Hồi Thứ Bốn Mươi Ba Động chúa trên giường mở cẩm nang
Cổ Loa dàn quân vây Ngọc Lũ
Kể lại Động chúa Đinh Bộ Lĩnh được Chu Kỷ Toàn hộ tống về thành vừa qua cửa thành suýt nữa ngã ngựa, thuốc độc đã ngấm nhiều rồi. Vừa lúc ấy, tướng Mạc Sa Cảnh từ trên vọng lâu chạy xuống kịp đỡ. Cảnh phi thân lên lưng ngựa Động chúa, một tay vòng ôm lấy Động chúa một tay cầm cương giục ngựa chạy gấp về doanh. Cảnh vừa hô quân truyền lệnh lên mặt thành cứ tiếp tục canh giữ, đợi Cảnh về doanh rồi trở ra ngay.
Mạc Sa Cảnh không biết Động chúa bị làm sao, cứ ôm chặt Động chúa chạy về doanh. Vào đến doanh, Cảnh thét quân một mặt di mời Đinh lão, một mặt cho triệu Thần y gấp.
Cảnh đặt Động chúa nằm trên giường, nhìn Động chúa nằm thiêm thiếp, sắc mặt sạm đen, khám khắp người không thấy bị thương chỗ nào thì lấy làm lạ lắm. Vừa lúc ấy, Đinh lão bước vào, ông thấy Động chúa nằm im lìm trên giường thì kinh hãi lắm, chưa kịp hỏi han đã thấy Thần y Hồ Xích Tú xách đẫy thuốc bước vào. Đinh lão vội nhường chỗ cho Thần y. Thần y chẳng cần hỏi sự thể, ngồi xuống mép giường xem mạch cho Động chúa.
Thần y lắng hết tinh thần, bốn đầu ngón tay nhấn trên mạch nơi cổ tay Động chúa mà chẩn bệnh. Giây lát, Thần y đứng lên, mở đầy thuốc lấy ra chiếc lọ sành gan gà bé xíu. Thần y mở nút, dốc ra lòng bàn tay bốn viên thuốc nhỏ như hạt kê màu xanh biếc trao cho Mạc Sa Cảnh mà rằng:
- Động chúa trúng đại độc, chậm chút nữa không cứu được! Ông cậy miệng Động chúa cho uống bốn viên “Khởi tử kim đan” này đi, sau đấy ta mới cứu được!
Mạc Sa Cảnh, Đinh lão, bây giờ mới biết Động chúa bị trúng kịch độc.
Mạc Sa Cảnh vội bước lại bên giường, tay trái bóp hàm Động chúa, ngón tay trỏ vươn ra đè lên hàm răng dưới Động chúa mà kéo xuống. Mạc Sa Cảnh phải vận sức mới kéo được hàm dưới Động chúa mở ra, tay phải liền khum khum đốc bốn viên thần đan vào miệng Động chúa. Bốn viên thuốc bé tí lăn cả vào trong miệng Động chúa, Mạc Sa Cảnh buông tay đứng nhìn thẫn thờ. Đinh lão lặng lẽ hết nhìn cháu ông, lại nhìn Thần y.
Bên ngoài doanh, quân đi lại rộn rịp, tiếng trống trận trên thành vẫn dồn dập. Thần y bảo:
- Đợi cho “khởi tử kim đan” ngấm ngay bây giờ đấy. Động chúa sẻ tỉnh lại, lúc ấy mới trục độc dược..
Quay sang Mạc Sa Cảnh, Thần y bảo:
- Ông xem Động chúa bị thương ở chỗ nào?
Cảnh nhíu mày đáp:
- Lúc nãy, tôi có xem rồi, không thấy bị thương ở đâu cả!
Thần y cũng nhíu mày nhìn Cảnh rồi nói:
- Động chúa giao chiến với tướng nào của Triều đình?
- Động chúa giao chiến với nhà sư Thúc Bạch Dương Pháp hiệu là Tịch Mịch thiền sư.
Động chúa khẽ cựa mình, mồ hôi vã ra ướt đầm đìa, Thần y nhìn phớt qua rồi nói:
- Như vậy thì Động chúa trúng độc Chòm Mo mất rồi! Phải có chỗ bị thương mới trúng thứ độc này được! Ông xem kỹ chưa?
Mạc Sa Cảnh không nói gì, bước lại bên Động chúa. Cảnh nhìn khắp người Động chúa không có chỗ nào tỏ ra bị trúng đao kiếm, võ phục vẫn y nguyên, trên mặt cũng không có vết thương nào, lấy làm lạ. Thần y bảo:
- Nếu là Thúc Bạch Dương, thì có thứ thuốc độc chế bằng nước dãi lợn rừng cho ăn thật nhiều nhân ngòn, khi con lợn rừng sùi bọt mép mà chết, nước dãi ấy hứng lấy luyện với nọc độc của bảy loài rắn độc trên núi Chòm Mo, sau lấy nhựa mã tiền mà cô cho đặc lại. Thuốc độc ấy chỉ cần chạm phải một chỗ nào sước sát trên da thịt, cũng ngấm vào ngay, trên thế gian này mà nếu không có thuốc của ta không ai bị thứ độc ấy lại thoát chết được! Thảo nào lúc nãy ta chẩn mạch Động chúa, thấy chủ kinh đã rời ngũ tạng, lục phủ đã muốn ngưng hoạt động, mới phải cho uống “khởi tử kim đan”. May nhờ Động chúa có sức mạnh mới không bị nát ngũ tạng rồi gục chết ở trong trận địa mất rồi còn gì!
Đinh lão, Mạc Sa Cảnh nghe nói, vẻ kinh sợ hiện rõ trên nét mặt, Thần y lại bảo:
- Khi nào Động chúa tỉnh lại, là kim đan của ta chế luyện bằng mười ba thứ cây cỏ đã phục hồi được kinh mạch, Động chúa tỉnh lại hỏi xem thì biết bị trúng độc ra sao là biết ngay!
Thêm lát nữa, quả nhiên Động chúa lại cựa mình, rồi mở mắt ngơ ngác nhìn quanh, tròng trắng con mắt đỏ như nhuộm chu sa. Động chúa có vẻ mệt mỏi, tướng Mạc Sa Cảnh vội chạy lại. Thần y giơ tay chặn Cảnh lại mà rằng:
- Đừng chạm vào Động chúa!
Rồi Thần y lẳng lặng ngồi xuống mép giường, lại chẩn mạch Động chúa, giây lâu ngửng đầu lên bảo;
- Chết thì không chết được nữa, nhưng khỏi hẳn thì chưa được!
Mạc Sa Canh hỏi thêm:
- Bây giờ thì phải làm sao?
Thần y không nói, giây lát chậm chậm ngẩng đầu lên mà rằng:
- Ông cứ việc ra trông nom việc quân, Động chúa để tôi trông nom là đủ!
Định lão cũng nói tiếp:
- Phải, ông nên ra xem việc quân đi, có Thần y ở đây thì không lo gì nữa!
Mạc Sa Cảnh lẳng lặng lui bước. Được một lát, Đinh lão lại hỏi:
- Thưa, theo ngài xét thì bệnh tình của Bộ Lĩnh thế nào? Thần y nhẹ nhẹ gật đầu, rồi khoan thai đáp:
- Cũng phải vài ba ngày nữa Động chúa mới ra trận được. Bây giờ “tứ đại tử huyệt” đều bị tắc cả...
Thần y bỏ lửng không nói hết câu, ánh mắt nhìn ra ngoài cửa xa xôi. Thần y suy nghĩ lung lắm. Đinh lão lo lắng thì có lo lắng, nhưng tin ở tài của Thần y nên còn cố nén lòng. Nhưng, thấy thái độ của Thần y, ông chẳng khỏi hoang mang, băn khoăn muốn biết mọi việc. Lát sau, chịu không nổi, Đinh lão liền ngập ngừng hỏi nữa:
- Thưa, bốn chính huyệt đều tắc cả, tính mệnh e khó bảo toàn, chắc ngài đã có phép hay để chữa trị cho Bộ Lĩnh?
Thần y chậm chậm ngẩng đầu nhìn Đinh lão, hai mắt Thần y rạng rỡ soi bói nhìn Đinh lão như có vẻ ngạc nhiên, rồi ông giảng:
- Nếu áp dụng theo các phép đả huyệt thông kinh của vua thần Nông để chữa, bắt chước Biển Thước kích huyệt Duy Hô cứu được người đã chết nửa thân, theo đòi Hoa Đà gõ vào huyệt Não Không mà cứu được Ngụy Võ Đế khỏi nhức óc, hoặc theo phép “xông hương ấm chích dùi đá bỏng” mà giải huyệt, đấy chẳng qua cũng chỉ là những phép cứu bệnh nhất thời, nhiều rắc rối...
Thần y dừng lại, Đinh lão chăm chú nghe giảng không dám lên tiếng hỏi lại những chỗ uyên thâm bác học của Thần y trong pháp chữa bệnh, cho nên dù nghe có những chỗ chẳng biết cũng gật đầu vâng dạ, ra chiều lĩnh hội cả được rồi! Thần y lại tiếp:
- Đất nước ta, núi thiêng cao khuất mắt, rừng rậm không biết đến đâu là hết, thì thiếu gì đá lạ kỳ hoa, thuốc thần không biết cơ man nào mà kể, biết vận dụng được những thứ đó thì ta nào có kém gì ai. Động chúa bị hoạt độc cực mạnh Chòm Mo xung phá trong người, làm cho tinh hoa tụ cả lại ở đằng sau gáy, khí lực dồn cả về ngực bên phải, sinh lực kết chặt ở dưới rốn, huyết mạch lởn vởn phía trên đùi, thì làm sao có thể bắt chước người xưa gõ óc, kích huyệt mong cứu cho được, dù có Hoa Đà, Biển Thước tái sinh hay cố theo phép chữa bệnh của vua Thần Nông cũng chẳng đuổi hết bệnh được...
Thần y lại ngừng nói, ông quay đầu nhìn lại Động chúa thiêm thiếp trên giường, rồi nói như biện bạch:
- Việc lớn thiên hạ, Động chúa vừa mới lĩnh mệnh trên cao mà hành động, sao có thể chỉ vì nghiệt độc của kẻ yêu ma mà hại thân được! Ta không chê Thần Nông, chẳng bác Hoa Đà, Biển Thước, nhưng việc này cấp bách quá, không thể để Động chúa qua đủ trăm ngày tự tiêu bệnh được, phải rút ngắn thì giờ, vượt mệnh mà ngồi dậy mới xong!
Nói xong, Thần y đứng dậy, vừa soạn thuốc trong đãy vừa nói với Đinh lão:
- Thưa ngài, tôi phải vượt mệnh mà cứu Động chúa mới xong, vậy ngài hãy truyền quân dựng lò để tôi luyện thuốc gấp mới được!
Đinh lão chưa kịp đáp, đã thấy từ cửa bước vào một người, vóc dáng vạm vỡ nhưng có phần tiều tụy, thì ra Phạm Cự Lượng còn nằm dưỡng bệnh nghe tin Động chúa trọng thương mới được vực về, thì vùng dậy chạy tới. Vừa vào tới cửa nghe Thần y nói, Cự Lượng chẳng kịp bước thêm, liền quay ngay gót vừa rảo bước vừa nói:
- Lượng tôi xin đi đốt lò ngay.
Thoáng lát, quân theo Phạm Cự Lượng mang đến đủ thứ, sẵn sàng nghe lệnh Thần y dựng lò. Thần y bảo không cần phiền phức, cứ đốt lửa cho mình, nướng vào lửa ba thanh trường kiếm từng chém nhiều người, rồi ông lại sai lấy một chiếc lư hương lớn để đổ nước giếng chỉ vừa ngập đốt ngón tay, ba thanh kiếm nung trong lửa rừng rực, thoáng lát đã đỏ hồng rồi ngả sang trắng chói mắt, Thần y bảo Cự Lượng cứ lần lượt lấy ba thanh kiếm ấy nhúng vào nước trong lư hương, không được ngơi tay, không được để lửa trong lò bớt ngọn.
Cự Lượng vâng lệnh, rút một thanh gươm nhúng vào lư hương, nước trong lư sôi lên sùng sục, Thần y lẹ tay thả vào một viên thuốc màu xanh, nước sôi bốc lên một làn khói xanh nhạt thoang thoảng như mùi ngàn hoa trong rừng hoang. Cự Lượng lại nhúng vào lư hương thanh gươm nữa, nước lại sôi sục, Thần y lại bỏ vào trong lò một vài ngọn cỏ khô, khói màu lam bay lên tỏa mùi thơm kim ngải. Cứ thế, Cự Lượng nhúng một thanh gươm, Thần y bỏ vào là một loại thuốc, lúc thì là mấy ngọn cỏ khô, lúc thì vài đoạn rễ cây lạ kì, có khi một viên thuốc đủ màu, lạ một điều, nước trong lư đổ vào chỉ ngập đốt ngón tay, thế mà gươm nung nóng đến độ chói mắt sáng lòa nhúng vào bốc hơi nghi ngút, vậy mà dường như không bao giờ cạn hết.
Đinh lão lặng lẽ xem Thần y luyện thuốc, Cự Lượng vã mồ hôi bên lò lửa, đi đi lại lại, bên ngoài cửa quân ngấp nghé nhòm ngó. Trong phòng, đượm nồng một mùi hương diễm ảo, lẫn trong hương ấy có cái sung lực tuyệt vời của rừng thiêng lúc ban mai, dũng khí của núi lớn buổi chiều tà, tiềm lực triền miên không cùng của thác lớn suối ngàn. Mọi người trong phòng như được tiếp sức, một sức mạnh lạ lùng đến không ai hay, vào cơ thể êm đềm không thể tả được.
Thuốc luyện khoảng vài tuần trà thì đã có hơn trăm vị thuốc vừa cỏ, vừa hoa, vừa rễ vừa lá, vừa bột, vừa thuốc viên đủ thứ. Phạm Cự Lượng trong lòng thấy khỏe khoắn lạ lùng, cố phồng ngực hít mãi mùi hương thần tiên của thuốc bay ra. Đinh lão khoan khoái, lâng lâng như lọc sạch được hết mấy mươi năm tuổi tác đè trĩu để bước vào một thế giới của muôn năm. Thần y hai mắt long lanh, vẻ mặt hân hoan mà rằng:
- Thế là phép luyện “kiếm đan” của ta xong rồi, bây giờ chỉ cần...
Nói đến đây, Thần y ngừng lại vẻ mặt thoáng nét buồn xa xôi, ngập ngừng miễn cưỡng. Đinh lão băn khoăn, rồi trịnh trọng hỏi:
- Thưa ngài, thuốc đã luyện xong, bây giờ ngài còn cần thứ gì nữa ạ? Thần y thẫn thờ rồi đáp:
- Một trăm mười một vị thuốc cây của ta đã được luyện theo phép “kiếm đan” ngài vừa thấy, thuốc còn quý gấp nghìn vạn lần bốn viên “khởi từ kim dan” lúc nãy. Chỉ riêng tìm cho được bảy đọt măng tre vừa mới nhú đúng lúc tre được trăm tuổi nở hoa, một đời ta cũng chỉ tìm được đến thế là hết, lại thêm, sáu cánh hoa cuối cùng của sáu bông Kim Ngải ở Đường An kết tinh âm dương trải qua bốn mùa không tàn, đem ướp với nhựa thảo bồng của núi Dược Sơn (Chí Linh) mà kết tụ diệu dụng đổi chết thành sống, các vị thuốc của ta chế luyện tinh túy của núi cao rừng thiêng, chứa đựng cả trời lẫn đất, lại lấy sức nóng của lửa qua sắt thép gươm thiêng để luyện, vì thế nước không nhiều mà chẳng hết, cỏ cây khô mà mãnh liệt vô cùng!
Thần y lại ngừng nói, vẻ mặt buồn xa xôi, hai mắt như nhìn sâu mãi vào những ngày mai không cùng ở trước mặt, giây lâu Thần y thở dài thật nhẹ, tiếp:
- Thuốc thần của ta đã luyện xong, bây giờ còn cần phải có huyền lực làm cho thuốc trở thành linh dược vạn năng. Ta cần có sáu giọt máu! Sáu giọt máu!...
Thần y không nói nữa. Đinh lão ngạc nhiên không nên được, liền bảo:
- Nếu chỉ cần có sáu giọt máu, thì có gì là khó!
Thần y buồn bã đáp:
- Đến sáu đấu máu cũng có, sá gì sáu giọt! Nhưng không phải thế! Ta cần sáu giọt máu tinh hoa của trời đất, chứ không cần sáu đấu máu của kẻ phàm trần!
Đinh lão hỏi nữa:
- Sáu giọt máu tinh hoa của trời đất là thế nào?
Thần y không nói, cúi đầu lặng lẽ. Phạm Cự Lượng đã biết tính tình kì quặc của Thần y, băn khoăn nóng ruột lắm mà cũng không dám hỏi, cứ đứng im giương mắt nhìn Thần y. Thần y chầm chậm đi lại bên giường Động chúa, ông đứng lặng nhìn rộng chúa như đang ngủ say, rồi ngửng đầu bâng khuâng thở dài. Thần y lại chậm chậm đi tới trước mặt Đinh Lão, rồi nói:
- Trên đời này, không ai là không trọng người thân yêu của mình. Nhưng đại nghĩa còn đáng trọng hơn nữa. Nay Động chúa trúng độc, nếu tôi không ra tay thì không xong. Trăm ngọn cỏ quý, ngàn cánh hoa lạ, một đời người cũng tìm được, nhưng sáu giọt máu tinh hoa thì một đời người cũng chưa đạt được. Xét ở đây, tôi biết dù có đi khắp đất trời cũng không kiếm được sáu giọt máu quý ấy! Chỉ còn một cách...
Đinh lão không nén được nữa, hỏi vội:
- Ngài bảo chỉ còn một cách là cách nào? Sáu giọt máu tinh hoa là thế nào?
Thần y cúi đầu trầm ngâm, giây lâu đáp:
- Phàm đã gọi là tinh hoa của trời đất, tất không phải là giơ tay mà có, đi vài bước mà được! Máu vốn là tinh hoa của con người, diệu dụng của nó là ở chỗ nuôi trẻ dưỡng già, tiềm năng kích lực, máu hết là chết. Nay, nếu đem cái “sống” bình thường để mong vận dụng huyền diệu thì làm sao thành công được, chính vì thế kẻ mỗi ngày uống ba bát máu dê cũng vẫn không thành thần tiên được, huống hồ là nay chỉ có sáu giọt máu!
Định lão lại hỏi:
- Vậy theo ngài thì sáu giọt máu tinh hoa ấy lấy ở đâu? Nó diệu dụng như thế nào?
Thần y nghiêm nét mặt, hùng hồn giảng:
- Sáu giọt máu tinh hoa là đủ, không cần nhiều hơn. Một trăm mười một vị thuốc cỏ cây, luyện theo phép “kiếm đan”, cũng chỉ mới có được cái sức nối lại mạng người, nhưng chưa có được cái chỗ toàn diệu của nó là “thuốc vào người phải hoạt động ngay, đem thời gian trăm ngày thu lại chỉ có một ngày”, có thế thuốc mới đáng gọi là thuốc thần được. Nay thêm vào sáu giọt máu tinh hoa, là làm cho thuốc công hiệu lên gấp trăm lần.
Thần y Hồ Xích Tú ngưng lại, vẻ bâng khuâng, giây lát tiếp:
- Đã gọi là tinh hoa, thì tự nhiên không thể là phàm tục được. Người có sáu giọt máu tinh hoa, giữa đám vạn người ở đây nhất định chẳng có. Tôi cũng đành hi sinh vậy, mệnh trời khó cưỡng là thế đấy!
Đinh lão nghe nói, lấy làm ngạc nhiên lắm. Tại sao Thần y lại bảo là “đành phải hi sinh, mệnh trời khó cưỡng?”. Hay là Thần y có trong người sáu giọt máu quý, nay dành hi sinh tính mệnh cứu Động chúa? Đinh lão chưa biết sự thể ra sao, Phạm Cự Lượng cũng đứng ngây người chăm chú nghe. Thần y nói luôn:
- Tôi đem vợ về núi Gối, chọn nơi phong cảnh thần tiên mà luyện thuốc, quyết đem nghề riêng để vận dụng tinh hoa cây cỏ khắp nơi, chế thành thần dược đem cho vợ tôi uống. Thần dược ấy, vợ tôi đã uống đủ bảy trăm ngày, nó vận hành trong thân thể, bổ chính những nơi không toàn vẹn, thay đổi cả ảnh hưởng thời tiết, chuyển biến cả khí hóa trong người, thành ra dù vạn vật có xảy ra những sự sai nghịch, làm cho người thường bệnh tật đau ốm, trẻ hóa già, mạnh hóa yếu, thì thần dược ấy trong người vợ tôi vẫn giữ được cho lục phủ ngũ tạng điều hòa, trẻ mãi không già, mạnh mãi không yếu. Cuối cùng thuốc thần ngấm vào trong máu, kết tinh lại với sáu giọt máu tụ cả về nơi trăm mạch ngàn kinh đều hướng tới ở giữa đỉnh đầu. Bây giờ, chỉ còn có cách lấy sáu giọt máu ấy bổ chế cho thuốc, mới cứu được Động chúa!
Thần y nói xong, Đinh lão, Phạm Cự Lượng đều vỡ nhẽ ra sáu giọt máu quý ấy vốn là một đời tinh hoa y học của Thần y khổ công luyện thành rồi kí thác cho người vợ yêu của ông ta. Cự Lượng nhớ lại có một đôi lần được thấy mỹ nhân vợ Thần y, quả thật nàng đẹp lạ lùng, trên thế gian này hiếm có người như vậy. Thần y nói xong, Đinh lão ngẩn ngơ rồi chợt nhớ ra, liền vòng tay vái Thần y một vái mà rằng:
- Đa tạ thần tiên, ngài vì việc lớn mà hi sinh như vậy, già tôi thật cảm kích nói bao nhiêu cũng không hết được ơn này, lạy bao nhiêu cũng chẳng đủ để tung hô ý chí của bực thần tiên đấy!
Hồ Xích Tú làm như chẳng nghe thấy lời Đinh lão, lặng lẽ quay gót bước ra ngoài sảnh. Còn lại đinh Lão và Phạm Cự Lượng, hai người nhìn nhau chẳng biết nói gì, lại nhìn đến Động chúa trên giường mà lo lắng.
Lát sau, Thần y trở lại, dẫn theo người vợ. Vợ Thần y họ Thi, tên Lạc Phượng, người huyện Phụng Nhãn. Thi Lạc Phượng nức tiếng về sắc đẹp, trai năm mươi bảy xã thôn Lạng Giang không ai là không nghe tiếng. Từ nhỏ, Lạc Phượng lúc vui chơi với các chị em vẫn thường nói: “Một đời con gái đẹp, lấy chồng giàu sang mới thỏa”, nào ngờ lúc lớn lên năm mười sáu tuổi về nhà chồng, vừa bước chân vào ngưỡng cửa nhà chồng thì chồng trúng gió độc ngã ra mà chết. Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa, ai cũng bảo là nàng Lạc Phượng có đến “bảy tướng sát phu”, vì thế mà má đào phận bạc chưa được cùng chồng hợp cẩn giao bôi đã hóa ra gái góa! Lạc Phượng âm thầm ở góa được bốn năm, sắc càng đẹp, tình càng nồng, cái vẻ mơ màng buồn kín đáo của sương phụ trinh nữ làm cho không biết bao người trai Phụng Nhãn mất ăn mất ngủ. Họ nhà chồng Lạc Phượng cũng thương nàng tuổi còn son, sắc còn nguyên vẹn không nỡ để nàng vùi hết cuộc đời trong cảnh ở góa, liền cho nàng trở về lập lại cuộc đời. Lạc Phượng từ giã nhà chồng cũ, bước ra khỏi cửa đã có biết bao chàng trai đón rước, mùa xuân quả thật đã về. Cuối năm, Thi Lạc Phượng nhận lời cầu hôn của con nhà phú hào họ Đặng, tiệc cưới chưa tàn đã lại có hung tin báo ra rằng: Đặng công tử trước khi đưa vợ mới vào phòng hoa, vào xét lại lần nữa tổ ấm, nào ngờ có con rắn nhỏ dài vài gang tay màu xanh biếc nấp dưới gối, công tử vừa nhấc chiếc gối xem xét thì con rắn phóng ra bổ vào tay, phút chốc nọc độc ngấm nhanh, công tử chỉ kịp thét lên một tiếng thì ngã ra bất tỉnh rồi chết luôn. Thi Lạc Phượng khóc không biết bao nhiêu mà kể. Có người bảo rằng Đặng Công tử chết vì chiếm được nàng Lạc Phượng đám thanh niên không hơn Đặng Công tử liền hợp nhau thả rắn để phá buổi động phòng của kẻ diễm phúc, nào ngờ sinh thảm họa cho Lạc Phượng. Ma chay cho chồng xong, Thi Lạc Phượng bỏ nhà ra đi, đến sông Nhật Đức thì gieo mình xuống đoạn hai dòng hiệp một ở xã Chiêu Lăng mà tự ải. Nào ngờ má đào còn nhiều duyên nợ, nước dòng Nhật Đức tuy ba dòng cũng chưa đủ để rửa sạch bụi trần, vì thế Thi Lạc Phượng tự trầm mà không chết, dòng nước đưa thi thể nàng Lạc Phượng trôi về đến tận Lục Đầu thì vướng vào lau sậy gặp lúc Thần y đi tìm hoa lạ “bạch ung”, thì được Thần y cứu sống.
Thần y đem Thi Lạc Phượng về nhà phục thuốc, sau cảm sắc đẹp của nàng lại nghe kể cuộc đời gian truân, Thần y cảm khái mới ngỏ lời lấy nàng làm vợ. Lạc Phượng nói rằng người đời bảo nàng có đến bảy tướng sát phu, lấy chồng chưa giáp mặt chồng đã thành góa bụa, nay Thần y cứu nàng ân sâu nghĩa nặng, nếu nhận lời kết nghĩa đá vàng với Thần y nhỡ lại đem họa đến cho Thần y thì nàng ân hận lắm. Thần y cười mà rằng: “Bây tướng sát phu, là sát phu với những dứa phàm trần, còn Thần y vốn là bạn thân thiết với Thần Chết, chưa lần nào Thần y muốn cứu người mà Thần Chết lại ngăn cản cả, thì làm gì còn có sự đem họa lại cho Thần y nữa!”.
Rồi Thần y đưa Thi Lạc Phượng về núi Gối, vận dụng tinh hoa y học của ông ta sửa chữa dung nhan Lạc Phượng, ông vẫn tự hào rằng: “Hoa Đà phải dùng đến dao khoét xương cho Hán Thọ Đình Hầu, đòi phải mổ óc Ngụy Võ Đế, như thế là còn kém, bởi vì ông đã đạt đến chỗ tinh lý cao siêu nhất của y thuật là dùng thuốc thay dao, đưa thuốc vào người mà mổ xẻ sửa chữa mọi sai lạc từ nội tạng ra đến hình dáng bên ngoài, tài ấy ắt vượt Hoa Đà, Biển Thước!”.
Vì vậy, Thần y đã biến cải được bảy tướng sát phu của nàng Lạc Phượng, lại sửa chữa cho nàng trở thành mỹ nhân diễm lệ toàn hảo dưới gầm trời dễ không có đến hai. Nhưng, tài của Thần y vẫn chỉ trong vòng “lấy thuốc thay dao” sửa chữa mọi sai lạc, chưa đạt đến độ biến cải được tâm linh, chuyển đổi được tính tình con người. Thi Lạc Phương sắc đẹp mê hồn, tuổi xuân đang độ mạnh nhất, lại được thêm cái thuốc thần của Hồ Xích Tú bồi dưỡng cho, sức sống triền miên có dễ đến muôn năm cũng không hết, ấy vậy mà nàng lại phải sống với một ông già trầm lặng, giữa một chốn rừng u nhã, xa vắng mọi người, hỏi làm sao không nảy sinh những tư tưởng mơ hồ, vượt ra ngoài rừng núi để bay về chốn kẻ chợ náo nhiệt, cho đến lúc Quách Xử Sĩ lĩnh mệnh đi cầu Thần y chữa bệnh cho Phạm Cự Lượng, Thi Lạc Phượng nhờ đấy được theo Thần y về Hoa Lư, sống giữa đám hảo hán giữa tuổi sức hùng đang lên, hoạt động cực kỳ ồn ào, thì tâm hồn đúng thực của nàng cũng bắt đầu sống dậy. Thần y lo ngày mai, nhưng chưa liệu được hết việc đời, một phen bỏ chốn u nhã về nơi náo nhiệt ông đã thấy tai họa hiện ra, nhưng ông chưa ngờ được tai họa sẽ như thế nào.
Bây giờ, Thần y đưa Thi Lạc Phượng vào đại sảnh chỗ Động chúa Hoa Lư nằm, rồi sang sảng giảng:
- Thi Lạc Phượng hiền thê, tinh tế đối với nàng thế nào chẳng cần nói thêm nửa lời, ý ta định thế nào cũng chẳng phải giảng thêm lần nữa! Nay vì việc lớn của đám anh hùng hảo hán Hoa Lư, ta bỏ nơi ẩn dật để đem cái biết của mình giúp vào đại cuộc. Sức ta đủ để tranh giành với Thần Chết, nhưng chẳng phải chỉ ra một trận là thắng được cả. Bây giờ, Hoa Lư Động chúa lâm trận trúng phải kịch độc, Khởi Tử Kim Đan của ta trăm ngày cũng đẩy lui được hết độc trong người Động chúa, nhưng đây không phải là lúc đợi trăm ngày được, việc cấp bách là nội ngày mai Động chúa phải lên ngựa ra trận, vì thế ta đã luyện đến huyền thuật cuối cùng của ta là phép “Kiếm Luyện Thần Đan”, lấy thuốc thánh để chữa cho động chúa. Thuốc luyện xong nay phải cần đến sáu giọt máu tinh hoa của Trời Đất để biến thuốc có sức mạnh “trăm ngày tụ lại thành một”, sáu giọt máu sẽ dẫn thuốc khai mở sáu sinh huyết trong người Động chúa, rồi đem hết độc về tụ tích ở “hội dương”, làm cho động chúa từ đây dù gặp phải độc vật gì trên thế gian này mạnh đến đâu cũng không hại được Động chúa...
Thần y thao thao giảng, Đinh lão, Phạm Cự Lượng, Thi Lạc Phượng ngẩn người đứng nghe. Lạc Phượng hai mắt long lanh hết nhìn Động chúa thiếp trên giường, lại nhìn Đinh lão, Phạm Cự Lượng. Lượng ngây người tưởng gặp thiên tiên, dường như quên bẵng tình thế, trước mắt chỉ thấy dung nhan tuyệt vời của Lạc Phượng.
Lạc Phượng chớp chớp cặp mắt trong veo, trong lòng nao nao với những ý niệm mơ hồ, nàng bẽn lẽn hai má ửng hồng, nhẹ cúi đầu nghe Thần y nói tiếp:
- Sáu giọt máu tinh hoa, ta đã ký thác cho nàng, bảy trăm ngày dùng thuốc chế luyện bằng tinh hoa y thuật của ta mới có được! Nay vì đại sự, ta xin nàng vì đại nghĩa giúp Động chúa sáu giọt máu quý ấy, nàng nghĩ sao?
Đinh lão nhè nhẹ thở, Cự Lượng như ngây như dại, Lạc Phượng hai mắt chớp nhanh bẽn lẽn, bàn tay ngọc ngà khoan thai đưa lên vuốt mái tóc mướt mềm như mây chiều mùa thu, rồi cất giọng lảnh lót mà rằng:
- Cuộc đời thiếp phó thác vào tay người quân tử, thì ý của chàng ắt cũng là ý của thiếp. Chàng cứ việc ra tay cứu Động chúa!
Đinh lão nhẹ thở ra. Cự Lượng hân hoan cảm phục ra mặt. Thần y cũng thoảng nét mừng, nhưng rồi vẻ mặt đã sầm lại buồn bã. Thần y đăm đăm nhìn Lạc Phượng, rồi nhếch mép cười buồn, giọng như trong mơ:
- Thi Lạc Phượng, sáu giọt máu tinh hoa, gìn giữ cho em trẻ mãi không già! Ta vận dụng tinh hoa y học để mong vượt trời làm cho em trở thành chẳng chết, nay thì đành bỏ giấc mộng cuồng rồi, Thần chết sau cùng cũng lại thắng ta! Em có tiếc không?
Đinh lão nghe nói, giật mình ngỡ rằng Thi Lạc Phượng phải hi sinh tính mạng, vội vàng hỏi:
- Thần y, ngài định hi sinh mạng sống của vợ chăng? Thế thì không được, không được!
Thi Lạc Phượng nghe Thần y nối cũng bàng hoàng, Cự Lượng thấy trong lòng sôi nổi lạ lùng, Thi Lạc Phượng ngẩn người như lạc mất hồn, Thần y nghe Đinh lão hỏi liền đáp ngay:
- Không phải thế, vợ ta không phải hi sinh mạng sống, chỉ phải hi sinh cuộc sống thần tiên bất tử, trở lại thành người phàm trần cũng có già, có yếu, và chung cuộc thì cũng có chết!
Đinh lão thở ra, Cự Lượng tay chân bứt rứt, Thi Lạc Phượng lạc thần hai mắt chớp chớp bối rối, Thần y hỏi thêm lần nữa:
- Lạc Phượng em, bỏ Thần tiên để sống lại trần tục, em có tiếc không?
Lạc Phượng nhỏ nhẹ đáp:
- Khi luyện thuốc thần, chàng đã nghĩ đến máu tinh hoa, nếu em tiếc mấy giọt máu quý ấy thì chẳng bao giờ Thần y thỏa được tài cứu người! Vậy chàng cứ lấy máu mà luyện thuốc.
Lạc Phượng đối đáp thật khôn khéo, ai nghe thấy cũng khâm phục lắm. Đinh lão chắp tay với nàng một vái mà rằng:
- Thế mới là bực thần tiên, chẳng cần muôn năm bất tử mới là thần tiên! Lão hủ cảm kích ơn này lắm lắm!
Lạc Phượng xụp xuống vái lại, rồi đứng lên hai mắt mở to cực êm mà nhìn Bộ Lĩnh nằm trên giường. Thần y gật gù mặt như băng, lại bên là thuốc, bảo Cự Lượng nung ba thanh kiếm cho thật bỏng, rồi gọi Phượng lại. Thần y bảo nàng ngồi xuống, xõa mái tóc mây đợi chờ.
Cự Lượng mặt mày nghiêm trọng đợi lệnh Thần y. Thần y bưng bình thuốc đến để bên cạnh, rồi bảo Lượng:
- Ông đợi cho gươm thật bỏng, lại nhúng vào bình thuốc, nhưng dừng lấy ra, đợi lúc nào tôi ra hiệu hãy bỏ ra nhé!
Cự Lượng vâng dạ, vẻ mặt gay cấn đợi chờ. Thần y lấy trong đẫy một con dao nhỏ, lưỡi dao cuộn tròn theo chiều dài cong cong như chiếc lá liễu cuốn tổ sâu trong. Thần y lại lấy sáp ong vàng hơ lên lửa rồi quét vào lòng lưỡi dao.
Thần y đến bên Thi Lạc Phượng, ông cúi xuống tay trái vén tóc nàng, hai mắt buồn vô hạn. Suối tóc nàng Lạc Phượng chảy dài xõa trên nền nhà, giữa đỉnh đầu nàng một khoảng tròn nhỏ bằng đầu ngón tay đỏ nâu như vết nốt ruồi lớn hiện rõ. Thần y đăm đăm nhìn vết đỏ nâu, dấu tích kỳ công y học của ông tụ hội ở đấy, ông thẫn thờ gọi:
- Lạc Phượng...
Lạc Phượng lặng thinh, hai bàn tay ngọc ngà chống trên nền nhà, nàng lặng lẽ đợi chờ. Đinh lão chằm chằm đứng nhìn, Cự Lượng bồn chồn. Bỗng Thần y giật giọng:
- Kiếm!
Cự Lượng lập tức nhấc một thanh kiếm ra khỏi lò lửa, thanh kiếm chói lòa sáng trắng, Cự Lượng bước lại nhúng thanh kiếm vào bình thuốc, nước thuốc sôi lên sùng sục bốc khói ngào ngạt thơm. Thần y tay trái dè lên đầu Lạc Phượng, tay phải đưa ngọn dao quyết liệt ấn mạnh vào vùng đỏ nâu, hai mắt Thần y long lanh, bàn tay ông nhè nhẹ nhích. Thần y nhấc ngọn dao ra xoay mình dốc lưỡi dao đổ vào trong bình đang bốc lên màu xanh biếc, vụt trở thành đỏ hồng, hương thơm kì dị hốt nhiên đượm gây nồng.
Đợi một lát cho nước thuốc trong bình bớt sôi réo, làn khói bốc ra lắng dần xuống, từ màu đỏ hồng dần dần trở lại màu xanh biếc nhẹ nhàng. Thần y ra hiệu cho Cự Lượng lấy thanh kiếm ra khỏi bình thuốc. Đến lần thanh kiếm thứ hai nhúng vào bình thuốc, hai giọt máu hồng lại được trút vào, lần này khói bốc ra đỏ rực, lâu lắm mới lại trở về màu xanh nhạt, phảng phất có những sợi khói đỏ mảnh mai chen lẫn chứ không còn xanh nguyên như lần trước nữa. Lần thứ ba, khói trong bình thuốc bốc ra đỏ chói, hương thơm cực kì đượm nồng, lại có sức kích thích thật mạnh, khiến cho Đinh lão, Phạm Cự Lượng cảm thấy như vừa được uống liều thuốc khỏe lạ kì. Khói trong bình thuốc không bốc ra nữa, Thần y ra hiệu cho Cự Lượng nhấc thanh kiếm ra.
Thần y thẫn thờ nhìn Lạc Phượng, nàng vẫn còn cúi đầu chờ đợi. Thần y nhẹ đỡ nàng đứng dậy, hai tay Thần y hơi run run. Lạc Phượng ngơ ngác nhìn, chưa biết bây giờ là thế nào. Thần y giọng thật nhẹ như than thở:
- Lạc Phượng em, thế là hết, từ đây em là người phàm tục rồi!
Lạc Phượng mỉm cười không nói. Thần y thẫn thờ thêm chút nữa, rồi quay sang bình thuốc. Lúc ấy, Cự Lượng đã ra hiệu cho quân dẹp lò lửa.
Thần y bưng bình thuốc quý, đổ thuốc ra chén sành, thuốc quánh đặc như sáp, màu đỏ như son, chỉ đủ láng dưới đáy chén. Lạ là điều, thuốc không dính vào vách bình, trút ra là hết sạch tựa như thủy ngân.
Thần y bưng chén thuốc lại bên giường, ông xem lại mạch tay Động chúa, vẻ suy nghĩ thật lung, rồi bảo Cự Lượng cạy miệng Động chúa để ông trút thuốc vào.
Cho Động chúa uống thuốc xong. Thần y nói với Đinh lão:
- Bốn viên “Khởi Tử Kim Đan” lẽ ra cũng đủ sức cứu Động chúa, nhưng cũng phải đợi đến trăm ngày mới khỏi hẳn được. Nay nhờ có “Huyết Kiếm Đan”, thì chỉ lát nữa đây là Động chúa tỉnh hẳn lại, qua đêm nay đến sáng mai là có đủ sức lên ngựa ra trận lại được rồi!
Nói xong, Thần y không đợi Đinh lão kịp nói gì, đã rộng bước đến bên Lạc Phượng cùng bước ra ngoài. Đinh lão ngẩn người đứng nhìn, Phạm Cự Lượng dõi theo bóng nàng Lạc Phượng mất hút vào bóng tối bên ngoài, trong lòng bâng khuâng kì lạ. Vừa lúc ấy, Động chúa cựa mình, Đinh lão, Phạm Cự Lượng vội chạy tới.
Động chúa hai mắt mở ra, lòng trắng không còn đỏ như chu sa nữa, thần sắc Động chúa xem ra tỉnh táo rồi. Động chúa cất tiếng giọng còn thều thào:
- Đánh nhau thế nào?
Cự Lượng đáp:
- Quân ta đánh lui binh triều rồi!
Động chúa có vẻ an lòng. Đinh lão hỏi:
- Con thấy trong người ra sao?
Bộ Lĩnh hai mắt lại nhắm lại, chậm chậm đáp:
- Con thấy dễ chịu lắm!
Vừa lúc ấy, Mạc Sa Cảnh từ ngoài bước vào, theo sau là Đỗ Mậu Đại, Chu Kỷ Toàn và các tướng khác, ai cũng lặng lẽ, bước đi rón rén không dám gây tiếng động.
Bên ngoài, không còn nghe tiếng trống trận trên thành thục nữa. Sau khi Chu Kỷ Toàn hộ tống đưa Động chúa trở về thành, liền lập tức quay ngựa nhập trận lại. Toàn vào trận đúng vào lúc Đinh Điền kịch chiến với Tịch Mịch thiền sư, và Đỗ Mậu Đại sắp nguy về tay tướng tiên phong của triều đình là Lê Hoạt Hoàng. Hoàng cưỡi con Ô Truy sức đi nhanh như gió thoảng. Hoàng lại xử cây kiếm bạc cực kì lợi hại ra sức áp đảo Đỗ Mậu Đại. Đại một tay giữ ngọn Soái kỳ Hoa Lư, một tay lúng túng với thanh gươm gập làm đôi, không có cách gì chống đỡ được. Đại muốn chạy cũng không xong vì con ngựa của Lê Hoạt Hoàng lợi hại quá. Bên kia, Đinh Điền thừa biết Đại bị lâm nguy, muốn tới cứu, lại bị Thiền sư tận lực huy động cây chùy thiết mộc ngăn Đông chắn Tây, cố cản không cho Đinh Điền thoát ra được.
Đinh Điền vừa nóng lòng, vừa sôi gan giận, ngọn côn đồng lấy thế vừa nặng vừa dài, lợi thế cả lúc đánh xa lẫn lúc lại gần, đối địch với Thiền sư thật ngang ngửa, nhiều phen khiến Thiền sư cũng phải vã mồ hôi. Bên kia, càng lúc Đỗ Mậu Đại càng thêm nguy khốn, Đại vã mồ hôi như tắm, không còn cách nào để chạy được nữa, muốn làm liều đem cái gan lì để đổi mạng với tướng triều đình cũng chẳng còn cách gì làm được! Đại vừa sợ vừa uất, hàm răng cắn chặt vào môi đến chảy cả máu mà vẫn không biết.
Đang trong lúc mười phần chết cả mười ấy, thì hậu quân binh Triều tự nhiên hỗn loạn, rồi một tướng giục ngựa lướt tới, tướng ấy đi tới đâu quân triều đình gục ngã đến đấy, chỉ một thế vung ra thanh trường thương trong tay tướng mới vào trận cũng đủ vừa đâm, vừa đập, vừa gạt, vừa xỉa, đằng sau tướng ấy lại có đám quân xông xáo cực hăng, không ai nói một lời, cứ tận lực đâm chém dữ dội.
Đỗ Mậu Đại trông ra, mừng quýnh gọi lớn:
- Chu huynh mau cứu ta!
Thì ra, tướng vừa vào trận chính là phó tướng Chu Kỷ Toàn. Toàn hộ tống đưa Động chúa về thành rồi xông trở lại ngay, tới đây vừa gặp lúc Đỗ Mậu Đại sắp nguy. Toàn vốn là một tướng của Hoa Lư lừng danh về phép đánh thương: người đời thường sánh tài cầm thương ra trận của Toàn chẳng kém gì ngọn kích trong tay Lữ Ôn Hầu đời Tam Quốc. Toàn không chịu như thế, thường bảo: “Nếu đọ sức Lữ Bố, nhất định Toàn phải thắng, chứ không đến nỗi như ba ông Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi hì hục quần thảo với Bố mà Bố chẳng đánh ngã được ông nào!”.
Bây giờ vào trận, nghe Đỗ Mậu Đại gọi, Chu Kỷ Toàn không ham đánh giết binh Triều, liền giục ngựa xông tới ngọn thượng vươn ra vượt cả vó ngựa phóng tới cực kì dũng mãnh, chiếu chếch chếch bên sườn trái tướng Lê Hoạt Hoàng đâm tới, Lê Hoạt Hoàng vừa thấy mũi giáo trong tay tướng Hoa Lư bay tới, lập tức giục con ngựa Ô Truy tung vó bay lên, ngọn thương của Toàn đuổi hụt sạt sau lưng tướng Lê Hoạt Hoàng.
Chu Kỷ Toàn chẳng khỏi ghê mình với đường gươm lợi hại của tướng triều đình, lại chú ý ngay đến con ngựa sắc lông đen mướt chạy cực nhanh này. Toàn nghĩ chưa dứt, đã thấy Lê Hoạt Hoàng quay ngựa trở lại, Hoàng chẳng nói chẳng rằng, cây kiếm bạc đã tận lực bay ra áp đảo Chu Kỷ Toàn, Toàn rất tinh ý, chỉ một đường gươm thôi cũng đủ biết tướng triều đình có tài lớn. Toàn lập tức huơ thương chống đỡ.
Chu Kỷ Toàn vốn lừng danh về phép đánh trường thương. Toàn đem phép xử trường đao hợp với lối đánh đoản kiếm để biến thế thành phép đánh thương riêng biệt của mình. Toàn gọi phép đánh thương ấy là “Hoa Lư Thất Tuyệt Thương”, phép đánh thương của Toàn gồm hai mươi sáu thế, kết thúc bằng bảy thế cực kì lợi hại, trên đời ít người có thể chịu nổi bảy thế cuối cùng của phép đánh thương này của Toàn. Thường thường, Toàn ít khi phải sử dụng đến phương pháp riêng này, nay lâm trận đấu với tướng tài của triều đình, lại thêm thời giờ cấp bách nên lập tức Chu Kỷ Toàn giục ngựa, cây trường thương gác treo trên đầu ngựa, Toàn vào trận với pháp đánh thương “Hoa Lư Thất Tuyệt Thương”.
Lê Hoạt Hoàng thúc ngựa vọt tới, một kiếm tung ra vừa đâm vào cổ và ngang ngực Toàn, Toàn nhấc cây trường thương lên, cây thương dựng đứng bay ra chiêu đầu “Núi Mọc Xuyên Mây”, ngáng lấy gươm của Lê Hoạt Hoàng, mũi thương chạm nhẹ vào mũi kiếm đẩy thanh kiếm bạc sang một bên. Thừa đà, trường thương trong tay Chu Kỷ Toàn xoay ngang, mũi thương nghiêng nghiêng chiếu vào sườn bên trái tướng triều đình. Lê Hoạt Hoàng uốn mình tránh ngọn thương, lập tức cán thương đã lộn trở lại bước vào thế thứ hai “Mãng Xà Vào Động” nhằm vào giữa mặt Hoàng thúc tới cực kì dũng mãnh, Lê Hoạt Hoàng vã mồ hôi, nghiêng đầu né tránh.
Chu Kỷ Toàn quát lớn một tiếng, bốn vó ngựa tung lên, cây thương chuyển thế nằm dài theo cánh tay Toàn, rồi bất thần mở tung ra đánh một chiêu cận chiến “Mục Tử Cõng Trâu”, cán thương thúc ngược lên giữa ngực Lê Hoạt Hoàng, Hoàng khiếp hãi kéo cương lùi ngựa lại tránh, trường thương tức thì như tuột khỏi tay Toàn mà bay đi, mũi thương đảo lộn từ dưới chiếu lên nhắm giữa yết hầu Lê Hoạt Hoàng phóng tới, Hoàng không còn hồn vía, chẳng dám huơ gươm đón đỡ, biết thế nào cây thương cũng lại biến thế bám riết lấy mình mà truy sát, liền thúc hai gót chân giục ngựa vọt về một bên chạy ra xa. Con Ô Truy vươn cổ, phóng vèo đi, đưa Lê Hoạt Hoàng thoát vòng vây hãm của trận thế “Hoa Lư Thất Tuyệt Thương”.
Lê Hoạt Hoàng trước cũng sử dụng trường thương, nhưng cây thương đã bị tay Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm Trịnh Tú sử dụng gươm báu của Lê Hoàn chém đứt làm mấy khúc, bây giờ Hoàng phải dùng kiếm bạc xuất trận, vì thế Hoàng không hoạt động được như ý.
Về phía Đinh Điền, cây côn đồng càng lúc càng tung hoành dữ dội, trước thì Điền nóng lòng muốn cứu Đỗ Mậu Đại, bây giờ thấy thêm Chu Kỷ Toàn nhập trận giao chiến với Lê Hoạt Hoàng, giúp Đại thoát chết, Điền yên lòng chủ tâm vào trận đấu, vì thế cây côn đồng lúc này lên xuống công thủ cực kỳ gắn bó, hết sức lợi hại. Dần dần, Thiền sư bị dồn vào thế thủ nhiều hơn công, đấu lâu nữa ắt thất bại.
Vừa lúc ấy, Nam Tấn Vương cầm trống giám trận, thấy trời đã tối hẳn lâu rồi, quân giao chiến cũng đã lâu, mệt mỏi, lại thêm không thấy có kết quả, để lâu ắt thua, liền trao tay trống cho quân, rồi lệnh giục trống hồi binh hưu chiến.
Thế là, cả Thiền sư lẫn Lê Hoạt Hoàng không ham đấu nữa, tìm đường lui quân ngay.
Đinh Điền chẳng kịp hỏi Đỗ Mậu Đại, chỉ kịp báo cho biết là mình lại về phía Nam, trong lòng cứ yên chí là Ngọc Lũ đã được tin Quân sư về rồi. Đinh Điền sợ để trễ bị lộ hình tích, liền gấp rút thu quân đi trước, thành thử vì thế Ngọc Lũ vẫn chẳng biết tin gì về Quân sư.
Còn Đỗ Mậu Đại và Chu Kỷ Toàn cũng không ham chiến, trong lòng tướng nào cũng lo lắng về Động chúa, thành ra khi nghe trống thu quân của Nam Tấn Vương, tướng địch muốn rút về thì cũng không cản trở. Cả hai vội vã thu quân rồi về thành. Thế là trận đánh dữ dội tạm ngưng, chưa bên nào thắng hay bại.
Các tướng về thành, cùng nhau kéo vào đại sảnh để nghe tình hình Động chúa, đúng vào lúc Động chúa vừa được uống thuốc xong, bây giờ đã tỉnh.
Động chúa bảo các tướng kể lại tình hình chiến trận, nghe xong mỉm cười mà rằng:
- Bạch Thúc Dương suýt chết, thế là hòa! Thế nào y cũng tưởng là ta vào được thành là cùng, rồi cũng chết vì thế đêm nay phải đề phòng cẩn thận kẻo bị đánh úp đấy.
Ai cũng cho động chúa nói là đúng. Động chúa nằm trên giường bệnh, trong người đã khỏe khoắn lắm, lòng lo lắng về tình hình cô thế liền bảo các tướng lấy ghế ngồi quanh giường để cùng Động chúa bàn việc quân ngay.
Tướng Phạm Cự Lượng bảo:
- Lúc quân sư lên đường đi Đằng Châu, có dặn là phải cố thủ, tình hình không thể cố thủ được thì mới đành phải xuất trận, quả nhiên không có lợi. Bây giờ theo Động chúa suy đoán, thì thế nào đêm nay Thúc Bạch Dương cũng đem quân đánh úp ta, vậy chi bằng ta theo kế của Quân sư là: bỏ thành trống, ra phục cả ở ngoài đợi giặc đến mà giết thì hơn.
Lời của Lượng nghe cũng có lý, nhưng lại không biết là địch sẽ tiến theo các ngả nào mà đón đợi. Đinh lão bảo:
- Thúc Bạch Dương là tay mưu mô độc ác lắm, thế nào y cũng xúi Nam Tấn Vương gấp rút ra quân. Thành Ngọc Lũ ở trên gò cao, nếu dùng hỏa công từ ngoài đổ vào thì nguy lắm. Thúc Bạch Dương đã dùng kế ấy một lần, nay y lại có thể dùng lần nữa. Mặt phía Đông không quan trọng, chỉ còn ba mặt Nam, Tây và Bắc là cần hơn cả. Chắc Thúc Bạch Dương sẽ vây ba mặt để ngỏ mặt Đông mà đợi ta. Nếu đánh hỏa công, trong đêm nay ta khó giữ được an toàn. Một mặt trống là nơi địch đợi giết ra đấy!
Các tướng mỗi người một lời, chưa biết phải hành động ra sao. Đỗ Mậu Đại bỗng nói:
- Không biết Đoàn Phúc Hải tìm Quân sư ra sao, mà cũng bặt tin luôn!
Nghe đến đây, Động chúa chợt nhớ ra, liền bảo:
- Phải rồi! Lúc Quân sư lên đường, có dặn ta mọi điều, lại đưa cho ta một phong thư, bảo lúc nào cấp bách lắm hãy mở ra xem. Bây giờ hãy đọc thư của Quân sư xem thế nào?
Nói xong, truyền tướng Chu Kỷ Toàn về hậu doanh lấy phong thư của Quân sư gói trong túi gấm, cất ở trong tráp nơi phòng ngủ của Động chúa. Toàn đi một lát thì trở lại, hai tay trình ra phong thư của Quân sư. Động chúa trịnh trọng nằm ngay trên giường mở thư. Đinh lão, các tướng xúm xít quanh giường, ai nấy đều hồi hộp đợi chờ. Động chúa mở phong thư ra, tay vuốt qua cho mảnh giấy tờ tre được thẳng, rồi đằng hắng một tiếng, đọc lớn:
“Lê Thảo tôi, kính cẩn trình động chúa.
Binh Triều mới thua một trận lớn, chắc chưa thể xuất trận ngay được, vậy Động chúa cứ án binh đợi chờ. Tôi đi Đằng Châu về sẽ có thêm quân, bày trận thì chỉ một lần nữa là đuổi binh triều về tận Cổ Loa.
Tuy thế, việc quân bất ngờ, ta cũng phải để phòng binh Triều nhỡ có điều thay đổi, gấp rút tiến quân uy hiếp Ngọc Lũ. Vậy, Động chúa cứ nương theo trận lửa nước Đa Giá, thừa lúc địch còn kinh hoàng chưa kịp hoàn hồn, lại lấy kế ấy mà giải nguy cơ. Một mặt phía Đông Ngọc Lũ rừng lau rậm rạp, chỉ một mồi lửa là đủ làm cho địch vỡ mật; mặt phía Tây trống trải, ta phải phục quân cho xa, lại giả vờ để lộ quân mưu cho địch thấy, tất địch không dám vượt qua, mặt phía Nam, trực diện cự địch, ta cứ làm như vô tình không thấy, nhưng kỳ thật dàn kỳ binh mà đợi ở trong; phía Bắc địch không dám mạo hiểm, thảng hoặc địch phiêu lưu vượt đường trước ta, thì Động chúa cứ ra mặt chẹn ở phía Tây, làm cho địch không dám động đậy.
Địch chậm một ngày, kịp lúc tôi về là yên ổn cả. Một trận Đa Giá, đủ để cho binh ta giữ địch không dám tiến lên. Động chúa cứ ung dung dàn trận là được.
Lê Thảo kính”.
Động chúa đọc xong, các tướng lao xao bàn cãi, Phạm Cự Lượng hớn hở:
- Như vậy, cái kế “bỏ không thành” của tôi cũng có phần nào hợp với ý Quân sư!
Định lão vuốt râu cười:
- Vậy thì tướng quân thay Quân sư được rồi!
Động chúa hỏi:
- Các tướng nghĩ thế nào?
Các tướng còn bàn cãi lao xao, Đinh lão tiếp:
- Lời Quân sư nói rất đúng, một trận Đa Giá ta dùng mưu mà thắng địch, bây giờ nhân cái thắng ấy để đánh trận cân não, cầm giữ địch không cho tiến, đợi Quân sư về là phải.
Động chúa rất hài lòng, liền truyền Phạm Cự Lượng ra trận ở ngoài thành phía Tây, Mạc Sa Cảnh dàn trận “hư thành” ở mặt Nam, Chu Kỷ Toàn chuẩn bị hỏa công ở mặt Đông; lại sai Đỗ Mậu Đại mang quân lên phía Bắc đợi chờ. Riêng tại thành Ngọc Lũ, đèn đuốc tắt cả, quân phục ở các trọng địa, Động chúa thân nằm trên giường để điều động các mặt.
Tại trung quân binh Triều, Nam Tấn Vương ngay trong chiều tối hôm ấy cũng hội các tướng lại bàn:
- Trận đánh hôm nay, quả nhiên giặc không có sức lực, tuy ta chưa thắng hẳn, nhưng cũng không phải là không thể san bằng thành Ngọc Lũ, vậy các người có ý thế nào?
Tịch Mịch thiền sư lên tiếng trước:
- Bẩm Đại vương, giặc Bộ Lĩnh trúng độc Chòm Mo của tôi, sức y khỏe thật nên mới không gục chết ngay trong trận, nhưng thế nào y cũng phải chết trong đêm hôm nay, vậy ta phải tiến binh gấp mới được. Bây giờ, Đại vương chia quân cùng một lúc uy hiếp cả ba mặt Đông, Tây, Nam thành Ngọc Lũ, riêng mặt phía Bắc thì đợi khi chiến trận xảy ra ở ba mặt kia hãy lén đưa quân lên đánh úp, tôi nhất quyết Bộ Lĩnh chết rồi thì quân phải tan rã.
Nan Tấn Vương phán:
- Một trận Đa Giá, giặc Bộ Lĩnh có kỳ tài giúp sức, việc nó lui quân sang bên này sông, lại biết đóng quân cả một giải như vậy, thì không phải là nó ngu gì! Nay Đại Tăng xuất trận một lần tuy chưa thắng hơn, nhưng chưa biết giặc Bộ Lĩnh đã chết thật chưa. Nếu ta tiến quân chia sức mà đánh cả bốn mặt, địa thế đây lại lợi cho giặc, nhờ giặc lại có mưu mẹo gian giảo gì thì sao?
Thiền sư quả quyết:
- Bẩm Đại vương, tôi tiếc là không tự tay chém chết được giặc Bộ Lĩnh, nhưng cũng hả dạ là đã giết được nó bằng độc dược. Nay cần thừa cái lợi ấy để ra quân gấp rút, phá xong giặc, Đại Vương cũng hài lòng, mà tôi còn kịp đập vào xác giặc cười cho hả mối thù lớn mới được!
Nam Tấn Vương và các tướng bàn thêm hồi nữa, ai cũng tin chắc là Bộ Lĩnh ắt chết thật rồi. Thiền sư đem cái diệu dụng của độc Chòm Mo ra giải thích cặn kẽ, ai nghe thấy cũng rùng mình cho rằng Bộ Lĩnh chết thật. Thế là, Nam Tấn Vương cũng xiêu lòng, theo kế của Tịch Mịch thiền sư mà ra quân, nhưng luôn mồm đặn các tướng là “nếu thấy khả nghi, phải trình lên vương gấp”. Quả nhiên, Quân sư Lê Thảo luận về lửa trận Đa Giá không sai mảy may, binh Triều trên cao nhất là Nam Tấn Vương, xuống đến các tướng, cuối cùng thì quân lính, không ai là đã hết hốt hoảng ở trong lòng, cứ thấy lửa khói ở đây thì kinh hãi, nghe động tĩnh nơi nào cũng giật mình cho là quân Hoa Lư vây hãm! Chỉ có Tịch Mịch thiền sư thì tin chắc là Đinh Bộ Lĩnh nhất định chết vì kịch độc Chòm Mo trên đời này không ai thoát được.
Thế là, quá nửa đêm hôm ấy, Nam Tấn Vương cử Tịch Mịch thiền sư đem quân đánh thẳng vào mặt phía Nam thành Ngọc Lũ, sai tướng Đặng Ngọc Hợp đi theo giúp sức, lại dặn Hợp là “phải luôn luôn dò xét động tĩnh, thấy có gì khả nghi phải ngăn cản Thiền sư không cho đường đột tiến quân, rồi cấp báo về trung quân”. Ở mặt Tây, sai tướng Phạm Văn Tuyên đem binh đợi sẵn, nếu thấy mặt Nam giao chiến phải xuất trận phá của thành phía Tây. Mặt Đông sai tướng Nguyễn Đình Trung đi cũng dặn dò như dặn tướng Phạm Văn Tuyên. Riêng tướng Lê Hoạt Hoàng thì cũng đem quân cùng đi với tướng Phạm Văn Tuyên, đợi lúc Tuyên công thành thì lén đem binh lên mặt Bắc mà cướp thành.
Bốn đạo quân ngay trong đêm hôm ấy, lúc bước vào giờ Dần là đã lên đường. Nam Tấn Vương cầm quân ở trung quân, trong lòng chẳng khỏi lo lắng không yên, chỉ sợ Hoa Lư không bao giờ chịu ngồi yên đợi chết như Tịch Mịch thiền sư nghĩ, mà lại thiết kế vây hãm binh Triều lần nữa thì khổ.
Việc quân chưa biết ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—