Hồi Thứ Ba Mươi Sáu Quân ba nghìn mang về dàn trận
Hẹn gió mưa đánh phá binh Triều
Mọi người vừa êm chỗ ngồi, Lê Thảo đã đứng lên trịnh trọng nói:
- Bẩm Sứ quân, thưa Tiên nương, tôi vâng mệnh Động chúa Hoa Lư nửa đêm tới đây, hầu chuyện Sứ quân, Tiên nương lại được các anh hào Đằng Châu không chê mà cho ngồi bàn việc suốt đêm, nay trời cũng gần sáng nếu Sứ quân chưa mệt thì xin được bàn nốt việc.
Sứ quân vốn xuất thân từ nông dân, giàu có mà đứng ra xưng hùng, thức một đêm cũng chẳng lấy gì làm mệt. Còn các tướng, dù có mệt chăng nữa nhưng thấy Sứ quân, Tiên nương vẫn ung dung, sao dám tỏ vẻ muốn nghỉ! Thành ra khi nghe Lê Thảo thưa vậy, Sứ quân Bạch Hổ cười mà rằng:
- Thức một đêm cũng chẳng sao. Ta nên bàn nốt việc là hơn.
Lê Thảo tiếp luôn:
- Bẩm Sứ quân, được như thế tôi xin kính cẩn đợi nghe Sứ quân định liệu.
Cả nghị sảnh đường im phăng phắc. Sứ quân cũng nghiêm trang nghĩ ngợi. Chợt nàng Hồi Chúc hỏi:
- Thưa Sứ giả, Ngài có cho rằng: nếu Đằng Châu chúng tôi không làm gì cả, thì liệu có sao không?
Lê Thảo hơi nhíu mày đáp:
- Thưa Tiên nương, giả sử Hoa Lư chúng tôi không đánh đuổi binh Triều, để mặc cho binh Triều chiếm cứ Hoa Lư, thì nhất định Đằng Châu cứ ngồi yên không sao. Nay binh Triều đại bại, sắp phải cuốn cờ mà chạy, nhưng chưa chắc dã chạy thẳng về Cổ Loa, đường đi thế nào cũng qua ngả Đằng Châu, Đằng Châu đất rộng, người đông, giàu có, làm sao binh Triều không thèm muốn cho được.
Nếu Cổ Loa lấy được Đằng Châu, chẳng khác nào có kho vựa đầy lương thảo, tuyển được thêm quân, lựa được ngựa khỏe, nhất định phải cướp lấy Đằng Châu để rửa nhục bại trận trước Hoa Lư. Tới lúc ấy, thì Đằng Châu dù có muốn ra tay cũng không còn được nữa đấy ạ!
Sứ quân nhíu mày suy nghĩ, Hồi Chúc cũng chẳng biết đấy sao, tướng Tổng quản Đằng Châu là Chu Trạch Phương mới hỏi:
- Thưa ngài, Đằng Châu chúng tôi không phải là không biết sức mình. Nếu phải đánh nhau với binh Triều cũng chẳng đến nỗi đã thua ngay được. Tuy thế, người cầm quân cũng không thể không biết câu: tránh được giao tranh, giữ được an toàn là điều hay nhất. Như vậy, nếu tự dưng Đằng Châu chúng tôi xuất quân giao chiến với Cổ Loa, hóa ra tự nhiên đi tìm chiến tranh, chứ làm gì có an toàn đâu?
Lê Thảo cười mà đáp:
- Đại tướng Tổng quản dạy như vậy là phải lắm. Có điều, có bao giờ Lê Thảo chúng tôi đòi Đằng Châu phải ra binh đâu! Hoa Lư chúng tôi chỉ xin Đằng Châu xuất binh dàn trận, làm thế liên lạc với binh Hoa Lư chúng tôi, cốt để cho bại quân của Nam Tấn Vương phải chạy thẳng về Cổ Loa, chứ không được đổi ý đánh Đằng Châu, làm thế cự lại lâu dài với Hoa Lư chúng tôi.
Lê Thảo chưa nói dứt, Sứ quân đã hỏi:
- Ngài bằng vào đâu mà bảo rằng Cổ Loa không được đổi ý, phải chạy thẳng nào?
- Bẩm Sứ quân, người cầm quân hiểu rõ ruột gan địch, lại bày được trận dàn được thế, làm cho địch phải đi đứng hành động đúng theo ý của ta, thì muốn thế nào mà chẳng được!
- Hoa Lư ngài đã bày trận đàn thế ra sao?
Lê Thảo mỉm cười, hạ ngọn đòn chót mà rằng:
- Bẩm Sứ quân, tôi có trình bày qua lúc nãy rồi, Hoa Lư chúng tôi dàn đại quân từ Ngọc Lũ về tận Lai Xá, lại đặt binh ở bên kia sông trấn giữ Văn Lâm ở mặt Nam. Phía Tây cử tướng giữ vững vùng Cô Nghĩa, lại rải quân từ Kiệm Lộng Sơn về sát Hoa Lư. Bắc dựa núi, Đông nương theo sông, Nam chuẩn bị tiến công. Chỉ còn có mặt Đông Bắc là đường lên Đằng Châu bỏ ngỏ. Nếu một mình Hoa Lư chúng tôi khép kín vòng vây, ít binh Cổ Loa sống một đường, dìm binh Triều lúc nào mà chẳng được? Nhưng như tôi đã nói: Động chúa Đinh Bộ Lĩnh chúng tôi, thân mặc võ phục, nhưng lòng lại nhân đức vô cùng, chẳng nỡ giết thêm binh tướng Cổ Loa, chỉ muốn Nam Tấn Vương mau mau đem đại binh về mà thôi. Nhưng, đường đi chỉ có một, ngả chạy thẳng có hại, binh Triều không thể không mượn đường Đằng Châu mà về. Tới lúc ấy, Đằng Châu không vững thế, phỏng có còn ngồi yên giữ được bờ cõi nữa không, tới lúc ấy nạn binh đao không riêng gì Hoa Lư phải chịu, mà cả thiên hạ cũng đến hồi chém giết nhau đấy!
Cả nghị sảnh đường Đằng Châu lại im phăng phắc, trống tàn canh vừa điểm bên ngoài. Chợt Chu Trạch Phương gặng hỏi:
- Đành rằng binh ra chỉ cần dàn thế, quân chỉ cần bày trận, nhưng thế với trận ra sao để không cần đánh vẫn đuổi được binh Triều?
Lê Thảo giảng:
- Nếu Đằng Châu chịu ra binh, thì phải chia làm hai đường dàn thành trận thế. Một đạo sang sông xuống phía Nam vào Hiển Khánh, hợp với đại quân của Hoa Lư ở Vũ Lâm làm thế giằng co, bám lấy phía sau lưng binh Triều ở mặt Bắc, khiến cho binh Triều dù có muốn dòm ngó Đằng Châu cũng không dám tự tiện hành động. Một đạo nữa đi ngang phía trên Ngọc Lũ, qua Cổ Viên mà xuống Kỷ Cầu làm thế nghi binh cho cả ba đạo đại quân của Hoa Lư ở Vũ Lâm, Ngọc Lũ, Lai Xá, Binh Triều sẽ phải dàn trận ứng phó với đạo quân Đằng Châu ở Kỷ Cầu, nhưng lại bị ba mặt binh Hoa Lư uy hiếp tất không dám giao chiến. Từ thành Ngọc Lũ xuống Hiển Khánh, đường không xa cũng chẳng gần, nhưng thừa đủ để làm cửa ngõ cho binh Triều có lối bằng sông vào Đằng Châu mà chạy lên phía Bắc về Cổ Loa…
Lê Thảo một lời nói ra, là một lời ngầm khoe “đại quân Hoa Lư” đóng ở nơi này, trấn ở nơi nọ, làm ra vẻ binh đông lắm. Khoe chưa dứt, tướng Tổng quản lúc nghe đến chỗ binh Cổ Loa có đường bằng sông vào Đằng Châu mà chạy lên phía Bắc về Cổ Loa, liền hỏi ngay:
- Thế là Ngài mượn binh Đằng Châu để lùa cọp vào Đằng Châu đấy chứ! Làm gì có chuyện giúp Đằng Châu khỏi nạn binh đao đâu?
Nghị sảnh đường nhúc nhích, ai cũng gay cấn lắm, Lê Thảo tủm tỉm cười đối đáp ngay:
- Ngài nói như vậy nhất định không sai! Nhưng có điều chưa đúng là ở chỗ tôi chưa nói hết mà!
Sứ quân vội hỏi:
- Ngài nói nốt xem sao!
- Bẩm Sứ quân, Cổ Loa chỉ có một đường chạy, nhất định phải vào Đằng Châu. Bây giờ hãy xin nói nốt về trận thế bên kia sông Xích Đằng đã. Một đạo quân Đằng Châu đóng ở Kỷ Cầu, chẳng khác nào cái miệng hũ, nút mở là nước tràn ra. Binh Cổ Loa phải đương cự với đạo quân này. Nhưng nhất định binh Đằng Châu không phải vất vả, Hoa Lư chúng tôi không dám để Đằng Châu phải hao một binh, mất một ngọn giáo nào cả. Khi quân Cổ Loa rục rịch, ba mặt binh Hoa Lư chúng tôi sẽ tiến lại ép Cổ Loa phải dừng bước. Lúc ấy binh Đằng Châu chỉ việc đánh trống cho vui, phất cờ cho đẹp mắt, là đủ đuổi binh Triều chạy theo ý muốn! Lúc binh Triều bằng sông vào Đằng Châu, cũng là lúc đạo quân Đằng Châu ở Hiển Khánh nhổ trại hồi hương, đi theo phía sau quân triều đình mà lượm chiến công đấy.
Lê Thảo giảng rõ chiến trận, nghe nhẹ nhàng như sắp sẵn để đi chơi chứ không phải là đem quân vào trận tranh hùng, lại nhất định là binh Đằng Châu chỉ việc khua trống cho vui, phất cờ cho đẹp, lại vừa hồi hương vừa lượm chiến công, rõ ràng chẳng tốn một giọt máu, chẳng mất một ngọn giáo, ai nghe cũng thích!
Sứ quân vui vẻ lắm, hỏi lại:
- Sứ giả Hoa Lư dàn quân bố trận như thế, các tướng văn võ của ta ai có ý kiến gì không?
Văn sĩ mặt trắng, là người lanh lợi nhất trong đám anh hào Đằng Châu, nghe Lê Thảo biện bạch thấy rõ ràng là có lý, nay nghe Sứ quân hỏi như vậy thì quyết rằng Sứ quân đã muốn giúp Hoa Lư, chi bằng nương theo đà mà nói ắt vừa đẹp lòng Sứ quân, lại vừa được cảm tình của Sứ Hoa Lư. Nghĩ rồi liền đáp:
- Bẩm Sứ quân, quả thật cái thể vượt đường xa của Cổ Loa xuống đánh phương Nam, có nhiều bất lợi. Nay binh Hoa Lư muốn tranh hùng với triều đình cũng có thể được, nhưng binh đao là việc không nên. Hoa Lư chỉ xin Đằng Châu ta bày binh cho đẹp, cốt làm kế để đuổi binh Triều mà thôi, chứ không xin ta giúp xương máu, tôi thấy cũng chẳng có gì là quá đáng đấy ạ! Duy có điều, việc binh ta cũng cần nghe ý kiến các tướng thêm đã.
Lê Thảo cười thầm trong bụng: “Anh mặt trắng khiếp ta rồi! Thế là xong một nửa!”.
Các tướng xầm xì bàn tán, cuối cùng Chu Trạch Phương nói:
- Bẩm chúa công giả sử binh phải ra trận để giữ bờ cõi được yên, chúng tôi cũng xin chẳng dám từ chối! Nay việc Hoa Lư cầu ta ra quân, giúp dàn trận để đuổi địch, cũng chẳng có chi vất vả, lại thêm bờ cõi ta vẫn được yên. Nếu Chúa công ra lệnh, chúng tôi xin mang quân vượt đường mà giúp Hoa Lư.
Sứ quân chưa kịp nói, Quân sư Lê Thảo đã đứng dậy vái Chu Trạch Phương một vái mà rằng:
- Hoa Lư chúng tôi thật nhớ ơn Tướng quân lắm lắm!
Sứ quân thật vui vẻ, lại hỏi:
- Này Sứ giả, như vậy Ngài cần Đằng Châu ta cho mượn bao nhiêu binh?
Lê Thảo khoan thai đáp:
- Bẩm Sứ quân, ở Văn Lâm, Hoa Lư chúng tôi đóng hai nghìn quân, nay chỉ cần thêm một nghìn rưỡi binh Đằng Châu làm thế nghi binh nữa là đủ ở mặt Nam. Ở mặt Bắc, Hoa Lư đóng ba nghìn quân ở Ngọc Lũ, ba nghìn ở Lai Xá; trấn rải rác từ Cô Nghĩa xuống Hoa Lư hơn bốn nghìn quân nữa, tổng cộng hơn vạn binh, bọc quân Triều vào giữa. Binh trấn đâu có sứ mạng ở đó, không có binh dẫn đường cho Cổ Loa vào Đằng Châu mà tiến về phương Bắc vì thế mới phải mượn binh Đằng Châu. Hoa Lư cần đạo binh dẫn đường ấy tới đóng ở Kỷ Cầu, đạo binh này không cần chuẩn bị giao chiến, chỉ cần trống trận cho nhiều, cờ xí cho đông là đủ. Hoa Lư xin Đằng Châu cho mượn nghìn rưỡi quân nữa đến đóng Kỷ Cầu, như thể là tổng cộng binh Đằng Châu có ba nghìn tất cả!
Đinh Điền ngồi nghe Quân sư khoe binh Hoa Lư đóng ở đâu cũng vài nghìn. Cộng hơn một vạn, thì trong lòng cười thầm, nhưng vẫn trang nghiêm ngồi nghe tiếp. Sứ quân lại hỏi:
- Ba nghìn quân thì không nhiều gì, chẳng hay ngài đã tính kỹ chưa? Có đủ không?
Lê Thảo đáp:
- Bẩm Sứ quân, thiếu một ngày chẳng đủ gọi một năm, thừa một ngày cũng không bảo là hai năm được. Binh Hoa Lư chúng tôi nhiều nhưng có nơi trấn đóng cả rồi, chỉ cần ít quân làm người dẫn đường cho binh Cổ Loa biết nơi chạy mà thôi, vì thế không cần đông lắm đấy ạ!
Sứ quân rất đẹp lòng, lại nói:
- Đằng Châu ta binh cũng chẳng dám tự cho là nhiều, tướng giỏi cũng không thiếu lắm, ngài cần những ai thì cứ nói!
- Bẩm Sứ quân, đạo binh xuống Hiển Khánh xin Sứ quân cho Hoa Lư tôi mượn bốn tướng, còn đạo binh vào Kỷ Cầu thì chỉ xin một tướng thật giỏi cai quản là đủ rồi.
Sứ quân bảo:
- Vậy các tướng của ta, ai muốn giúp Hoa Lư mà cũng là giúp ta nào?
Các tướng lao xao, nhiều người xin đi. Cuối cùng Sứ quân chọn bốn tướng Cao Hồ Đạo, Trịnh Xuân Thu, Phí Tiên Yên, Phác Đức Giật đem một nghìn rưỡi quân xuống Hiển Khánh. Lại sai Tả tướng Nam Nhật Huy lĩnh một nghìn rưỡi quân nữa vượt đường tới Kỷ Cầu.
Quân sư Lê Thảo nghe Sứ quân cắt đặt xong lại nói:
- Bẩm Sứ quân, như thế là tốt lắm rồi. Tôi xin Sứ quân cũng cho ngài văn sĩ Tôn Phủ Nghi đi theo để thay mặt Sứ quân cùng với Hoa Lư bàn mọi việc quân, ban phát mệnh lệnh cho hai đạo quân Hiển Khánh và Kỷ Cầu!
Văn sĩ mặt trắng nghe Lê Thảo xin như vậy, trong lòng mừng lắm, cho rằng nhất định Lê Thảo có điều gì riêng quan trọng muốn bàn với mình. Về phần Sứ quân, nghe Lê Thảo xin như vậy cũng hài lòng, lại cho là có cơ hội để bộ mặt của Tôn Phủ Nghi khỏi ám ảnh Sứ quân ít ngày.
Tảng sáng hôm ấy, Sứ quân truyền tan họp, Sứ quân về nghỉ ngơi, còn các tướng ai có phận sự gì thì phải lo liệu ngay. Lê Thảo cùng với Đinh Điền xin được đến tạm nghỉ ngơi tại nhà của Tôn Phủ Nghi.
Gần trưa, mọi việc xong xuôi, các tướng đã chuẩn bị đợi lệnh lên đường. Sứ quân lại truyền dọn tiệc để đãi Sứ giả Hoa Lư. Trong tiệc, Sứ quân hỏi:
- Bây giờ quân đã sẵn sàng rồi, bao giờ ngài tính khai quân đây?
Lê Thảo đáp:
- Bẩm Sứ quân, lúc tôi lên đường đến Đằng Châu, binh Hoa Lư các lộ đã trấn xong mọi nơi, binh Cổ Loa cũng đã rục rịch ra trận. Tôi nghĩ rằng: Không nên để cho địch kịp chống đỡ, ta nên hành động ngay thì hơn. Bẩm Sứ quân, tôi định xin Sứ quân ngay xế trưa hôm nay cho quân lên đường đấy ạ.
Sứ quân rất vui lòng, lại truyền tướng Tổng quản mở quân kho, cấp lương cho hai đạo quân Đằng Châu sang giúp Hoa Lư đủ dùng trong một tháng. Sứ quân cho lương rộng rãi như vậy, có ý khoe khoang đất giàu của lắm. Sau lại truyền quần cầm lệnh hỏa tốc ra biên cương báo cho các tướng trấn thủ biết việc, Lê Thảo nói:
- Bẩm Sứ quân, nay tôi cầm quân Đằng Châu về, cũng xin được phép Sứ quân nhờ Đại tướng Trấn Giang Nghi Bá Tường đem thủy quân canh giữ sông dài, lại đưa thủy trại lên phía Bắc, trấn giữ từ Ngọc Cầu lên Ngọc Đồng, để ngỏ phía Nam cho binh Triều có lối đi. Đợi đến lúc binh Triều sang sông vào ngày trăng tròn đã được hai buổi, đại quân Đằng Châu - Hoa Lư xua đuổi ở phía sau, đến ngày Giáp Mùi tức là trăng tròn đã được ba buổi thế nào binh Triều cũng dựa sông mà đóng cọc lên phía Bắc, tới lúc ấy, xin Sứ quân nhớ truyền lệnh cho đại tướng Nghi Bá Tường phải chuẩn bị sẵn đồ nhạy lửa, rắc từ Ngọc Đồng lên tận Bằng Nho, đợi đúng đầu giờ Hợi thì nổi lửa, dựng thành lửa dọc sông, để cho đại binh Đằng Châu từ mặt Nam tiến lên đuổi binh Triều ra khỏi bờ cõi mà về thẳng Cổ Loa. Thế là đại công đã thành, can qua cũng hết đấy ạ!
Sứ quân, Hồi Chúc, các tướng Đằng Châu nghe Sứ Hoa Lư định kế, sắp đặt việc quân, cứ y như bàn việc vui chơi, thật dễ dàng mà quyết đoán lắm, ai cũng nghi ngờ, trong lòng có phần ghi ngại lắm. Sứ quân hỏi lại:
- Thế nhỡ binh Triều không sang sông đúng vào ngày trăng tròn đã được hai buổi, thì ngài tính sao? Chả lẽ cứ đợi giờ mà đốt lửa hay sao?
Lê Thảo nhíu mày rồi đáp:
- Giả sử binh Triều cố cưỡng, dám cả gan chống lại các đạo quân của ta, thì cũng chỉ một trận tranh hùng là Hoa Lư thừa sức xua quân Cổ Loa chạy dài. Dù chạy trước hay thua trận mà chạy, thì thế nào binh Triều cũng phải sang sông vào ngày trăng tròn. Nếu binh Triều đại bại, thì việc đại tướng Nghi Bá Tường đốt lửa lại càng đúng nữa. Bởi vì lúc ấy, binh Cổ Loa rất gấp rút chấn chỉnh lại, thấy đi qua Đằng Châu dễ dàng, thế nào cũng sinh lòng tham dừng bước lại mà toan tính hạ trại tính kế lâu dài. Lúc ấy, ngọn lửa của tướng Trấn Giang, mới thật là đặc dụng, kể sao cho hết được. Xin Sứ quân đừng e ngại gì cả nữa!
Sứ quân trầm ngâm không nói, hơi cúi đầu suy nghĩ. Các tướng còn đang bàn tán xôn xao, thì nàng Hồi Chúc đã cất giọng thánh thót mà nghiêm trang hỏi:
- Thưa ngài, trước ngài có nói: sông dài một dải, lau sậy mịt mù, chỉ châm một ngọn đuốc là dựng được thành lửa, nay còn rắc thêm đồ dẫn hỏa, thì rối làm sao mà dập cho tắt được nữa? Tới lúc ấy, tránh được họa binh Cổ Loa, lại gặp phải họa lửa còn lớn gấp mấy nữa thì sao?
Quân sư Lê Thảo mỉm cười thật tươi, rồi đáp:
- Thưa Tiên nương, quả thật lửa ấy là mối lo lớn lắm chẳng sức nào dập tắt cho được, cái họa ấy còn lớn hơn cả họa binh Triều thật! Tiên nương nhìn xa trông rộng, quả là quý nhân trời sai tới giúp Sứ quân!
Tiên nương nghe Lê Thảo hết lời ca ngợi, trong lòng thật sung sướng, cười tươi như hoa. Sứ quân, các tướng cũng đua nhau khen ngợi Tiên nương thông minh liệu trước được mối nguy ấy. Lê Thảo đợi mọi người xôn xao xong, mới nói tiếp:
- Bấm Sử quân, thưa Tiên nương, hồi Hoa Lư chúng tôi đốt lửa ở cửa Đa Giá, chỉ thu hẹp có một vùng nhỏ, sau lại nhờ quân đông mỗi người chỉ một gáo cũng tưới tắt được lửa. Nay cả một dải sông dài, lửa cháy có lẽ đứng ở tận Phủ Sứ quân đây cũng thấy rát mặt, thì chẳng có sức người nào dụi tắt được. Vậy tôi xin phép Sứ quân, nương theo thịnh đức của Tiên nương, mà truyền gọi gió góp mưa, đúng vào đầu giờ Tí ngày hôm đó đổ xuống dập tắt lửa ấy đi. Xin Sứ quân, Tiên nương yên lòng!
Sứ quân, Tiên nương, hết thảy anh hào Đằng Châu nghe Lê Thảo nói như vậy, ai cũng bàng hoàng nửa tin nửa ngờ! Nhân vật văn nhã này có tài cưỡi mây đạp gió, lại còn cả phép màu truyền gió gọi mưa bất cứ lúc nào cũng được nữa ư? Nếu đúng như thế, thì quả đây không phải là người thường nữa rồi!
Lúc ấy, tướng Chu Trạch Phương thắc mắc hỏi:
- Thưa ngài, nay trời cuối hạ tiết Thu đang tới, sao lại có thể có mưa lớn dập tắt lửa như thế được?
Lê Thảo mỉm cười:
- Quả là như thế, Đại tướng cầm quân ắt biết rõ thời tiết, mùa này không thể có mưa lớn được, có mưa chăng nữa cũng chỉ là rây rắc vài hạt, phải đợi đến tháng Tám tháng Chín con nước lớn, mưa mới dữ dội. Nhưng việc quan cấp bách, ta làm gì còn có thì giờ đợi mưa đợi gió được nữa. Vả lại, giả sử vào mùa mưa đổ liên miên, làm sao còn dụng hỏa công cho được nữa. Ấy chính vì thế, tôi mới xin với Sứ quân, Tiên nương, để gọi gió gọi mưa đến giúp ta từ đầu giờ Tí đến đầu giờ Sửu vào ngày trăng tròn đã được ba bữa đấy ạ!
Không ai nghe Quân sư Hoa Lư giảng mà chẳng kinh sợ, ai cũng cho Quân sư là bực thần tiên. Văn sĩ mặt trắng Tôn Phủ Nghi từ lúc được Lê Thảo xin với Sứ quân cho đi theo sang Hoa Lư, rồi Lê Thảo lại cùng Đinh Điền về tạm trú ở nhà y, được nghe Quân sư Hoa Lư nói nhiều việc rõ ra là người uyên bác chẳng có đến người thứ hai ở đời này, thì trong lòng khâm phục lắm, nay nghe Quân sư giảng thế, quả quyết sẽ gọi gió gọi mưa đến giúp sức, thì tin là nhất định đúng, liền nói:
- Bẩn Chúa công, bẩm Tiên nương, tôi đọc sách có nghe nói đến phép “hô phong hoán vũ” nhưng kim cổ rất hiếm người biết được phép màu ấy. Mới đêm qua đây, Đằng Châu đã được chứng kiến quân sư Hoa Lư gọi mây cưỡi mà đến đây, thế tất Quân sư Hoa Lư cũng có thể biết phép gọi mưa kêu gió. Vả lại, tôi nghe Quân sư Hoa Lư gặp được bực thần tiên, lại học được khúc đàn thần lúc gảy lên đem tâm tư phổ vào tiếng đàn, có sức sai khiến mọi người thật màu nhiệm. Học được đàn thần, biết phép cưỡi mây, thì phép gọi gió gọi mưa cũng có thể biết được đấy ạ!
Sứ quân nghe nói, ngẩn ngơ nhìn Lê Thảo. Tiên nương long lanh cặp mắt phượng, trong lòng bỗng nhiên bâng khuâng. Sứ quân là người rất tin những điều kỳ quặc, thích nghe bọn đồng cốt bói toán, nay nghe Tôn Phủ Nghi nói vậy thì không tin sao được! Các tướng Đằng Châu trước vẫn tin theo lời bàn, lắng nghe kiến thức của Tôn Phủ Nghi trong mọi việc, nay nghe họ Tôn nói như vậy, thì có dễ không ai còn nghi ngờ gì về việc Quân sư Hoa Lư biết phép gọi mưa gọi gió nữa!
Lê Thảo nghe Tôn Phủ Nghi nói, trong lòng cười thầm: “Anh mặt trắng này tất sau sẽ được việc lắm! Đằng Châu làm gì có ai được chứng kiến ta cưỡi mây mà đến đâu, thế mà y nói như thật!”. Nghĩ rồi, Quân sư nói:
- Bẩm Sứ quân, thưa Tiên nương, phép thần tiên không phải là lúc nào cũng đem ra khoe khoang được. Việc trọng đại, kính cẩn lập đàn cáo tế trời đất, thì việc dụng phép mới không trái với ý trời đấy ạ! Nay tôi đã xếp đặt xong xuôi rồi, xin Sứ quân cho phép quân lên đường cho sớm, để kịp ngày đón binh Triều sang sông!
Sứ quân rất đẹp ý, bảo Quân sư Hoa Lư cứ việc điều động binh tướng sao cho được tốt thì thôi. Quân sư liền đứng dậy mà rằng:
- Bẩm Sứ quân, Sứ quân đã cho lệnh, tôi xin được hành động ngay. Cả hội im phăng phắc, đợi xem Sứ quân phát lệnh. Sứ quân trang nghiêm bảo:
- Kim Côn Tướng Đinh Điền cùng với bốn tướng Đằng Châu: Cao Hồ Đạo, Trịnh Xuân Thu, Phí Tiên Yên, Phác Đức Giật đem một nghìn rưỡi quân ngay bây giờ xuống phía Nam, đến Hữu Lộc thì sang sông tới đóng ở Hiển Khánh. Tới Hiển Khánh phải hạ trại ngay, cho quân dưỡng sức, liên lạc với hai tướng Đinh Liễn, Phạm Hạp ở Vũ Lâm, kể cho biết việc ta ra quân, rồi cả hai cánh quân phải hết sức cẩn thận, đợi lệnh sẽ có sau!
Tướng Đinh Điền và bốn tướng Đằng Châu dạ một tiếng, tài vái Sứ quân, vái Tiên nương, chia tay các tướng khác, ra khỏi tiệc đem quân đi ngay.
Quân sư đợi cho năm tướng đi rồi, lại nói:
- Tả tướng Nam Nhật Huy xin ông cũng phát lệnh cho quân lên đường ngay, cứ hướng Tây mà tiến phát cho gần đường. Ngài Tôn Phủ Nghi xin cũng cùng đi một lượt với tôi ngay nhé!
Tướng Nam Nhật Huy “dạ” một tiếng, vái chào Sứ quân rồi ra khỏi tiệc phát lệnh cho quân sửa soạn lên đường.
Bên trong, Lê Thảo lần lượt vái chào từng người một, hai ba phen nhắc nhở Sứ quân nhớ lời dặn mà hành động, lại hẹn sau trận đuổi binh Triều thế nào cũng còn tái ngộ lâu dài.
Cuộc chia tay thật mau chóng. Lê Thảo đến Đằng Châu gấp rút, rời Đăng Châu cũng gấp rút. Thế là ngay xẻ trưa hôm mười bốn, Quân sư Lê Thảo đã mượn được ba nghìn binh Đăng Châu về cứu Hoa Lư, tức là sớm hơn được một ngày như định liệu trước.
Lúc quân lên đường, tả tướng Nam Nhật Huy cưỡi ngựa lông trắng như tuyết đi đầu, cầm tướng kỳ đi cạnh ngựa Quân sư, phía bên kia Quân sư là văn sĩ Tôn Phủ Nghi. Quân vừa ra khỏi doanh, trống trong doanh nghe chưa dứt tiếng, sực có quân phi ngựa đuổi theo đến trước quân xuống ngựa quỳ ở giữa đường mà bẩm rằng:
- Bẩm Quân sư, Sứ quân tôi truyền mang ngọc Hỏa Lựu dâng tặng Quân sư, lại dặn nói với Quân sư rằng: “Xong việc binh đao, thế nào Quân sư cũng tới Đằng Châu ngay để uống rượu mừng với Sứ quân tôi” đấy ạ!
Lê Thảo xuống ngựa, kính cẩn đón lấy chiếc hộp nhỏ, trong đựng viên ngọc Hỏa Lựu. Lê Thảo không biết rằng đây là viên ngọc Hồi Chúc thường đeo ở cổ, cứ đinh ninh là của Sứ quân cho thật. Riêng có Tôn Phủ Nghi và Nam Nhật Huy thấy thế, chỉ tủm tỉm cười không nói gì!
Quận lại trẩy đi, vừa ra đến Nho Lâm, dân chúng đứng hai bên đường xem quân đi thật đông, chợt có người đàn bà đầu tóc rũ rượi nhào ra cản trước đầu quân mà kêu khóc. Tướng Nam Nhật Huy cả giận, giục ngựa phóng lên. Quân sư Lê Thảo cũng vội thúc ngựa chạy lên, kịp ngăn tướng Đằng Châu không xuống gươm chém người đàn bà lạ. Rồi Quân sư xuống ngựa...
Chưa biết người đàn bà tại sao lại tới khóc trước quân, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—