← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Ba Mươi Bảy Nước lặng ra binh là điểm mất nước
Khóc Đồng Châu, Phạm Thị liều mình

Nhắc lại, binh Đằng Châu vừa đến Nho Lâm, chưa kịp chuẩn bị sang sông, bỗng đâu có người đàn bà đầu tóc rũ rượi nhào đến trước quân mà kêu khóc thảm thiết. Tướng Nam Nhật Huy thấy vậy cả giận, chẳng tra hỏi duyên cớ, rút kiếm toan chém người đàn bà, Quân sư Lê Thảo vội giục ngựa lướt lên cản tướng Huy lại rồi xuống ngựa hỏi người đàn bà:

- Bà kia, tại sao lại khóc lóc cản đường quân đi như vậy?

Người đàn bà không ngửng đầu lên, cứ lăn lộn trên đường gào khóc thêm nữa. Lê Thảo cho là người đàn bà có điều oan ức không biết kêu ca vào đâu, nay thấy quân trẩy đi thì nghĩ rằng tất có người quyền thế trong quân, đến kêu oan chắc được. Nghĩ thế, Lê Thảo lại gặng hỏi:

- Bà có điều gì oan ức phải kêu ca, thì hãy đứng dậy nói rõ cho ta nghe nào!

Người đàn bà gạt nước mắt, vén tóc đứng dậy. Người đàn bà mặt mày tuy lem luốc, nhưng vẫn còn phảng phất vẻ thanh nhã, hai mắt sưng to vì khóc nhiều, bà ta đáp:

- Bẩm ngài, tôi là người dân ngụ ở Đằng Châu, họ hàng thân thích chẳng còn ai, lập am ẩn ở giữa bãi Màn Chù trong đầm Nhất Dạ, cũng biết được vài ba điều ở đời. Nay, thấy tiết chớm Thu, binh đã lên đường chinh chiến ở xa, như thế tránh sao khỏi cảnh trăm dân bị dồn vào nồi nước sôi, cả nước thoát sao nạn chém giết. Vì thế, tôi mới liều mình cản trước ngựa Sứ quân để xin ngài quay binh trở về!

Lê Thảo nghe nói, cúi đầu ngẫm nghĩ, tướng Nam Nhật Huy giận lắm, liền bảo:

- Bản chức vâng mệnh Sứ quân, cầm binh ra biên ải không cho binh ngoài xâm phạm bờ cõi, sao mi dám tới đây mà nói những điều láo lếu như vậy?

Người đàn bà mở to hai mắt, nhìn tướng Nam Nhật Huy rồi chợt cười lên the thé mà rằng:

- Nước đang lặng mà ra binh, ấy là điềm mất nước! Tướng quân ở chỗ cao, sao không nhớ người xưa dặn rằng: “Binh như nước chảy, gặp chỗ trũng thì ở lại, nước đang bình yên có khác gì mặt đất phẳng phiu, nay đào cho trũng xuống thì tất nước đọng lại. Binh đã ra một lần, tất khó tránh họa chém giết!”. Sao tướng quân không biết khuyên can Sứ quân mà lại nhắm mắt xuất quân như thế?

Tướng Nam Nhật Huy càng giận thêm nữa. Lê Thảo lấy làm lạ lùng, tại sao trong dân giã lại có người đàn bà nói ra những điều như thế. Quân sư còn chưa kịp hiểu duyên do, tướng Nam Nhật Huy đã quát to lên:

- Con mụ điên trong am Màn Chù kia, có phải mi lại định mê hoặc cả binh tướng Đằng Châu nữa không đấy?

Người đàn bà kêu to lên:

- Tôi mặc áo vải ở am, lòng không vướng bận gì cả, sao lại bảo là muốn mê hoặc binh tướng Đằng Châu? Tôi xin hỏi: ai xui Đằng Châu ra binh như thế, sao không bảo người đó là kẻ đi mê hoặc, mà lại đổ vạ cho tôi?

Quân sư Lê Thảo giật mình, trong lòng xôn xao bồn chồn không hiểu người đàn bà này là người thế nào mà lại nói ra những điều xem ra không phải là hạng ngu si như thế. Tướng Huy nghe người đàn bà vặn lại, còn đang ứ họng chưa biết đáp ra sao, thì người đàn bà lại hỏi nữa:

- Tướng quân chắc chưa bao giờ thấy tôi nói ra điều gì mà lại chẳng đúng. Tôi không làm nghề đồng cốt, tuy là đàn bà ở chốn dân gian nhưng lại mạo muội đọc được dăm ba quyển sách, trí ngu nhưng cũng hiểu lõm bõm được vài điều của thánh hiền, tiếc rằng nhà không có con giai để nối giõi. Tôi tuy là gái nhưng dân gian xảy ra việc gì tôi cũng đều biết cả. Năm ngoái ngày chín tháng chín, núi Bình Đẩu tuy cao mà vẫn ngập lụt, ở Thiên Thi không gió bỗng dưng cát bụi bốc mịt mù, lại thêm chợ Quán Xá chỉ một đêm mà bao nhiêu hàng quán bị mối ăn sụp mất cả. Điềm loạn ly vừa mới hiện, nay quân đã ra biên ải, tất không thể có an lạc được nữa. Tôi thấy cả thiên hạ không ai can ngăn sứ quân lấy nửa lời, đành phải đánh liều bỏ am mà đến trước quân thế này. Tướng quân nên nghĩ lại, cố khuyên can Sứ quân đừng nghe người ngoài xúi bẩy, mà mang họa lớn đấy!

Lê Thảo nghe người đàn bà nói như nước chảy mây trôi, lại ra vẻ thông hiểu văn sách, trong lòng thầm nghĩ: “Gái Đằng Châu nức tiếng sắc sảo, quả thật không ngoa chút nào! Nay y thị nói ra điều nào cũng đúng là lời lẽ của người hiền đức, hiểu rõ mọi việc, nếu cứ để thị nói mãi e không có lợi! Nghĩ rồi, khẽ thở dài một tiếng, rồi ôn tồn nói:

- Đành rằng việc quân không bằng tìm bằng an, nhưng nay giặc đã đến bờ cõi, hỏi cứ ngồi im mà tìm bằng an thì sao được! Vả lại, Sứ quân cùng hết thảy các anh hào Đằng Châu, bàn bạc việc lớn kĩ càng rồi mới quyết định sau, vậy việc ra quân chính là để cầu an đấy. Bà đem vài điều nhảm nhí để luận việc lớn đất nước, sao cho phải đạo. Tôi vâng mệnh Sứ quân cùng đại tướng đây mang quân gìn giữ Đằng Châu, lẽ ra phải nghiêm quân lệnh, nhất định không tha cho kẻ ngăn trở việc quân. Nhưng nay thấy bà là người có đôi chút hiểu biết, cho nên không muốn thấy nhân nghĩa bị sứt mẻ, binh chưa ra đến ngoài ải đã phải chém kẻ cản đường. Vậy bà hãy dẹp đường để binh tôi đi, đừng cản trở kêu khóc nữa. Nếu bà tự cho là người biết đôi chút lời thánh hiền, biết lo đến vận nước, là điều đáng khen, lẽ ra bà phải đem cái hiểu biết ấy ra mà giúp xã tắc mới phải, sao lại cản trở như thế?

Người đàn bà chằm chằm nhìn Lê Thảo, rồi chợt hỏi:

- Có phải ngài là hào kiệt “quần vận yếm mang” hồi xưa ở Bồ Điền đấy không?

Lê Thảo càng ngạc nhiên thêm nữa, hơi nhíu mày rối thủng thẳng đáp:

- Phải, chẳng hay tại sao bà lại biết?

Người đàn bà quỳ xuống giữa đường, vái Lê Thảo một vái mà rằng:

- Chuyện ngày trước ở Bồ Điền, có khác nào như nước trong sông dài chảy xa ngàn dặm mà không hết, cả thiên hạ ai không hay! Tôi thân phận đàn bà, nghe chuyện cũng còn cảm khái, chỉ tiếc cha mẹ sinh ra chẳng được làm trai để thỏa chí trong thời loạn. Nay được gặp ngài ở đây, thật là vạn hạnh. Việc ngài làm hồi trước, thật hiếm có trong thiên hạ! Nay ngài tới đây, có phải là xúi bẩy Đằng Châu ra binh, mở họa can qua đây không? Nếu phải thế, thì tôi dù có bị chết chém cũng phải nói một lời mới được!

Lê Thảo lạ lùng, trong đời chàng có lẽ đây là lần đầu gặp phải người đáo để, vừa ngợi khen xong là đã lăm le chực chê bai chỉ trích rồi, nếu cứ để bà ta lằng nhằng mãi thì còn gì là uy danh nữa, nghĩ rồi liền đáp:

- Tôi cảm ơn lời khen quá đáng của bà! Nay việc quan cấp bách không còn rảnh rỗi để nghe lời bàn bạc của bà được nữa. Tôi chắc bà sẽ trách tôi đủ điều, việc lớn trong thiên hạ chẳng thể để những lời trách móc lặt vặt làm cho sai lạc được. Vậy tôi ước muốn bà cũng biết cái lẽ ấy mà đừng làm cho dân tình hoang mang, cản trở việc lớn của Sứ quân, có thế mới gọi được là bà đọc sách thánh hiền, hiểu được cái ý lớn trọng, chẳng nệ việc nhỏ một thời đấy!

Nói rồi, quân sư quay sang tướng Nam Nhật Huy mà rằng:

- Tướng quân hãy lệnh cho quân tiếp tục lên đường nhưng đừng đụng gì tới người đàn bà này nhé!

Tướng Huy dạ một tiếng, lập tức truyền quân tiếp tục đi, lại sai quân lôi người đàn bà bỏ sang vệ đường.

Quân đi như nước chảy thoáng chốc đã ra đến bến Nho Lâm, sử dụng thuyền của tướng Trấn Giang Nghi Bá Tường mà sang sông.

Đây lại nói về chuyện người đàn bà cản đường quân Đằng Châu. Người đàn bà ấy họ Phạm, không biết tên là gì, lập chiếc am nhỏ ở gò Màn Chù giữa đầm Dạ Trạch mà ở. Người đàn bà ấy tự cho là biết thiên tượng, hiểu việc đời, lại có tài kêu gọi quỷ thần, biết phép chữa bệnh bằng thuốc dấu. Dân chúng cả một vùng Đằng Châu ai cũng nghe tiếng, người đàn bà họ Phạm thường cứu giúp mọi người được, không nhận mình là đồng cốt, nhưng nhận là “Mụ điên Màn Chù” cốt ý gửi gấm tâm tư tiếc mình chẳng phải là trai để thỏa chí trong thời loạn. Nhưng dân chúng nhờ ơn bà ta nhiều lắm nên không dám gọi như vậy, chỉ gọi là bà “Phạm Thị”.

Khi quân của Lê Thảo kéo đi rồi, người đàn bà cứ ngồi bên đường khóc lóc thảm thiết, dân chúng thấy vậy thì xúm lại thật đông, ai cũng cúi đầu lặng lẽ không nói gì. Nhìn ra quan lộ, quân trẩy đi bụi mù trời rồi khuất dạng. Nắng chiều vàng vọt, hiu hiu gió từ mạn sông lớn thổi về.

Người đàn bà khóc một hồi, ngửng mặt lên thấy mọi người xúm xít chung quanh không ai nói gì, thì gạt nước mắt mà rằng:

- Bà con hãy về đi, lo sửa soạn mà chạy giặc, loạn ly đến nơi rồi!

Ai nghe nói cũng lộ vẻ sợ sệt, nhìn nhau chẳng biết ra sao cả. Chợt từ xa có đám người phi ngựa tới. Đến nơi, hóa ra lính của phủ Sứ quân đi tuần. Lính tuần thấy đám đông thì dừng ngựa, tra hỏi xem có việc gì, đến lúc biết ra cũng không nỡ quát mắng Phạm Thị, chỉ khuyên bà ta nên về đi thôi. Phạm Thị đứng dậy, chẳng nói chẳng rằng, rảo cẳng bước đi cứ hướng phủ Sứ quân mà tới. Lính tuần không nỡ cản, chỉ lẳng lặng đi theo, dân chúng thấy vậy cũng kéo theo nốt. Thế là cả bọn đổ về Phủ Sứ quân.

Đi chẳng bao lâu, thì đến trước phủ Đường, Phạm Thị quỳ trước cổng phủ kêu lớn lên thảm thiết. Quân vào bẩm Sứ quân, Sứ quân từng nghe biết Phạm Thị ở Màn Chù trong lòng cũng có đôi chút nể vì. Nay thấy việc như vậy, liền cùng nàng Hồi Chúc thân ra tận cổng phủ để xem Phạm Thị muốn gì. Vừa thấy Sứ quân, Phạm Thị phủ phục khóc rống lên, rồi thưa:

- Bẩm Sứ quân, sao ngài chẳng cản khách lạ, lại cho đem quân đi như thế? Họa binh đao chắc xảy đến mất rồi!

Sứ quân chẳng nói gì, Phạm thị lại kêu tiếp:

- Bẩm Sứ quân, tôi xem thiên tượng biết họa binh đao sắp đến Đằng Châu ta, chưa kịp tới trình Sứ quân thì đã thấy ngài cho binh đi rồi. Lại biết người xa đến xin binh, thế là ứng điềm tai họa mất rồi!

Sứ quân nghe nói trong lòng cũng có ý lo, nhưng cũng lại có ý giận. Lo là lo nạn binh đao, giận vì Phạm Thị có ý muốn khoe khoang toàn điều can gián, biết hơn cả Sứ quân. Sứ quân bảo:

- Ta dưới trướng có trăm tướng vạn binh, bờ cõi một dải, sao lại không biết việc xa gần, hà cớ gì phải nệ việc nhỏ, xem những điều vu vơ để định việc lớn! Người là người ở ẩn, làm vài điều tốt cho dân, thì đừng xen vào việc lớn của ta làm gì. Về đi!

Dứt lời, Sứ quân giận dỗi quay gót vào trong. Phạm Thị vẫn quỳ trước phủ, bỗng ngửa mặt lên trời mà than rằng:

- Đằng Châu ta thế nào cũng mất! Tiếc thay!

Than xong, lại khóc, khóc được một hồi nữa thì gạt nước mắt nhìn quanh, thấy dân chúng vẫn còn lặng lẽ đứng nhìn, trời về chiều sâm sẩm tối. Phạm Thị ngơ ngác, rồi rập đầu hướng vào nhà trong phủ Sứ quân lạy ba lạy mà rằng:

- Sứ quân làm mất Đằng Châu, tôi là phận gái cùng lắm cũng chỉ làm được thế này là hết! Sứ quân không đủ đức đủ tài che chở cho dân, họa lớn mai sau tất không tránh được! Nay tôi biết thế mà không cản được, chẳng giúp được Sứ quân, chẳng lẽ cứ ngồi im nhìn hay sao! Mắt nhìn thấy mà không làm gì được, thì còn nhìn làm gì nữa! Ba lạy Sứ quân, dám mong Sứ quân còn kịp tỉnh ngộ!

Dứt lời, Phạm Thị lấy trong ngực áo ra con dao nhỏ nhọn hoắt thẳng tay đâm vào hai mắt. Mọi người bàng hoàng kinh hãi, không ai kịp ngăn cản. Hai mắt Phạm Thị bị khoét, máu tuôn ra cùng với nước con ngươi trong đến ghê rợn. Phạm Thị run rẩy, vừa hổn hển vừa gào to lên:

- Sứ quân! Sứ quân! Sao chẳng nghe tôi, họa lớn vào thân chắc sắp tới rồi!

Đám lính và dân chúng xôn xao, mỗi người một lời bảo nhau tìm cách cứu chữa cho Phạm Thị. Cả đám chưa kịp làm gì, thì Phạm Thị lại kêu to lên:

- Lời ta nói ra, chẳng được Sứ quân nghe vào tai, thì lưỡi này còn nói làm gì thêm nữa!

Dứt lời, Phạm Thị thè dài lưỡi, tay trái cầm đầu lưỡi, tay phải lướt ngọn đao. Lưỡi Phạm Thị lập tức đứt ngang ra, máu tuôn xối xả. Bá Tánh thấy vậy nhào vào ôm lấy Phạm Thị mà kêu gào khóc lóc. Phạm Thị mình đẫm máu, run rẩy một hồi thì tắt thở, ai cũng cảm thương.

Việc trình vào Sứ quân, ngài nghe xong cũng thừ người không biết nói sao, sau truyền chôn cất thật tử tế cho Phạm Thị ở ngay am Màn Chù. Lúc đó là tiết Sơ Thu, dân chúng ai nghe chuyện cũng khác thương Phạm Thị rồi rủ nhau đi lễ mộ bà họ Phạm ở Màn Chù đông lắm. Dân chúng ai có điều gì cầu xin, cũng đều đến cầu trước mộ bà Phạm Thị. Sau đân chúng lại bảo nhau gọi là “làng bà Phạm”, khói hương nghi ngút quanh năm. Đến tàn xuân năm Bính Dần (966) lúc Sứ quân Phạm Phòng Át thế yếu không dám đương cự với Hoa Lư, phải về hàng Bộ Lĩnh, thì bỗng nhiên trong một đêm không gió không mưa, sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra người ở quanh Đầm Nhất Dạ thấy nước dâng cao mênh mông, trông ra dường như ngập mất cả gò Màn Chù, liền bảo nhau chèo thuyền ra xem thì thấy quả nhiên nước ngập, xoáy tung lăng bà Phạm.

Kể từ lúc Phạm Thị chết đến lúc ấy, là được mười lăm năm, xương cốt lẽ ra mục cả mới phải, thế mà có điều lạ là nước xoáy tung lăng mộ, phá vỡ cả quan tài cuốn xác Phạm Thị nổi lên. Xác Phạm Thị vẫn tươi đẹp như lúc còn sống, hai mắt nhắm nghiền như đang ngủ say. Xác Phạm Thị nổi bập bềnh trên mặt nước, bá tánh vội vã đẵn tre lợp mái, kết bè quanh xác bà Phạm che cho bà khỏi bị ánh sáng xâm phạm. Lúc kết bè xong, mái lợp vừa thành, bá tánh bày bàn thờ hương khói mù mịt, chiêng trống inh ỏi, khấn vái bà Phạm cầu xin chỉ vẽ cho mọi việc.

Xác bà Phạm Thị từ từ trôi đi, bá tánh Vội hè nhau đẩy bè theo. Xác bà Phạm trôi từ từ quanh đầm Nhất Dạ, xác trôi đến đâu, chiêng trống ầm ầm đến đấy, từ bờ nhìn ra bè lợp mái trên đặt bàn thờ, hương khói mờ mịt chẳng khác nào chiếc nhà nổi. Bè trôi chậm chậm được ba ngày ba đêm thì ráp một vòng đầm Nhất Dạ. Lúc ấy xác bà Phạm thôi không trôi đi nữa. Bá Tánh cử người huyện trưởng làm chủ tế, mở đại lễ cầu xin bà Phạm cho phép vớt xác để mai táng lại. Lễ cầu từ sáng đến giữa trưa, bỗng xác bà Phạm quay đầu đổi hướng về phía Nam, rồi từ từ chìm xuống.

Cũng từ lúc ấy, nước rút xuống theo, gò Màn Chù lại nổi lên, nhưng am bà Phạm thì không còn nữa. Người đời sau nhiều phen đi tìm dấu tích nhưng không được.

Đến đây, lại để tiếp việc Quân sư Hoa Lư mượn binh Đằng Châu cùng với tướng Nam Nhật Huy và văn sĩ Tôn Phủ Nghi vượt bến Nho Lâm mà sang bên kia bờ Xích Đằng.

Sang đến bên này bờ sông, quân sư rong ngựa lên bờ trước, theo sau là tướng Nam Nhật Huy và Tôn Phủ Nghi, ngựa quân sư vừa vững vó, sực từ xa có người giục ngựa phi lại cực nhanh. Ngựa chưa đến gần, người trên lưng ngựa đã tung cương phóng xuống đất, chạy đến trước quân sư mà kêu lớn lên.

Chưa biết người ấy là ai, có việc gì, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—