ngựa hướng Bắc mà chạy. Chạy một hồi xem chừng đã được xa doanh thủy trại Đằng Châu, mới buông cương cho ngựa lơi vó, rồi bảo Đinh Điền rằng:

- Tướng quân nghĩ sao?

Đinh Điền từ lúc ra khỏi doanh, trong lòng càng lúc càng thêm thắc mắc, không hiểu Quân sư có liệu tính gì đây mà xem ra ung dung lắm, chẳng có gì là thắc mắc cả làm như thể đã sẵn thuyền, hoặc muốn sang sông lúc nào thì sang. Còn đang nghi hoặc, sực thấy Quân sư hỏi, liền đáp ngay:

- Rõ ràng là Đằng Châu muốn xử xấu với ta, sao Quân sư chẳng giận là thế nào? Cứ như tôi, thì tôi phải đánh nhau ngay rồi! Cả một doanh Thủy trại mà lại không có lấy một chiếc thuyền rảnh, ai nghe lọt tai được?

Quân sư cười mà rằng:

- Thuyền thì không thiếu, nhất định Đằng Châu rất có nhiều thuyền nhưng đã không muốn cho ta mượn thì thôi, duy có điều ta thắc mắc là: không hiểu vì đâu, Sứ quân Đằng Châu lại đối xử với ta như vậy?

Đinh Điền đáp:

- Y chẳng tự biết mình, có ý muốn gây sự với ta đấy chứ gì?

Lê Thảo cười:

- Ta không tin là Sứ quân Đằng Châu dám gây sự với ta. Đằng Châu địch với ta sao được, vả lại việc còn sờ sờ trước mắt, binh tướng triều đình ầm ầm kéo xuống Hoa Lư còn bị bại vong, liệu Đằng Châu có chịu nổi một lần ra quân của ta không mà dám gây sự! Lúc nãy ta có dọa thêm cho Đằng Châu sợ, ta chắc Đằng Châu muốn thử anh hào Hoa Lư xem có cách nào vượt đại giang được không dây chứ gì! Đã thế, ta sẽ sang sông, đến Đằng Châu như thần thánh từ trên trời xuống cho Đằng Châu khiếp sợ một phen!

Định Điền lạ lùng hỏi:

- Sông Xích Đằng rộng lớn thế này, làm sao ta vượt qua được đây?

Quân sư dừng hẳn ngựa, Đinh Điền sóng đôi, đằng sau là mười hai giáp sĩ, cả bọn quay nhìn ra phía sông. Xích Đằng về chiều phản chiếu sáng trời hồng xám màu đất, thật rộng, nước chảy lừ lừ dễ sợ, bên kia sông mờ mờ chỉ thấy bờ bụi, bên này sông khoảng chỗ gần doanh thủy trại của tướng Nghi Bá Tường còn có nhà ở, đến khúc này tuyệt nhiên chỉ còn cây cỏ lau sậy hoang vắng. Gió chiều lồng lộng theo hướng Nam thổi ngược về Bắc. Quân sư quan sát một hồi, rồi vui vẻ báo:

- Bây giờ trời còn sáng, ta hãy dạo xem phong cảnh: Đợi đến lúc trời tối hẳn, ta hãy hưởng cái cảnh ngắm trăng mười tư trên Xích Đằng xem sao!

Nói rồi, Lê Thảo giật cương cho ngựa cất bước, men theo bờ sông mà ngược lên hướng Bắc, vẻ ung dung nhàn nhã như người đi ngắm cảnh, Đinh Điền thì trong lòng càng nghi hoặc, băn khoăn ra mặt. Ngựa Lê Thảo chậm chậm đi trước, Đinh Điền lặng lẽ đi theo. Dần dần trời tối hẳn, trăng giữa tuần lên đã bắt đầu chậm, cả một vùng Đằng Châu tối trong cái ánh sáng của trăng chưa lên.

Bây giờ, bọn Lê Thảo đi cùng cách xa thủy trại của tướng Nghi Bá Tường dễ thường cũng có cả chục dặm đường lên đến gần Nghi Xuân, Bốn bề vắng lặng, gió rì rào men theo bìa rừng, Lê Thảo bèn giục ngựa vạch lau đến sát bờ sông. Bây giờ, trăng đã nhô cao, dòng sông sáng như dát bạc, rộng không thấy bờ bên kia nhưng thấy rõ gợn nước rung rinh xuôi về Nam.

Lê Thảo chậm chậm cho ngựa men sát bờ sông đi ngược lên phía Bắc, đi được một hồi thấy mờ mờ bên ven sông có nhà cửa, liền giục ngựa đi thẳng tới. Đinh Điền thấy nơi đó có loáng thoáng vài chiếc nhà sàn, trong lòng mừng lắm cho rằng có nhà thì có người ở, thế nào cũng kiếm được thuyền để sang sông. Tới lúc cả bọn đến nơi, chỉ thấy tiêu điều xơ xác, gọi tìm mãi chẳng có một bóng người đến tiếng kêu súc vật cũng chẳng nghe tiếng, rõ ràng nơi đây bỏ hoang cũng đã lâu rồi. Cả bọn lục lạo trong mấy chiếc nhà sàn ấy, mỗi bước chân đi căn nhà lại rung rinh chỉ chực sụp xuống.

Lê Thảo truyền cả bọn đi ra, lại theo bờ sông đi thêm ít nữa, chẳng thấy gì cả liền truyền dừng ngựa. Lê Thảo nhìn dòng sông rộng, vẻ tần ngần suy nghĩ, cặp mày hơi xếch nhíu lại, gương mặt trắng nõn lồ lộ dưới ánh trăng đẹp như mặt con gái. Đinh Điền cũng đăm đăm nhìn sang sông, gương mặt trái ngược hẳn với Lê Thảo: thật rắn rỏi, hai vai Điền vuông phè thật vững chắc, Đinh Điền cũng suy nghĩ lung lắm.

Hồi lâu, chợt cặp mày xếch của Lê Thảo vụt dãn ra, gương mặt chàng rạng rỡ. Lê Thảo tủm tỉm cười quay sang hỏi Đinh Điền:

- Giả sử tướng quân mang binh tới đây, gặp sông rộng như thế này thuyền bè không có, làm sao đem quân sang sông cho được?

Đinh Điền ngập ngừng:

- Dạ, tôi suy nghĩ mãi không ra! Nếu gặp nơi thuận tiện thì chắc cho quân đẵn cây làm bè sang sông, nhưng ở đây bốn bề trống trải chỉ có lau sậy, chả lẽ lại kết bè lau mà độ giang hay sao? Tôi nghĩ mãi chưa ra được cách gì cả!

Lê Thảo cười thêm:

- Liệu sức tướng quân có đủ để cõng cả bọn sang sông được không?

- Quân sư nói sao? Có phải quân sư định sai tôi cõng từng người mà bơi sang sông đấy không?

Lê Thảo trang nghiêm:

- Ừ, ý ta định hỏi xem tướng quân có đủ sức cõng từng người mà bơi sang sông được không?

Đinh Điền càng kinh ngạc:

- Quân sư nói lạ! Sông nước thế này, làm sao lại làm như thế được?

Lê Thảo ra chiều suy nghĩ, rồi vụt hỏi lại:

- Thế, liệu tướng quân có đủ sức chặt chân mà sang sông không?

Đinh Điền lần này mới thật là sửng sốt quá đỗi, mồm há ra không biết nói gì nữa, cặp mắt mở tròn xoe chằm chặp nhìn Lê Thảo. Cả bọn mười hai giáp sĩ nghe Quân sư với tướng Đinh Điền lời qua lời lại đối đáp thì trong lòng lấy làm kỳ, đến khi nghe Quân sư hỏi tướng Đinh Điền “chặt chân” thì cả bọn cũng sửng sốt, tên nào tên nấy im lặng như có dao kề cổ, muốn thở mạnh cũng không dám.

Lê Thảo cũng nhìn Đinh Điền chằm chằm, rồi ung dung nói:

- Cứ tình cảnh này, không chặt chân thì chẳng làm sao sang sông được! Thôi tướng quân có sợ mình không đủ sức làm được, thì theo ta mà xem ta làm vậy!

Dứt lời, Quân sư quay ngựa, Đinh Điền trong lòng hoang mang, thẫn thờ giục ngựa đi theo, mười hai giáp sĩ cũng lẳng lặng đi theo nốt.

Đi một hồi, lại tới chỗ mấy ngôi nhà xiêu vẹo. Lê Thảo xuống ngựa, cả bọn xuống theo. Tới bây giờ, Quân sư mới vụt tươi nét mặt, vẫy cả bọn đứng chụm lại mà nghe quân sư giảng:

- Đằng Châu muốn làm khó dễ ta, không cấp thuyền cho ta sang sông, chắc có ý muốn thử tài ta. Sông rộng một bóng người cũng không, một cụm tre cũng chẳng có, suốt một giải từ thủy trại của tướng Đằng Châu lên tới đây dễ thường hơn chục dặm đường, vẫn chỉ có lau sậy ngút ngàn. Địa thế này, chỉ ra tay châm một ngọn lửa, thì dù Hoa Lư có đến mấy muôn quân cũng chẳng làm gì được Đằng Châu, tướng quân nên nhớ lấy địa thế này, phòng khi trong đời chiến trận có lúc cần đến…

Đinh Điền chăm chú nghe, vẻ kính cẩn lắm. Lê Thảo tiếp:

- Giả sử, chỗ này có tre có nứa, thì ta kết bè sang sông chẳng khó khăn gì, nhưng nơi đây chỉ có lau sậy, lau sậy dùng vào việc khác chứ không dùng vào việc đóng thuyền làm bè đi lại được. Đằng Châu cố ý cản trở ta, may thay trời lại tựa ta, ta đã tìm ra cách sang sông ung dung nhàn nhã rồi!

Quân sư ngừng nói, Đinh Điền và mười hai giáp sĩ chăm chăm nhìn Quân sư ra vẻ nóng lòng lắm, ai cũng muốn nghe kế vượt sông của quân sư. Quân sư thấy vậy, tủm tỉm cười, giơ tay chỉ mấy ngôi nhà sàn xiêu vẹo mà rằng:

- Thuyền bè sang sông của ta đấy!

Cả bọn ngơ ngác, tại sao quân sư lại bảo mấy cái nhà xiêu vẹo ấy là thuyền bè sang sông của mình. Chợt Đinh Điền vỡ nhẽ, hỏi vội:

- Thưa, có phải quân sư định giỡ mấy cái nhà ấy ghép làm bè sang sông không?

Quân sư cả cười mà rằng:

- Thì ý ta cũng thế! Tướng quân định giỡ thế nào?

Đinh Điền hể hả:

- Thì mình giỡ nó ra, lấy tre nứa ghép thành bè mà sang sông.

Lê Thảo khen ngợi:

- Tướng quân làm như vậy cũng hay lắm. Thế giỡ ra rồi lấy gì mà ghép nó lại? Vì thế, lúc nãy ta mới bảo chặt chân mà sang sông là thế đấy!

Đinh Điền nhíu mày suy nghĩ, chợt hỏi lại:

- Quân sư định chặt chân nhà sàn?

- Phải! Chặt chân nhà sàn tất nó trở thành bè, ta cứ việc cưỡi mà sang sông chứ cần gì phải giỡ nó ra cho mất công nữa!

Đinh Điền, mười hai giáp sĩ, thảy đều hớn hở. Thế là cả bọn hăm hở đi chặt chân nhà sàn. Quân sư bảo:

- Lúc nãy ta vào mấy cái nhà đó, ta thấy nó op ẹp lắm rồi, gió xô mạnh nó cũng đổ đấy. Vậy phải cẩn thận kẻo không nó trôi mất cả, không đủ sang sông thì nguy đấy.

Rồi quân sự truyền hãy “hạ thủy” căn nhà ở mé trên trước, để khi căn nhà bị chặt chân nổi trên mặt sông, bị các căn nhà mé dưới cản lại không trôi đi được: Đinh Điện thích chí, ra tay chặt, thoáng chốc mấy căn nhà sàn bây giờ bềnh bồng trên sông nước, trở thành “thuyền bồng”. Quân sư truyền dắt ngựa xuống, phá vách lấy lối đi, “thuyền bồng” từ từ trôi theo dòng nước, quân sư lại bảo Đinh Điền:

- Mau mau giỡ mái, lấy vài đoạn tre làm lái, hướng thuyền đi cho đúng.

Đinh Điền ra tay, mái nhà được giỡ ra, Đinh Điền hai tay hai khúc tre dài thả xuống sau “thuyền” làm lái. Nhà sàn một phía còn vách tuy nát, nhưng cũng lại là buồm tốt hứng gió hiu hiu từ Nam thổi xéo lên Tây Bắc, khiến cho thuyền không trôi nhanh quá mà bị cuốn đi. Thuyền ra đến giữa sông, từ từ xuôi Nam, chênh chếch hướng về bờ bên kia. Trăng mười tư sáng vằng vặc trên đỉnh đầu. Xích Đằng lồng lộng một giải, nhìn về hai bờ, thấy xa tít. Lê Thảo đứng trên nhà sàn, quan sát phong cảnh, gật gù suy nghĩ. Đinh Điền phía đằng sau, nhàn nhã vừa ngắm trăng vừa lái thuyền, trong lòng chẳng khỏi khâm phục trí thông minh quyền biến của Quân sư.

Hồi lâu, thuyền xuôi Nam dần dần thấy trước mặt một khoảng đen sì, rõ ràng là đã tới bờ. Đinh Điền chưa biết lái thuyền đến đâu. Quân sư đã bảo:

- Tướng quân quên rằng nơi đây dòng sông uốn quanh đảo Đà Lỗ vì thế sông gọi là sông Đà Lỗ, sau lại xuôi Nam hợp với dòng chính mà ra Hải Triều là gì? Từ bến Đà Lỗ giang đến Phủ Sứ quân Đằng Châu đường chỉ vài dặm, nhưng ta không thể theo lối ấy đi được. Tới chổ ngã ba, bên phải ta là Cổ Liêu, bên kia là Ngọc Đồng. Tướng quân hãy cho thuyền theo dòng rẽ vào Ngọc Đồng, ta lên bộ rồi phá thuyền mà đi, đừng để lại dấu vết gì.

Đinh Điền vội tuân lệnh, bẻ “lái” cho thuyền quay ngang hẳn ra, mặc cho dòng nước cuốn mà hướng vào bờ. Thuyền không có chèo, chỉ nương vào dòng nước mà đi, nên cập được bờ cũng khó khăn lắm. Hồi lâu, thuyền cũng áp được vào bờ. Bờ sông bên này cũng thưa thớt cây lớn như bên kia, lau sậy mù mịt.

Cả bọn bíu lau sậy mà kéo thuyền vào. Giáp sĩ rong ngựa lên trước, rồi phá hết dấu vết mảng bè này mà nhảy lên bờ. Dòng nước cuốn theo các khúc tre tan tác xuống Nam.

Lê Thảo lên ngựa, Đinh Điền cùng các giáp sĩ cũng đã ngồi cả trên yên, Lê Thảo hân hoan bảo:

- Thế là ta qua sông được rồi! Thuyền bị phá nát chắc chẳng còn gì để xuôi Nam được nữa đâu! Nhất định là tướng trấn thủy trại của Đằng Châu ở mãi Ngọc Cầu chẳng thể nào biết được ta đã sang sông!

Đinh Điển vui vẻ:

- Thế là nhờ quân sư tài trí hơn người, ta sang sông được dễ dàng! Bây giờ nửa đêm, quân sư định thế nào đây?

Quân sư ngẩng mặt nhìn trời. Trăng đã vượt quá đỉnh đầu, chắc cũng phải vào cuối giờ Tý rồi. Quân sư bảo:

- Ta tính phải đến chiều rằm mới tới gặp mặt Sứ quân Bạch Hổ được, nào ngờ chỉ vì Đằng Châu tiếp ta chẳng hậu, ta không phải yến tiệc dọc đường, cho nên sang sông được sớm. Nay nửa đêm, không có nơi tạm trú đã thế ta tới thẳng Phủ Đằng Châu, nửa đêm gõ cửa mà vào xem Sứ quân nói ra sao?

Đinh Điền cũng hứng chí, cậy có Quân sư giỏi, lại tin là sức mình chẳng anh hào Đằng Châu nào đương nổi nên hăm hở thích chí lắm.

Thế là, cả bọn giục ngựa, vạch lau mà chạy, lần lần vào quan lộ, dọc đường chẳng gập tuần canh thành ra ngựa cứ băng băng nhắm phủ Sứ quân mà tới.

Đường không xa lắm, chỉ khoảng giờ Sửu là cả bọn đã vào địa phận Phủ đường. Tới đây, thì quân tuần chặn hỏi. Lê Thảo bảo Đinh Điền nói lớn lên rằng:

- Sứ giả của Hoa Lư Động chúa, cưỡi mây tới Đằng Châu, xin vào gặp Sứ quân có việc cần kíp!

Quân tuần không chịu, bảo rằng: “Bây giờ Sứ quân đã ngủ rồi, phải đợi đến mai”. Đinh Điền nghe thế, liền sẵng giọng:

- Sứ quân ngủ, cũng gọi dậy! Việc quân cần kíp, Sứ giả phải vẫy mây nương gió cưỡi tới đây, há chẳng là hệ trọng sao! Chậm trễ lỡ việc thì tất sứ quân chém đầu cả lũ chẳng tha!

Tướng tuần canh là Triệu Đường Hùng, vốn là thân cận của Sứ quân mà được cất nhắc, chẳng có tài cán gì, nay nghe tướng Hoa Lư sẵng giọng, trong lòng cũng sợ, vả lại không biết sứ Hoa Lư đi đường nào mà chẳng ai hay, bây giờ bất ngờ hiện ra ở đây một mực bảo rằng: “Cưỡi mây nương gió mà tới”, thì trong lòng nghi hoặc. Lại sực nhớ: Gần đây khắp thiên hạ đồn ầm lên rằng: “Hoa Lư binh hùng tướng mạnh, lại có bậc thần tiên vừa vào giúp rập, đánh binh Triều tan nát cả”, thì trong lúc thảng thốt cho là “Sứ Hoa Lư có phép tiên cưỡi được mây mà tới Đằng Châu”. Tần ngần nghĩ như vậy rồi, tướng Triệu Đường Hùng liền ôn tồn đáp:

- Nếu vậy, xin sứ giả đợi tôi vào trình Sứ quân xem sao!

Lúc ấy, Sứ quân cùng mỹ nhân Hồi Chúc và các tướng yến ẩm vừa tàn, Sứ quân truyền mãn tiệc để về nghỉ ngơi, thì tướng tuần canh tất tả bước vào, vòng tay nghiêm trọng bẩm:

- Bẩm Sứ quân, sứ giả Hoa Lư hiện giờ ở ngoài Phủ, nằng nặc bảo rằng: vì có việc cần kíp lắm, nên phải cưỡi mây đến đây xin ra mắt Chúa công ngay. Tiểu tướng không cho, bảo là chúa công đã đi nghỉ rồi. Sứ không nghe bảo là có việc quân cần kíp lắm xin được hầu chuyện Chúa công ngay!

Sứ quân Phạm Bạch Hổ, mỹ nhân Hồi Chúc, hết thảy các tướng, ai cũng kinh ngạc không cùng, không hiểu sứ giả Hoa Lư làm cách nào sang sông tới được nhanh như vậy!

Sứ quân còn đang sửng sốt, chợt nàng Hồi Chúc cất tiếng lanh lảnh hỏi:

- Sứ Hoa Lư đi đông bao nhiêu người?

- Bẩm, mười bốn người.

- Áo quần người ngựa có ướt nước không?

- Bẩm, không thấy có giọt nước nào.

Hồi Chúc lẩm bẩm: “Thật lạ! Thật lạ!” Sứ quân sững sờ, hỏi vu vơ:

- Bây giờ thế nào?

Tướng tuần canh tưởng Sứ quấn hỏi vội đáp:

- Sứ còn đợi ngoài doanh.

Hồi Chúc dõng dạc:

- Bẩm Chúa công, ta cốt thử tài xem Sứ giả Hoa Lư làm cách nào vượt sông được. Tướng Trấn Giang cũng đã báo tin về rồi, nay Sứ Hoa Lư đã sang sông tới được đây, thì Chúa công cứ truyền cho vào xem sao!

Sứ quân cho là phải, không tiện thoái thác liền phải truyền lệnh sửa soạn nghị sảnh đường, rồi bảo tướng tuần canh Triệu Đường Hùng ra mời Sứ giả vào.

Chưa biết việc ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—