← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Bốn Mươi Bốn Cổ Loa Sợ kế “không thành”
Thiền sư suýt nguy tính mạng

Tại trung quân binh Triều, ngay khi các tướng kéo quân về Nam Tấn Vương liền họp bàn nghị sự xong, thuận để cho các dạo quân quá nửa đêm về sáng hôm ấy kéo đi, nhưng trong lòng Vương vẫn áy náy thắc mắc.

Bên ngoài, đến giờ định liệu, các đạo quân triều đình lặng lẽ kéo đi, lại sai tế tác đi trước để dò đường. Quân đi chưa được lâu, đã có tin báo về khẩn cấp: “Thành Ngọc Lũ im lặng, đèn đuốc chẳng có gì, trông cảnh bình thường. Bên ngoài, dường như có quân phục sẵn ở các mặt”.

Đạo quân của hai tướng Phạm Văn Tuyên và Lê Hoạt Hoàng tiến trước, lặng lẽ theo đường đã định, đến phục ở mặt phía Tây, nương theo gò đống mà nấp. Hai tướng vừa đóng binh xong, tế tác đã cấp báo: “Hoa Lư phục quân ở ngay đằng sau quân nhà, như vậy là trúng phải phục binh của giặc”.

Hai tướng nghe báo, cả kinh, vội vã bàn với nhau. Phạm Văn Tuyên run rẩy:

- Nếu trúng phục binh của giặc thì nguy lắm! Quả nhiên Hoàng thượng nói không sai, bây giờ làm thế nào?

Lê Hoạt Hoàng là tướng giỏi, can trường, nhưng nhiều phen giao chiến với quân Hoa Lư, tận mắt thấy trận nước lửa Đa Giá, mấy tướng mạng vong, quân thiệt cả nghìn, thì dù gan có lớn bằng trời cũng phải khiếp sợ. Nay nghe Phạm Văn Tuyên hỏi, cũng phát run mà rằng:

- Tốt hơn cả, là quay binh trở về. Nhưng nếu rút quân, thế nào cũng bị giặc đuổi đánh. Vả lại, biết đâu giặc chẳng có những mưu kế gì nữa! Nhỡ giặc lại nổi lửa đốt rừng, thì có phải quân ta lại chết cháy lần nữa hay không?

Nói vừa dứt tiếng, đã thấy phía sau ở xa xa có ánh lửa lập lòe, thấp thoáng có nhiều bóng người đi lại dường như giặc đang chuyển quân dùng hỏa công đánh úp binh Triều.

Hai tướng không còn hồn vía, liền quyết định tướng Phạm Văn Tuyên lẳng lặng đem quân về, còn tướng Lê Hoạt Hoàng thì cứ tiếp tục lên phía Bắc, có như thế mới mong cản bớt được binh Hoa Lư, nếu binh Hoa Lư đánh đạo quân về Nam thì đạo lên Bắc tiếp cứu, nếu Hoa Lư đánh dạo quân lên Bắc thì đạo về Nam cứu. Bàn xong, hai tướng truyền quân gấp rút lên đường. Quân Hoa Lư càng rục rịch, làm như thể đang gấp đuổi đánh.

Đạo quân của Phạm Văn Tuyên kéo về Nam, tất tả chạy trong đêm, ai cũng như mê hoảng, chen nhau chạy chết, hàng ngũ không ra sao cả. Vừa xuống đến phía Nam, gặp quân của Tịch Mịch thiền sư và tướng Đặng Ngọc Hợp, Phạm Văn Tuyên chưa kịp báo cáo thì Thiền sư lẫn Đặng Ngọc Hợp đều kinh hãi, những tưởng là bị bại về tay quân Hoa Lư, đến khi Tuyên thuật rõ mọi việc, Đặng Ngọc Hợp trong lòng chẳng nén được run, vội vã hối thúc Thiền sư dừng quân để xét lại xem sao.

Đặng Ngọc Hợp bảo:

- Rõ ràng là giặc không sơ sót, chẳng có việc không phòng bị, lại biết dàn quân đợi ta đến! Như thế là giặc chiếm lợi thế, chọn mất lợi địa, may mà chưa kịp ra tay hại quân ta ở phía Tây. Bây giờ đánh mặt phía Nam, tất cũng sẽ trúng kế của giặc đấy!

Thiền sư nhíu mày suy nghĩ, rồi chợt cười lên ha hả mà rằng:

- Hay lắm! Giặc Bộ Lĩnh táng mạng, Ngọc Lũ như rắn mất đầu, vậy mà kẻ chỉ sự cho y lại còn khéo bày kế để dọa ta sao được! Nếu quả thật nó có phục binh, tại sao chỉ giả vờ dọa quân của ông Tuyên mà không dám đánh? Tại sao cánh quân của ông Hoàng lên mặt Bắc lại không bị đuổi theo? Rõ ràng là giặc dùng kì binh để lừa ta đây mà!

Đặng Ngọc Hợp nghe nói không phải là không có lý, nhưng Phạm Văn Tuyên thì trong lòng vẫn chưa hết run mà rằng:

- Thiền sư luận cũng chưa chắc là sai, nhưng có điều thật rõ ràng là giặc vừa chuyển quân toan đánh úp đạo quân của tôi, may tôi kịp rút về nếu chậm ắt không xong. Tế tác cũng dồn dập cho tin như thế đấy!

Thiền sư chưa kịp đáp, đã lại thấy tế tác chạy về cấp báo: “Đạo quân của tướng Nguyễn Đình Trung trúng phải phục binh của giặc, giặc lại dùng hỏa công, may ngọn lửa mới nhóm tướng Trung kịp đem quân vượt vòng vây, bây giờ cũng sắp về đến đây rồi!”.

Đặng Ngọc Hợp nghe báo, vã mồ hôi hột lấm tấm trên trán, chẳng nói gì chỉ nhìn Thiền sư như chờ đợi, Tịch Mịch thiền sư khẽ nói: “A Di Đà Phật!” rồi nhíu mày lặng lẽ suy nghĩ.

Giây lát, Thiền sư cương quyết:

- Ta nhất định giặc dùng đến kế trì hoãn để tìm cách mang xác đầu đảng chạy trốn đây mà! Nếu không, tại sao giặc muốn đánh úp quân ta, dùng hỏa công để hãm quân ta, mà lại dềnh dàng có ý đợi chờ cho ta biết mưu tính của mình như thế!

Đặng Ngọc Hợp, Phạm Văn Tuyên nghe Thiền sư quả quyết, trong lòng cũng hoang mang lắm. Vừa lúc ấy tướng Nguyễn Đình Trung đem quân tất tả chạy về, quân chạy thẳng có hàng ngũ, cờ xí cuốn lại cho gọn!

Vừa gặp các tướng, Nguyễn Đình Trung đã xuống ngựa hổn hển mà rằng:

- Ta trúng phục binh của giặc, may quân ta nhanh chân nếu không thì lại bị đốt chết lần nữa đấy!

Thiền sư hỏi:

- Ông đã trông rõ giặc chưa? Hay chỉ mới thấy giặc rục rịch định đánh úp quân ta?

- Rõ ràng giặc định đốt lau sậy để đánh úp quân ta mà!

- Nhưng ông có trông thấy rõ mặt giặc chưa, hay chỉ thấy chúng nó rục rịch xa thôi?

Đình Trung ấp úng:

- Trông thì chưa thấy rõ mặt giặc. Có điều... có điều rõ ràng là giặc toan đánh úp, nếu chậm chân lại bị trúng hỏa công của nó rồi!

Thiền sư Tịch Mịch ngửa mặt lên trời cười như khóc than mà rằng:

- Thế là cả hai mặt Đông Tây đều trúng kế hư binh của giặc, đến nỗi chưa vào trận đã kinh hoàng bỏ chạy! Làm gì có việc giặc dụng hỏa công để đốt binh của các ông đâu, mà các ông đã vội bỏ chạy chứ!

Đặng Ngọc Hợp nửa tin nửa ngờ, lại thêm thẹn mặt vì bị Thiền sư chê trách, liền nói:

- Đại sư nói như vậy không đúng, một trận Đa Giá giặc dùng cả lửa lẫn nước, giết mất bốn tướng, hại cả nghìn quân của ta, sao lại bảo là giặc không biết dùng lửa với nước! Trong quân giặc, Hoàng Thượng đã chẳng bảo là có người trợ chỉ bảo cho mọi việc là gì. Thế nhỡ giặc dùng lửa lần nữa để đốt quân ta thật, thì Thiền sư lúc ấy bảo phải đối phó như thế nào?

Nhất thời Thiền sư cũng chưa nghĩ ra được cách chống lại lửa của địch, đành im lặng, nhưng trong lòng quả quyết là Hoa Lư không định đánh úp binh Triều, mà chỉ muốn dọa cho binh Triều không dám đánh thành mà thôi. Thiền sư nghĩ ngợi giây lát, rồi ngửng đầu lên mà rằng:

- Tôi nhất định giặc không dám đánh quân ta thật, ngược lại giặc sợ quân ta thì có. Nay các ông cho là giặc động binh, thì ta hãy tạm nhận như vậy. Hai mặt Đông Tây đều hỏng cả rồi, còn mặt Bắc thì ông Lê Hoạt Hoàng cầm quân lên lạc lõng, chưa biết ông ấy sẽ làm những gì?

Riêng mặt phía Nam ta, bây giờ thêm hai đạo quân của hai ông Trung, Tuyên, vậy để ta dốc lực đánh thẳng vào thành giặc, xem giặc đối địch thế nào thì biết ngay!

Các tướng nghe Thiền sư bàn, cũng rất hợp lí, bây giờ đông người, quân đông không sợ nữa. Vả lại, bây giờ bỏ mặt trận chạy trước khi địch đến, thế trận tan vỡ mất rồi, biết phục mệnh Nam Tấn Vương ra sao, nghĩ vậy các tướng đành theo quyết định của Tịch Mịch thiền sư mà hành động vậy.

Nhưng, các tướng vẫn còn run, nên cố khuyên Thiền sư:

- Bây giờ trời cũng sắp sáng, hãy đợi cho sáng hẳn hãy tiến binh, như thế giặc không thể nào nương vào bóng tối để đánh lén hay bày mưu hại binh ta được.

Tịch Mịch thiền sư tuy trong lòng quả quyết, nhưng cũng có vài phần e ngại, nên khi nghe lời các tướng khuyên cũng cho là phải, liền nghe theo.

Thế là, binh Triều ba đạo tụ lại cả ở mặt Nam, đợi đến sáng hẳn sẽ tiến lên hãm thành.

Về phía binh Hoa Lư, Chu Kỷ Toàn cầm hư binh ở mặt Tây, Phạm Cự Lượng giữ hư binh ở mặt Đông, y kế dọa địch của quân sư mà làm, quả nhiên binh Triều cuống cuồng sợ hãi chưa kịp hạ doanh đã vội cuốn cờ chạy gấp, thì trong lòng mừng lắm. Lập tức, hai mặt Đông Tây báo tin vào thành cho Động chúa biết.

Động chúa nhận tin, cười lên ha hả, nhìn ra ngoài cửa trời cũng sắp sáng rồi. Động chúa cảm thấy trong người khoan khoái, liền truyền quân pha trà để cùng Đinh lão bàn việc. Lát sau, lại được tin của Mạc Sa Cảnh ở mặt Nam báo về rằng: “Binh Triều từ hai mặt Đông Tây chạy về, hợp với đạo quân của Tịch Mịch thiền sư, tất cả cùng đóng lại có lẽ đợi cho trời sáng hơn thì tiến đánh thành đấy!”.

Động chúa nghe báo, trong lòng chẳng khỏi lo lắng, Đinh lão vuốt râu mà rằng:

- Như vậy thì kì binh của ta chỉ dọa địch được ở hai mặt Đông Tây, Tịch Mịch thiền sư lợi hại thật!

Động chúa hỏi:

- Bây giờ, chú tính thế nào?

Đinh lão trầm ngâm:

- Chắc là Tịch Mịch thiền sư tin chắc con đã chết, nên mới đem quân gấp rút hãm thành, chẳng ngờ kì binh của ta theo kế của Quân sư lại làm cho binh Triều tan thế trận. Tịch Mịch thiền sư ức lòng, nhất định đợi đến sáng rõ sẽ hãm thành. Trước sau, y tin rằng con chết rồi nên mới hành động gấp. Bây giờ, kì binh của ta nếu không khéo thì vỡ mất, lúc ấy thành Ngọc Lũ tất nguy. Tịch Mịch thiền sư nếu biết con còn sống, tất y cho rằng các đạo quân của ta ở ngoài là phục quân thật, Hoa Lư ta lại có kế hay để đánh binh Triều một trận kịch liệt nữa đấy!

Động chúa nghe nói, cũng chưa biết phải làm thế nào, Đinh lão nói luôn:

- Kế không thành của Quân sư, hư mà thực, thực mà hư. Lúc này, địch nghi ngờ không cho rằng ta bỏ thành phục quân ở ngoài cũng lại tin rằng sức ta yếu rồi không đủ quân đối địch. Nếu cứ thản nhiên ung dung, tất làm cho địch nghi ngại, rồi các đạo quân bên ngoài làm ra vẻ sắp tiến đánh, tất binh Triều e ngại mưu kế của ta, tự nhiên chưa đánh đã vỡ đấy.

Động chúa hiểu ra, nhưng vẫn chưa biết phải làm sao. Đinh lão bảo:

- Bây giờ, con sai dọn tiệc trên mặt thành, ta ăn tiệc xem mặt trời mọc, thế là Tịch Mịch thiền sư tan quân cho mà xem!

Động chúa hài lòng lắm, liền truyền quân dọn tiệc lên mặt thành phía Nam, lại lệnh cho các mặt phải lặng lẽ, thật kín đáo tiếp tục canh giữ, lúc nào cũng phải sẵn sàng cung ứng tên nhiều để cư địch. Lại truyền cho ba mặt Đông Tây Nam trên thành mật trương kì hiệu, lệnh cho các tướng chuẩn bị, lúc có hiệu thì cùng tiến đánh đạo quân của triều đình ở mặt Nam.

Lệnh vừa ban xong, đã lại có tin từ mặt Bắc báo về cho hay: “Tướng triều đình cưỡi con ngựa cao lớn sắc lông đen nhánh, cầm gươm bạc, đưa một đạo quân lên trấn ở mặt Bắc, toan tính đánh úp mặt Bắc Thành”!

Động chúa truyền mặt Bắc phải cẩn thận, lại trương mật hiệu cho tướng Đỗ Mậu Đại trấn ở bên ngoài mặt này biết là tin nhận được rồi, sẵn sàng đánh vào hậu quân của địch.

Tiệc dọn xong, Động chúa mời Đinh lão lên mặt thành cùng dự. Đinh lão bảo nên mời luôn cả vợ chồng Thần y để tạ ơn. Động chúa nghe nói rất vui lòng. Từ lúc tỉnh dậy, nghe Đinh lão thuật lại từ đầu việc Thần y ra tài luyện thuốc, lại hi sinh sáu giọt máu quý trên đỉnh đầu Thi Lạc Phượng mà cứu mệnh cho Động chúa, thì Đinh Bộ Lĩnh cảm khái lắm, Động chúa bảo:

- Thật ra, từ ngày Quách Nghiệp Đường theo kế quân sư lừa cho Thần y về chữa bệnh cho Phạm Cự Lượng, rồi Nguyễn Bặc đưa vợ Thần y tới, cháu tuy có gặp nhưng vẫn chưa được thấy rõ mặt vợ Thần y. Nàng tên chi nhỉ?

- Vợ Thần y tên Thi Lạc Phượng, người ở Phụng Nhãn, đẹp lắm!

Đinh Bộ Lĩnh rất đẹp lòng, liền bảo Quách Nghiệp Đường cùng với Đinh lão là “thế nào cũng mời cho được vợ chồng Thần y, vì đây là kế để đuổi binh Triều”.

Xong xuôi mọi việc, Đinh Động chúa truyền quân theo hầu lên mặt thành phía Nam. Trên mặt thành trong vọng lâu, tiệc nhỏ đã dọn sẵn, Động chúa bước vào ngồi xuống ghế, nhìn ra một vùng bao la vừa sáng rõ, quang cảnh hùng vĩ, im lặng. Phương Đông mặt trời mới lên đỏ hồng sau lớp mây thưa, gió ban mai làm nghiêng ngả lau sậy ngoài xa. Động chúa không vận áo chiến, mặc áo lụa hồng, lưng thắt lụa trắng, ánh hồng của áo làm cho sắc mặt hồng tươi rạng rỡ. Qua cuột đêm vừa trúng độc vừa được Thần y ra tài chữa trị, Động chúa trông như người đang trong lúc cường tráng khỏe mạnh, chẳng có vẻ gì là vừa trải qua cơn bệnh mười phần chắc chết cả mười. Vóc dáng hùng vĩ của Động chúa đứng trên mặt thành càng thêm hùng vĩ, đẹp vô ngần.

Lát sau, Đinh lão, Thần y, Thi Lạc Phượng và Quách Nghiệp Đường tới. Động chúa vòng tay vái Thần y mà rằng:

- Nhờ ngài ra tài cứu cho, Lĩnh tôi mới thoát chết, ân nặng ấy xin ngài nhận một vái này để tôi được ghi nhớ mãi!

Thần y vội giơ tay ngăn Động chúa lại. Động chúa lại hướng sang Thi Lạc Phượng chắp tay vái một vái mà nói:

- Tôi cảm kích bậc thần tiên hi sinh đến thế là hết, ơn này xin nhớ mãi!

Lạc Phượng e lệ quỳ xuống vái lại, sắc đẹp của nàng làm cho Động chúa bối rối trong lòng, cố hết sức mới giữ được thái độ khoan thai tự nhiên. Từ lúc vào tiệc, Động chúa có vẻ trầm ngâm, hồn như đi đâu mất, trong tiệc không dám nhìn Lạc Phượng!

Ngoài thành, nắng đã lên cao, cách ngoài hào rộng lau sậy đằng xa nghiêng ngả. Tế tác chạy về bẩm:

- Tướng Mạc Sa Cảnh ở mặt Nam cấp báo: binh Triều do Tịch Mịch thiền sư hợp tác với các tướng Đặng Ngọc Hợp, Phạm Văn Tuyên, Nguyễn Đình Trung đã lên đường hãm thành, tướng Mạc Sa Cảnh còn đợi lệnh ở đằng sau binh Triều!

Động chúa nghe tin, liền truyền quân hạ cờ vàng, kéo cao cờ sắc đỏ, lập tức ba mặt thành Đông Tây và Nam cờ đỏ bay phất phới, hiệu cho các đạo phục binh bên ngoài biết sẵn sàng nhập trận.

Động chúa lại truyền quân giữ thành phải vào vị trí, các trọng địa đều phục quân ẩn kín. Cửa thành đóng kín, bên ngoài vắng hoe im lặng. Bên bàn tiệc, tướng Hồ Tường Thụy khoanh tay đứng hầu, cạnh Thụy cây cung cổ đằng treo trên cột vọng lâu với bao tên mũi nhuộm vàng của Động chúa. Trống lệnh điểm khoan thai, quang cảnh thật êm đềm.

Tới lúc nắng lên, cũng là lúc binh Triều kéo đến, bụi cuốn mù trời. Còn cách thành xa xa, Thiền sư ra lệnh dừng quân, rồi Thiền sư cưỡi con Lăng Tiêu vọt lên toan lại sát thành, Đặng Ngọc Hợp vội giơ tay cản lại mà rằng:

- Khoan đã Đại sư, Ngài không thấy bốn bề vắng lặng hay sao? Quang cảnh này thì không khéo Hoa Lư có phục binh thật đấy!

Hai tướng Phạm Văn Tuyên và Nguyễn Đình Trung cũng thấy lạnh ở trong lòng, tự nhủ: “Tại sao lại vắng vẻ thế này?”, đến khi nghe Đặng Ngọc Hợp nói, hai tướng như tỉnh cơn mê cùng nói:

- Sao vắng thế này? Lạ thật!

Thiền sự dừng ngựa, trong lòng cũng thấy hoang mang không còn hăm hở như lúc đầu nữa. Thiền sư trầm ngâm rồi bảo:

- Bây giờ, ta cứ dàn quân phòng bị, rồi đến sát thành xem sao. Giặc chắc muốn dùng cái kế “không thành” để dọa ta thôi, chứ thật ra nó làm gì còn lòng dạ nào nữa mà đương cự ta, giặc Bộ Lĩnh ắt chết thật rồi!

Ba tướng đành nghe theo, đem quân nhân làm ba đạo, để tạo tiền quân cùng các tướng theo Thiền sư lên sát thành địch xem sao, hai đạo quân cứ chậm chậm tiến, sẵn sàng đợi lệnh. Thiền sư và các tướng đem tiền quân từ từ tiến tới, ai cũng hồi hộp, quân liếc nhau lo lắng, ngọn lửa Đa Giá như còn hun nóng da thịt mọi người, nước dòng Sinh Khuyết dường như còn lạnh từ trong ruột lạnh ra, không ai là không lo lại trúng mựu Hoa Lư lần nữa!

Tiền quân của Thiền sư tiến tới, không thấy có vẻ gì là binh Hoa Lư ẩn phục để đánh úp, càng lại gần thành càng nghe rõ tiếng trống lệnh khoan thai, nhìn lên mặt thành chẳng thấy bóng tên quân nào.

Tiến thêm ít nữa, vọng lâu cửa Nam thành Ngọc Lũ đã rõ, thấp thoáng có vài bóng người ra vẻ thung dung nhàn nhã, binh Triều chẳng ai bảo ai bỗng cùng thấy nhức nhối ở ngực, hơi thở nặng trĩu, hồi hộp!

Thiền sư bỗng giục con Lăng Tiêu vọt lên, chiếc mõ dị kỳ khua vang trong nắng sớm. Thiền sư ngửng đầu nhìn lên vọng lâu, theo sau Thiền sư ba tướng cũng dừng ngựa, cả bọn đợi cho bụi vó ngựa tan đi, giương mắt nhìn cho rõ.

Ba tướng Đặng Ngọc Hợp, Phạm Văn Tuyên, Nguyễn Đình Trung đờ người, thiền sư cũng ngơ ngẩn!

Trên thành, trong vọng lâu rõ ràng Đinh Bộ Lĩnh phong thái ung dung, vận áo đại hồng, đang vui vẻ nâng chén làm như thể chẳng có việc binh đao, cũng không hề có binh nào đến quấy nhiễu!

Ba tướng đờ người xong, bỗng run bần bật suýt rơi mất cả khí giới, Đinh Bộ Linh còn ngồi đây kia, làm gì có việc chết vì trúng độc Chòm Mo! Thế là mắc mưu Hoa Lư lần nữa rồi!

Thiền sư cũng kinh hãi, cố định thần, vận sức cố nện chiếc mũ thật to, rồi quát lớn:

- Bớ giặc Bộ Lĩnh, mau ra ta hỏi!

Tiếng quát vang âm, đượm uất khí nghe rờn rợn giữa một vùng vắng vẻ tịch liêu.

Trên vọng lâu, Đinh Động chúa ra vẻ ngạc nhiên, đặt chén rượu xuống bàn, rồi xô ghế đứng dậy bước ra ngoài. Bóng Đinh Động chúa hiện ra như thiên thần vô cùng hùng vĩ, theo chân Động chúa là Đinh lão, Thần y, Thi Lạc Phượng và Quách Nghiệp Đường, ai cũng có vẻ nhàn nhã ung dung.

Trên mặt thành, Đinh Động chúa lớn tiếng hỏi lại:

- Kẻ nào hỏi đến ta? Sao dám đường đột vào nơi chết thế này?

Tiếng Động chúa vang mà mạnh, mỗi lời như một nhát búa lớn bổ vào đầu các tướng triều đình. Đinh Bộ Lĩnh Hoa Lư không chết, giọng nói rền như trống trận hiển nhiên Động chúa chẳng bị thương tích gì. Cứ sự thể này, ít khó thoát phục binh của Hoa Lư mất rồi!

Tịch Mịch thiền sư cố gắng quát:

- Giặc Bộ Lĩnh! Mi chưa chết vì độc Chòm Mo của ta ư? Nếu thế, hãy mau mau ra nạp mạng, đừng có giở trò lừa bịp hão huyền nữa!

Đinh Động chúa ngửa cổ cười vang, tiếng cười rổn rang như sấm trên trời. Dứt chuỗi cười, Động chúa vui vẻ!

- Hôm nay là ngày Tịch Mịch thiền sư hóa độ, sao ông đến sớm thế!

Dứt lời, Động chúa giơ tay ra hiệu, trống đồng bỗng nhất tề nổi tiếng long trời lở đất. Ba tướng Phạm Ngọc Hợp, Phạm Văn Tuyên, Nguyễn Đình Trung không còn kịp suy nghĩ gì thêm, liền giật cương quay ngựa ù té chạy trở lại.

Ba đạo quân triều đình cũng không còn hồn vía, không ai là không thấy Động chúa Hoa Lư xuất hiện trên mặt thành, lại nghe tiếng trống trận giục vang, ba tướng cắm đầu chạy, thì quân cũng vội ôm đầu quay gót theo chủ tướng chạy cho xa thành.

Tịch Mịch thiền sư một mình đứng ngơ ngẩn trước thành, không còn biết phải làm sao nữa. Binh triều đình hốt hoảng xô nhau chạy, không làm sao cản lại được. Trên mặt thành, Động chúa Hoa Lư nhìn quang cảnh ấy lại ngửa cổ cười vang hồi nữa.

Binh Triều hỗn loạn bỏ chạy, vẫn không thấy có phục binh Hoa Lư đổ ra, ba tướng dần dần lại hồn liền hết sức hô quân dừng lại, một hồi sau mới tạm yên, quay nhìn lại vẫn thấy Thiền sư cưỡi con Lăng Tiêu như chết lặng trước cửa thành.

Trên thành cao, Động chúa nhìn tình cảnh binh Triều cũng chẳng khỏi mừng rỡ, liền nảy ý muốn bắt sống Tịch Mịch thiền sư để tra hỏi về việc quân của Nam Tấn Vương. Nghĩ thế, liền khẽ bảo tướng Hồ Tường Thụy bắn đứt dây cương ngựa của Thiền sư.

Hồ Tường Thụy có tài bắn cung, trăm phát chẳng sai chệch một. Có lần Động chúa muốn xem tài Hồ Tường Thụy, liền bảo Thụy đứng ở đằng sau bức mành tre thật khít, hai mắt Thụy lại lấy vải đen bịt thật kín, sau sai quân dắt ra một con dê để cách xa Thụy khoảng hai ngọn tre. Động chúa sai quân đánh cho con dê kêu lên, rồi lập tức kéo bỏ mành tre. Lúc ấy, Hồ Tường Thụy mới vụt quay lại, hai mắt vẫn bịt kín, tay rút tên giương cung cực nhanh, chỉ nghe tiếng dê kêu mà định chỗ, bắn ra hai phát tên thần tốc đâm thủng cả hai mắt dê không sai chệch mảy may.

Bây giờ nghe Động chúa, Hồ Tường Thụy vươn tay nhấc cây cung trên cột vọng lâu xuống, lắp tên rồi bước tới sát bờ thành, chân trái gác lên mặt tường, miệng quát lớn:

- Thúc Bạch Dương, hãy xem tên!

Dứt tiếng quát, Hồ Tường Thụy đã phóng mũi tên đi nhanh vô cùng, không ai kịp thấy Thụy cử động ra sao. Dưới thành, Tịch Mịch thiền sư vừa nghe quát vận nhãn định thần để tránh tên địch, mắt Thiền sư lấp lánh tinh quang thế mà vẫn chẳng kịp nhận thấy mũi tên, tai chỉ kịp nghe tiếng rít như xé lụa, thì dây cương bên trái đã đứt tung. Tịch Mịch thiền sư không còn hồn vía, con Lăng Tiêu sắc xám lồng lên rồi tinh khôn quay đầu bỏ chạy.

Trên mặt thành, Động chúa chưa kịp cất tiếng khen, đã thấy Thi Lạc Phượng không nén được khâm phục, bật lên thánh thót ca ngợi:

- Quả là thần tiễn, trên đời chắc chẳng có hai!

Lạc Phượng khen xong, hai má ửng hồng bẽn lẽn. Động chúa thấy nghẹn ở cổ. Hồ Tường Thụy hứng chí vô cùng, liền rút tên giương cung quát lên lần nữa:

- Bạch Dương chạy đi đâu?

Tịch Mịch thiền sư nghe quát biết nguy rồi, cổ chưa kịp quay lại thì mũi tên đã rời dây cung bay đi, lập tức dây cương bên phải cũng đứt nốt, trong tay Thiển sư chỉ còn có sợi dây vô dụng. Con Lăng Tiêu lại lồng lên chạy quanh. Thiền sư kinh hoàng, lúng túng. Ba tướng Đặng Ngọc Hợp, Phạm Văn Tuyên và Nguyễn Đình Trung thấy không có binh Hoa Lư đánh úp, lại thấy Thiền sư lúng túng loanh quanh trước thành liền hô quân quay lại tiếp cứu.

Trên thành, Động chúa thấy Hồ Tường Thụy phát hai mũi tên cắt đứt dây cương ngựa của Thiền sư, lại thấy binh Triều quay lại, thì trong lòng còn đang hậm hực ngẫm về lời khen buột miệng của Thi Lạc Phượng, chẳng nén được mối hờn vô cớ đang dâng lên, liền bâng quơ ra lệnh như chẳng phải nhắm vào Thiền sư mà rằng:

- Giết!

Hồ Tường Thuy nghe Động chúa nghiến răng quát “Giết”, lại tưởng là Động chúa ra lệnh cho mình giết Thiền sư, liền rút tên quát lớn:

- Bớ Thúc Bạch Dương, hãy đỡ tên của ta!

Dứt lời, Hồ Tường Thụy vươn cung, Tịch Mịch thiền sư đã biết tài bắn cung của tướng Hoa Lư, biết không có cách nào tránh được, liền lập tức tay phải cầm chiếc chày thiết mộc, tay trái cử chiếc mõ dị kỳ, hai tay múa tít mõ đỡ tên. Quả nhiên, tên trên thành bắn xuống không lọt được vào người Thiền sư, Hồ Tường Thụy cả giận, liền cố đem tài cung tên ra để hạ Thiền sư, vả lại bên tai vẫn còn nghe lời khen của Thi Lạc Phượng tuy thánh thót mà như sét đánh đến choáng váng cả đầu óc. Hồ Tường Thụy phát tên nhanh vô cùng, tên bay không kịp thấy đường đi, chỉ thấy tên đâm mạnh vào chiếc mõ dị kỳ của Thiền sư khiến phát ra những tiếng kêu chát chúa cực mạnh, Thiền sư lồng lộn, giận vô cùng mà cũng kinh hãi vô cùng.

Binh Cổ Loa đến tiếp cứu Thiền sư, cũng lúng túng không biết phải hành động ra sao? Trên thành, Động chúa liền truyền lệnh thay cờ, ra hiệu cho các tướng ngầm phục ở ngoài thành xuất trận.

Cờ vừa trương lên, lập tức đạo quân của tướng Mạc Sa Cảnh ở phía Nam, vẫn nấp kín đằng sau binh Triều liền nhất tề hò reo, xông lên giáp chiến.

Ở mặt phía Tây, Chu Kỷ Toàn cũng gấp rút đưa quân đánh xuống sườn bên trái binh Triều. Ở mặt Đông, Phạm Cự Lượng vội xua quân chĩa vào sườn bên phải binh Cổ Loa tiến tới. Thế là ba đạo quân Hoa Lư, thì đạo quân của Mạc Sa Cảnh lâm trận trước.

Binh Triều vừa nghe tiếng quân Hoa Lư reo rầm rầm, hồn vía chẳng còn. Lại thấy hai mặt Đông Tây, đều có phục binh đổ ra thì chẳng còn biết phải trái gì nữa, xô nhau bỏ chạy chỉ sợ bị hãm trong vòng vây rồi bị đốt lần nữa thì chết cả!

Ba đạo quân Hoa Lư vào trận, chẳng phải đánh cũng làm cho bình triều vỡ chạy. Tịch Mịch thiền sư và các tướng Đặng Ngọc Hợp, Phạm Văn Tuyên, Nguyễn Đình Trung cũng khiếp hãi, vả lại không làm cách nào để cản quân đang trong cơn kinh hoàng lại được, đành theo quân bỏ chạy nốt!

Binh Hoa Lư đuổi theo chém giết thêm hồi nữa, rồi theo lệnh trên thành mà rút quân về.

Ba đạo quân vào thành, Động chúa cùng mọi người xuống đón, ai cũng tranh nhau kể việc thắng lợi. Việc nói còn chưa hả, đã nghe cấp báo: “Binh triều đình vây đánh kịch liệt ở cửa Bắc, may nhờ tướng Đỗ Mậu Đại dùng kế dụ dịch ra xa thành mà giao chiến rồi!”.

Động chúa nghe báo cả kinh, các tướng cũng giật mình.

Chưa biết việc sẽ ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—