← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Ba Mươi Ba Lê Thảo khoe cưỡi mây gọi gió
Bịa chuyện xưa nghi hoặc Đằng Châu

Thoáng chốc, nghị sảnh đường của Sứ quân Đằng Châu đèn đuốc sáng rực, không khí thật uy nghiêm, sứ quân Bạch Hổ ngồi trên ghế “đăng tâm thảo [→1] ” trải da hổ trắng, ngay bên cạnh lại đặt thêm ghế trổ hình con phượng hai cánh vòng thành tay ghế ôm lấy vóc dáng mỹ nhân Hồi Chúc. Đằng sau Sứ quân có hai hổ tướng cắp gươm đứng hầu, đằng sau Hồi Chúc có hai nàng mặt hoa da phấn cầm quạt bưng khay nước đợi lệnh. Phía trước Sứ quân và Hồi Chúc, là nơi ngồi của chúng tướng văn võ. Khí thế nghị sảnh đường nghiêm mà xa hoa, rõ ra nghi vệ bực trưởng giả, chỉ tiếc là đượm nhiều hương hoa dành riêng ở chốn phòng the.

Sứ quân Phạm Bạch Hổ cất tiếng:

- Này các tướng, việc thiên hạ đang hồi náo loạn, Hoa Lư giao chiến với Cổ Loa chưa phân thắng bại, nay cho Sứ đến đây chắc có điều gì cầu cạnh, nay ta mời Sứ vào các tướng hãy lắng nghe tùy tiện mà đối đáp nhé.

Dứt lời, Sứ quân truyền tướng Tổng quản Đằng Châu Chu Trạch Phương ra trước đại sảnh để đón sứ mà đưa vào.

Lát sau, tướng Phương bước vào trước, theo sau là Lê Thảo, sau nữa là Đinh Điền, cuối cùng là Triệu Đường Hùng, bốn người vào trong sảnh thì tướng Phương hô lớn:

- Sứ giả Hoa Lư, Quân sư Lê Thảo diện kiến Chúa công!

Lê Thảo ung dung bước lên, vóc dáng thanh tú lướt đi thật êm giữa hai hàng chúng tướng Đằng Châu, Đinh Điền cũng đi theo, vóc dáng Điền thật hùng vĩ, hai mắt long lanh như sao sáng, bước đi vững chãi vô cùng.

Trên từ Sứ quân Bạch Hổ, nàng Hồi Chúc, xuống đến dưới là các anh hào văn võ Đằng Châu, trăm mắt đổ dồn cả vào hai nhân vật Hoa Lư, ai cũng lấy làm lạ về người vừa rồi tướng Tổng Quản hô lớn là Quân sư Lê Thảo của Hoa Lư! Mọi người chưa kịp nghĩ thêm, thì Lê Thảo đã tới trước Sứ quân Bạch Hổ, vòng tay kính cẩn mà rằng:

- Tại hạ Lê Thảo, nhiệm mệnh Hoa Lư Động chúa lên Đằng Châu bái yết Sứ quân, vì việc gấp nửa đêm quấy rầy thế này mong được sứ quân lượng thứ!

Giữa nghị sảnh đường, bốn bề im phăng phắc, giọng Lê Thảo sang sảng cực rõ ràng, mạnh mà êm. Lê Thảo nói xong, khẽ cúi đầu. Sứ quân Phạm Bạch Hổ vốn chẳng có chủ trương gì, nay thấy Sứ Hoa Lư vóc vạc đẹp đẽ, lời ăn tiếng nói lại khoan thai, thì trong lòng đã có chút cảm tình. Lê Thảo dứt lời, Sứ quân vui vẻ mà rằng:

- Không dám, không dám! Nửa đêm Động chúa cho ngài đến tận đây, ắt có việc hệ trọng! Việc ấy xin nói sau, bây giờ xin được hỏi trước: cùng đi với ngài, là đại tướng nào đây?

Lê Thảo khẽ nhích sang một bên mà rằng:

- Cùng đi với tại hạ là hổ tướng Hoa Lư, người này thường gọi là Kim Côn Tướng, tên thật Đinh Điền đấy ạ!

Đinh Điền vội vòng tay, khe khẽ cúi đầu. Sứ quân rất đẹp lòng, bảo:

- Hay lắm, hay lắm!

Rồi Sứ quân truyền quân nhấc ghế mời Sứ Hoa Lư ngồi. Lê Thảo hai ba lần tạ ơn, rồi cùng Đinh Điền ngồi xuống.

Nàng Hồi Chúc, suốt từ lúc Sứ Hoa Lư vào đại sảnh, cho đến lúc này vẫn chẳng nói một lời. Hai mắt nàng đăm đăm hết nhìn Lê Thảo lại nhìn Đinh Điền, trong ánh mắt tràn đầy những bỡ ngỡ, nhiều trìu mến. Hồi Chúc tuổi còn trẻ, lại có óc thông minh, sống trong uy quyền, tai nghe những lời tâng bốc quanh năm, mắt nhìn đám người lúc nào cũng qụy lụy, bên cạnh Sứ quân Bạch Hổ tuy chưa già nua gì nhưng nhất định không phải là lí tưởng từ vóc dáng đến tình yêu, làm sao Hồ Chúc chẳng khỏi có những cảm nghĩ riêng tư? Nay, vừa thấy sứ Hoa Lư mặt đẹp như ngọc, vóc dáng thanh tú nhưng lại hiên ngang, hùng vĩ như cây ngọc trồng giữa trời, nghe giọng nói lại như có sức mạnh khuyến dụ lạ lùng, thì Hồi Chúc tự nhiên thấy trong lòng xôn xao kì lạ. Nàng thẫn thờ nhìn Lê Thảo, tưởng như xa cách lâu ngày vừa mới gặp lại được người xưa? Tự trong tâm tư, Hồi Chúc như vừa bước vào một cuộc đời mới, một cuộc đời nhiều mộng đẹp màu hồng, ngập những hoan lạc, hai má Hồi Chúc ấm lên, cặp mắt nàng chớp chớp kín đáo e lệ.

Cũng lúc ấy, Sứ quân lại vui vẻ mà rằng:

- Sứ giả từ đường xa lặn lội tới đây, trước hết tôi xin giới thiệu với ngài mọi người ở đây đã…

Lê Thảo nghe nói vậy, vội đứng lên, Đinh Điền cũng đứng theo. Sứ quân tay vuốt râu năm chòm, tay ngửa lòng giơ về phía nàng Hồi Chúc mà nói:

- Đây là Hồi Chúc Tiên Nương…

Lê Thảo vòng tay hướng về Hồi Chúc khẽ cúi đầu mà rằng:

- Vạn hạnh, vạn hạnh! Tại hạ đi chưa hết mọi nơi nhưng cũng kể là quá nhiều, tai vẫn thường nghe Ngọc Đồng là đất tiên nữ trên cung Trời thường xuống, quả nhiên lời đồn trong thiên hạ chẳng sai, nay được thấy tiên nương ở đây ắt hẳn phúc nhà cũng lớn lắm!

Lê Thảo vừa nói, vừa nghiêm trang quan sát Hồi Chúc, quả nhiên thấy nàng đẹp thật, nhưng trong cái đẹp ấy còn tàng ẩn nỗi niềm u uất.

Hồi Chúc nghe Lê Thảo ca ngợi, hai má thêm ửng hồng, vẻ vui sướng che không hết được bẽn lẽn, nàng nhỏ nhẹ:

- Ngài có quá lời chăng! Đất trời rộng, chả có lẽ chỉ có Ngọc Đồng có tiên hay sao?

Hồi Chúc nói xong nhoẻn miệng cười, Lê Thảo cũng tủm tỉm cười không nói. Sứ quân lại tiếp:

- Đây là Chu Trạch Phương, Đại tướng tổng quản thủy bộ Quân Đằng Châu...

Lê Thảo vội vòng tay: “Hân hạnh! Hân hạnh!”

Sứ quân tiếp:

- Nam Nhật Huy, tả tướng... Đào Bích Hải, hữu tướng Phạm Chính Đồng…, Triệu Đường Hùng..., Cung Giảo Ngân…, Thái Trị Dân…, Nguyễn Đình Cẩn...

Sứ quân giới thiệu đến đâu, Lê Thảo vòng tay thi lễ miệng nói “hân hạnh” đến đó. Xong rồi, Sứ quân chợt cười ha hả mà rằng:

- Từ ngày Hoa Lư giao chiến với Cổ Loa, đánh binh Triều đại bại, trăm dân bỏ cửa nhà lánh nạn, tiếng đồn khắp nơi là: thế nào đại binh Cổ Loa cũng chạy đến ngả Đằng Châu, vì vậy Đằng Châu tôi phải ngày đêm canh giữ. Ấy cũng vì thế, lúc ngài đến Xích Đằng, chắc chẳng có thuyền bè để đưa ngài sang sông, chẳng hiểu ngài làm cách nào để vượt sông rộng được vậy? Xin đừng phiền lòng nhé!

Lê Thảo nghe Sứ quân hỏi, trong lòng nghĩ vội: “Phạm Phòng Át vốn là kẻ tầm thường, nhờ thời mà xưng hùng thế này, đã vô lễ kiếm cớ gây sự không cho thuyền đưa ta sang sông, bây giờ lại còn hỏi ta làm cách nào vượt sông được, rõ là anh nhà quê thô kệch, không nạt cho một phen thì còn đợi đến bao giờ nữa!”. Nghĩ rồi, Lê Thảo đáp:

- Bẩm Sứ quân, quả nhiên tướng Trấn Giang Đằng Châu bận rộn lắm, việc quân như vậy là phải phép, thuyền bè, quả không có thật. Sứ quân đã hỏi, tôi không dám giấu, xin thưa thật: giả sử tướng Trấn Giang có cho thuyền sang sông, tôi cũng không dám nhận, vì thuyền đi chậm lắm, đành là phải gọi mây xuống cưỡi, góp gió lại bảo đưa đi, có thế mới tới đây được sớm như vậy!

Lê Thảo thật nghiêm trang, không có chút gì ngập ngừng khiến cho cả nghị sảnh đường im phăng phắc, ai cũng kinh hãi lắm. Đinh Điền liếc mắt thấy Quân sư nghiêm trang, trong lòng chẳng khỏi cười thầm, cũng vội trang nghiêm tự nhiên như không có gì xảy ra. Sứ quân Bạch Hổ tay không ngừng vuốt năm chòm râu, mặt lộ vẻ ngạc nhiên kinh hãi lắm. Nàng Hồi Chúc long lanh hai mắt, vẻ rạng rỡ hiện trên nét mặt có ý vừa khâm phục vô cùng, vừa trìu mến lắm. Các tướng văn võ thì lao xao thì thầm bàn tán, người tin người ngờ chẳng hiểu sứ giả Hoa Lư nói thật hay chăng? Thật, thì nhất định đây chẳng phải là người thường, ắt là bậc thần tiên; còn giả thì bọn sứ Hoa Lư làm cách nào để tới đây được mau thế?

Hồi Chúc ngay lúc được tin quân báo sứ Hoa Lư đến, đã chẳng nghi ngờ là cả bọn lội sông mà sang là gì, nay thì nghi ngờ càng thêm lớn chẳng biết hư thực thế nào. Chợt Sứ quân hỏi:

- Ngài nhiệm mệnh động chúa tới đây, ắt có việc cần kíp? Lê Thảo khoan thai đáp:

- Bẩm, việc cũng có cần kíp, nhưng nay tôi đến được sớm, thành ra còn dư nhiều thì giờ. Vậy, trước hãy xin được trình lên Sứ quân các tặng phẩm của Động chúa chúng tôi trước đã.

Nói xong, Lê Thảo quay sang Đinh Điền khe khẽ gật đầu, Điền hiểu ý liền đứng dậy hướng về phía Sứ quân cất giọng oang oang như chuông đồng mà rằng:

- Mạt tướng xin phép!

Nói rồi, quay gót ra ngoài, giây lát dẫn mười hai giáp sĩ bước vào người bưng mâm, kẻ khiêng hòm, cả bọn vào trong đại sảnh đến trước mặt Sứ quân thì đứng cả lại. Lê Thảo liền đứng dậy nói:

- Bẩm Sứ quân, bẩm tiên nương, Hoa Lư chúng tôi đất cằn, nhiều núi hơn rừng, thành ra từ xa lặn lội đến đây tiếc một điều chẳng kiếm được báu vật để kính biếu Sứ quân cùng tiên nương. Tuy thế, động chúa chúng tôi nghĩ rằng: Sứ quân hùng cứ ở nơi ruộng nhiều, người đông, chẳng còn thiếu gì nữa, nhưng chắc có thiếu cũng chỉ thiếu những đồ quê kệch ở rừng, cho nên sai chúng tôi mang phẩm vật dâng lên Sứ quân, tiên nương và dặn rằng: “Thế nào cũng xin sứ quân, tiên nương lượng thứ trước, rồi mới dâng lễ vật lên sau”.

Sứ quân nghe Lê Thảo nói, trong lòng rất vui, ngài cười lên ha hả mà rằng:

- Tốt! Tốt! Ngài bận lòng chi lắm mà phải rào trước đón sau như vậy! Động chúa Hoa Lư yêu mà cho đồ vật, thế là mừng lắm rồi, sá gì đồ ấy là quê với chả kệch!

Còn Hồi Chúc Tiên Nương cứ chúm chím cười duyên, không nói gì cả. Lê Thảo nghe Sứ quân nói thế, đáp rằng:

- Bẩm Sứ quân, được Sứ quân rộng lượng như thế, tôi chắc chuyến đi Đằng Châu của tôi không làm nhục mệnh Động chúa.

Nói rồi, sai Đinh Điền lần lượt mở khăn điều đậy từng mâm lễ vật, mở đến đâu Lê Thảo ứng tiếng giải nghĩa rõ ràng từng thứ đến đó; nào là mắm “đại hỏa hàm” xã An Vệ, tức là mắm rươi trước vẫn tiến về kinh đô Cổ Loa, nào là thổ trà đất Lạc An còn quý hơn cả hầu trà ở Ngũ Đài Sơn bên Tàu, nào là mâm sơn dược kèm theo mật ong, tức là khoai mài luộc bằng sương hứng ở lá sen, rồi thì mâm bảy cái “Chương bào” tức là con mang bào thai mổ bụng nai mẹ mà lấy ra, mâm khác lại đựng một khay mật gấu Nga Sơn…, mâm nào cũng có kỳ vật hiếm thấy ở đời, sứ quân lấy làm vừa ý, chúng tướng văn võ cố vươn cổ nhìn cho rõ, ai cũng lắng nghe rồi bàn cãi lao xao. Đến mâm cuối cùng, Lê Thảo hướng về nàng Hồi Chúc mà rằng:

- Bẩm tiên nương, động chúa chúng tôi từng nghe mỹ danh tiên nương, hiềm một nỗi ngựa trận chỉ quen đạp bụi chiến trường chứ chẳng quen len lỏi tìm báu vật ở đời, thành ra động chúa chúng tôi băn khoăn mãi không biết lấy đâu ra vật quý để dâng biếu tiên nương. Sau sực nhớ: ở An Hóa có loại ban trúc có vằn cực đẹp, liền truyền quân đi chọn những cây nào sống qua một trăm năm, tức là những cây phải có hoa rồi mới được chặt về. Quân đi gần tháng trời, chỉ tìm được có hai cây. Động chúa gọi bảy người thợ khéo nhất chúng tôi, sai chẻ tre ban trúc, làm thành một chiếc quạt quý. Sau lại sai Thần y ở núi Gối luyện cho bài thuốc cực quý, đem ướp tẩm vào quạt, mùa hè quạt lên gió phe phẩy đượm hương thơm làm cho tâm hồn như thái lâng lâng, người không được khỏe mạnh dùng quạt ấy tà khí phải tiêu tan, mùa rét đem ra phe phẩy thì quạt lại phát ra hơi ấm quyện hương nồng thật dễ chịu. Động chúa chúng tôi truyền đem chỗ tre ban trúc còn lại làm thành chiếc hộp, trong đựng quạt quý, hôm nay tôi nhiệm mệnh động chúa Hoa Lư mang quạt ấy dâng lên tiên nương để tỏ lòng kính mộ của động chúa chúng tôi.

Tiên nương nghe nói, miệng hoa không ngớt tủm tỉm cười, sắc mặt rạng rỡ, cặp mắt long lanh vui khôn xiết tả. Tới lúc Đinh Điền với tay nhấc mảnh vải điều đậy mâm ra, cả nghị sảnh chợt im phăng phắc. Trên từ Sứ quân, nàng Hồi Chúc, xuống đến các tướng văn võ, ai cũng chú mục nhìn vào mâm. Giữa mâm, một chiếc hộp nhỏ, dài không qua một gang tay, sắc vàng tươi do nhiều mảnh tre ghép lại, những đường vân trên vỏ tre ăn khớp vào nhau thật khéo léo. Lê Thảo trịnh trọng bưng chiếc hộp tre, mang lại trước nàng Hồi Chúc, rồi thận trọng mở hộp ra.

Chỉ một mình Hồi Chúc là thấy chiếc quạt. Giữa lòng hộp bọc da mèo rừng, chiếc quạt nan tre xếp gọn màu như hổ phách. Hồi Chúc chớp chớp mắt nhìn Lê Thảo, rồi đưa tay nhấc chiếc quạt ra, cả nghị sảnh đổ dồn mắt nhìn vào bàn tay nàng. Hồi Chúc từ từ xòe quạt, quạt thật mỏng, vân thật rõ như trời chiều ửng ráng mây hồng, nàng nhẹ tay phẩy quạt, quạt cho Sứ quân vài lượt.

Lập tức, cả nghị sảnh đường nóng bức vì đèn đuốc rực rỡ, thoảng có mùi thơm huyền diệu từ chiếc quạt phát ra. Mùi thơm không thể nói đích là hương thơm gì, nó man mác như từ một vườn ngàn hoa ở mãi xa xa theo gió thoảng lại, mùi hương làm tỉnh người thật kỳ diệu, ai cũng nức nở khen là quạt quý! Hồi Chúc quạt vài cái sang Sứ quân, rồi nhẹ nhẹ phẩy quạt vào mặt hoa, hương thơm từ quạt bay ra bây giờ mới thật là dịu dàng, tươi mát, đượm khắp cả đại sảnh mà vẫn không nồng quá, thoang thoảng mà lại thật quyện, mọi người như tỉnh như say, lâng lâng trong ngàn hương quyến rũ lạ lùng!

Cả nghị sảnh đường như mơ, ai nấy còn đang bàng hoàng, chợt Lê Thảo lại nói:

- Quạt quý còn có chỗ quý hơn nữa, là diệu dụng của nó trong lúc thời khí nặng nề, ma quỷ ám chướng, người đau ốm dùng quạt này hết bệnh tật, chỗ tà ma có quạt đến đâu là tan ma quỷ đến đấy, nếu quạt luôn luôn giắt trong người thì kéo dài tuổi thọ, lúc chết đem theo bên mình thì vạn năm xương không tan. Sở dĩ quạt có được cái tính có một không hai trên đời này cũng là nhờ đã được phổ vào đấy phép “giam sao giải họa”.

Sứ quân là người nặng lòng tin vào quỷ thần, thích hỏi đồng cốt hơn là nghe lời thủ hạ bàn luận khuyên can, nên nghe Lê Thảo nói đến phép thần “giam sao giải họa” phổ vào quạt quý, thì trong lòng lấy làm tò mò lắm chịu không được, liền hỏi:

- Ngài bảo phép “giam sao giải họa” đem phổ vào quạt là thế nào?

Lê Thảo ung dung, mỉm cười mà rằng:

- Trên trời có muôn vạn sao, dưới đất ngoài con người, lại có muôn muôn sinh vật khác nữa, đây là cái sống nhìn mà thấy. Còn cái sống không nhìn thấy được, là thế giới của quỷ thần. Thế giới loài người ta huy động sai bảo được, thì thế giới quỷ thần ta cũng huy động sai bảo được! Con người sức có hạn, quỷ thần cùng với trời đất sống lâu chẳng hết, vì thế sức mạnh của quỷ thần lớn lắm. Cao hơn một bực, là muôn sao, mỗi sao ứng vào một bực thần tiên, vận hành ảnh hưởng vào mạng sống của con người, mỗi người có một số sao quản mệnh; sao quản mệnh xấu, ắt con người chẳng ra gì. Bực thần tiên hiểu biết muôn sao vận hành, nhìn rõ lòng người, biết sai bảo quỷ thần, có thể làm phép dịch sao, đổi mệnh được. Cao hơn một bực nữa, là phép giam sao vào phương hướng nhất định, bắt phải bảo hộ cho mệnh người, như thế là giải được mọi hạn, đạt được ước muốn!

Trên từ Sứ quân, nàng Hồi Chúc, xuống đến các tướng văn võ, thảy đều kinh dị, ai cũng kính phục Lê Thảo lắm. Sứ quân lại hỏi:

- Thế phép “giam sao giải họa” phổ vào quạt quý này, phải làm thế nào?

- Bẩm, phép giam sao giải họa khó khăn lắm, nói không hết được! Chỉ xin vắn tắt rằng: sao Tử Vi đem giam vào chính Ngọ, lại bắt Thái Dương - Thái Âm đứng chầu hai bên, luận theo phép vận hành của trời đất trong bốn mươi chín ngày biến hóa làm cho muôn sao không đi sai đường chỉ bảo, khiến cho đổi hẳn số mạng con người. Đen huyền bí vô cùng ấy án vào các phương vị trên cây quạt, có khác nào nắm giữ trong tay lẽ huyền bí cực mạnh của trời đất không? Ai giữ cây quạt có khác nào sai được cả thần thánh, bảo được cả quỷ thần, tự mình định cho mình lẽ hưng thịnh muôn năm hay sao!

Lê Thảo giảng một thôi một hồi, cả nghị sảnh im phăng phắc, không người nào là không ngẩn ngơ. Lê Thảo nhận thấy trong hàng bên phải Sứ quân, có một nhân vật văn sĩ mặt trắng, tóc đen biếc, hai mắt hơi xếch mà long lanh, mũi dài như giọt mật chảy, mệng rộng môi mỏng, tuổi khoảng bốn mươi, vẻ thông minh nhiều thủ đoạn, người này ngồi nghe chăm chú nhưng có vẻ không tin mấy. Lê Thảo mỉm cười thoáng nảy ý hay nhưng còn để dạ. Chợt Sứ quân lại hỏi:

- Ngài giảng hay lắm! Chẳng hay ở Hoa Lư ngài ai là người có tài làm được phép “giam sao giải họa, đổi được số mệnh” như thế?

Lê Thảo tủm tỉm cười mà rằng:

- Bẩm Sứ quân, tại hạ không dám nhận là người tài “giam được sao, đổi được cả số mệnh”, nhưng vì từng nghe Đằng Châu có quý nhân bên cạnh Sứ quân, nên mới ra công lập đàn cáo tế trời đất, đem huyền bí phổ vào quạt để Động chúa tôi được một phen tỏ lòng kính ái Đằng Châu đấy ạ!

Sứ quân Bạch Hổ nghe nói rất hài lòng. Hồi Chúc lại một phen nữa thấy xôn xao trong dạ, nàng cho rằng chính Lê Thảo ra tài để tặng riêng nàng chiếc quạt!

Lê Thảo đáp xong lời Sứ quân, lại nói tiếp:

- Bẩm Sứ quân, Động chúa tôi còn truyền đem tặng Sứ quân một vật nữa!

Rồi Lê Thảo truyền quân khiêng chiếc hòm lại trước mặt Sứ quân. Sứ quân có vẻ ngạc nhiên không biết trong đựng vật gì, chúng tướng văn võ cũng có ý nóng ruột đợi xem. Đinh Điền mở nắp hòm, cúi xuống nhấc bộ giáp của tướng triều đình Đỗ Xuân Dũng giơ cao lên. Đinh Điền vóc người đã lớn, mà bộ áo giáp đem ướm vào người Điền còn lớn hơn nhiều lắm. Chúa tôi Sứ quân Đằng Châu không hiểu sự tích bộ giáp, ai cũng im lặng đợi Sứ giảng. Lê Thảo nói:

- Bẩm Sứ quân, Cổ Loa đem ba quân tướng sĩ mạnh như hùm beo xuống đánh Hoa Lư chúng tôi, quân đông, ngựa mạnh, tướng nào cũng thiện chiến dũng mãnh. Hoa Lư chúng tôi đương cự nhiều phen, may nhờ ai cũng hết lòng nên không đến nỗi bị thua. Đại tướng Phạm Cự Lượng ra trận liên miên không dứt, các tướng khác ai cũng vào trận vài ba lượt cả. Mới đây đại quân Cổ Loa bị đốt ở Đa Giá, có Phó tả tướng bị tướng Hoa Lư giáp chiến bắt sống được đem về. Nhưng dọc đường bị tướng Hoa Lư quá tay kẹp chết, thành ra mới có bộ giáp này đây!

Trên từ Sứ quân Bạch Hổ, Hồ Chúc, xuống đến chúng anh hào Đằng Châu ai nghe nói cũng lấy làm ghê mình. Lê Thảo liền thuật rõ từ đầu chí cuối, thuật xong bảo Đinh Điền chỉ rõ chỗ thủng trên áo giáp vì ngọn giáo của Nguyễn Bặc đâm qua, Đinh Điền vạch chỗ thủng, ai thấy cũng ghê sợ.

Lê Thảo thừa cơ mà rằng:

- Bẩm Sứ quân, Động chúa Hoa Lư tôi sai mang bộ giáp này tặng Sứ quân, có ý đem chiến công của Hoa Lư tặng làm thịnh vật cho Đằng Châu đấy ạ!

Sứ quân Bạch Hổ nghe nói, lấy làm cảm kích, luôn mồm nói “Đa tạ! Đa tạ!”. Lễ vật đem cất vào, đâu đấy xong xuôi Sứ quân mới hỏi:

- Nay Động chúa Hoa Lư cho ngài tới Đằng Châu, lại cho nhiều vật quý, chẳng hay Động chúa có gì sai bảo?

Lê Thảo ra vẻ trầm ngâm một lát, rồi hỏi:

- Bẩm Sứ quân, Hoa Lư tôi ở mãi phương Nam, một mình không xâm phạm đến bờ cõi của ai, Cổ Loa hưng binh Nam phạt há chẳng là đã có chủ trương rồi sao?

- Chủ trương của Cổ Loa như thế nào?

- Bẩm, Cổ Loa cho rằng: thiên hạ anh hùng mỗi người hùng cứ một nơi, chiêu mộ binh tướng, đào lũy đắp thành, tích trữ lương thảo, rõ ràng là muốn tranh hùng mai sau. Riêng có Hoa Lư chúng tôi, núi nhiều đất ít, tuy được Sứ quân Trần Lãm trước lúc qua đời có giao cho binh quyền, nhưng lại chẳng lấy làm điều tự đắc để cùng anh hùng bốn phương tranh đua. Hoa Lư chúng tôi chỉ một lòng nuôi sức đợi minh chúa mà thờ, tìm người hiền mà theo về giúp rập. Cổ Loa nay suy đồi, công lao của Tiên Đế chẳng được con cháu tài bồi, toàn những kẻ bất tài kém đức ngồi ở chốn miếu đường, làm cho thiên hạ điêu đứng, vì thế anh hùng mới nổi lên khắp nơi. Cổ Loa không đánh ở đâu, mà lại kéo quân xuống Nam đánh Hoa Lư, có khác nào tuyên cáo với anh hùng trong thiên hạ rằng: Hoa Lư mới là đáng sợ hơn cả hay không?

Lê Thảo nói một thôi một hồi, rồi ngừng lại có ý đợi chờ cho ý nghĩa câu nói của mình ngấm thật kĩ vào đầu óc chúa tôi Đằng Châu, sau mới lại tiếp:

- Bẩm, một ngọn lửa của tướng Đoàn Phúc Hải đốt sạch quân lương, đủ để đại quân của Cổ Loa phải hoang mang rối loạn mà chạy về, nhưng Cổ Loa nghĩ rằng: Hoa Lư chúng tôi sức chẳng được lâu, mới có lưu binh tử chiến. Nay Cổ Loa như cá nằm trong rọ, như ruồi muỗi bị lửa đốt cháy cả cánh, làm sao đương cự được với hùng binh Hoa Lư nữa! Bởi thế, Hoa Lư chúng tôi mới dàn đại quân, đợi cho Cổ Loa tự bước vào chỗ chết. Nhưng Hoa Lư chúng tôi dàn trận, tự biết lẽ tiến lui, dành cho Cổ Loa đường tốt mà chạy về, Động chúa chúng tôi nghĩ rằng: đường tốt không gì bằng quan lộ, mà quan lộ lại tốt hơn cả nếu băng qua Đằng Châu mà ngược lên phía Bắc. Bởi thế, Động chúa chúng tôi lại nghĩ: việc binh Hoa Lư với Cổ Loa, không xâm phạm gì tới Đằng Châu, sao lại để cho Đằng Châu tự nhiên vạ lây? Vì thế, Động chúa Hoa Lư mới sai tôi gấp đường lên Đằng Châu trình bày mọi lẽ, trước là cáo lỗi với quý Sứ quân, sau xin được cùng Sứ quân định kế nào để tránh họa binh Cổ Loa tháo chạy làm thiệt hại đến Đằng Châu.

Lê Thảo nói năng như mây tuôn nước chảy, thật rành mạch, lại ngầm đe dọa mãi, khiến cho chúa tôi Đằng Châu vừa phân vân, vừa kinh sợ chẳng biết nói sao, tất cả cứ ngồi im mà nghe. Cả nghị sảnh đường im lặng, không ai thốt một lời, Sứ quân Bạch Hổ tay vuốt râu năm chòm ra chiều suy nghĩ lung lắm. Chợt nàng Hồi Chúc hỏi:

- Thưa ngài, nếu Hoa Lư binh hùng tướng mạnh, chỉ một trận nữa là giết sạch quân Cổ Loa, sao không giết cho hết mà lại mở đường cho chạy như thế?

Lê Thảo mỉm cười mà rằng:

- Thưa Tiên nương, không phải Hoa Lư không đủ sức giết sạch binh Cổ Loa! Mới có vài ngày giao tranh, cái thế được thua đã rõ ràng ai còn không thấy. Nhưng thưa Tiên nương, Động chúa Hoa Lư chúng tôi mình tuy mặc võ phục, nhưng lòng lại nhân đức vô cùng, nghĩ rằng: Cổ Loa không giữ được nghiệp lớn của tiên vương, lại không lượng sức mà đem binh Nam phạt, làm cho trăm dân khổ cực, binh xuống Nam không ai muốn ra trận, chẳng qua bị bức bách mà phải cầm gươm xốc giáo đấy thôi. Nay, nếu Hoa Lư tận sát binh Cổ Loa, có khác nào giúp tay cho phường ngu tối để xé thêm vết thương nhầy máu của dân chúng thêm không! Vì thế, mới có việc mở đường cho Cổ Loa chạy đấy ạ!

Văn sĩ mặt trắng bỗng cười khẩy một tiếng, vẫn không nói gì. Sứ quân hơi nhíu mày có phần ngạc nhiên, Lê Thảo thì tủm tỉm cười, biết là “anh mặt trắng” bắt đầu nóng ruột rồi. Quả nhiên, văn sĩ đứng dậy vòng tay hướng về Sứ quân mà rằng:

- Bắm Chúa công, từ xưa đến nay, tôi chưa từng nghe ở đâu lại có chuyện: tìm đứa khỏe mà đánh, xông vào chỗ nguy hiểm để chuốc lấy cái chết bao giờ! Cổ Loa mang binh đi đánh Hoa Lư, không đánh các Sứ quân khác ở gần, lặn lội xuống tận phương Nam như thế, há chẳng phải là định chọn chỗ yếu nhất mà sát phạt, trước là dành lấy cái tiếng để chinh phục các Sứ quân khác sau rồi mới chấn chỉnh lại nội bộ rồi đem cái vốn sẵn lời ấy ra tranh đua với thiên hạ!

Sứ quân nghe nói gật gù, có ý thích thú, chúng anh hào Đằng Châu ai cũng tở mở có ý hài lòng. Sứ quân khe khẽ ngẩng đầu nhìn Lê Thảo có ý giục trả lời. Lê Thảo hiểu ý, khoan thai cất giọng mà rằng:

- Hồi tôi chưa vào Hoa Lư, lúc đi đến Bằng Nho có nghe câu chuyện: ở xã Thanh Hồi hạ có gia đình hào phú, chỉ có một đứa con cầu Trời cầu Phật mà có. Thằng con ấy lớn lên thông minh lắm, có một đêm nằm ngủ mơ thấy cưỡi con cóc đen lội chơi trong suối, lại có thầy bói đoán rằng: con cóc là cậu ông Trời, cưỡi con cóc đen là điềm sau sẽ lên ngôi thiên tử. Từ đấy, hào phú ra sức nuôi dạy người con, mong sau này chiếm được thiên hạ. Nghe chuyện lạ, tôi có để ý xem xét phong thổ, hy vọng có minh chúa mà thờ. Đến lúc dò xét xong, trong lòng lại càng kinh dị...

Từ lúc nãy Lê Thảo đã nhận thấy văn sĩ mặt trắng là người lanh lợi hơn cả ở Đằng Châu, có ý tìm cách khiêu khích, chưa kịp ra lời thì chính văn sĩ lên tiếng trước. Lê Thảo kể lại chuyện xưa ở Bằng Nho, rồi lại ngập ngừng, cốt ý làm cho Sứ quân Đằng Châu nghi ngờ, sau mới giảng rõ. Quả nhiên, Sứ quân vội vàng hỏi:

- Ngài kể nốt đi! Sau thấy thế nào?

Quả thật ở Bằng Nho có chuyện như Lê Thảo vừa kể, người nằm mơ cưỡi cóc đen không ai khác mà chính là văn sĩ mặt trắng. Lê Thảo ngập ngừng cốt để Sứ quân Bạch Hổ nghi ngờ văn sĩ, dồn văn sĩ đến chổ nguy sẽ cứu sau có thế mới khuất được y mà dùng làm nội ứng bên cạnh Sứ quân. Lê Thảo tuy đoán già mười phần người cưỡi cóc là văn sĩ nhưng chưa chắc hẳn, mắt tuy không nhìn nhưng cũng liếc thấy văn sĩ có vẻ bối rối lo lắng. Lại thấy Sứ quấn bồn chồn lắm, biết là Sứ quân sợ, liền thủng thẳng mà rằng:

- Bằng Nho ở phía Bắc có gò nổi như hình cây đàn, quá về phía Tây lại có hồ nước hình như nghiên mực, rõ ra phong thổ hiển hiện văn nghiệp. Ở mé Đông, đất cao mà phẳng như nền cung điện, giáp Tích Nhược lại có rặng đồi trọc, cao giữa thoai thoải ở bên, tựa như chiếc ngai vua, bên phải có Đá Chu, bên trái có rừng Mật, rõ là địa thế tả hữu kết hợp đợi chờ xuất phát dị nhân...

Lê Thảo ngừng lại, kín đáo liếc văn sĩ, thấy y ngồi như chết lặng, mặt nhợt như mới ốm dậy. Còn Sứ quân mặt nặng như chì đổ, đầu hơi cúi xuống ra vẻ suy nghĩ lắm. Lê Thảo thấy cả nghị sảnh đường im lặng nặng nề, thì biết rằng không khí nghi kị đã lên cao. Sứ quân không vui, mà văn sĩ thì lo sợ. Lê Thảo ung dung nói tiếp:

- Bẩm Sứ quân, phong thủy đẹp, địa thế tốt, điềm lạ xuất hiện, thế chẳng là Đằng Châu tất có hùng tài trùm thiên hạ thì còn gì nữa, chỉ tiếc có một điều...

Sứ quân vụt nhỏm dậy, hấp tấp hỏi:

- Ngài bảo chỉ tiếc có một điều, là điều gì thế?

Lê Thảo biết Sứ quân người lòng dạ hẹp hòi, chẳng có chủ trương gì, hễ ai lẹ miệng luận bàn là nghe theo, nay chỉ vì vài lời bịa đặt thêm thắt của Lê Thảo vào chuyện cũ, mà đã vội nghi ngờ rồi có ý khinh bạc thủ hạ của mình, rõ ra là kẻ không thể nên nghiệp lớn được. Nghe Sứ quân hỏi vậy, Lê Thảo nghĩ nhanh trong bụng: “Không nên dài dòng quá, thế cũng đủ dò biết nội tình Đằng Châu rồi, bây giờ nên cứu cả Sứ quân lẫn văn sĩ mặt trắng để mà tìm lợi cho mình là vừa”. Nghĩ rồi, Lê Thảo đáp:

- Bẩm Sứ quân, giống hoa tốt, nở hoa đẹp, chẳng may nhằm mùa giông bão, thế tất hoa chẳng thể nở được lâu, mà cái đẹp của hoa cũng chẳng ai chuộng nữa. Phải đem hoa vào mùa xuân, chọn nơi không lạnh không nóng mà để, lúc ấy mới thấy được vẹn toàn hương sắc của hoa. Bằng Nho phong thủy rất đẹp, nhưng chẳng khác gì có giống hoa tốt mà vẫn chưa có tay thợ khéo trồng, địa thế núi sông gò lạch còn phải có thêm nhiều thứ nữa thì mới mong dị nhân xuất hiện, minh quân ra đời được!

Sứ quân nghe nói thở hắt ra, nhẹ cả lòng, văn sĩ mặt trắng lúc ấy mới nhúc nhích tỏ vẻ dễ chịu, cả nghị sảnh đường như vừa thoát cơn nước sôi lửa bỏng. Lê Thảo thừa biết như thế, không đợi Sứ quân hỏi liền nói tiếp:

- Bẩm Sứ quán, Đằng Châu đất lành, địa thế đẹp, nhưng nếu muốn hưng đại nghiệp thì phải làm cho đẹp thêm đẹp, nhưng đẹp như Đằng Châu là hết rồi. Nay muốn đổi mệnh trời, xoay vận đất, thì phải khác mới được!

Lần này thì đến lượt Sứ quân nóng ruột, chứ văn sĩ tuy có nôn nao muốn nghe nhưng cũng đủ sức cố nén lòng chờ. Sứ quân hỏi vội:

- Ngài bảo làm khác, thì là làm thế nào?

Lê Thảo ngồi ngay ngắn lại, sửa tà áo, nhìn nàng Hồi Chúc, rồi nhìn Sứ quân, sau lại nhìn khắp mặt anh hào Đằng Châu một lượt, rồi hỏi lại:

- Bẩm Sứ quân, Đằng Châu đất lành, anh hào nhiều lắm, liệu có được bao nhiêu được đáng gọi là hung tinh, sát tinh đây?

Sứ quân, Hồi Chúc, cả bọn anh hào Đằng Châu đều ngơ ngẩn, không ai hiểu Lê Thảo hỏi như vậy là làm sao. Sứ quân nhíu mày, Hồi Chức lại hỏi:

- Ngài bảo rằng Châu chúng tôi đất lành, sao lại còn hỏi hung tinh, sát tinh như vậy?

Lê Thảo tủm tỉm cười, hai mắt long lanh nhìn như khen ngợi Hồi Chúc, rồi đáp:

- Bẩm tiên nương, chính ở cái chỗ đất lành ấy mà tôi mới ước lượng xem hung tinh, được độ bao nhiêu, mới có thể xoay vận trời, đổi vận đất được đấy ạ!

Cả nghị sảnh đường Đằng Châu lại im thin thít, không ai hiểu ra sao, Lê Thảo giảng tiếp:

Muốn biết Lê Thảo giảng ra sao để lấy được quân Đằng Châu về giúp Hoa Lư, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—