Hồi Thứ Bốn Mươi Mốt Ngọc Lũ bén lửa tên Cổ Loa
Động chúa giao tranh cùng Tịch Mịch
Tên của binh Cổ Loa mỗi lúc bắn vào thành càng nhiều thêm, nhiều nơi trong thành đã cháy lớn. Tình cảnh trong thành thật nguy cấp, các tướng không biết phải làm sao nữa. Dân thành lại càng hỗn loạn, loanh quanh chạy lửa, tránh tên. Động chúa đem các tướng lên mặt thành, đứng ngẩn người nhìn binh Cổ Loa đông nghẹt ở mặt Nam đang ra sức bắn tên lửa vào thành. Tiết cuối năm, trời hanh gió thoảng, lửa bắt vào các mái nhà tranh lem lém loang đi thật nhanh. Động chúa cũng như các tướng chỉ còn biết hô quân chẹn lửa, nhưng làm sao để chẹn cho được! Phút chốc, cả khu phía Nam nội thành Ngọc Lũ đã rừng rực lửa, binh Cổ Loa ở bên ngoài thấy lửa ngất trong thành, phấn khởi hò reo.
Trong cơn nguy cấp, Độnng chúa vội truyền các tướng xuống thành liệu việc đem quân ra ngoài nghênh chiến, Động chúa và các tướng vừa đi được vài bước, cả một dãy nhà sụp xuống, tàn lửa xoáy bốc lên cao, nóng rát mặt, trong cái biển lửa ấy có bóng người cố lết ra ngoài. Chu Kỷ Toàn chẳng quản gì nguy hiểm nóng bỏng, tay cầm gươm gạt cột kèo đang lém cháy mà chạy vào. Thoáng chốc, Toàn xốc ra một người da thịt nứt nẻ cả vì lửa cháy, người ấy là một ông già. Ông già thều thào: “kéo mái xuống... đắp nước... đỡ tên...” rồi ông tắt thở. Động chúa, các tướng chẳng khỏi bùi ngùi, nhìn lại thấy dãy nhà đổ cắt đứt biển lửa, lúc này lửa lại đang bén vào vách để bốc lên. Chu Kỷ Toàn trong cơn quẫn bách, chợt kêu to lên:
- Phải rồi! Mau mau gỡ hết mái nhà xuống, đắp nước vào mà chắn tên địch!
Động chúa, các tướng chợt tỉnh ra, thì ra ông già trước khi chết hẳn còn cố chỉ cho cách chặn tên lửa của địch. Lập tức, lệnh truyền ra, binh một mặt xạ tiễn đánh nhau với quân ngoài, một mặt cùng với dân Ngọc Lũ ra sức kéo sập nhà, gỡ mái, hè nhau khiêng nhúng xuống ao hồ, rồi đem lên mặt thành đỡ tên địch. Nhờ thế, tên ngoài bắn vào cắm cả lên mái nhà sũng nước, quân trên thành lại nhổ tên ấy bắn xuống binh Triều.
Lửa cháy trong thành dần dần cũng dập tắt được cả. Binh Triều thấy trên thành chặn được tên lửa, trong thành không còn cháy nữa, trong lòng lại có vẻ hoang mang. Ba tướng Phạm Ngọc Hợp, Lê Hoạt Hoàng, Đào Đình Bính đang phấn khởi, tưởng phen này thì thành Ngọc Lũ biến thành biển lửa, nào ngờ trên thành có cách chẹn tên, lại đập tắt hết các đám cháy trong thành, thì sợ quá, liền bàn nhau một mặt báo về hậu quân cho Nam Tấn Vương biết, một mặt ra lệnh cho quân chỉnh đốn hàng ngũ để công thành.
Trong thành, Động chúa cũng hội các tướng lại, nói rằng:
- Trong lúc nguy biến vì tên lửa của địch, may được ông già chỉ cho cách chặn tên, rõ ràng trời vẫn tựa ta! Nhưng, ta không thể cứ đóng chặt cửa thành chống đỡ mãi thế này được, ta có ý trái lời Quân sư, thừa lúc địch chưa quyết, đem quân ra phá thế công của địch, các tướng nghĩ sao?
Các tướng vốn vẫn muốn xuất thành giao chiến, nay nghe Động chúa nói vậy thì ai cũng hân hoan. Động chúa nói thêm:
- Nếu ta không giao chiến, địch tất biết chắc là ta yếu. Nạn lửa đã qua rồi, bây giờ chưa chắc bên nào đã hơn bên nào, nếu ta ra quân trước ắt có cái lợi của quân công kích, nhưng các tướng bảo ta nên xuất thành như thế nào?
Chu Kỷ Toàn đáp:
- Địch bây giờ dồn cả về mặt phía Nam, nếu ta xuất chiến ở mặt Nam thì khó lòng đánh được với địch đông như vậy. Bây giờ, một mặt chia quân ra cửa Bắc, dàn thành thế hậu trợ, sau mới tiến quân ra mặt Nam mà nghênh địch. Như thế, có cái lợi là tiến quân được bảo đảm ở mặt sau, phòng bị được lúc cần phải triệt thoái tiền quân ta vẫn cản được địch.
Động chúa khen phải, liền quyết định tự cầm quân ra nghênh chiến ở mặt Nam, còn mặt Bắc thì giao cho Chu Kỷ Toàn đem quân dàn trận, Động chúa chưa kịp ra quân trên thành đã có tin bẩm về rằng: “Ngoài thành, có một nhà sư hình dung cổ quái, vóc dáng to lớn, đang kêu réo đích tên Động chúa ra đòi nói chuyện...”.
Động chúa lấy làm lạ, liền đem các tướng lên mặt thành nhìn xuống. Dưới thành, binh Triều dàn kín, trước Soái kỳ là một nhà sư cao lớn, cổ đeo chuỗi hạt to. Vừa thấy Động chúa xuất hiện, nhà sư cất giọng ồm ồm mà rằng:
- Đinh Bộ Lĩnh! Còn nhớ Thúc Bạch Dương ở Liêu Hải năm xưa không? Oan gia thù cũ, nay gặp nhau ở đây tất mọi việc phải xong xuôi!
Đinh Động chúa đứng trên thành, không nhận rõ nhà sư là ai, đến lúc nghe xưng là Thúc Bạch Dương ở Liêu Hải năm xưa với oán thù cũ, thì sực nhớ ra. Động chúa cười vang mặt thành mà rằng:
- Thúc Bạch Dương ở Liêu Hải năm xưa đấy ư? Xưa, hai ta tranh hùng thắng bại đã rõ rệt cả, sau lại thấy vắng bóng ông, ai ngờ nay lại gặp nhau ở đây!...
Đinh Động chúa chưa nói dứt lời, Tịch Mịch thiền sư đã nói luôn:
- Phải, hơn hai mươi năm ta cố quên hận cũ, thế mà vẫn không xong, ngày nay cái pháp hiệu “Tịch Mịch thiền sư” của ta không còn “tịch mịch” được nữa, nó đã biến thành giông bão trong lòng, hận cũ sống dậy cho nên ta phải xuống núi theo giúp Ngô Vương. Hôm nay ta thân đối trận, mong được cùng với Bộ Lĩnh tranh tài phen nữa để rửa oán cũ có được không?
Bây giờ, Đinh Động chúa và các tướng mới chợt hiểu ra, thì ra trong trướng Nam Tấn Vương có dị nhân giúp rập, hèn gì Nam Tấn Vương mới có phép hành binh biến đổi, làm cho mọi xếp đặt của Quân sư Lê Thảo bị sai lạc cả!
Động chúa hiên ngang:
- Lẽ ra, oán thù nên cởi, việc lớn mới là việc đại trượng phu nên để tâm vào! Nay ông muốn cùng tôi tranh hùng lần nữa, tôi cũng chẳng hẹp lượng gì mà không ừ một tiếng! Nhưng tôi xin hỏi thêm: có phải ông là người chỉ xử cho nhà vua mọi việc đấy không, khiến cho binh tôi gặp khó khăn?
Tịch Mịch thiền sư buồn rầu đáp:
- Phải! Ta tuy lấy pháp danh “Tịch Mịch”, lòng trần vẫn chưa dứt, quả đúng là nghiệp báo. Vậy ta hãy sống theo trần tục vậy!
Động chúa bảo:
- Ông cứ việc dàn trận, tôi xuất thành nghênh chiến ngay đấy!
Dứt lời, Động chúa đem các tướng xuống doanh nghị sự. Động chúa bảo:
- Cứ theo lời Đoàn Phúc Hải báo trình, thì Tịch Mịch thiền sư là tay đáng sợ đấy! Năm xưa, y thua tài thua trí ta, lại thêm tan nát cả gia đình, ta đã tưởng y biệt tích rồi chết ở đâu rồi, nào ngờ bây giờ lại hiện ra ở đây. Nay ta ra trận, đích thân đấu với y mới được. Nhưng, y là kẻ đáng sợ, ta không thể khinh xuất đối địch thẳng với quân tiền án của y, mà phải đề phòng mọi mặt mới được. Các tướng có ý kiến thế nào?
Chu Kỷ Toàn đáp:
- Tôi vẫn xin đem quân ra cửa Bắc làm thế yểm trợ, Động chúa xuất trận ở mặt Nam, nhưng cũng nên phòng bị mặt Tây Đông nữa mới được.
Động chúa bảo:
- Phía Đông ta được lợi cái thế mờ mịt của lau sậy bạt ngàn, cứ một ngọn lửa cũng đủ giữ được mặt ấy rồi. Còn mặt phía Tây, binh ta ra mặt Nam xét ra chưa cần phải phòng giữ. Vả lại tướng quân mang binh ở phía Bắc chẳng khác nào đứng giám trận, sẵn sàng tiếp ứng cho ta ở mặt Nam, thế là được.
Nói xong, Động chúa truyền tướng Mạc Sa Cảnh trấn thành, giữ việc giám trận, phải luôn luôn theo dõi binh Triều xem động tĩnh thế nào báo hiệu cho Động chúa trong trận biết, Động chúa lại bảo Xử Sĩ Quách Nghiệp Đường rằng:
- Ông không quen chiến trận, nhưng chắc giỏi miệng lưỡi! Nay ta nhờ ông bày vài mẹo vặt để khích lòng ba quân, uy hiếp tinh thần địch có được không?
Quách Nghiệp Đường bẩm:
- Bẩm Động chúa, đối trận quả thật tôi không biết cầm gươm, còn bày mẹo vặt để khích ba quân thì tôi xin được đem mười tay trống trợ trận cho động chúa được không?
Động chúa cả cười:
- Ý ông thật đúng ý ta! Ngọc Lũ nổi tiếng về trống đồng tiếng đánh vang chục dặm, vậy ông mau mau cho quân đem lên cửa Nam thành mười cỗ mà dùng nhé!
Xử Sĩ quay gót ra ngay. Động chúa lại truyền tướng Đỗ Mậu Đại điểm một ngàn quân theo Động chúa ra trận.
Kể lại trong doanh Nam Tấn Vương, sau khi Tịch Mịch thiền sư thách thức Động chúa Hoa Lư, liền vào trung quân gặp Nam Tấn Vương. Thiền sư nói:
- Bẩm chúa thượng, năm xưa tôi cùng với Bộ Lĩnh nhiều phen tranh đấu, thắng cũng có, nhưng tôi biết Bộ Lĩnh là tay dũng tướng khó tranh hơn với y được. Vả chăng, trong quân của y còn có kỳ nhân giúp rập, ta phải cẩn thận mới được. Vậy, tôi xin Chúa thượng để sẵn một đạo quân, đợi lúc tôi giao chiến với Bộ Lĩnh đến lúc tôi lui xa thành Ngọc Lũ, Chúa thượng hãy cho đạo quân ấy vượt đường lên phía Bắc, nhưng đừng đi xa quá. Khi nào tôi bỏ chạy thì cánh quân ấy gấp rút đuổi theo Bộ Lĩnh, thế là ta ép được y vào giữa trận mà giết mới xong. Làm như thế, ta cũng đề phòng được cánh quân của y đóng ở bên kia sông, khiến cho bên kia sông không cứu ứng kịp cho y. Chỉ một trận này, ta hi vọng phá được Ngọc Lũ.
Nam Tấn Vương nghe thiền sư dàn quân định kế, trong lòng vui vẻ lắm, liền truyền tướng Lê Hoạt Hoàng mang một nghìn quân đợi sẵn để lên phía Bắc. Lại truyền trung quân chuẩn bị để lui xa thành Ngọc Lũ. Xếp đặt xong xuôi, Vương truyền Đào Đình Bính điểm một nghìn quân theo Thiền sư ra trận, lại truyền tướng Phạm Ngọc Hợp cầm cờ giám trận ở trung quân, đích thân Vương ngự giá xem trận.
Lúc ấy, trời đã về chiều, nắng còn thoi thóp.
Hậu quân của Nam Tấn Vương đã lui thêm vài ba dặm, tiền quân công thành đi đầu là Tịch Mịch thiền sư cưỡi con chiến mã Lăng Tiêu sắc vàng như nghệ. Thiền sư cổ đeo chuỗi hạt, lưng treo bộ mõ, thanh đại đao gác trên lưng chiến mã trông Thiền sư uy dũng vô cùng. Theo sau thiền sư là tướng Đào Đình Bính cầm tướng kỳ cưỡi chiến mã đi theo quân kéo tới dàn thành trận cách xa thành Ngọc Lũ độ nửa dặm đường.
Lập tức, trên thành trống đồng gióng lên, tiếng ầm ì như sấm dậy, nghe cực hùng hồn. Binh của Nam Tấn Vương theo Tịch Mịch thiền sư ra trận ngỡ ngàng, hai nghìn con mắt bỗng ngửa cả lên nhìn trời những tưởng là trời chuyển động sấm rền, té ra là tiếng trống trên thành Ngọc Lũ do Quách Xử Sĩ huy động mười lực sĩ ra sức vỗ vào mặt trống. Mỗi cỗ trống rộng có dư năm thước (khoảng hai thước tây bây giờ) đặt trên mặt thành, lực sĩ phải đứng lên giá dùng tay không mà đập trống.
Hồi trống rền ầm ì bay mãi đi xa, ở hậu quân Nam Tấn Vương cũng giật mình không hiểu chuyện gì, đến khi được biết là trong trận thành Ngọc Lũ thì Vương chẳng khỏi ghê rợn trong lòng.
Tiếng trống rền rền kéo chưa dứt, cửa thành mở rộng, Động chúa Hoa Lư cưỡi chiến mã khoang trắng đi đầu. Động chúa đầu chít võ cân, mình khoác chiến bào, tay để trần, tay phải cầm cây đại phủ, tay trái khoác khiên mây hai lớp trong đổ nhựa cây, từ thắt lưng trở xuống là hai mảnh đa cọp buông dài xuống tận cổ chân che khuất quần võ tướng vải hùng bố. Động chúa đi giày da voi cổ ngắn, vóc dáng uy nghi như thiên thần, khí thế cực dũng mãnh. Theo sau Động chúa, tướng Đỗ Mậu Đại lưng đeo trường kiếm, tay cầm tướng kỳ, dẫn một nghìn quân tuôn ra.
Động chúa đem binh án trước binh Triều, rồi thúc ngựa vọt lên gặp Tịch Mịch thiền sư. Động chúa quát lớn:
- Thúc Bạch Dương, sao chẳng biết mệnh trời, lại đi phò cho kẻ loạn nước như thế. Thù cũ có đáng gì với việc lớn ngày nay, sao lại khuất thân hầu hạ cho phường hai nước?
Tịch Mịch thiền sư tranh lời, giọng ồm ồm khó chịu:
- Bớ Bộ Lĩnh, thù hại cả nhà, nay là lúc ta phải rửa cho sạch, đừng nhiều lời nữa!
Dứt lời, thiền sư giục ngựa xốc tới. Tướng Đỗ Mậu Đại liền phát tướng kỳ xua quân xung trận, trên thành Ngọc Lũ cơn sấm trống đồng lại nổi lên, lần này nghe còn dữ dội hơn lần trước gấp bội, giục lòng ba quân Hoa Lư nhất tề hò reo nhập trận. Đinh Động chúa cũng thúc chiến mã, cây đại phủ nháng lên tận lực bổ xuống đầu Tịch Mịch thiền sư. Thiền sư hai mắt như tóe lửa, lướt con Lăng Tiêu giạt về một bên mà tránh, nhường Động chúa một đường búa. Động chúa quay ngựa đuổi sát thiền sư, cây đại phủ như chiếc quạt lớn phạt ngang sườn thiền sư. Lần này, thiền sư không né tránh, giục ngựa cướp đường bay tới, hoa thanh đại đao chém xả xuống đầu Động chúa. Động chúa nghiêng người né tránh, cây đại phủ bay lên nhằm vào nách Thiền sư công tới.
Quân hai bên vừa trợ chiến, vừa reo hò hầm hè nhau, trên thành Ngọc Lũ trống đồng rộn rã long trời lở đất, tường Mạc Sa Cảnh đứng trên vọng lâu thành Ngọc Lũ quan sát trận địa, nhìn vào hậu quân của Nam Tấn Vương thấy chuyển động thì nghi ngờ lắm, liền bước xuống tìm gặp Đinh lão thưa rằng:
- Bẩm lão bá, hậu quân của Nam Tấn Vương chuyển động, tôi nghĩ rằng có điều gì mờ ám!
Đinh lão nghe nói, vội lên mặt thành quan sát, quả nhiên hậu quân của Nam Tấn Vương rục rịch thật. Được một lát, hai người nhận thấy rõ ràng có một đạo quân tách rời hẳn ra, chưa biết định làm gì.
Bên dưới, trận chiến giữa Tịch Mịch thiền sư và Động chúa Hoa Lư đang hồi dữ dội, đao qua phủ lại loang loáng, hai người không ai nói một lời quát một tiếng, cả hai tận lực dốc hết tinh thần vào trận đánh. Lưỡi phủ của Đinh Động chúa có lợi ở phần sức nặng, mỗi lần bổ xuống cuốn gió theo như cánh đại bàng cực kỳ lợi hại. Cây đại đao của Tịch Mịch thiền sư tuy không nặng lắm, nhưng lại có lợi ở chỗ gọn gàng, bay lượn uyển chuyển như gió thoảng mây bay. Cả hai tranh nhau tìm những chỗ hiểm mà công tới, đòn ra toàn là chí mạng cả. Quân hai bên trợ trận reo hò, trống trận thành Ngọc Lũ ầm ầm như sấm chẳng dứt tiếng, chiến địa hào khí bốc đến tận giải mây chiều vàng nắng sắp tắt.
Hai bên chiến đấu hồi lâu, chưa thể nói là Động chúa thắng nửa phân, hay Thiền sư lợi nửa phân, bỗng Tịch Mịch thiền sư giạt ngựa sang một bên, cây đại đao gác trên lưng ngựa mà không rơi, Thiền sư lấy chiếc mõ vĩ đại ra khua một hồi. Giữa trận quân reo ngựa hí, lại thêm trống đồng trên thành Ngọc Lũ nện ầm ầm, thế mà tiếng mõ dị kỳ vẫn như vượt hẳn ra ngoài những âm thanh hỗn loạn ấy để bay lên, nghe thật chói tai. Đinh Động chúa không biết Thiền sư định làm gì, trên thành tướng Mạc Sa Cảnh nhíu mày nhìn Đinh lão, rồi vội chăm chú xem trận biến chuyển ra sao.
Hồi mõ vừa dứt, Đinh Động chúa chẳng cần tính toán gì cá, giục chiến mã xốc tới, cây đại phủ vạch chéo một đường chém xả xuống vai Thiền sư. Thiền sư lạng người tránh, cây đại đao lại bốc lên quấn lấy cây búa của Động chúa mà đối địch.
Trên thành, Mạc Sa Cảnh nhận thấy: sau hồi mõ, dường như Tịch Mịch thiền sư báo hiệu gì, rồi cứ dần dần lui ngựa, xem ra có ý muốn tháo lui. Mạc Sa Cảnh nghĩ: “Hai bên giao chiến chưa thể bảo ai hơn ai thua được, tại sao Thiền sư lại có ý tháo lui?”. Nghĩ rồi, liền phất cờ ra hiệu. Tại trận, tướng Đỗ Mậu Đại nhìn thấy, cờ hiệu trên thành liền phất cờ xua quân ồ ạt tràn tới, vây bọc lấy Động chúa mà che chở.
Thiền sư nương theo đà quân Hoa Lư xông lên, càng giục ngựa lùi lại. Trên thành, Quách Xử Sĩ hứng chí, giục các lực sĩ càng ra sức đập trống.
Quân của Thiền sư càng lúc càng lùi mãi, binh Hoa Lư thắng thế đã rõ ràng. Tới lúc ấy, Mạc Sa Cảnh thấy hậu quân của Nam Tấn Vương chuyển động, đạo quân tách rời lúc nãy lập tức trẩy đi.
Đạo quân tuôn ra cực nhanh, ào ào lên phía Bắc. Mạc Sa Cảnh đứng trên vọng lầu tưởng binh Triều tiếp viện kéo ra đánh vào hữu dực binh Hoa Lư. Nhưng, binh Triều lướt đi, không nhập trận, rõ ràng là muốn kéo qua cửa Tây thành Ngọc Lũ. Mạc Sa Cảnh không kịp bàn với Đinh lão, lập tức phát cờ lệnh truyền quân tức tốc lên cửa Bắc cho tướng Chu Kỷ Toàn hãy đề phòng, chỉnh quân kín đáo đợi xem binh Triều hành động ra sao. Toàn được tin, vội đưa quân xuống xế cửa Tây, nương vào lạch hào ẩn cho kín.
Trong trận, binh Hoa Lư hò reo xông xáo, quân Cổ Loa dần dần lùi xa thành Ngọc Lũ, Mạc Sa Cảnh chăm chú giám trận thấy Động chúa với thiền sư giao chiến càng ngày càng dữ dội không thấy có vẻ gì là Thiền sư kém thế, vậy mà Thiền sư vẫn không ngớt lùi bước. Tướng Cảnh lấy làm thắc mắc lắm, liền bàn với Đinh lão:
- Bẩm lão bá, rõ ràng là Tịch Mịch thiền sư không thua, tại sao y cứ lùi dần như vậy?
Định lão nheo mắt quan sát thêm hồi nữa, rồi bỗng bảo:
- Phải rồi! Phải rồi! Binh Triều muốn dụ cho quân ta ra xa thành, rồi hai mặt Nam Bắc ép quân ta vào giữa đây! Đạo quân lên mạn Bắc lúc nãy, thế nào cũng là đạo quân tập kích đằng sau lưng quân ta, tướng quân nên tin cho tướng Chu Kỷ Toàn biết ngay mà kịp cứu ứng, cứ theo cái kế của địch mà đánh địch thì được, như vậy đúng là cái kế “dây xích mắt nối mắt”, đốt trước bị đốt sau giằng co!
Tướng Mạc Sa Cảnh nghe lời, vội truyền quân tức tốc mang tin cho Chu Kỷ Toàn, lại hẹn khi nào thấy trên thành có hiệu cờ thì hãy tiến quân đánh vào sau lưng binh Triều.
Trong trận, Tịch Mịch thiền sư lúc công lúc thủ, tiến một bước thì lùi ba bước, cầm cự với Động chúa Hoa Lư. Động chúa nóng lòng, quát lớn lên một tiếng, cây đại phủ như núi đổ sóng xô tận lực áp đảo thiền sư. Động chúa tận lực chém cây búa xuống, đường búa đi nghiêng nghiêng nhằm vào thái dương Thiền sư, Thiền sư giục con Lăng Tiêu bay về phía trải Động chúa, cướp đường tránh lưỡi búa rồi ép ngựa vượn đao toan phạt vào ngang lưng Động chúa. Động chúa nương theo đà búa chém hụt, vặn người quay hẳn lại, lúc ấy con Lăng Tiêu của Thiền sư cũng quay lại, hai ngựa một trước một sau cách nhau nửa mình, Thiền sư vươn đao chém tới thật hung dữ, Động chúa vặn mình trên lưng ngựa, tay phải luồn dưới tay trái thúc cây búa lên chặn lưỡi đạo của Thiền sư chém tới, tay trái Động chúa vươn cao lên chụp xuống cổ Thiền sư toan bắt sống.
Lưỡi đao của Thiền sư bổ mạnh vào cây búa dội hẳn lại, đà đao kéo Thiền sư vọt lên đúng tầm tay Động chúa, Thiền sư cả kinh rạp mình trên ngựa mà tránh. Cánh tay Động chúa chụp xuống không trúng cổ áo Thiền sư, nhưng trúng chuỗi hạt dị kỳ. Con Lăng Tiêu vọt lên, Động chúa bàn tay nắm chặt chuỗi hạt, Thiền sư băng đi thật nhanh khiến chuỗi hạt đứt tung khỏi cổ Thiền sư, trong tay Động chúa nắm được hai hạt bồ đề. Việc xảy ra cực nhanh, kể thì chậm. Chiến mã của Thiền sư vừa vọt lên, Động chúa toan giục ngựa đuổi theo, tay phải vừa nâng cây búa, tay trái còn nắm chặt hai hạt bồ đề, bỗng thấy nhức buốt lạ kỳ, tựa hồ như có nhiều lưỡi dao sắc cứa sâu đến tận xương. Động chúa kinh hãi, xòe bàn tay ra thấy máu ướt đẫm, màu máu đen bầm, cả cánh tay tê bại hẳn. Động chúa hiểu ra: các hạt bồ đề trong chuỗi hạt dị kỳ của thiền sư, là những hạt ám khí ai không biết đụng phải nó sẽ vỡ ra, bên trong chứa cơ quan thật nhạy, lại có những lưỡi dao nhỏ cực bén ngâm trong thuốc độc. Lòng bàn tay Động chúa bị các lưỡi dao cắt sâu, vì Động chúa nắm mạnh quá, thuốc độc ngấm ngay vào máu, phút chốc Động chúa thấy cả cánh tay tê tái, đau nhức lên đến tận đầu vai.
Động chúa kinh hãi, chưa kịp chống đỡ, đã thấy Thiền sư giục ngựa quay lại, thanh dao lại gác trên lưng ngựa, chiếc mõ kỳ dị lại khua lên đinh tai nhức óc. Dứt hồi mõ khua, Thiền sư vươn đại đao tận lực áp đảo Động chúa, Thiền sư cười như sấm nổ mà rằng:
- Bớ Bộ Lĩnh, mi trúng độc Chòm Mo của ta rồi, phen này thì không còn đường sống cho mi nữa!
Nói dứt, lưỡi đao bây giờ thay đổi phép đánh, bay như chớp giật mưa rào, chỉ có công mà không thủ nữa mỗi đường đao phóng ra là một đòn chí tử. Động chúa vừa giận vừa sợ, biết Thiền sư chẳng nói ngoa, chất độc đang hoành hành nhức buốt lạ lùng. Động chúa mím chặt môi chẳng nói nửa lời, lưỡi búa tận lực hoa lên chống đỡ nhưng cũng lựa đường cho ngựa rút lui. Thiền sư chỉ đợi lúc Động chúa lui ngựa, liền giục ngựa hô quân nhất tề ào lên.
Tướng Đỗ Mậu Đại cầm tướng kỳ áp trận, thấy Động chúa tự nhiên đang thắng bỗng nhiên lúng túng, vai trái khoác khiên, tay phải cầm búa giục ngựa né tránh chứ không công kích nữa, xem ra có vẻ muốn lui về, thì liền phất cờ hồi quân, đoạn rút trường kiếm, giục ngựa xông vào đấu với Tịch Mịch thiền sư.
Ở hậu quân của binh Hoa Lư, đạo quân Cổ Loa lúc này trẩy lên phía Bắc, bây giờ ào ào tràn xuống chặn mất đường về của Động chúa. Động chúa thấy thế nguy, cố nén đau buốt ở cánh tay trái, lưỡi búa trong tay phải vung lên đối địch với Thiền sư. Đỗ Mậu Đại tay trái giữ vững tướng Kỳ, tay phải huơ trường kiếm loang loáng cản Thiền sư, Thiền sư gầm lên như sấm sét, thanh đại đao đánh giạt trường kiến của Đỗ Mậu Đại ra rồi lăm le chỉ chực kích tới Động chúa, Đỗ Mậu Đại có lối xử kiếm rất tinh nhuệ, mũi kiến lách trong mưa đao của Thiền sư mà liên miên công kích vào những trọng huyệt thiền sư. Tịch Mịch thiền sư nhất thời không làm gì được Đỗ Mậu Đại, còn làm gì có thì giờ để đấu với Động chúa nữa.
Thiền sư lồng lộn, thanh đại đao bây giờ như rồng thiêng quẫy lộn, bổ một đường, phạt một ngọn, thích một mũi, mỗi đường đao ra là một lần chớp cực nhanh cố áp đảo trường kiếm của tướng họ Đỗ.
Trên thành, Mạc Sa Cảnh nhận biết tình thế, liền thúc Quách Nghiệp Đường giục trống hăng thêm nữa, lại tự tay phất cờ ra hiệu cho Chu Kỷ Toàn biết mà nhập trận. Lập tức, Chu Kỷ Toàn hô quân bỏ chỗ phục, đổ xuống phía Nam đánh vào đằng sau cánh quân Cổ Loa cản đường về của Động chúa.
Động chúa đang trong cơn bị vây hãm, đằng sau Đỗ Mậu Đại ra tài xử kiếm cản Tịch Mịch thiền sư, nhưng tướng họ Đỗ không phải là địch thủ của Thiền sư, nhuệ kiếm của họ Đỗ cũng chỉ có thể cản được vài bước của nhà sư này. Trong khoảnh khắc, Đỗ Mậu Đại đã bị Thiền sư đánh giạt sang một bên. Thiền sư nóng lòng chẳng muốn đánh lâu liền chém tới một đao đẩy Đỗ Mậu Đại bắn hẳn xa ra để trống đường cho Thiền sư giục con Lăng Tiêu lướt tới. Binh Cổ Loa reo hò ùa theo, tướng Đào Đình Bính phất cờ xông lên ép binh Hoa Lư vào giữa.
Tịch Mịch như con hùm dữ xông xáo, nheo mắt bắt theo hướng chiếc võ cân vàng tươi của Động chúa mà giục ngựa vọt tới. Thiền sư đi tới đâu, thanh đại đao lúc bổ lúc phạt đến đấy, máu đổ thịt rơi thật khủng khiếp. Thoáng chốc, Thiền sư đã tới gần Động chúa. Tịch Mịch quát lớn lên:
- Bớ Bộ Lĩnh, đừng chạy nữa! Oan gia tới nơi rồi, thù xưa tất hết!
Động chúa nghiến răng giận nói chẳng ra lời, chỉ bực một điều là cánh tay bị liệt, nhức buốt biết không thể để lâu được phải về gấp, chứ làm gì có việc thất bại trước Thiền sư, nay nghe Thiền sư nói như vậy thì uất khí bừng bừng, Động chúa vụt quay ngựa lại, cây đại phủ như núi đổ ập xuống đầu Thiền sư cực kỳ cấp bách, đánh lui Thiền sư lại mấy bước.
Thiền sư thừa biết Động chúa bị trúng độc hạt bồ đề, để lâu tất nguy hiểm đến tính mạng, vì thế Thiền sư cố tình trì hoãn không cho Động chúa về được, cốt hãm Động chúa ở lâu trong trận tất thể nào cũng thành công lớn. Thiền sư thận trọng đón đỡ đối địch với cây đại phủ của Động chúa.
Quả nhiên, chỉ được một lát là Động chúa đầu nhức mắt hoa, nửa người bên trái tê dại không còn cảm biết gì nữa, cây đại phủ trong tay bây giờ không còn linh động dữ dội nữa, Động chúa than thầm trong bụng!
Tịch Mịch thiền sư nhận biết như vậy, liền huy động đại đao như chớp giật mưa tuôn phóng ra một thế “Đại bàng đoạt gà con” bổ thẳng xuống đầu Động chúa. Động chúa chẳng kịp đỡ, giục ngựa giạt sang một bên tránh, Thiền sư lại hoành đao xử một thế “Chim én xuyên mây” mũi đại đao như bóng với hình bám sát Động chúa mà xỉa vào mạng mỡ. Nửa người Động chúa đã tê bại. Động chúa không thể vặn mình né tránh, cũng chẳng xoay trở lại mà cản được ngọn đao, liền tạt ngựa sang ngang để sườn bên trái lãnh mũi dao thích tới. Trong cơn nguy cấp. Động chúa tỉnh táo lạ thường, chỉ một kế nhỏ tạt ngựa hứng dao, cũng làm cho Động chúa thoát chết.
Nói thì lâu, việc xảy ra liên miên mau lẹ vô cùng. Động chúa vừa tạt ngựa, mũi đại đao của Tịch Mịch thiền sư đâm tới cực mạnh, Thiền sư mừng rơn trong bụng, nào ngờ cánh tay bại liệt của Động chúa không giơ lên được khiến cho chiếc khiên mây vẫn treo vững ở vai che kín nửa người bên trái Động chúa. Mũi đao đâm tới nghe “soạt” một tiếng thật rùng rợn, mắc chặt vào chiếc khiên. Khiên trận của Động chúa kết bằng mây hai lớp, ở giữa đổ nhựa cây đặc, mũi đao của Thiền sư đâm ngập vào thì bị mắc chặt khó rút ra. Động chúa cứ giục ngựa chạy tới, Thiền sư thâu lại đao không được đành nắm chặt chuôi đao giục ngựa theo bén gót Động chúa. Động chúa không làm sao vặn mình quay lại được để bổ ra một búa, trong lòng uất lắm.
Giữa lúc hai người không làm sao rời nhau ra được. Tướng Đỗ Mậu Đại vẫn giục ngựa bám riết phía sau. Mấy phen Đỗ Mậu Đại toan giục ngựa băng lên để cứu Động chúa, mấy lần đều bị tướng Đào Đình Bính hô quân vây cản không làm sao tiến lên thoát ra được. Tới lúc thấy Thiền sư đâm ra một ngọn đao, Động chúa liều mạng tạt ngựa hứng ngọn đao vào chiếc khiên mây, thì Đỗ Mậu Đại kinh hồn táng đởm, những tưởng Động chúa lâm nguy. Tới khi thấy Thiền sư không thâu đao lại được, mà Động chúa thì cứ giục ngựa chạy dài, Đỗ Mậu Đại không hiểu duyên cớ tại đâu, nghĩ rằng: “Sao Động chúa không nhân cơ hội mà chém Thiền sư đang theo sát sau lưng?”.
Nghĩ chưa hết, Đỗ Mậu Đại thấy Thiền sư tay trái lần ra dây lưng phía sau, rút chiếc chày mõ lớn bằng cổ chân ra để toan đánh lén vào hậu tâm Động chúa. Đỗ Mậu Đại nhìn rõ mọi việc, trong lòng sợ quá không kịp nghĩ gì thêm, liền hạ cây cung trên vai xuống, phóng ra một mũi tên cực mạnh. Mũi tên bay đi, sát mang tai Thiền sư đang rạp trên lưng chiến mã đuổi theo Động chúa. Mũi tên cuốn gió, lướt qua Thiền sư rồi cắm ngập ngay vào chiếc khiên của Động chúa. Thiền sư rụng rời tay chân, buông chuôi đao, Động chúa nhờ thế mới vọt ngựa chạy đi được. Bắn trượt, tướng Đỗ Mậu Đại lập tức rút tên bắn phát nữa, Mậu Đại cố kẹp lấy cán tướng kỳ, ngồi ngay ngắn lên lưng ngựa, tay giương hết tầm cung ngắm đúng giữa gáy Thiền sư mà buông tên. Cũng vừa lúc ấy, tướng Đào Đình Bính xốc ngựa lướt tới, thấy mũi tên sắp phóng đi không kịp rút khí giới, liền cầm ngay tướng Kỳ đâm thắng vào lưng Đỗ Mậu Đại, dây cung buông ra, mũi tên vừa đi cũng là lúc cây cờ tướng của Đào Đình Bính đâm mạnh vào lưng Đỗ Mậu Đại khiến cho tay cung của họ Đỗ bị lệch đi một chút, mũi tên bay ra không trúng Thiền sư. Đỗ Mậu Đại vừa Sợ vừa giận, quát lớn lên một tiếng trường kiếm bay ra tiện lìa cán tường kỳ của tướng Đào Đình Bính. Thuận đà, Đại xốc ngựa vọt tới, tận lực hạ thanh kiếm xuống đỉnh đầu Bính, Bính giật ngựa né tránh thì ngọn kiếm trong tay Đại chợt quay ngang xỉa ngay vào sườn bên trái Bính.
Đằng xa, Động chúa đã thoát hiểm, đang hô quân mở đường trở về Ngọc Lũ. Thiền sư Tịch Mịch đuổi không kịp Động chúa thì giận lắm, quay lại nhắm chỗ có tướng kỳ của Hoa Lư mà xông đến.
Chưa biết chiến trận ra sao, xin xem hỏi sau sẽ rõ.
—ooOoo—