← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Bốn Mươi Lăm Cổ Loa đánh mặt phía Bắc
Quân sư cưỡi ngựa vào thành

Ở mặt Bắc thành Ngọc Lũ, dũng tướng Lê Hoạt Hoàng từ lúc chia quân với tướng Phạm Văn Tuyên, âm thầm gấp rút kéo lên mạn Bắc, nương vào gò đống bờ bụi để ẩn quân, đợi chờ.

Hoàng đóng quân chưa được bao lâu, nhìn ra phương Đông mặt trời lên đỏ rực, nghe bốn bể vắng lặng trong lòng chẳng khỏi gai gai ghê rợn, liền bảo quân không được động đậy để khỏi bị lộ hình tích. Quân Hoàng còn đang hồi hộp, đã nghe thấy phía Nam trong trận trên thành Ngọc Lũ nện vang, lại nghe tiếng quân reo ầm ầm, thì tưởng rằng ba mặt đang nhất tề hãm thành, liền lệnh cho quân sẵn sàng đợi thêm lát nữa thì tiến lên đánh vào cửa Bắc.

Lê Hoạt Hoàng ước khoảng chiến trận ở ba mặt Đông Tây và Nam thành Ngọc Lũ đã đến hồi kịch liệt, thì ra lệnh cho quân nhất tề bỏ nơi ẩn nấp, kéo đến ra sức công phá cửa thành. Lê Hoạt Hoàng không biết mặt trận ba cửa thành đằng kia đã tan cả, Tịch Mịch thiền sư lại suýt chết vì tên của Hồ Tường Thụy, một mực thúc quân gấp rút phá của thành cho rằng như thế là làm cho thành Ngọc Lũ thêm nguy khốn dễ bị hạ.

Trên thành, quận Hoa Lư bình tĩnh ra sức bắn tên cự địch, lại dùng đến gỗ đá lăn xuống cản không cho binh Triều lại sát cửa thành. Đôi bên cầm cự với nhau đang hồi quyết liệt, bỗng ở phía sau binh Triều có một đạo quân Hoa Lư lăn xả vào mà chém giết. Thì ra, cánh quân của Đỗ Mậu Đại phục sẵn từ lâu, sau lại thấy trên thành trương cờ lệnh báo cho biết có bình Triều, rồi lại có lệnh sẵn sàng nhập trận.

Đại nóng lòng đợi chờ, quả nhiên đợi chưa lâu đã thấy một đạo quân của triều đình lén lên mặt Bắc, dựa vào gò đống bờ bụi mà ẩn, thì trong lòng hồi hộp lắm.

Đợi thêm lát nữa, chưa thấy trên thành có thêm lệnh khác, lại nghe trống trận thua vang, quân reo ầm ầm ở mạn Nam. Đại bồn chồn nhưng chưa dám thúc quân đánh trước. Vừa lúc ấy, binh Triều đã tiến lên hãm thành kịch liệt. Thế là Đỗ Mậu Đại hô quân tràn tới, cứ hậu quân binh Triều mà đâm chém, chẳng kể trận pháp tiến thoái ra sao.

Lê Hoạt Hoàng hãm thành phía Bắc, thật ra trong lòng chẳng được yên ổn, thế chẳng dùng được phải tiến quân, vẫn sợ Hoa Lư có phục binh dụng kế vây binh Triều theo kế “không thành” thì nguy lắm. Bây giờ, vừa mới hãm thành, tiến lên chưa được, đã thấy hậu quân bị đánh úp, Hoàng trong lòng kinh hãi, không ham phá thành nữa, vội truyền quân rút ra xa, đương cự với đạo quân Hoa Lư đánh úp.

Binh Triều thấy bị Hoa Lư đánh úp phía sau, không còn hồn vía, ai cũng chỉ lo tìm cách thoát thân. Lê Hoạt Hoàng không phải không biết quân mình nao núng tinh thần từ đầu, bây giờ bị địch vây đánh khó lòng giữ cho khỏi tan hàng vỡ trận. Lê Hoạt Hoàng trong cơn túng quẫn, liều mạng thúc ngựa xông lên trước, vừa vặn gặp tướng Đỗ Mậu Đại đang xông xáo.

Lê Hoạt Hoàng nhìn ra, chỉ thấy một mình Đỗ Mậu Đại, binh Hoa Lư cũng chẳng mấy nhiều, trong lòng vững được đôi chút, nghĩ rằng nhân cơ hội này có thắng tướng Hoa Lư cho mau thì mới mong quân mình không tan vỡ. Nghĩ rồi, vọt ngựa lên chặn đầu ngựa Đỗ Mậu Đại mà hét lớn:

- Bớ giặc Hoa Lư, phen này thì đừng hòng chạy nữa!

Đỗ Mậu Đại trông ra, lại thấy tướng triều đình cưỡi ngựa Ô Truy, sử dụng kiếm bạc, trong lòng chẳng khỏi lo ngại. Đại đã biết tài tướng này rồi. Sợ thì sợ, nhưng tính gan lì liều lĩnh lại chợt nổi lên, Đại cười khanh khách mà rằng:

- Bớ anh thái giám, chết đến nơi rồi sao còn hỗn!

Quát xong, Đại giục ngựa xông lên trước. Lê Hoạt Hoàng giận không để đâu cho hết, huơ thanh kiếm bạc, giục ngựa Ô Truy xốc tới. Ngưa Đại vừa cất vó chưa kịp vọt lên, thì ngựa của Lê Hoạt Hoàng đã ào tới cực nhanh, thanh kiếm bạc trong tay Lê Hoạt Hoàng bay ra một thế “Trúc Xanh Đón Gió” mũi kiếm chiếu ra đợi cho Đại vọt tới tự xốc vào cổ.

Ngựa Đại xông lên, ngựa Hoàng vọt tới trước, mũi kiếm của Lê Hoạt Hoàng còn đi nhanh hơn nữa, vượt đầu ngựa Ô Truy mà tới trước, chỉ một đòn Lê Hoạt Hoàng đã thắng thế, tính mệnh Đỗ Mậu Đại xét thấy khó an toàn.

Đỗ Mậu Đại kinh hoàng, hai ngựa vọt tới sát nhau quá không còn kịp nghiêng đầu né tránh, chỉ còn nước liều sẵn đà gươm vung lên liền tận lực chém bổ vào gươm của Lê Hoạt Hoàng. Lập tức, Lê Hoạt Hoàng biến thế, kiếm bạc xử thương pháp mau lẹ vô cùng chuyển từ đâm sang quật, một thế “Gió Thu Cuốn Đất” tung ra, ngựa chưa kịp xa nhau lưỡi kiếm bạc đã như lằn chớp vèo đến sườn bên phải Đỗ Mậu Đại. Đỗ Mậu Đại chém hụt lưỡi gươm của Lê Hoạt Hoàng, đà gươm còn chưa kìm lại được, đã thấy gươm của tướng triều đình chuyển thế bay vào sườn bên phải mình nhanh quá, Đại hồn vía lên mây không còn kịp suy nghĩ gì nữa nương theo đà kiếm chém hụt vặn mình nhoài tới trước ôm lấy đầu ngựa dìm xuống né tránh. Lưỡi kiếm bạc bay vèo sát lưng Đại, xé tung áo. Đỗ Mậu Đại như mất hồn, kinh hãi quá chừng cứ ôm dầu ngựa mà phóng.

Lê Hoạt Hoàng chém hụt tướng Hoa Lư, đang thắng thế đời nào chịu để lỡ, liền ghìm cương vọt ngựa trở lại. Đỗ Mậu Đại ôm đầu ngựa chạy được vài bước mới tỉnh hồn, liền kìm cương ngồi thẳng dậy. Vừa lúc ấy Lê Hoạt Hoàng đã quay lại, thanh kiếm bạc lại cuốn gió bay ra, một thế “Đoạt Mệnh Thương” chếch chếch dâm tới ngực bên phải Đỗ Mậu Đại, Đại thấy nguy biết khó né tránh, liền nổi máu gan lì, mím chặt môi trụ ngựa, cử kiểm sử dụng đến phép “Hoa Lư kiếm” của Trịnh Tú để chống nhau với Lê Hoạt Hoàng.

Đỗ Mậu Đại có sức khỏe, gan lì, học nghệ múa gươm của Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm Trịnh Tú, mười phần chỉ mới lĩnh hội được hai ba, bây giờ cấp quá liền đem kiếm pháp của Trịnh Tú ra múa may, làm sao có thể chuyển bại thành thắng được!

Đỗ Mậu Đại tự thân vận lực cử kiếm lên, khoan thai nghiêng lưỡi kiếm ngáng lấy gươm Lê Hoạt Hoàng, để cho hai lưỡi gươm lướt vào nhau đến tận đốc kiếm rồi mới chuyển thế xoay lưỡi gươm quay ngược dọc theo cánh tay, đâm ngược trở lại ngực Lê Hoạt Hoàng. Đây là phép “phản kiếm” cực kỳ lợi hại, nếu vào tay Trịnh Tú sử dụng với toàn bộ tinh hoa uyển chuyển, thì ít khi tướng địch thoát chết. Nhưng tay kiếm Đỗ Mậu Đại còn non nớt, linh diệu của kiếm pháp cũng chỉ có thể làm cho Lê Hoạt Hoàng giật mình. Hoàng ngã người sang một bên tránh mũi gươm của Đại, rồi cũng ghìm ngựa quay sang mà nghênh chiến.

Trước, Lê Hoạt Hoàng chưa có dịp giao chiến với Đỗ Mậu Đại, chỉ mới đánh Đại lúc Đại bị gãy kiếm không có cách chống đỡ. Bây giờ vào trận lúc đầu tưởng Đại bất tài, một thế đánh ra đã đoạt thắng lợi, nào ngờ lúc này Đại lại trụ ngựa sử dụng những thế kiếm hiểm độc để đánh lại, thành ra sức ngựa Ở Truy đi nhanh cũng không dùng được, lại phải e dè đợi xem kiếm pháp của Đại lợi hại đến độ nào. Đại cũng biết thế, hiểu rõ tình hình, biết tài múa gươm của mình chưa địch được tướng triều đình, liền nghĩ: “Phải nhân cơ hội múa may ra vài đường cho đẹp mắt, rồi sử dụng đến phép ‘Tẩu Kiếm’ mà lừa địch mới xong.” Nghĩ rồi, hạ gươm gác ngang đầu ngựa, bộ điệu thật ung dung đợi tướng triều đình.

Lê Hoạt Hoàng tránh xong mũi gươm phản kích kịch liệt, liền quay ngựa lại, thấy Đỗ Mậu Đại ung dung gác kiếm trên đầu ngựa mà đợi, bộ thế thật hùng dũng thanh nhàn, bỗng chột dạ nghĩ: “Tướng giặc ung dung, rõ ràng là tay bản lĩnh, phải thận trọng mới được!”.

Nghĩ xong, Lê Hoạt Hoàng giục ngựa lướt lên, thanh kiếm bạc vươn ra theo phép “phi thương” đâm mà hóa quật, quét mà hóa bỏ, dứ trước ngực Đỗ Mậu Đại rồi chợt xoay ngang thúc cả lưỡi gươm vào Đại mà tấn công. Đỗ Mậu Đại hết sức bình tĩnh, không quên kiếm lý được Trịnh Tú truyền dạy: “Đòn đánh ra, chưa tới phải đợi biến thế, cường địch không vội đâm thật mà đánh đòn vờ, đòn bồi mới là chí mạng”.

Bây giờ thấy Lê Hoạt Hoàng dứ một kiếm, không vội nghênh đòn, quả nhiên sau đòn gió Lê Hoạt Hoàng xô kiếm tới. Đại tung ra thế “Nắng Lên Trên Động Hoa Lư” trong phép kiếm của Trịnh Tú mà cự lại.

Thế kiểm bay ra, khoan thai mà hóa ra cực nhanh, nhẹ nhàng mà hóa ra dũng mãnh. Lê Hoạt Hoàng giật mình thúc ngựa chuyển bộ tạt sang một bên. Nào ngờ, kiếm pháp Hoa Lư miên man như sương đùn đỉnh núi, như nắng sớm đang lên, miên man bất tận, thành ra một thế vừa ra, là tiếp theo một thế, nếu tay sử kiểm thuần thục thì kiếm pháp ấy trở thành lợi hại vô cùng. Nhưng Đỗ Mậu Đại học nghệ chưa thông, múa may thận trọng vẫn có những chỗ non yếu, Lê Hoạt Hoàng là tướng giỏi, thông thạo thương pháp, quen chiến trận, lúc này đối địch với tướng Hoa Lư gặp phải tay kiếm xử ra những thế đánh kinh hồn, nhưng bên trong lại chẳng chứa đựng được cái hùng khí của kiến pháp tinh hoa, trong lòng lấy làm nghi hoặc, thận trọng huy động thương pháp tinh hoa của mình ra thử thách xem sao.

Nghĩ rồi, Lê Hoạt Hoàng giục ngựa, lấy nhanh của vó ngựa hợp với cái uyển chuyển của thương pháp mà công, lấy sức trì trọng của thương để thủ, toàn đánh ra những đòn gió để lừa xem tướng địch có thật thực tài hay không. Quả nhiên, giao đấu vài hiệp nữa, Đỗ Mậu Đại không còn nhận biết đâu là đòn hư, đâu là đòn thật của tướng địch, dù cố ung dung cũng vẫn không giấu được luống cuống, vả lại vài đòn học được nay đem phô trương hết, thì chẳng biết phải làm sao nữa.

Thế là, Đổ Mậu Đại cho rằng: đến đây, không nên tiếp tục giao chiến như vậy nữa, chắc tướng địch đã sợ rồi, thì nên sử dụng đến phép “Tẩu kiếm” để thoát thân đợi cơ hội hạ độc thủ.

Trong Hoa Lư kiếm pháp của Trịnh Tú, có bộ chót gọi là “Tẩu kiếm”, phòng lúc tranh hùng bất lợi thì bỏ chạy, nhưng cũng lại có lúc để lừa địch. Lúc này không phải là lúc Đỗ Mậu Đại thắng địch, nhưng cần phải tìm cách mà chạy thật. Do đấy, Đỗ Mậu Đại chưa đợi Lê Hoạt Hoàng đổi thế tấn công, đã bước vào phép “Tẩu Kiếm” để chạy. Đại đi một đường gươm chênh chếch như toan thích vào nách trái Lê Hoạt Hoàng, quả nhiên Hoàng giạt ngựa ra tránh, thừa đà Đại sử dụng kiếm pháp thật tinh kỳ, nhưng xem ra chưa phải là tay thuần thục, bỗng nhiên lại bỏ chạy thì vừa lạ vừa tin là thật tình Đỗ Mậu Đại học kiếm chưa thông, nên chạy trước là hơn!

Nghĩ đứt, liền giục ngưa hô quân bám riết binh Hoa Lư đuổi đánh. Ngựa Ô Truy của Lê Hoạt Hoàng đi nhanh như gió, đuổi Đỗ Mậu Đại chỉ một thoáng đã tới sau lưng. Lê Hoạt Hoàng liền huy động thương pháp lợi thế đánh xa, xuất đòn thật ác liệt xử ngọn “Gậy Thần Rút Đất” phóng lưỡi kiếm bạc ra thật đẹp. Lưỡi kiếm bay ra đứng thẳng như một tòa núi từ đằng xa bị phép gậy thần rút lại trước mặt, ập xuống sau lưng Đỗ Mậu Đại cùng một lúc chẻ dọc từ trên xuống dưới, lại có sức xoay ngang công kích ngang lưng.

Đỗ Mậu Đại biết gươm địch đang công kích sau lưng, lắng hết tinh thần rạp người trên lưng ngựa đợi cho lưỡi gươm của Lê Hoạt Hoàng sắp chạm vào lưng mới bất thần vặn ngửa người trên lưng ngựa, lưỡi gươm ngang trước ngực rồi bật ngồi dậy quay hẳn người lại đón gươm tướng triều đình. Đại lấy sức mạnh của toàn thân đỡ gươm địch, hai gươm chạm nhau tóe lửa, thể đánh thật ác liệt liều lĩnh vô cùng.

Lê Hoạt Hoàng bất ngờ bị phản kích, không tưởng được rằng tướng Hoa Lư lại có lối đánh dữ dội đến như vậy, chẳng kịp né tránh. Cả người Đỗ Mậu Đại xô ngược lại mạnh vô cùng, đằng kia ngựa của Lê Hoạt Hoàng vượt tới, hai tướng ngực áp ngực, hai ngựa vẫn chạy thật đều.

Đỗ Mậu Đại xử bộ “phản” trong phép Tẩu Kiếm, tức là trên mình ngựa quay lại đánh cận chiến, lấy bất ngờ, và gấp rút về khoảng cách để tranh thắng. Nếu đánh đường xa, phải dùng đến phép “viễn” trong Tẩu Kiếm tức là không cần đợi tướng địch lại sát sau lưng mới phản kích.

Bây giờ, tình thế vào đúng ước muốn. Đỗ Mậu Đại lập tức vươn tay đẩy ngược lưỡi gươm lên. Thế kiếm đi cực hung hiểm, chỉ cách yết hầu Lê Hoạt Hoàng chưa đến nửa gang tay, nay mũi gươm thích ngược lên như mũi tên bắn, mười phần Đại chắc giết được Lê Hoạt Hoàng cả mười.

Lê Hoạt Hoàng trong cơn nguy cấp, vừa thấy hai gươm ngáng vào nhau, mũi gươm tướng địch chiếu vào cổ mình thì biết thế nguy, liền quát lớn lên một tiếng nương theo tiếng quát còn vang đã vặn mình, tay gươm hạ xuống cực mạnh, vừa kịp chẹn lấy tay Đổ Mậu Đại ấn xuống. Thế là gươm của Đỗ Mậu Đại chưa tới đích đã bị dìm lại, hai tướng vẫn áp chặt vào nhau, ngựa Đại chạy không mau bằng chiến mã Ô Truy thành ra thân hình Đại vẫn không rời Lê Hoạt Hoàng.

Đỗ Mậu Đại là tướng gan lì, một thế đánh ra chưa làm cho phép Tẩu Kiếm thắng lợi giết được bản tướng địch, tay gươm bị dìm xuống chệch ra ngoài, Đại lại nương vào đà chệch ấy quay ngược kiếm chẳng vươn rộng tay cứ xiết thanh gươm vào ngực Lê Hoạt Hoàng chuyển thể ấn tréo từ trên xuống, toan phanh ngực Lê Hoạt Hoàng.

Tẩu kiếm pháp đã hung ác lại gặp tay Đỗ Mậu Đại chẳng biết sợ là gì, khiến cho trận đánh như dồn đôi bên vào chỗ phải tận lực chém giết nhau, hở một khoảng chỉ bằng sợi tóc, chậm chưa kịp một lần chớp mắt, cũng đủ mất mạng rồi, Lê Hoạt Hoàng mình đẫm mồ hội kinh hãi, không ngờ tướng Hoa Lư lại xử đến kiếm pháp ghê gớm thí mạng đến như vậy. Hoàng không kịp nghĩ, vội ngửa hẳn người trên yên ngựa tránh mũi gươm, con Ô Truy chạy nhanh quá làm cho Lê Hoạt Hoàng tuy ngửa hẳn người né tránh nhưng vẫn còn trong tầm kiếm cận chiến của Đỗ Mậu Đại.

Đại liền lại biến thế, lưỡi gươm vừa trượt qua ngực Lê Hoạt Hoàng lập tức trầm xuống kéo ngược trở về từ trái sang phải, toan tính mổ đôi bụng tướng triều đình. Lê Hoạt Hoàng lần này không còn chỗ xử kiếm, cũng chẳng còn nơi để né tránh, hai mắt Hoàng như mất thần. Trong lúc mười phần chắc chết cả mười, Hoàng vẫn nằm ngửa trên yên ngựa, vặn mình lăn đi rơi xuống bên sườn ngựa. Lưỡi gươm của Đỗ Mậu Đại sướt qua vạt chiến bào của Lê Hoạt Hoàng rít lên một tiếng như cọp nghiến răng nghe rợn mình.

Lê Hoạt Hoàng không hồi bộ, mình vẫn nằm nghiêng bên sườn chiến mã, kéo cương cho con Ô Truy giạt vòng hẳn sang một bên đẹp chẳng khác đại bàng vỗ cánh liệng tròn tránh xa Đỗ Mậu Đại!

Đại liên tiếp ra đòn, uy hiếp Lê Hoạt Hoàng liên miên, Tẩu kiếm pháp quả nhiên lợi hại trong cơn tranh thắng nhưng chung cuộc vẫn không giết được tướng địch. Đỗ Mậu Đại lại tiếp tục thúc ngựa bỏ chạy, trong lòng bắt đầu lo.

Lê Hoạt Hoàng mấy phen thoát chết, không thấy tướng Hoa Lư thừa thắng công kích mà lại tiếp tục bỏ chạy, Hoàng càng hoang mang không biết tướng địch có thực tài hay là tài nghệ chỉ đến thế là hết. Nghĩ đến những thế đánh vừa rồi, Hoàng lại thấy ghê rợn về kiếm pháp dị kì ấy.

Nghĩ thì nghĩ, đến khi thấy Đỗ Mậu Đại thúc ngựa giục quân tháo lui, Lê Hoạt Hoàng thận trọng không để cho ngựa lại gần tướng Hoa Lư quá, sợ lại bị vướng vòng vây hãm của kiếm địch, Lê Hoạt Hoàng xử phép đánh thương viễn chiến, đem hết tinh hoa sở học để đối địch với Đỗ Mậu Đại, làm cho Đại càng ngày càng thất thế, thực sự phải tìm đường tháo chạy cũng không xong. Bây giờ, vó ngựa Ô Truy đi nhanh ngang gió thoảng mới biểu diễn hết sự lợi hại. Đỗ Mậu Đại vừa thúc ngựa vọt lên phía Đông, trước mắt đã thấy bóng Ô Truy chặn trước. Lê Hoạt Hoàng bây giờ tin chắc tướng địch thiếu tài, chỉ biết vài thế kiếm hung hiểm trong lúc nguy ngập đem ra dụng hết rồi, bây giờ phải chạy. Thế là Lê Hoạt Hoàng phấn khởi, ra sức vây hãm Đỗ Mậu Đại.

Tình cảnh Đỗ Mậu Đại bấy giờ thật bi đát, lưng áo tơi tả, quân không làm sao thu lại được, đường chạy cũng không làm sao có lối. Đánh thì không xong, chạy cũng không xong, trong lòng Đại không còn gan lì được nữa, liền cứ giục ngựa phương Bắc chạy miết, càng lúc càng xa thành.

Kể lại lúc Quân sư Hoa Lư là Lê Thảo, mượn binh Đằng Châu về phân phó mọi mặt, sai Đoàn Phúc Hải gấp rút mang lệnh đến cho các tướng dàn trận đợi binh Triều, rồi cùng với Tôn Phủ Nghi là mưu sĩ của Đằng Châu ung dung đứng trên gò cao quan sát mặt trận.

Quan sát hồi lâu, Quân sư Lê Thảo bảo:

- Nào, bây giờ ta vào Ngọc Lũ!

Tôn Phủ Nghi trong lòng chẳng khởi nghi hoặc: chiến trận đang náo nhiệt trước thành, Quân sư Hoa Lư lại chẳng chịu gọi gió cưỡi mây mà đi thì làm sao vượt được vòng vây? Nhìn ra, thấy Quân sư thản nhiên giục ngựa xuống đồi, Tôn Phủ Nghi cũng vội giục ngựa chạy theo.

Lúc ấy, mặt trời đã lên cao, và cũng là lúc tướng Đỗ Mậu Đại thi hành đến Tẩu Kiếm pháp toan tính lừa Lê Hoạt Hoàng để hạ độc thủ.

Quân sư nhìn chiến trận sâu sắc, ước lượng được thật đúng binh hai bên tiến thoái, nên mới bảo Tôn Phủ Nghi cùng mình vào thành. Lúc ngựa mới cất bước, trước thành Ngọc Lũ binh đôi bên còn đang sát phạt nhau kịch liệt, nhưng đến khi Quân sư lại gần thì kế bại tẩu của Đỗ Mậu Đại cuốn được binh triều ra xa cửa thành.

Cùng lúc ấy, trong thành Ngọc Lũ tin báo về, Động chúa sai Chu Kỷ Toàn gấp rút lên mặt thành xem xét tình thế.

Chu Kỷ Toàn cầm thương lên thành, nhìn ra thấy tướng nhà cùng với tướng địch quần thảo vun vút đuổi nhau trong trận ở xa xa, chưa biết sự thể ra sao. Nhìn về phía Đông, bỗng thấy bóng hai người cưỡi ngựa vượt đường chạy tới, xem ra bộ điệu có vẻ ung dung nhưng lại không giấu được gấp rút, Chu Kỷ Toàn giương mắt, che ánh nắng mà nhìn, hai người cưỡi ngựa càng lúc càng lại gần. Trông lên mạn Bắc, binh Triều lại đang cuồn cuộn chuyển hướng kéo tới. Chu Kỷ Toàn trong lòng bồn chồn không yên, không biết hai người cưỡi ngựa đang chạy tới là ai, sao lại mạo hiểm ở chốn đâm chém giết người như thế này! Được lát nữa, trong nắng ban mai, Chu Kỷ Toàn đã nhận ra vành khăn văn sĩ của Quân sư, trong lòng ngờ ngợ chưa chắc, liền đứng ngây người vận hết thị lực quan sát, rồi bỗng kêu lớn lên:

- Quân sư! Quân sư đã về!

Lập tức, Toàn phóng từ trên vọng lâu xuống, thét quân màu hạ cầu treo, mở cửa thành để gấp đón Quân sư vào. Toàn đoạt ngựa của quân, lập tức băng ra ngoài cửa thành, cầu treo còn đang hạ xuống Toàn cũng xông lên, ngựa Toàn phóng miết, cầu treo chưa hạ xuống hết Toàn thúc ngựa vọt qua nốt đoạn hào mà chạy đi.

Đằng xa, binh Triều lại đổi hướng, kéo nhau lên mạn Bắc: phía Đông, Quân sư cùng với Tôn Phủ Nghi giục ngựa chạy tới. Từ xa, Quân sư đã thấy của thành mở ra, biết là trên thành đã trông thấy mình, rồi lại thấy một tướng vọt ngựa gấp rút bay ra, trong lòng cảm khái lắm!

Chạy được ít bước, Chu Kỷ Toàn đón trước đầu ngựa Quân sư, Toàn mừng quá đỗi lật đật tung dây cương nhảy xuống ngựa chạy lại. Toàn nắm dây cương ngựa Quân sư, lắp bắp mà rằng:

- Quân sư! Quân sư... Ai cũng đợi!

Quân sư cũng cảm động mà rằng:

- Tướng quân mau lên ngựa, ta vào thành ngay mới được!

Chu Kỷ Toàn vội lên ngựa, giong cương ngang đầu ngựa Quân sư mà chạy, vừa chạy vừa hỏi:

- Quân sư, Quân sư, ở nhà binh Triều đánh dữ quá, sao Quân sư bây giờ mới về?

Quân sư mỉm cười mà rằng:

- Phải, binh Triều đánh dữ, ta đã biết cả rồi! Huynh đệ Hoa Lư được bình yên cả chứ?

- Dạ không ai làm sao, duy mới đây Động chúa suýt chết vì độc Chòm Mo, nay thì yên rồi!

Quân sư nhíu mày:

- Trúng độc ra sao?

- Việc dài lắm, lát nữa vào thành Quân sư sẽ biết rõ cả. Quân sư còn đi với ông nào đây?

- Đây là mưu sĩ Đằng Châu đấy.

Vừa chuyện đến đây, đã thấy binh Triều ùn ùn từ đằng xa xô tới. Quân sư, Chu Kỷ Toàn và Tôn Phủ Nghi vội giục ngựa mau mau vào thành. Ba người vừa qua cầu, cầu lập tức được kéo lên. Bên ngoài, binh Triều lại lượn vòng trở ra, rồi xa dần.

Trống hiệu trên thành nện vang, tại doanh Động chúa và các tướng sửng sốt. Trống báo hiệu nhập thành, vậy ai vào thành?

Chưa ai biết tin đã thấy ba ngựa dừng có trước doanh, mọi người nhìn ra thấy Quân sư thì đứng bật cả dậy. Động chúa cùng các tướng, Đinh lão lẫn nhau mà xô ra, mỗi người một lời không còn ai nghe ra sao cả, Động chúa mừng đến chảy nước mắt, hai tay ôm choàng lấy vai Quân sư rung thật mạnh, Động chúa bảo:

- Ngài vắng một ngày, mọi người bồn chồn mong đợi bằng một năm, lại thêm địch bên ngoài ra sức uy hiếp, tình thế thật gay go!...

Quân sư vái chào đáp lễ mọi người, rồi Động chúa mời vào nghị sự ngay tức thì. Động chúa thuật lại mọi việc từ lúc sang sông, cho đến mấy lần binh Triều tiến đánh, Động chúa giao chiến với Thúc Bạch Dương rồi bị trúng độc ra sao. Động chúa hỏi:

- Quân sư đã gặp Đoàn Phúc Hải chưa?

- Bẩm Động chúa, tôi gặp Đoàn Phúc Hải rồi. Tôi cũng đã nhờ ông Hải đi các nơi mời các tướng mang binh về lập thế trận...

Quân sư nói chưa hết, Chu Kỷ Toàn đã vội nói:

- Thảo nào, sau lúc tôi đưa Động chúa về thành, quay trở lại thấy ông Đinh Điền giao đấu kịch liệt với Tịch Mịch thiền sư thì trong lòng lấy làm lạ không biết tại sao ông Điền lại có mặt ở đây? Sau vì gấp rút chia tay nên chẳng kịp hỏi. Thì ra thế!

Quân sư nói:

- Tôi đã nhờ ông Hải đưa tin đến các nơi, chắc bây giờ đâu đã vào đấy rồi. Chỉ lát nữa là có tin đấy. Cứ xem tình thế này, thì đích thị Tịch Mịch thiền sư Thúc Bạch Dương là người chỉ vẽ cho Nam Tấn Vương mọi việc. Vậy, trước hết phải loại cho kì được Thúc Bạch Dương đã, sau mới có thể đuổi được Nam Tấn Vương!

Động chúa hỏi:

- Quân sư sang Đằng Châu, mượn binh về dọc đường gặp Đoàn Phúc Hải, Hải đã trình rõ mọi việc, Quân sư cũng đã điều động quân ở các mặt, vậy bây giờ ngài định thế nào?

Quân sư nói ngay:

- Lúc trước, tôi không được biết trong quân của Nam Tấn Vương có Tịch Mịch thiền sư, ông Hải cũng không biết. Tôi vẫn lấy làm lạ tại sao Nam Tấn Vương lại có thể dùng binh khác hẳn với lúc trước như vậy. Nay, một mặt Tịch Mịch thiền sư biết rõ lực lượng của ta, sau trận đánh sáng nay chẳng qua chỉ vì lòng quân hốt hoảng trước nên tan trận, thế nào Tịch Mịch cũng nhìn rõ chỗ yếu của ta, thế nào y cũng dùng kế của ta mà đánh ta. Lúc ấy, thành Ngọc Lũ này không thể giữ được. Cái kế “không thành” trước là “hư”, nay phải làm thật. Vả lại, ông Đinh Điền vào trận, tất khiến binh Triều biết ta có quân ở mặt Nam, lại càng phải gấp rút đoạt lợi thế ở mặt Bắc để thủ thế!

Đinh lão hỏi:

- Quân sư lần này thực hiện kế “không thành” như thế nào?

- Bẩm tiền bối, thật ra kế “không thành” lần này cũng không phải là để đuổi hết được quân Triều, mà chỉ cốt thanh toán Thúc Bạch Dương trước, sau đấy mới làm cho Nam Tấn Vương thất thế phải lui quân!

Động chúa bồi luôn:

- Quân sư định kế giết Thúc Bạch Dương ra sao?

- Bẩm, Thúc Bạch Dương mang nặng mối thù, nung chí rửa hận tính toán mọi việc thật đáng sợ lắm. Nay, Thúc Bạch Dương đến đây, chỉ mong giết được Động chúa là lui về núi. Y chỉ vẽ cho Nam Tấn Vương xuất quân mấy trận được chưa hẳn là được, nhưng làm khốn quân ta thì đã rõ rồi. Tuy thế Thúc Bạch Dương thế nào cũng nóng lòng khăng khăng với ý kiến của mình, trong khi ấy thì binh triều trên từ Nam Tấn Vương, xuống các tướng, binh sĩ, thấy hoang mang sợ ta, cứ cái tinh thần ấy cũng đủ làm cho Thúc Bạch Dương phẫn chí. Y sẽ cố xin Nam Tấn Vương tiến quân đoạt thành Ngọc Lũ, điều động các đạo quân khác ở các mặt để thừa lúc thắng ta mà tiêu diệt ta. Nay, ta phải nương theo ý định của y nhường cho y thành Ngọc Lũ này, một là để cho y chết với thành hai là để chèn Nam Tấn Vương vào thất thế mọi mặt, từ đấy ta chỉ nói một câu là đủ cho Nam Tấn Vương phải chịu mang quân về!

Động chúa, Đinh lão, các tướng, ai cũng im lặng, lại đón nghe mưu sâu kế nặng của Quân sư. Quân sư nhìn mọi người, rồi chậm rãi:

- Lúc này ông Hải đi vắng, phải nhờ đến một tướng nào khác mới được.

Mọi người im lặng. Quân sư nói tiếp luôn:

- Lần này, tôi xin nhờ ông Cảnh nhé!

Mạc Sa Cảnh ngồi thẳng dậy, vẻ mặt hớn hở:

- Dạ, tôi xin đợi nghe lệnh quân sư!

Các tướng nhúc nhích một chút, đợi cho mọi người ngồi yên. Quân sư tiếp:

- Bây giờ, ông Cảnh đi ngay, theo ven sông xuống Nam, gặp tướng Điền và bốn tướng Đằng Châu, bảo là khi nào thấy thành Ngọc Lũ có lửa cháy, phải gấp đem quân giống trống trướng cờ tiến lên, cốt làm cho tinh triều kinh hãi không dám quay mặt lại phía Nam. Từ bây giờ cho đến lúc ấy, tướng Đinh Điền và bốn tướng Đằng Châu phải giữ kín, không để lộ quân, không phải xuất chiến. Sau khi thành Ngọc Lũ cháy rồi, lại phải đem quân đi vòng phía Đông lên mặt Bắc, nhưng lúc nào cũng phải theo sát phía sau binh Triều, không cần xuất chiến. Báo cho Đinh Điền biết tin, đợi cho ông Điền nhận lệnh xong, ông cẩn thận đi vòng đằng sau binh Triều mà tới Cổ Viên, truyền lệnh cho hai tướng Đinh Liễn, Phạm Hạp khi thấy lửa cháy trong thành Ngọc Lũ, phải lập tức cũng nổi lửa đốt ven sông sau lưng đến tận Kỷ Cầu, rồi đem quân đến sát phía Bắc thành Ngọc Lũ mà đóng. Quân phải gióng trống trương cờ cho nhiều, cốt không cho binh của Nam Tấn Vương dám quay đầu lại, lửa đốt dọc ven sông cốt chẹn không cho đạo quân bên kia sông của triều đình có đường sang sông tiếp cứu. Rời Cổ Viên, ông lên phía trên Kỷ Cầu, lệnh cho hai ông Trịnh Tú, Lưu Cơ biết khi nào thấy lửa cháy trong thành Ngọc Lũ, phải gấp mang quân tiến thẳng sang phía Đông, trấn ở Bình Lục, luôn luôn quảng trương thanh thế, cốt làm cho Nam Tấn Vương không dám ngước mắt trông lên mạn Bắc, hai ông Tú, Cơ dọc đường tiến sang phía Đông tất gặp đạo quân mang hai hiệu kỳ Đằng Châu - Hoa Lư, đấy là đạo quân ta mượn của sứ quân Phạm Bạch Hổ, ông bảo hai tướng cứ đón đạo quân ấy, rồi cho họ giữ việc hư trương thanh thế, còn quân của hai ông thì nên sẵn sàng giao chiến.

Mọi người lắng nghe Quân sư điều động các mặt quân, Mạc Sa Cảnh chăm chú, hết sức lắng tụ tinh thần để không quên chỗ nào. Quân sư tiếp:

- Xong ba mặt rồi, ông sang sông báo cho hai ông Lê Hoàn, Nguyễn Bặc ở Lai Xá biết mọi việc, bảo hai ông ấy phải hết sức ngăn chặn không cho đạo quân còn lại của triều đình trấn ở gần Ý Yên có cách sang sông. Thật ra, các đạo quân lớn của Nam Tấn Vương bây giờ đã sang cả bên này sông rồi, bên kia sông chỉ còn một đạo giữ thế phòng trợ đằng sau lưng cho binh Triều. Nay ta đốt lửa ở ven sông bên này, vừa làm cho Nam Tấn Vương sợ hãi vừa chẹn đường về của binh Triều bên kia sông. Ông nhớ dặn hai ông Hoàn, Bặc là: khi nào thành Ngọc Lũ hết lửa, hai ông kéo nốt quân sang bên này sông, đi chéo lên Đông Bắc đến trấn bên này sông đối diện với Nho Lâm bên kia sông thuộc Đằng Châu mà đợi lệnh sau.

Dặn xong, Quân sư bảo Mạc Sa Cảnh nhắc lại xem có chỗ nào quên sót không, rồi lại dặn Cảnh: “Báo tin các mặt xong, ông cứ việc theo quân của hai ông Hoàn, Bặc giúp thêm cho hai ông ấy, không cần về phục lệnh gì cả”. Tướng Mạc Sa Cảnh nghe dặn đầy đủ, nhớ kỹ mọi việc, liền lập tức lên đường ngay.

Cảnh đi rồi, Quân sư bàn tiếp:

- Bẩm Động chúa, ông Cảnh đi như vậy, thì khoảng chiều hôm nay, độ sâm sẩm tối chắc các cánh quân ấy đâu đã vào đấy cả rồi, Từ giờ đến lúc ấy, thế nào binh triều cũng đến khiêu chiến. Động chúa cứ việc ra trận, nhưng không cốt đánh lấy thắng, phải làm sao cho binh triều thấy ta yếu thế gắng cầm cự, cuối cùng không chịu nổi phải lén bỏ Ngọc Lũ mà chạy, Động chúa ra trận là cốt để cho quân ta có thời giờ bỏ chạy mà thôi. Đến lúc ấy, Động chúa thu quân về, nhưng cửa thành không khép kín, đi từ cửa Nam lên thẳng cửa Bắc, dẫn quân lên Bình Lục hợp với các đạo quân khác mà đợi.

Động chúa hỏi lại:

- Thế còn thành Ngọc Lũ?

Quân sư hùng hồn:

- Thành Ngọc Lũ không phải là nơi ta giữ được cả vùng phía Tây và đến Hoa Lư, nhưng cái thế của nó là nhất thời đắc dụng để mở thế lớn, Ngọc Lũ ở nơi heo hút, dân không quá vài trăm, Động chúa phải tức thì đem dân ra khỏi thành. Trong thành, ta cho rắc thật nhiều hỏa liệu. Hai cửa Đông Tây phải khóa chặt, chỉ mở cửa Bắc cho binh Triều chạy ra.

Quay về các tướng, Quân sư xếp đặt:

- Ông Phạm Cự Lượng mang quân lên ngay Bình Lục, xẻ đường đưa dòng Sinh Khuyết xuống Nam.

Đinh lão buột miệng hỏi:

- Quân sư định dìm thành Ngọc Lũ ư?

Lê Thảo mỉm cười:

- Bẩm tiên sinh, thành Ngọc Lũ ở trên cao, tôi cũng muốn dìm cho ngập nước một phen nhưng chắc không được. Vả lại, đường từ đây lên Bình Lục không xa, ta khơi dòng cũng không khó. Vậy, ông Lượng gấp rút khơi lạch, không cần rộng lắm, cũng chẳng cần sâu nhiều. Từ sông đến thành Ngọc Lũ đất trũng sâu tất nước sẽ chảy mạnh. Ông cần nhớ kỹ: phải be bờ cho nước vào nhiều, cho đến khi xong việc lại phá bỏ bờ ấy chặn lạch không cho nước vào nữa có thế ta mới không vướng bận vì nước. Ở mặt Đông thành, sẽ có người khác trông nom. Ông Lượng nên đi công việc ngay đi.

Phạm Cự Lượng hăng hái đứng dậy, lạy Động chúa nhận lệnh Quân sư đem một trăm quân đi gấp. Quân sư dặn thêm:

- Từ giờ cho đến quá nửa đêm, ông phải xong việc không được chậm trễ. Ông liên lạc với hai ông Trịnh Tú, Lưu Cơ xin giúp thêm quân mà làm cho mau nhé!

Cự Lượng “dạ” một tiếng rồi đi ngay. Quân sư lại bảo:

- Hai ông Chu Kỷ Toàn, Hồ Tường Thụy, mang các tướng còn lại ra cửa Đông, chọn nơi đất trũng nhất đào cho tôi chín đường hầm, mỗi đường rộng hai thước chạy đến gần thành phía Đông. Chín hầm ấy phải ăn thông với lạch dẫn lên phía Bắc nối với rạch của ông Lượng khơi xuống. Các ông cần nhớ: chia đều chín đường hầm ấy cho đều suốt mặt phía Đông thành Ngọc Lũ này. Một mặt, các ông phải thu thập cho thật nhiều hỏa liệu dầu thông, nhựa trắm đem trút cả xuống chín hầm. Tôi quên, phải dặn các ông một điều quan trọng: đường hầm phải võng chìm xuống ở khoảng giữa, miệng hầm phía thành rất thấp, đầu đằng kia nương theo thế đất bờ sông dốc lên cao hơn mặt đằng này, thế là lạch nước so với cửa hầm đằng này vẫn cao hơn nhé.

Các tướng nghe Quân sư dặn, ai cũng gay cấn. Động chúa hỏi:

- Quân sư định dùng kế ấy như thế nào?

- Bẩm Động chúa, tôi dùng sức nước đẩy để phóng lửa vào thành Ngọc Lũ đấy ạ!

Mọi người “Ồ” một tiếng, ai cũng lạ lùng, cổ kim chưa có ai dụng hỏa công lại nhờ đến sức nước như Quân sư.

Quân sư nói tiếp:

- Việc bây giờ gấp rút, các ông đi công việc ngay đi!

Các tướng lĩnh mệnh lục tục kéo nhau ra. Quân sư hướng về Động chúa mà rằng:

- Bây giờ, Động chúa sửa soạn để giao chiến với Tịch Mịch thiền sư. Từ giờ đến nửa đêm nay, Động chúa thế nào cũng vất vả nhiều đấy.

Đinh Động chúa hân hoan:

- Thì chiến trận làm gì còn có an nhàn, ai cũng vất vả cả chứ!

Quân sư quay sang Đinh lão:

- Tôi xin nhờ tiên sinh đem quân hầu đi giám sát mọi mặt. Ngài cứ ung dung xem xét mọi nơi. Lúc nào ngài gặp các ông Lượng, Tú, Cơ, thì nói cho các ông ấy hay rằng: “Khi thấy lửa cháy, phải tức thì phá bờ không cho nước vào lạch nữa. Xong rồi, ngài cứ ở Bình Lục đón Động chúa nhé!”

Định lão cười hể hả:

- Già này xin bái phục Quân sư, tuổi trẻ tài cao, xếp đặt mọi việc sao mà ung dung đến thế được! Thế còn Quân sư thì ngài đi đâu?

- Bẩm tiên sinh, tôi sẽ cùng với Mưu sĩ Đằng Châu đây ra cửa Đông xem trận lửa, rồi sẽ lên Bình Lục gặp lại ngài đấy ạ.

Định lão vui vẻ lắm, ông đứng dậy ra về, Quân sư quay sang Quách Nghiệp Đường mà bảo:

- Còn ông, giúp Động chúa sửa soạn ra trận. Trước khi Động chúa ra trận, ông giúp Động chúa xếp đặt đưa mấy trăm dân ra khỏi thành. Ông cẩn trọng mọi việc nhé, đừng quên trách nhiệm. Ông đưa dần xuống phía Nam, theo ven sông mà đi, tìm nơi tốt tạm trú đêm nay. Sau sẽ có người đến đón đưa mọi người về cả Hoa Lư nhé!

Xong xuôi mọi việc, Động chúa lúc ấy mới chợt nhớ ra là còn mưu sĩ Đằng Châu, vội hướng về Tôn Phủ Nghi mà rằng:

- Thưa ngài, tôi thô lỗ, mải bận việc gấp rút thành ra không đón rước được ngài cho phải lễ, dám mong thứ lỗi.

Tôn Phủ Nghi vội đứng dậy vòng tay vái mà rằng:

- Tôi từ Đằng Châu theo Quân sư tới đây, tai vẫn được nghe uy danh các anh hùng hảo hán ở Hoa Lư, nay lại được diện kiến Động chủ, thật là vạn hạnh!

Quân sư nói:

- Bẩm Động chúa, Sứ quân Đằng Châu giúp ta ba nghìn binh, lại sai tướng đi theo để trông nom. Tôi có mời thêm ông Tôn Phủ Nghi đây cùng đi để bàn mọi việc lớn sau này. Ông Tôn là người cột trụ của Đằng Châu, Hoa Lư ta mai sau thế nào cũng phải nhờ cậy nhiều lắm đấy ạ!

Động chúa vui vẻ:

- Việc lớn chung của thiên hạ, tôi mong được hiện tại các nơi cùng giúp rập. Đa tạ ông Tôn, đường xa lặn lội tới đây, chỉ tiếc lúc này việc binh bận rộn không làm sao mở tiệc mừng ông được.

Tôn Phủ Nghi vội vàng đáp:

- Thưa Động chủ, tôi thật chẳng dám như vậy...

Vừa lúc ấy, các tướng sửa soạn xong mọi việc, kéo nhau vào nghị sảnh để báo Động chúa và Quân sư biết trước khi lên đường. Quân sư ân cần dặn mọi người ai phải cố lo công việc mình cho thật trôi chảy, rồi quay sang Động chúa, Quân sư nói rằng:

- Động chúa nên mời vợ chồng Thần y cùng đi với Đinh Tiên sinh thì tiện hơn, rồi mời vợ chồng ông ta ở lại Bình Lục. Sau trận này ta lại về cả Hoa Lư đấy.

Động chúa rất hài lòng trong một thoáng tâm tư lại thấy hình bóng diễm lệ của nàng Thi Lạc Phượng hiện ra.

Các tướng còn đang chia tay nhau rộn rịp, chưa ai kịp cất bước, quân đã hấp tấp vào bẩm: “Mặt Bắc có biến...”.

Chưa biết lại có việc gì xảy ra, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—