Hồi Thứ Ba Mươi Bốn Người hiền phải có hung tinh phò tá
Đất hiền phải có sát tinh yểm trợ
Lê Thảo nói:
- Bẩm Sứ quân, giả sử trong thiên hạ, ai cũng là người hiền cả, thì làm gì còn có xáo trộn, nạn binh dao làm gì có nữa. Ấy cũng vì thế, mà giả sử phong thủy phẳng phiu, cả một vùng chỉ là ruộng thẳng, thì sao còn gọi được là phong thủy kì tú nữa. Bên cạnh người hiền, phải có những người linh lợi, quyền biến, có thế mới giúp được người hiền làm nên những việc lớn. Đất không có gò, có suối, cũng chẳng có núi có rừng, làm sao gọi là hiểm địa được?
Chúng anh hào Đằng Châu nghe Lê Thảo nói, không ai cãi lại. Hồi Chúc lại hỏi:
- Thế ngài nghĩ như thế nào về người hiền?
- Bẩm tiên nương, thiếu người hiền thì tất loạn. Nhưng nếu chỉ có người như ông Lưu Bị ngày xưa, thì liệu có nên được đại nghiệp hay không?
- Ngài cho Đằng Châu ai là người hiền, ai không hiền?
- Bẩm, người hiền ngày xưa là Lưu bị, chứ không phải là Quan Công hay Trương Phi. Người hiền phải ở ngôi cao, trung thần giữ việc phò tá, cái lẽ ấy có bao giờ sai lạc được đâu?
- Như thế, thì Nam Tấn Vương ắt là người hiền, vì chung quanh có biết bao văn võ triều thần giúp rập, sao không nên đại nghiệp?
- Người hiền Nam Tấn Vương không phải tự nhiên mà có, chẳng qua chỉ là thừa nghiệp tiên vương mà lên; vả lại, chung quanh Nam Tấn Vương chưa chắc đã có trung thần lương đống, sao có thể nên đại nghiệp được?
- Thế ngài có cho Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh là người hiền hay không?
Lê Thảo tủm tỉm cười, trong lòng không khỏi ghê nàng Hồi Chúc là người đáo để, câu hỏi dồn dập lại bồi thêm như vậy thật là “quá lắm”. Nghĩ rồi, Lê Thảo khoan thai mà rằng:
- Bẩm Tiên nương, chả lẽ tôi lại tự nhận mình là lương đống của Hoa Lư hay sao? Tiên nương quả nhiên là phúc tinh, hôm nay đến Đằng Châu tôi mới được biết quý Sứ quân có quý nhân bên cạnh, làm gì mà chẳng thành công! Tôi xin được hỏi lại Tiên nương một câu…
Hồi Chúc nghe Lê Thảo tránh câu hỏi của mình, khéo léo mà thác ra việc không nhận mình là lương đống của Hoa Lư, rõ ra là “nhận mà không nhận”, trong lòng lấy làm phục lắm, sực nghe Lê Thảo nói như vậy liền đáp ngay:
- Ngài cứ tự nhiên.
Lê Thảo trịnh trọng:
- Thưa tiên nương, giả sử Đằng Châu có người hiền nuôi mộng trùm thiên hạ mà không phải là Sứ quân, thì liệu Tiên nương sẽ đối phó như thế nào?
Cả nghị sảnh đường im thin thít, Sứ quân hơi nhíu mày, Tiên nương cũng có vẻ ngạc nhiên, nàng hỏi lại:
- Chẳng hay ngài hỏi như thế, là có ý nói đến ai vậy?
- Bẩm Tiên nương, tôi chỉ hỏi vậy thôi, chứ làm gì mà biết được Đằng Châu có ai nuôi mộng lớn, còn cái người năm xưa nằm mộng cưỡi cóc Tiên nương có biết ông ta ở đâu không, nhỡ người ấy lúc này cũng đang mưu đồ việc gì thì sao?
Lần này thì cả nghị sảnh đường không còn im lặng nữa, ai cũng nhốn nháo. Lê Thảo thừa biết văn sĩ mặt trắng bối rối lắm, còn Sứ quân chắc trong lòng giận lắm. Tiên nương nghe Lê Thảo nói, liền hỏi lại:
- Thế ngài có biết “người xưa nằm mộng cười con cóc” là ai không?
- Bẩm, tôi chỉ nghe chuyện, chưa biết người ấy là ai?
Hồi Chúc cười lanh lảnh một hồi rồi bảo:
- Người ấy lúc này có ở đây!
Lê Thảo cười thầm trong bụng, thế là Đằng Châu sắp sửa vào tròng của chàng. Lê Thảo làm bộ ngạc nhiên:
- Bẩm, người ấy có ở đây?
- Phải, người ấy có ở đây!
Lê Thảo làm bộ đưa mắt tìm trong số anh hào Đằng Châu một lượt, rồi nhè nhẹ lắc đầu:
- Ai là người năm xưa nằm mơ thấy cưỡi cóc?!
Sứ quân chịu không nổi nữa, bật nói lên:
- Người nằm mơ thấy cưỡi cóc là ông mặt trắng ngồi kia!
Lập tức Lê Thảo bật đứng dậy, quay đầu chăm chú nhìn văn sĩ. Văn sĩ như ngồi trên lửa bỏng, cả nghị sảnh đường lại im phăng phắc. Lê Thảo vụt cười lớn, cười xong quay sang Sứ quân vòng tay với một vái, rồi lại quay sang Hồi Chúc vái một vái, sau mới ung dung ra chiều hớn hở mà rằng:
- Bẩm Sứ quân, bẩm Tiên nương, tại hạ đi xa lặn lội tới Đằng Châu, trong lòng thường cất chuyện ngày xưa, ai ngờ hôm nay được biết dị nhân ở nơi này! Mừng Sứ quân, mừng Tiên nương có “hung hiền tinh” ở sát bên phù trợ!
Sứ quân ngạc nhiên, tiên nương ngạc nhiên, văn sĩ ngạc nhiên, không ai là không lấy làm lạ lùng về lời nói của Lê Thảo. Sứ quân hỏi:
- Thế nào là “hung hiền tinh” phù trợ?
Lê Thảo ung dung cao giọng giảng:
- Bẩm Sứ quân, chính vì hiền nhân bên cạnh cần có các hung tinh, sát tinh phù trợ mới tốt. Đem cái thế vượng dương để bù đắp vào thịnh âm, há chẳng phải là giao đồng huyền bí của trời đất là gì? Quả nhiên Sứ quân là người hiền, chung quanh có văn võ anh hào đông đủ như thế này, lại được “người cưỡi cóc đen ngao du trong suối” ở dưới trướng, đúng là đất lành lại thêm phong thủy tốt, tất việc lớn phải xong, chỉ hiềm có một điều “đất không tự nhiên mà đẹp, phải ra công bồi đắp” mới xong!
Sứ quân hỏi lại:
- Thế nào là ra công bồi đắp mới xong?
Lê Thảo biết Sứ quân còn chưa hết thắc mắc về việc “người cưỡi cóc đen có thể đang mưu đồ việc lớn”, và cũng chắc văn sĩ mặt trắng trong lòng chưa hết run rẩy, nay Sứ quân hỏi thêm là để dẫn đến hỏi tiếp, liền đáp:
- Bẩm Sứ quân, đất không tự nhiên có địa thế tốt, phải ra sức bồi đắp, chỗ không có núi có gò thì phải khai mạch đào sông, hiểm địa chính tự tay ta dựng thành. Người lo nghiệp lớn, một tay không thể xong việc được, cần có hiền sĩ bên cạnh để bàn bạc, cần có võ tướng giỏi để xông pha trận mạc, đấy gọi là cái thế “đắp núi khơi sông quy tụ hào kiệt” của người ôm mộng lớn đấy!
Văn sĩ mặt trắng nghe Lê Thảo nói trong lòng vơi được lo sợ, Sứ quân cũng bớt được nghĩ ngợi việc người nằm mộng cưỡi cóc ngày xưa. Sứ quân lại hỏi thêm:
- Vậy Hoa Lư có sẵn sông núi hiểm trở, binh hùng tướng mạnh, lại thêm mưu sĩ tài giỏi như ngài, nay đánh nhau với Cổ Loa đã thắng thế, thì điều văn sĩ của ta lúc nãy nói có gì sai đâu, chẳng hay ngài tới Đằng Châu là định làm gì?
Lê Thảo thấy đã đến lúc nói ra điều mong ước, dàn xếp mãi mới có được câu hỏi này của Sứ quân Bạch Hổ, đời nào lại chịu để lỡ, liền sửa lại tà áo, rồi trịnh trọng đáp:
- Bẩm Sứ quân, quả thật cũng có việc “thiên hạ tìm kẻ yếu đánh, chứ ai dại gì gây sự với người mạnh như lời văn sĩ có nói. Nhưng tôi xin được mạn phép Sứ quân mà hỏi rằng: suốt một giải từ Bắc xuống Nam, nước ta có những ai đang gọi mặt anh hùng? Nếu Cổ Loa chọn chủ yếu để sát phạt trước mà lấy tiếng thì tại sao không xua quân xuống Đường Lâm, đường vừa gần, địch lại rất yếu, chỉ một trận là đạp tan thành phá nát Đường Lâm; rồi thừa cái thắng lẫy lừng ấy tung binh đánh ngược lên phía Bắc thì liệu Tam Chế ở Phong Châu, Nguyễn Khoan ở Tam Đái có còn đất sống được quá nửa tuần trăng không? Cổ Loa vượt đường xa, vất vả xuống Nam, đi qua bao nhiêu là vùng hùng cứ của các sứ quân, tinh chẳng tơ hào một chút gì, lẳng lặng đốc quân vây Hoa Lư, hao binh thiệt ba đại tướng, một tướng bị chém cụt tay, vua tôi tất tả đứng không yên, ngồi không vững, tại sao lại bảo được là chọn Hoa Lư là chỗ yếu mà sát phạt trước?
Lê Thảo luận một thôi một hồi như nước chảy mây trôi làm cho không ai biết phải cãi ra sao cả. Nàng Hồi Chúc thấy vậy, tay ngà phe phẩy quạt Ban Trúc, rồi tủm tỉm cười mà rằng:
- Ừ thì Cổ Loa sợ Hoa Lư là mạnh nhất, phải đem quân sát phạt! Nay tình thế như vậy, thì ngài tới Đằng Châu mưu định việc gì?
Lê Thảo cười thật tươi đáp:
- Thưa Tiên nương, đến Đằng Chậu quả là tôi có việc thật, nhưng bảo là “mưu định” thì nhất định chẳng dám!
Sứ quân cười:
- Việc chắc lớn, chẳng thế mà ngài phải cưỡi mây đạp gió đến cho nhanh, lại cho đồ quý hậu hĩ như vậy!
Lê Thảo cũng cười đáp lại:
- Bẩm Sứ quân, việc thì tôi đã nói rồi, là Lê Thảo không muốn để Đằng Châu bị vạ lây vì binh Cổ Loa chạy qua mà gây nên, sau nữa, Động chúa chúng tôi nghĩ rằng chẳng thể nào ngồi im mà cản được quân Cổ loa khỏi phá phách Đằng Châu, nên sai tôi tới trình với Sứ quân là: nên đem binh lập thế trận, làm cho binh Cổ Loa phải chạy theo ý mình, có như thế mới tránh được họa lớn khiến Động chúa chúng tôi ân hận lắm!
Sứ quân nghe nói, hơi nhíu mày có ý không bằng lòng, rồi nghiêm nghị hỏi lại:
- Có phải là Hoa Lư định mượn binh của Đằng Châu ta để chống với binh Triều đấy không?
Lê Thảo nghe nói, không khỏi phục Sứ quân Bạch Hổ cũng có đôi chút sáng suốt, nghĩ rồi liền ung dung đáp:
- Nếu mượn binh Đằng Châu để cự với binh Triều, chẳng hóa ra giết xong cọp lại dùng dao bổ cau mà xả thịt hay sao! Binh Hoa Lư chúng tôi tuy không đông lắm nhưng có thể đánh được ở núi, đánh được ở rừng, dụng đến lửa cũng quen, gặp phải nước biết lội, tướng giỏi tuy không nhiều bằng quân, nhưng thử hỏi: ba tướng Cổ Loa chết trận như thế nào, một tướng bị cụt cả tay, Nam Tấn Vương thân cầm trong trận mà cũng chỉ đủ sức chạy dài, thế thì Hoa Lư có cần phải cầu viện đến gì nữa không? Thành thử như vậy, thì Hoa Lư chúng tôi chỉ có thắng chứ không có bại, chỉ có cứu chứ chẳng cầu cứu viện! Bẩm Sứ quân, tôi đã trình rằng: Động chúa tôi, mình tuy mặc võ phục, nhưng lòng lại nhân đức vô cùng, không muốn Đằng Châu bị vạ lây, nên mới sai tôi đến đây.
Sứ quân Đằng Châu nghe Lê Thảo nói, vừa có ý khinh thị Đằng Châu, lại vừa có ý khoe khoang tự thị, trong lòng chẳng khỏi có ý không vui nhưng nghĩ lại cũng thấy lời Lê Thảo nói chẳng sai. Về phần chúng anh hào Đằng Châu suốt từ đầu đến giờ, chẳng ai có ý gì hay, nay nghe Lê Thảo lớn tiếng khoe khoang, thì cũng có người tức, có người cho là phải. Văn sĩ mặt trắng mấy phen định cất tiếng, nhưng lại chỉ sợ Lê Thảo nói ra này nọ, lỡ ra Sứ quân thêm nghi kị thì nguy, vì vậy văn sĩ mặt trắng đành ngồi im nốt. Sứ quân thấy tình cảnh như vậy, liền hỏi Lê Thảo:
- Thế ngài bảo Động chúa khuyên ta nên phòng bị thế nào?
Lê Thảo tủm tỉm cười nhìn Sứ quân xong lại nhìn Hồi Chúc, nàng đăm đăm nhìn Lê Thảo, Thảo đáp không vội:
- Bẩm Sứ quân, thưa Tiên nương, nếu bảo là Đằng Châu phải ra binh cự với binh Triều thì không phải, nhưng nếu bảo rằng Đằng Châu dàn quân lập trận để đuổi Cổ Loa thì nhất định đúng. Bẩm Sứ quân, mới đây, hai Sứ Tam Đái Phong Châu nghi kị nhau, binh chưa cần ra trận mà Tam Đái đã tan nát cả nội bộ. Nay Cổ Loa xuống tận phương Nam để chinh chiến, bại quân còn đang loay hoay tìm đường chạy về, tại sao Đằng Châu không theo cái gương Phong Châu là xử mẹo để đuổi địch về có hơn không? Vả lại, tránh được nạn bên ngoài tới, tất vững được mà thoát được họa bên trong đấy.
Sứ quân hỏi nữa:
- Xử mẹo thế nào mà lại tránh được họa trong, họa ấy là họa gì vậy?
- Bẩm, phàm đã xảy chiến tranh, thế tất chẳng thể nào tránh được cái nạn: mỗi người một ý, người muốn đánh kẻ muốn hòa, nội bộ vì vậy sinh mâu thuẫn. Tránh được chiến tranh, thì làm gì còn có họa chia li nữa!
Văn sĩ mặt trắng nghe nói, lại như ngồi trên đống lửa, trong lòng thầm oán Lê Thảo lắm, lại chỉ sợ Sứ quân nhỡ không tinh minh sáng suốt nghe lời Lê Thảo mà nghi kị thì nguy lắm. Lê Thảo cũng biết tình thế như vậy, liền nói tiếp:
- Bẩm Sứ quân, bây giờ cái thể của Cổ Loa như thế nào, ngài đã rõ. Mà cái thế của Đằng Châu ra sao, Sứ quân cũng hiểu cả. Lại thêm ý của Động chúa chúng tôi, thật chỉ muốn tránh ân hận mai sau, cho nên mới sai tôi lên Đằng Châu như thế này. Chỉ xin Sứ quân cho là phải mà hành động ngay, có như thế chuyến đi của tôi mới không nhục mệnh bề trên, Động chúa chúng tôi cũng khỏi phải ân hận mai sau. Chỉ cần Đằng Châu dàn quân làm kế “đánh mà không đánh”, là đủ tránh cho trăm dân họa binh đao, giữ vững được bờ cõi, há chẳng là việc nên làm lắm hay sao?
Sứ quân băn khoăn không biết nên quyết định ra sao, hết nhìn chúng tướng văn võ, lại nhìn Hồi Chúc như có ý hỏi ý kiến. Văn sĩ mặt trắng lúc ấy mới nói thêm:
- Bẩm Sứ quân, quả thật nạn binh đao nên tránh, chi bằng ta cứ bảo sứ giả trình bày ra xem cái kế “đánh mà không đánh” phải làm như thế nào, xem sao đã!
Sứ quân gật gù, Lê Thảo hiểu rằng: như thế là Đằng Châu đã có ý khuất phục rồi, nếu không thì tất đã có chủ ý mà thoái thác ngay lời của Lê Thảo mới đúng. Lê Thảo chưa kịp nói, Sứ quân đã bảo:
- Này Sứ giả, đành rằng Đằng Châu ta không muốn có họa binh đao, nhưng nếu phải ra quân thì Đằng Châu ta há sợ gì ai! Nay ngài nói thế, thì theo như chỗ thấy của ngài, cái thế dàn quân của Đằng Châu ta như thế nào?
Lê Thảo cười thầm trong bụng: “Rõ ràng là Đằng Châu khiếp nhược, dám xưng hùng một nơi, xưng là Sứ quân giữa thời thiên hạ tranh hùng như thế nào mà lại bảo là không muốn có họa binh đao, thì chắc là muốn cầu được yên ổn hưởng lạc chắc!”. Nghĩ rồi, liền cao giọng giảng:
- Bẩm, Sứ quân thấy cái thế tiến thoái của Đằng Châu như thế nào? Sứ quân chợt cười lên ha hả mà rằng:
- Cái thế của Đằng Châu ta ư? Tổng Trấn Đại Doanh Tướng Chu Trạch Phương đâu rồi, giảng cho Sứ giả Hoa Lư nghe xem sao nào!
Lập tức, tướng tổng quản Đăng Châu Chu Trạch Phương đứng dậy, Chu mặt đỏ như trát chu sa, mắt một mí hơi xếch, búi tóc thật to giữa đỉnh đầu, tướng Chu xử cây Đại Phủ, có sức mạnh lắm. Chu Trạch Phương nghe Sứ quân bảo, liền cất giọng, giọng của Chu làm cho Lê Thảo và Đinh Điền ngạc nhiên thêm nữa là nó êm ấm lắm, chứ không có vẻ gì là tay võ tướng cả, Chu nói:
- Bẩm chúa công, Đằng Châu ta phía Tây có cả giải sông chẳng khác nào Trường Giang, Dương Tử của nước Tàu, quân thủy chiến của ta đông ba nghìn coi là vô địch về thủy chiến, lại thêm Trấn Giang tướng Nghi Bá Tường với ngọn Trúc Tiên từng ngang dọc trên sóng nước, ai không nghe tiếng! Đằng Châu ta đất giàu người đông, binh trên bộ đông gần sáu nghìn, sức mạnh tuy chưa đọ sức với thiên hạ nhưng cũng thừa bảo vệ được bờ cõi, ai không hay! Tướng của ta, mỗi người giỏi một nghệ. Tả tướng Nam Nhật Huy với cây Liễu Đao có tài một thế chặt được bảy đầu người; Hữu tướng Đào Bích Hải thường được gọi là Lữ Bố Đằng Châu xử ngọn Cương Tiên lúc múa lên đổ nước không lọt vào mình; mỗi tướng một tài, kể nhiều e rác tai sứ giả!
Chu Trạch Phương vừa dứt lời, chợt nghe rầm một tiếng, cả nghị sảnh đường hốt hoảng, thì ra cái ghế gỗ thị thật đồ sộ của Đinh Điền ngồi đã sụp xuống gãy nát. Lê Thảo hơi nhíu mày, chợt hiểu ra, liền vội vòng tay hướng về Sứ quân và nàng Hồi Chúc mà rằng:
- Bẩm Sứ quân, thưa Tiên nương, Kim Côn Tướng Đinh Điền của Hoa Lư ngồi nghe Đại tướng Tổng quản của Đằng Châu giảng về binh tướng Đằng Châu lợi hại ra sao, sợ quá run rẩy đến gãy cả ghế, xin Sứ quân, Tiên nương lượng thứ cho!
Đinh Điền cũng vòng tay vái Sứ quân và Tiên nương, ra vẻ tạ lỗi. Đinh Điền ngồi nghe Chu Trạch Phương khoe binh tướng Đằng Châu, trong lòng bực bội lắm, Đinh Điền có ý coi Đằng Châu chẳng có tướng tài, rặt đồ tôm tép, liền nghĩ cách thị oai ngấm ngầm vận sức đè xuống chiếc ghế đến gãy sụp. Sứ quân, Hồi Chúc, đến các tướng văn võ, ai cũng thấy gai gai ở sau lưng vì sức mạnh kinh hồn của tướng Hoa Lư, nhưng nghe Lê Thảo nói vậy đành chỉ cười duyên mà thôi! Sứ quân bảo:
- Võ tướng Đinh Điền, ông run thế nào mà dữ thế!
Nói rồi ngửa mặt mà cười, lại truyền quân thay ghế cho Điền! Sứ quân đợi cho nghị sảnh đường hết nhốn nháo, mới nói tiếp:
- Đằng Châu ta mạnh như thế, chả có lẽ lại không đỡ được bại quân triều đình chạy qua đây hay sao? Nói thì nói vậy, chứ có đề phòng vẫn hay hơn! Như ngài bảo, Đằng Châu ta nên phòng thủ như thế nào?
Lê Thảo lấy làm lạ: Đằng Châu nhiều người, giàu của, sao chẳng có lấy được một ý kiến gì hay cả, chỉ rặt những khoe khoang hão với mơ màng chẳng có chủ trương gì, có bao giờ việc trong nhà mình lại cầu người ngoài dàn xếp hộ như thế này không? Nghĩ rồi, liền đáp:
- Bẩm Sứ quân, đại tướng thủy chiến giăng quân giữ giải Trường Giang của Đằng Châu, thì dù triều đình có đem quân đánh tới cũng không qua được, chứ làm gì còn có chuyện bại binh có cách vượt sông được nữa...
Lê Thảo nói tới đây thì ngừng lại, đợi xem thái độ Đằng Châu thế nào. Quả nhiên, Sứ quán cười ngất ra chiều khoan khoái, tướng Tổng quản họ Chu thì mặt mày vênh vênh ra chiều đắc chí, các tướng cũng cựa quậy có vẻ thoải mái! Kim Côn tướng Đinh Điền liếc Lê Thảo rồi tủm tỉm cười, trong lòng thầm nghĩ: Quân sư chắc lại sắp chọc Đằng Châu đây! Quả nhiên, Lê Thảo nói xong vẻ mặt nghiêm trang, làm như quả thật là như thế. Đợi cho chúa tôi Sứ quân Đằng Châu dứt tiếng cười khoan khoái, tạm ngưng đắc chí, lúc ấy mới nghiêm giọng mà rằng:
- Bẩm Sứ quân, sông lớn Xích Đằng một giải bát ngát, hai bên lau sậy bạt ngàn, giả sử có kẻ châm một mồi lửa, dụng kế hỏa công để đun sôi nước Đằng Giang, thì liệu đại binh của Trấn Giang tướng Nghi Bá Tường có khua được ngọn Trúc Tiên để dập tắt lửa được không? Bên kia sông có thành lửa, bên này sông một thành lửa, liệu cây Đại Phủ của ngài tổng quản, cây Liễu Đao của Tả tướng, ngọn kích Lữ Bố Đằng Châu có múa may được gì để dẹp lửa không? Lại thêm: đường đất phẳng phiu, liệu mấy trống canh thì đại binh của địch từ ngoài vượt sông tới Đằng Châu thành công! Bẩm Sứ quân, giữ trong, sao bằng phòng ngoài, tướng giỏi đông mà chỉ ngồi làm cảnh, sao bằng cắt quân canh giữ xa gần! Cái thế của Đằng Châu trị thì mừng, loạn thì lo không cùng đấy ạ!
- Có phải ngài định dọa Đằng Châu chúng tôi đấy không?
Lê Thảo sửa lại tà áo, trịnh trọng đáp:
- Thưa Tiên nương, nếu dọa mà thiên hạ đại định thì tại hạ cũng xin được vô phép dọa Đằng Châu! Nhưng, nếu tâng bốc Đằng Châu để rồi ân hận mai sau, thì quả thật tôi không dám! Lúc tôi ra đi, binh Triều đã rục rịch, chắc chỉ nay mai là Đằng Châu thấy lời tôi nói là đúng.
Hồi Chúc lại hỏi:
- Ngài nói đúng như thế nào?
- Bẩm, Động chúa Hoa Lư chúng tôi thừa biết bại binh Cổ Loa đang tìm đường chạy về Bắc, vì thế đã dàn đại quân lẽ ra chỉ thêm một trận nữa là đuổi binh Triều ra khỏi bờ cõi, nhưng lại thấy binh Triều muốn vượt đường băng Xích Đằng mà đi. Hoa Lư chúng tôi thừa biết: Nam Tấn Vương đại bại, tất uất hận lắm, giả sử Nam Tấn Vương có đủ lương thực, tất thế nào cũng cố cầm cự với Hoa Lư thật lâu, nay hết lương thực nhất định phải dòm ngó vào Đằng Châu để hi vọng thêm được lương, bắt được lính, rồi cướp lấy Đằng Châu làm căn cứ tranh hùng lâu dài với Hoa Lư. Động chúa chúng tôi biết vậy, mới đem quân chặn ở Ngọc Lũ, Tam Đái, làm thành bức tường thành kiên cố cản không cho binh Triều chạy, e rằng làm hại đến Đằng Châu, rồi sai tôi gấp rút tới bẩm trình với Sứ quân đấy ạ!
Sứ quân chưa có ý kiến, còn ngồi thừ, thì Hồi Chúc đã lại hỏi:
- Có phải ngài nhiệm mệnh Động chúa Hoa Lư đến đây thuyết phục Đằng Châu ta liên minh với Hoa Lư đánh binh Triều đấy không?
Lê Thảo thầm khen ngợi Hồi Chúc, rồi mỉm cười mà rằng:
- Thưa, Tiên nương quả thật minh linh lắm! Nhưng, Hoa Lư tôi chẳng có ý tranh hùng với thiên hạ, cũng chẳng muốn tàn sát binh Cổ Loa, đã không tranh hùng lại chẳng muốn tàn sát thì còn cầu liên minh làm gì? Giả sử có cầu, cũng chỉ cầu được cùng sống yên ổn, cầu được không ân hận mai sau mà thôi!
Mỗi lời Lê Thảo nói ra, là một lời chẳng muốn quỵ lụy, chẳng xin ai giúp đỡ, toàn là vì nhân đức lo cho thiên hạ mà phải ra tay? Lúc ấy có tiếng cười nhạt, rồi lại có người nói to lên:
- Thôi, thôi! Sứ giả Hoa Lư đến Đằng Châu ta đích thị là để cầu viện binh đấy!
Mọi người giật mình nhìn ra, chưa biết ai vừa mới nói, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—