Hồi Thứ Bốn Mươi Sáu Phúc Hải tử trận nát người
Hoa Lư để tang chiến hữu
Nhắc lại tướng Đỗ Mậu Đại không địch được tướng triều đình Lê Hoạt Hoàng, liền dùng đến phép “Tẩu Kiếm” để mở đường tháo chạy. Đại vốn gan lì, trong lúc nguy khốn tình cảnh thật bi đát, vẫn cứ giục ngựa hô quân vừa chạy vừa chiến đấu, làm như thể không phải mình thua chạy, mà cốt dụ địch ra xa thành cho vào bẫy.
Mới đầu, Lê Hoạt Hoàng cũng tưởng như vậy, sau chẳng thấy Đỗ Mậu Đại tỏ ra là có kể lừa mình, bèn giục ngựa hăng hái xông lên, ra sức đánh Đại. Lệ Hoạt Hoàng ra tài thêm một lúc nữa, cố không cho Đại chạy xa thành, e rằng nhỡ đi xa thành quá bị lọt vòng vây địch.
Lúc này, Đỗ Mậu Đại hết đường chạy trốn, sức lực tuy khỏe thế mà cũng đã thở hồng hộc mệt nhọc rồi. Lưng áo tả tơi, gươm quằn cả lưỡi, nếu là tướng khác tất đã bị chết hoặc bị binh Triều bắt mất rồi, nhưng Đại là kẻ cương cường, to gan lớn mật, trước tình cảnh này vẫn chẳng sợ, chỉ lo vỡ trận làm lỡ mệnh Động chúa thì không biết việc binh ra sao. Nghĩ thế, Đại cứ loanh quanh chống đỡ, tai Đại mệt thở ra hơi, lại còn phải nghe tiếng thở của chiến mã phì phò mệt nhọc, Đại chỉ sợ con ngựa không đủ sức quỵ xuống thì nguy.
Về phía Lê Hoạt Hoàng thấy tình cảnh Đại thì biết Đại chẳng khác gì kẻ đứng trên mô đất đợi nước dâng lên ngập đầu mà chết, chẳng có cách gì thoát được. Nghĩ thế, Lê Hoạt Hoàng liền thay đổi phép đánh, không còn cầm chừng nữa, mà huy động hết sức lực tấn công cực mạnh, mấy phen Đỗ Mậu Đại muốn rơi cả kiếm, tay tê rần cơ hồ các ngón tay cứng cả lại chẳng còn biết gì. Lê Hoạt Hoàng dồn Đỗ Mậu Đại về hướng Tây, hô quân vây kín để bắt sống.
Đang trong cơn mười phần chắc hỏng cả mười, bỗng thấy binh Triều ở mặt phía Tây rẽ ra, một tướng cưỡi con ngựa xám xông xáo dữ dội, vẹt đường tiến tới. Đỗ Mậu Đại chưa biết là ai. Lê Hoạt Hoàng còn đang sửng sốt, bỗng tướng lạ mới vào trận quát vang:
- Bớ giặc Nam Tấn Vương, không được hại huynh đệ Hoa Lư ta!
Đại trông ra, thì là Đoàn Phúc Hải. Đại cả mừng kêu lên:
- Đoàn huynh, mau giúp tay giết cho hết quân giặc này!
Thì ra, Đoàn Phúc Hải lĩnh mệnh quân sư đi mặt trận, truyền lệnh cho các tướng dàn binh đợi giờ đánh binh Triều. Cuối cùng về đến Cô Nghĩa tin cho hai tướng Lê Hoàn, Nguyễn Bặc biết. Đến khi hai tướng kéo quân đi lẽ ra Đoàn Phúc Hải phải theo lời Quân sư dặn mà ở lại Cô Nghĩa nghỉ vài ngày, nhưng đến lúc nhìn quân lên đường, thấy một mình ở lại vắng vẻ tịch mịch quá, giữa lúc ấy chiến trận sắp đến hồi gay cấn, trong lòng chịu không nổi liền mặc lại áo lấy ngựa ra đi, dặn quân ở lại canh gác cho cẩn mật. Rồi Hải một mình một ngựa, lưng giắt ngọn Giao Long Thủy thủ của Quân sư, giục con Á Lôi vượt đường hướng về phía Tây.
Đoàn Phúc Hải giục ngựa băng rừng mà đi, nắng lên cao thì lại gần Ngọc Lũ, từ xa tai nghe tiếng trống trận ầm ầm. Chạy thêm hồi nữa lại nghe tiếng quân reo, rõ ra là đang có giao chiến. Đoàn Phúc Hải lại giục con Á Lôi cất vó. Cuối cùng, đứng trên gò cao Đoàn Phúc Hải đã thấy thành Ngọc Lũ sừng sững trên đồi cao, phía Bắc đang có đánh nhau. Hải cho ngựa lại gần quan sát, mới biết rằng Hoa Lư đang bị quân Triều vây khốn, một tướng triều đình ra sức áp đảo một tướng Hoa Lư cô độc chiến đấu. Tướng Hoa Lư không rõ là ai, nhưng xem tình thế chỉ lát nữa thế nào cũng chết hoặc bị tướng triều đình bắt sống.
Đoàn Phúc Hải băn khoăn lắm, nghĩ rằng: “Binh Hoa Lư thất thế, không thấy trong thành tiếp cứu, chắc là các mặt khác cũng đang lâm nguy; không biết làm thế nào để báo tin cho Trịnh Tú, Lưu Cơ đến cứu kịp được? Nhìn ra, chỉ lát nữa là tướng kia bị giết hoặc bị bắt! Một mình làm gì được”.
Đoàn Phúc Hải ruột nóng như lửa, loanh quanh không biết làm cách nào, nếu xông vào trận khó an toàn, đứng nhìn thì nhất định huynh đệ Hoa Lư sẽ bị chết.
Ngẩng đầu nhìn ra, Đoàn Phúc Hải không thể dừng được nữa, liền giục con Á Lôi hết sức sải vó, gấp rút xông vào trận. Lúc ấy, Đỗ Mậu Đại vừa kịp đỡ một gươm của Lê Hoạt Hoàng chém bổ xuống cực mạnh, đỡ xong nhát gươm Đỗ Mậu Đại muốn ngã ngựa. Lê Hoạt Hoàng thừa thắng, giục ngựa lướt tới phóng ra một gươm chiếu vào sườn bên phải Đại, Đại giục ngựa né tránh thì con ngựa mệt quá rồi chỉ bước đi bước một, Đại kinh hồn vội vàng gươm gạt gươm của Lê Hoạt Hoàng. Đỡ xong ngọn đòn thứ hai này, Đại lảo đảo, lưng áo tung lên trông thật thảm hại, Ngựa Lê Hoạt Hoàng cũng vừa quay vó trở lại. Vừa lúc ấy, Đoàn Phúc Hải đã vào trận.
Hải tận lực vung ngọn trủy thủ ra sức đâm chém. Lưỡi đao báu gọt sắt như cắt bùn đâm vào thịt người mềm như chém xuống nước, tiện binh khí của binh Triều nhẹ nhàng như lấy dao sắc cắt chuối. Nhờ thế, Đoàn Phúc Hải xông xáo giữa đám binh Triều như vào chỗ không người, lại thêm được con Á Lôi vốn giống ngựa ở núi Hạng Đàm, quen leo núi vượt rừng, nay chạy ở nơi phẳng thì như cuốn gió bay đi, đạp bừa lên binh Triều chạy cực hung hăng.
Hải vào đúng lúc Đỗ Mậu Đại hai mắt đã hoa lên, cây gươm trong tay nặng trĩu, Đại đang đợi chết.
Nghe tiếng Hải quát, Đỗ Mậu Đại như được tiếp lực, trong lòng mừng quá, tay gươm lại giơ lên chống đỡ với Lê Hoạt Hoàng. Đoàn Phúc Hải giục ngựa xông tới, ngọn thủy thủ vươn ra phía trước, uy thế cực dũng mãnh. Hải quát lên:
- Bớ tướng giặc, hãy đỡ đao ta!
Dứt tiếng quát, ngọn Giao long trủy thủ đã bay tới nhằm giữa ngực Lê Hoạt Hoàng đâm tới. Lê Hoạt Hoàng là tướng quen chiến trận, nhiều kinh nhiệm giao chiến, nay thấy tướng Hoa Lư vào trận chỉ xử ngọn đao nhỏ lưỡi ngắn, sắc thép long lanh màu xanh tím, thì cho rằng tướng này là tay dũng tướng, bởi lúc giao tranh ai cũng muốn được lợi về chiến khí dài, nặng, thế mà tướng này chỉ xử con dao vừa ngắn vừa nhỏ, ắt phải là tướng dữ như hùm như beo. Ngó mặt, tướng Hoa Lư mày thanh mắt sáng, gương mặt đẹp nhưng hơi xanh có vẻ phong trần, nghe giọng quát lại quện chặt rõ ra khí lực mạnh lắm.
Đến khi thấy Đoàn Phúc Hải phóng ngọn trủy thủ ra, Lê Hoạt Hoàng kéo cương cho ngựa tránh ra một bên, vươn thanh kiếm bạc thử đầu gươm đỡ ngọn trủy thủ của tướng Hoa Lư xem sức mạnh thế nào. Nào ngờ, lưỡi trủy thủ chạm vào mũi kiếm bạc thì nhẹ lướt qua, tay Lê Hoạt Hoàng như không thấy có sức chấn động gì. Lê Hoạt Hoàng tưởng mình đỡ hụt liên hồi mã đón đợi. Đoàn Phúc Hải ra một đòn thử sức tướng địch, chỉ thấy tướng địch né tránh rồi giơ kiếm đỡ, sức đâm của Hải thật mạnh khiến mũi trủy thủ bay đi tay cũng không cảm thấy trủy thủ chạm vào lưỡi kiếm của tướng triều đình.
Đoàn Phúc Hải tuổi trẻ đang lúc khí lực cương cường coi sống chết chẳng ra gì, ngay từ lúc xảy việc Hoa Lư đương cự với binh Triều, Hải đã cao hứng suýt lỡ việc, sau túng quá hóa lập được kỳ công, lại được Quân sư yêu sai bảo đi các mặt trận, một mình một ngựa vượt đường báo tin dữ cho động chúa biết, nếu không phải là tay kiêu hùng thì nhất định không thể kham nổi những công việc ấy. Đến khi được Động chúa sai đi đón Quân sư mà báo tin, rồi Quân sư giao cho ngựa Á Lôi, Giao Long trủy thủ đi các mặt điều động binh tướng, Hải bỗng thấy mình hệ trọng, tự nhiên tinh thần già dặn ra, xong việc lúc đầu cũng đã tuân lệnh Quân sư cởi chiến bào dừng vó ngựa lại ở Cô Nghĩa. Nhưng chỉ được một lát không chịu nổi cảnh tịch liêu, tại tự tiện lên đường ra mặt trận. Đến mặt trận, đúng lúc Đỗ Mậu Đại lâm nguy, Đoàn Phúc Hải khi nào chịu khoanh tay nhìn bạn chết, thế là Hải xông xáo vào trận. Hải sử dụng binh khí thứ nào cũng bình thường, nhưng lại rất nhanh nhẹn tinh khôn, nhờ đấy có thể tìm được thắng lợi với những đòn lừa cùng một lúc góp nhặt nhiều thế đánh.
Đoàn Phúc Hải biết tướng triều đình là tay giỏi, chẳng thế Đỗ Mậu Đại suýt nguy, vì vậy Đoàn Phúc Hải vận dụng hết khả năng nhanh nhẹn, nương theo vó ngựa Á Lôi mà xung trận, Phúc Hải giục chiến mã lao thẳng vào Lê Hoạt Hoàng, ngọn trủy thủ chênh chếch từ trên cao chiếu xuống. Lê Hoạt Hoàng nhìn thế đánh của tướng Hoa Lư thật hùng dũng, lại chưa biết mũi trủy thủ sẽ biến thế ra sao, đành trụ ngựa đợi chờ.
Đòn ấy của Đoàn Phúc Hải, là đòn tinh diệu, phối hợp cả thế “Xuân Nữ Xem Hoa” trong kiếm pháp của họ Đặng ở Lạc Sơn, lại vừa tiếp nối bằng thế “Vạch Đôi Sơn Hà” của thương pháp Lạc Dương, ngọn tủy thủ mới nhào chếch xuống thật chớp nhoáng. Lập tức, Lê Hoạt Hoàng huơ gươm chém như chớp giật vào cổ tay Đoàn Phúc Hải. Nào ngờ nửa thế đánh ra còn một nửa thế chém tới, tức thì bàn tay Đoàn Phúc Hải xoay trở ra, lưỡi trủy thủ đang chúi xuống bỗng chiếu thẳng ra đằng trước bàn tay Hải lách khỏi lưỡi gươm chiếu tới giữa ngực Lê Hoạt Hoàng.
Lê Hoạt Hoàng hồn vía lên mây, lưỡi gươm chém ra chưa đi hết đà đã thấy mũi trủy thủ gần tới ngực mình, thế là Lê Hoạt Hoàng thét lớn một tiếng gấp bàn tay ép lưỡi gươm dọc theo cánh tay, mũi quay trở lại đón ngon trủy thủ. Tay kiếm của Lê Hoạt Hoàng biến chuyển cực nhanh, trong lúc nguy cấp chuyển thế rất đẹp.
Lưỡi gươm bạc được lợi ở điểm dài, cho nên dù huy động sau mà hóa ra vẫn đến trước. Lưỡi gươm chạm vào trủy thủ, lập tức bị tiện lìa mất một đoạn dài cả gang tay hết sức êm nhẹ, khiến cho đà kiếm vẫn không mất, lưỡi trủy thủ lướt tới rạch một đường trên chiến giáp của Lê Hoạt Hoàng xỉa vào đến tận da thịt. Lê Hoạt Hoàng trúng một ngọn trủy thủ, đau nhói ở ngực mồ hôi vã ra như tắm, kinh hoàng đến lặng người. Hoàng không ngờ ngọn trủy thủ trong tay tướng lạ lại lợi hại đến thế, lưỡi gươm bạc dài hơn ba thước bị chém cụt hai lần đến lần thứ ba Hoàng mới biết, lưỡi gươm tuy thế vẫn còn dài lắm. Chỗ bị đâm ở ngực, may nhờ đà dao đã hết, lại được lần thiết giáp đỡ cho, nên Hoàng chỉ bị thương nhẹ nhưng cũng đủ làm cho Hoàng sợ đến mất hồn.
Đoàn Phúc Hải đánh ra một đường dao, hợp cả kiếm pháp lẫn thương pháp, thu được thắng lợi thì trong lòng hết sức cao hứng, liền giục ngựa vòng trở lại, ngọn truy thu lại vung lên ánh nắng chiếu vào, nhằng một vệt sáng như chớp giật, chiếu thẳng giữa ngực Lê Hoạt Hoàng bay tới, Lê Hoạt Hoàng đã biết ngọn dao lợi hại thế nào, không dám đón đỡ, vội giạt ngựa ra mà tránh rồi vươn thanh kiếm cụt ngọn chém bổ xuống lưng Đoàn Phúc Hải. Hải đâm hụt vòng ngay ngựa lại vừa đúng lúc kiếm bạc của Lê Hoạt Hoàng còn đang vươn ra, Hải thừa thế, xử một đường “Hoa Tàn Theo Gió” đưa ngọn trủy thủ thích ngược lên nách bên phải Lê Hoạt Hoàng. Thế dao bay ra đã nhanh, con Á Lôi lại sải vô càng nhanh hơn nữa, khiến cho đòn của Đoàn Phúc Hải trước sau mỗi lần ra tay đều vào sát bên người tướng triều đình mà công kích cực kỳ hung hãn.
Thế “Hoa Tàn Theo Gió” bay ra, Lê Hoạt Hoàng đang đà phong kiếm không còn cách gì tránh được, Lê Hoạt Hoàng quả là tay lợi hại, trong lúc nguy cấp không chỉ tránh, tay kiếm đang vươn ra liền lập tức lật ngửa bàn tay, lưỡi kiếm quay ra ngoài chênh chếch dữ lấy ngọn trủy thủ, Lê Hoạt Hoàng không dám cử kiếm chặn hẳn ngọn trủy thủ, sợ kiếm bị tiện cụt mất, gấp quá cũng chỉ dám nghiêng chếch lưỡi gươm mà cản lại, vì thế lưỡi kiếm chạm vào ngọn thủy thủ nghe “xoẹt” một tiếng thật ngọt, đã cắt chéo một đoạn gươm, lưỡi gươm đang cụt đầu nay trở lại nhọn hoắt ở đằng sống kiếm.
Lần này, lưỡi kiếm chỉ còn một nửa: nhưng so với ngọn trủy thủ thì vẫn dài hơn nhiều lắm. Đỗ Mậu Đại đứng ngoài xem hai tướng tranh hùng, thấy Đoàn Phúc Hải mấy lần công kích đều đạt thắng lợi thì mừng lắm, quên cả mệt nhọc và tình cảnh suýt chết lúc nãy, liền cười vang mà rằng:
- Hay lắm, Đoàn huynh chém vài đường nữa cho cụt gươm của anh Thái giám này đi là được!
Nào ngờ, lời hô của Đỗ Mậu Đại lại làm cho Lê Hoạt Hoàng tỉnh ngộ. Hoàng chợt nhớ ra, nếu để cho tướng Hoa Lư chém trúng gươm lần nữa, tất bị nguy. Nghĩ rồi, Lê Hoạt Hoàng thúc ngựa chạy ra xa để chấn chỉnh tinh thần, chuẩn bị giao chiến lại, Đoàn Phúc Hải thấy Lê Hoạt Hoàng thúc ngựa chạy ra xa, tinh thần hăng lên cho là mình đã đánh tướng triều đình phải bỏ chạy. Hải liền giục ngựa lướt lên, ngọn trủy thủ trong tay Hải vươn rộng, lia ngang một thế “Núi Dài Chia Đất” như muốn đâm vào mạng mỡ Lê Hoạt Hoàng. Lê Hoạt Hoàng trụ ngựa, lắng hết tinh thần, đợi cho ngọn trủy thủ bay vừa tầm liền rời yên ngựa thót bụng cong lưng lùi lại đằng sau, tránh cho ngọn trủy thủ lướt qua, rồi cử kiếm thi thố một đường “Ngư Ông Kéo Lưới” phóng kiếm đâm ngược từ dưới lên ngực Đoàn Phúc Hải, Phúc Hải lia hụt một dao, lại thấy gươm địch bay lên vội xoay dao gạt.
Lê Hoạt Hoàng là tướng thiện chiến, từ lúc gặp Đoàn Phúc Hải chưa ra tài, mới chỉ dò dẫm tướng lạ, nay thì biết ngọn trủy thủ lợi hại thế nào rồi, liền thận trong giao đấu. Hoàng đâm một kiếm thần tốc, thế kiếm vừa mạnh vừa đẹp, Hoàng tin chắc nhát kiếm ấy thế nào cũng làm nên chuyện, nào ngờ lưỡi trủy thủ trong tay Đoàn Phúc Hải đã cử lên gạt, Lê Hoạt hoàng không dám để lưỡi kiếm chạm vào trủy thủ, đà kiếm đang lên bỗng tạt ngang sang thế “Trăng Ngả Về Tây” hơi trầm xuống tránh ngọn trủy thủ đồng thời tiếp tục công kích mãnh liệt vào ngang bụng Đoàn Phúc Hải.
Đoàn Phúc Hải là tướng trẻ kinh nghiệm chiến đấu chưa có mấy, chỉ nhờ vào tài nhanh nhẹn cực kỳ mà lợi ở những thế công hung hãn lúc đầu, đến khi gặp tướng địch già dặn biết chỗ hở của đối phương rồi đánh theo lối tạo thăng bằng, thì lúc ấy tài nghệ thực sự mới bị bộc lộ là không đáng kể. Bây giờ, đường gươm của Lê Hoạt Hoàng xoay ngang ào đến thật vững chắc, tựa hồ như mảnh trăng từ từ trôi về hướng Tây, bay tới bụng Đoàn Phúc Hải, Hải kinh hãi chuyển ngọn trủy thủ vừa gạt hút lưỡi gươm vòng trở xuống chặn lấy lưỡi gươm.
Ngọn trủy thủ quả nhiên chặn trúng mũi gươm, chặt đôi lưỡi gươm đứt thêm một lần nữa thật ngot. Ngọn trủy thủ sắc bén quá hóa hại Đoàn Phúc Hải, lúc này giả sử ngọn trủy thủ chặn thanh gươm của Lê Hoạt Hoàng lại thì đôi bên tất bị phản chấn mà đội trở lại, nay lưỡi truy thu chặt gươm đối phương, cực kỳ êm ái không cản trở gì đà đi của lưỡi gươm, lưỡi gươm không mất đà vẫn tiếp tục xô vào bụng Hải. Lập tức, Hái vào trận cũng như các hảo hán khác của Hoa Lư mình chẳng có giáp, liền bị thanh gươm bạc cụt ngọn thúc vào bụng.
Đoàn Phúc Hải không kịp kêu một tiếng, ưỡn người trên lưng ngựa, lưỡi trủy thủ trong tay vừa chặn xuống mới giơ lên bỗng từ từ hạ xuống. Hải nhũn người gục xuống cổ ngựa. Việc xảy ra cực nhanh, Đỗ Mậu Đại đứng bên ngoài sững sờ đến mất hồn.
Lê Hoạt Hoàng ra một thế kiếm đoạt mệnh Đoàn Phúc Hải, vó ngựa băng đi rồi quay lại, Hoàng hô quân xông tới. Lúc ấy Đỗ Mậu Đại mới như tỉnh lại, Đại hét lên một tiếng thật thê lương, không còn cảm thấy trong người mệt mỏi, bỗng nổi hung lên giục ngựa lăn xả vào Lê Hoạt Hoàng mà đâm chém. Đỗ Mậu Đại vừa lại vào trận, con ngựa khuỵu xuống, Đại vọt ra thật nhanh, một nhát kiếm chiếu thẳng Đại đã xỉa nhào một tên quân triều đình, rồi cướp lấy ngựa mà xông xáo, Đỗ Mậu Đại bây giờ như con cọp điên, tay gươm huơ lên như gió giật mưa rơi, đánh dội Lê Hoạt Hoàng trở lại không cho Hoàng đến gần xác Đoàn Phúc Hải, rồi Đại nhào đến chụp dây cương con Á Lôi kéo đi.
Đỗ Mậu Đại một tay cầm gươm, một tay nắm cương dắt ngựa Đoàn Phúc Hải xông xáo chạy về thành, Lê Hoạt Hoàng hô quân bám riết, Hoàng lại giục ngựa xông lên toan chém nốt Đỗ Mậu Đại. Đỗ Mậu Đại như điên như cuồng vừa thương bạn vừa uất hận, thanh kiếm đâm chém không còn kể gì phép tắc. Lê Hoạt Hoàng cũng kinh hãi không dám lại gần, liền hô quân cứ xiết vòng vây, một mặt thận trọng bắn tên vào hai tướng Hoa Lư.
Lê Hoạt Hoàng giục ngựa, chốc chốc đợi cho Đỗ Mậu Đại sơ hở lại xông vào tập kích một kiếm, có nhát trúng có nhát trượt, bây giờ Đỗ Mậu Đại cũng đã bị trúng thương đến bảy tám nhát kiếm. Còn xác Đoàn Phúc Hải vẫn gục trên lưng ngựa, binh Triều xô đến hết đâm lại chém, rồi tên bắn tới, khiến Đoàn Phúc Hải chết rồi mà vẫn bị binh địch công kích.
Chạy được thêm một lát nữa, thanh gươm trong tay Đỗ Mậu Đại cũng gãy nốt. Đại càng điên cuồng không biết lấy khí giới ở đâu mà đâm chém, hai tay vồ chụp khí giới của binh Triều rồi giằng co, có lúc bị gươm giáo cứa rách, toạc cả bàn tay máu chảy ròng ròng thế mà Đại vẫn chẳng biết đau cứ xông lên. Chợt Đại thấy cánh tay phải của Đoàn Phúc Hải buông thõng, bàn tay Hải còn nắm chặt ngọn Giao Long trủy thủ, Đại biết cây dao quý, liền với tay đoạt lấy cây dao. Vừa lúc ấy Lê Hoạt Hoàng thừa cơ vọt ngựa tới đâm một nhát thực mạnh vào giữa lưng Đỗ Mậu Đại, Đại vừa đoạt xong con dao trong tay Hải, lại đã thấy gươm Lê Hoạt Hoàng xỉa tới sau lưng, tức thì cơn giận bốc tới trời cao, hai mắt Đại tròn xoe đến ứa máu, Đại thét lên một tiếng ghê gớm quay ngọn dao tận lực đâm xả vào ngực Lê Hoạt Hoàng.
Lê Hoạt Hoàng rụng rời tay chân, không ngờ tướng Hoa Lư thế cùng liều lĩnh lấy mạng đổi mạng như vậy, lại biết ngọn dao trong tay Đại chém sắt như chém bùn nếu để Đại dâm trúng thì áo giáp sẽ bị thủng ngay thấu suốt qua lưng cũng không biết chừng. Hoàng vội ngửa người trên yên ngựa, đồng thời kéo cương cho con Ô Truy giạt sang bên mà tránh. Đỗ Mậu Đại như điên mất rồi, giục ngựa đuổi theo, cây trủy thủ giơ cao chỉ chực đâm xuống, Lê Hoạt Hoàng càng giục ngựa chạy thêm xa nữa.
Ngựa Đại không đuổi được ngựa của tướng triều đình, Đại quay lại thì đã thấy binh Triều đang xô nhau lôi con ngựa của Hải toan cướp xác mà chạy. Đại quát lên một tiếng như sét nổ mà rằng: “Buông ra!” Rồi vọt ngựa tới, ngọn trủy thủ đâm lia lịa, binh Triều gục xuống tơi bời, tiếng la hét ầm ĩ. Binh Triều ngó lên thấy tướng Hoa Lư mình đẫm máu, đầu tóc rối bù, áo tả tơi, hai mắt trợn tròn, mặt không còn sắc, quỷ không ra quỷ, người không ra người, ngọn dao trong tay lại ghê gớm quá, binh khí nào chạm phải cũng bị tiện lìa, thì chúng khiếp hãi xô nhau mà chạy.
Đỗ Mậu Đại lại chụp lấy cương con Á Lôi dắt chạy gấp về thành. Về đến gần sát thành, đằng sau Lê Hoạt Hoàng lại đuổi theo sát. Cùng lúc ấy quân canh báo về doanh, tướng Chu Kỷ Toàn vội cầm thương chạy vội lên thành.
Phía dưới Đỗ Mậu Đại vẫn giục ngựa chạy tới, sau lưng là Lê Hoạt Hoàng, đã sắp xỉa ra một gươm. Trên thành, Chu Kỷ Toàn vừa kịp thấy một người gục trên yên ngựa, một người quần áo tả tơi mình đầy máu đang giục ngựa chạy tới, chưa hiểu là những ai thì đã thấy tướng triều đình vươn kiếm chực phóng ra. Chu Kỷ Toàn không còn kịp nghĩ, vội giật lấy cung tên của quân canh, phóng vội mũi tên đi. Mũi tên vèo đi, sát mang tai Lê Hoạt Hoàng trúng một tên quân ở phía sau, tên quân thét lên một tiếng đau đớn, Lê Hoạt Hoàng bàng hoàng dừng tay gươm.
Chu Kỷ Toàn vội truyền quân hạ cầu mở cửa thành cho hai tướng vào gấp. Cầu treo vừa hạ xuống, cửa thành cũng mở ra. Đỗ Mậu Đại giục ngựa chạy vào, đằng sau Lê Hoạt Hoàng hô quân ào tới toan lọt vào thành.
Trên thành, Chu Kỷ Toàn thấy gấp quá, quát lớn mà rằng: “Bớ tướng giặc không được vô lễ!”, Tiếng quát chưa dứt, Chu Kỷ Toàn đã như đại bàng mở cánh, từ trên mặt thành xốc thương bay xuống. Toàn không còn thì giờ để xuống đường thường lệ nữa.
Toàn nhảy xuống chân chưa chạm đất, trường thương đã lia ra, quật vào đầu binh Triều bốp bốp, lập tức tướng Lê Hoạt Hoàng dừng ngựa kinh hãi, không ngờ từ trên thành cao như vậy mà có tướng dám nhảy xuống, chân chưa chạm đất đã xông xáo dữ dội như vậy. Lê Hoạt Hoàng nghĩ chưa xong, Chu Kỷ Toàn đã đi bộ xốc tới, thanh trường thương đâm một nhát vào bụng dưới Hoàng. Hoàng lùi ngựa mà tránh, loay hoay trên cây cầu. Chu Kỷ Toàn nhào tới, trường thương lia một vệt quất vào vó ngựa Ô Truy. Lê Hoạt Hoàng kinh hãi giật mạnh cương cho con Ô Truy nhấc bổng bốn vó bay vọt trở ra.
Chu Kỷ Toàn huơ thương lia vào đám binh Triều, binh Triều thấy một tướng trên thành cao như thiên thần, bay xuống, trường thương đánh ra hai đòn đánh bật tướng Lê Hoạt Hoàng trở lại, chúng không còn hồn vía, vài đứa bị trúng thương vỡ đầu vọt óc nằm giãy chết trên cầu, thế là binh Triều vừa mới có một ít theo chủ tướng xông lên đã lại chen nhau chạy trở ra. Chu Kỷ Toàn không ham đánh, vội hô kéo cầu.
Quân nghe lệnh hè nhau rút cầu. Chu Kỷ Toàn cầm trường thương đứng chắn ở đầu cầu, cầu kéo lên dốc thoai thoải, Toàn chạy trở vào. Toàn vừa nhảy xuống của thành cầu cũng kéo khép lại, có các binh Triều còn vướng ở thành cầu không rơi xuống, cây cầu ép xác nát nghiền trông thật ghê rợn.
Toàn chạy vội lên mặt thành xem tình thế, thấy binh Triều còn loanh quanh bên ngoài chưa đi, tướng Lê Hoạt Hoàng cưỡi con Ô Truy vẫn chưa biết tiến thoái ra sao. Lập tức, Chu Kỷ Toàn truyền nổi trống hiệu, rồi truyền quân ra sức bắn tên xuống. Bây giờ, binh Triều mới chịu rút ra xa.
Lê Hoạt Hoàng thấy quân mình thắng trận, giết một tướng, một tướng khác của Hoa Lư bị nhiều vết thương, quân lại suýt nhập thành, trong lòng vui lắm. Lại nghĩ: “Mình đem binh đơn độc lên mạn Bắc, cốt cùng ba mặt hãm thành. Mình không vào được thành, lại chẳng thấy trong thành có vẻ gì là hỗn loạn, cũng không nghe thấy các mặt kia có chiến trận, thì tức là không lấy được thành rồi, ở lâu mạn Bắc một mình như thế này nguy hiểm lắm”. Nghĩ rồi, chấn chỉnh hàng ngũ, truyền quân đi sang phía Tây, rồi cẩn thận dò đường mà xuống Nam. Hoàng đưa quân về may không gặp đạo binh nào của Hoa Lư đón đường đánh úp.
Trong thành Ngọc Lũ, Động chúa, Quân sư và các tướng vừa thấy Chu Kỷ Toàn xốc thương chạy vội ra để lên thành xem tình hình, ai cũng hoang mang chưa biết việc ra sao. Mọi người còn đang xôn xao bàn tán, tai đã nghe tiếng quân reo ầm ầm, đây là lúc Chu Kỷ Toàn từ trên thành cao nhảy xuống cản binh Triều rồi quân mở cửa thành cho Đỗ Mậu Đại kéo tàn quân và đưa xác Đoàn Phúc Hải chạy vào.
Đỗ Mậu Đại một tay cầm dây cương con Á Lôi, một tay nắm chặt ngọn Giao Long trủy thủ, giục ngựa chạy miết về doanh. Tiếng vó ngựa rầm rập làm cho trong doanh mọi người đang bàn tán bỗng im lặng nghe ngóng. Đỗ Mậu Đại dừng ngựa, từ trên yên ngựa nhảy xuống miệng đã rống lên mà rằng:
- Động chúa ơi! Động chúa!
Động chúa, các tướng ngạc nhiên không hiểu ai lại rống lên réo gọi Động chúa giọng vừa nghẹn ngào lại chen lẫn thê lương như vậy. Động chúa xô ghế chạy ra, các tướng cũng ùa ra theo. Vừa lúc ấy Đỗ Mậu Đại đỡ xác Đoàn Phúc Hải xuống, bể chạy vào doanh. Động chúa, các tướng kinh hãi nhìn ra thấy Đỗ Mậu Đại chẳng còn là Đỗ Mậu Đại, đầu tóc rối bù, mặt mày mình mẩy vấy đầy máu, áo quần tơi tả, lại bế một xác chết máu đóng khô khắp mình, tên còn cắm khắp thân thể như lông nhím, ai nấy đứng sững lại.
Đỗ Mậu Đại vừa thấy mọi người, bỗng bật khóc rống lên mà rằng:
- Động chúa ôi, Đoàn Phúc Hải chết rồi!
Lập tức, mọi người ùa cả lại, ai cũng bật kêu lên ngạc nhiên kinh hãi. Động chúa đỡ lấy xác Hải, nét mặt kinh hoàng đến sững sờ, quả thật đây là Đoàn Phúc Hải, máu đóng khô khắp mình, xác Hải đã lạnh ngắt, Động chúa đứng lặng, rồi bỗng hai hàng nước mắt trào ra đầm đìa, Động chúa chẳng nói một lời cứ đứng như vậy mà khóc ròng. Các tướng cũng khóc, mọi người như không còn hiểu được sự tình ra sao nữa, trong nghị sảnh chỉ có tiếng khóc, chẳng ai nói một lời.
Cùng lúc ấy, Quân sư rẽ đám các tướng bước tới, Động chúa bật lên nức nở:
- Quân sư... Quân sư...
Các tướng vụt khóc lớn lên. Quân sư rảo cẳng bước tới đứng chết lặng trước Động chúa, rồi hai tay đỡ lấy xác Hải quay gót đi trở vào, Động chứa các tướng như người mất hồn lục tục bước vào theo. Quân sư đặt xác Hải lên mặt bàn, miệng lẩm bẩm:
- Lạ thật! Sao lại thế này? Sao lại thế này?
Mọi người xúm quanh không ai biết trả lời ra sao, Quân sư đưa mắt nhìn quanh rồi hỏi:
- Ai đưa ông Hải về?
Đỗ Mậu Đại rẽ mọi người tiến ra, giọng nghẹn ngào:
- Bẩm Quân sư, tôi!
Quân sư kinh hãi:
- Ông Đại, ông bị thương nhiều quá phải không?
Lúc ấy, mọi người mới nhìn ra. Từ lúc Đại tranh giành với binh Triều cố cướp xác Đoàn Phúc Hải mà chạy về, Đại bị nhiều vết thương mà vẫn không hay biết, lúc ấy Đại như điên cuồng chẳng biết gì, bây giờ nghe Quân sư hỏi mới nhìn xuống thấy khắp mình máu me, bỗng Đại từ từ sụm xuống. Tướng Phạm Cự Lượng đứng bên cạnh kịp đỡ lấy Đại.
Quân sư vội truyền quân mau đi mời Thần y.
Lượng đem Đỗ Mậu Đại đặt trên bàn, mọi người kinh hãi không hiểu ra sao. Vừa lúc ấy, một tướng xăm xăm từ ngoài chạy vào, mọi người nhìn ra thì là Chu Kỷ Toàn. Toàn hỏi giật giọng:
- Ông Đại làm sao, ông Đại làm sao. Ai chết?
Đến khi biết Đoàn Phúc Hải đã bị chết, thì Chu Kỷ Toàn chảy nước mắt nghiến răng mà rằng:
- Thế thì đúng là tên tướng cưỡi con ngựa đen rồi!
Quân sư hỏi:
- Tướng cưỡi con ngựa đen là ai?
- Bẩm Quân sư, lúc tôi lên thành, thấy ông Đại một tay dắt con ngựa của ông Hải, một tay dùng dao ngắn đâm lia lịa, đằng sau binh Triều hò reo vây kín, binh Triều chỉ có một tướng cưỡi con ngựa đen cao lớn, chính y đã giết Đoàn Phúc Hải, đả thương Đỗ Mậu Đại chứ không sai!
Quân sư gật gù cúi đầu suy nghĩ, rồi chậm bước đến bên Đỗ Mậu Đại gia tay gỡ ngọn Giao Long trủy thủ còn nắm chắc trong tay Đại, mọi người rối rít thành ra không biết Đại vẫn giữ khư khư con dao quý.
Thần y bước vào, xăm xăm đi đến bên Đỗ Mậu Đại, ông xem mạch rồi nói:
- Không sao, không sao! Ông này mệt quá, bị nhiều vết thương hay không chết đâu!
Quay sang Đoàn Phúc Hải. Thần y lắc đầu mà rằng:
- Thần chết đến nhanh hơn ta một bước rồi!
Rồi Thần y bảo Phạm Cự Lượng cởi áo quần Đoàn Phúc Hải xem y bị chết ra sao. Phạm Cự Lượng trước hết nhổ các mũi tên cắm trên người Hải, đếm được sáu mươi bốn mũi, rút ra được một lưỡi gươm gãy mắc vào sườn bên trái Hải. Cởi xong quần áo, Cự Lượng đếm trên xác Hải được một trăm mười bốn vết đâm chém, có vết lớn có vết nhỏ, có vết sâu, có vết nông. Thần y xem xét các vết thương hồi lâu, rồi ngẩng đầu nói:
- Ông này bị chết vì nhát gươm chém đúng bụng, khiến cho vỡ nát hết các kinh mạch đổ về trong huyệt đỉnh sinh. Các nơi đâm chém kia chắc sau mới bị!
Rồi Thần y lấy trong đẫy ra viên thuốc màu hồng thật đẹp, lớn bằng hạt ngô đưa cho Chu Kỷ Toàn, bảo cậy miệng Đỗ Mậu Đại mà cho y uống với nước nóng.
Đỗ Mậu Đại uống thuốc được một lát thì tỉnh lại, mọi người xúm quanh hỏi han đủ điều. Động chúa phải bảo mọi người hãy im lặng nghe Đại kể mọi việc. Đại kể từ đầu không giấu giếm chút nào, mấy phen dùng kiếm pháp của Trịnh Tú áp đảo tướng Lê Hoạt Hoàng ra sao, nhưng vì học nghệ chưa thông nên đành phải dùng đến Tẩu Kiếm pháp suýt nữa thì làm nên chuyện lớn. Sau không có cách gì địch lại tướng triều đình, mười phần chắc chết cả mười, bỗng nhiên Đoàn Phúc Hải ở đâu hiện ra dùng Giao Long trủy thủ sát phạt mấy lần suýt lấy tính mạng tướng triều đình, sau chỉ vì lưỡi trủy thủ lợi hại quá mà hóa ra giết Hải. Sau đấy Đỗ Mậu Đại một mình đưa xác Hải về ra sao, Chu Kỷ Toàn trên thành bay xuống cứu nguy thế nào, Đại kể ra hết. Mọi người nghe như đi vào giấc mộng lạ, ai cũng kinh hãi cho sự gan lì dũng mãnh của hai tướng Đỗ Mậu Đại và Đoàn Phúc Hải. Đỗ Mậu Đại thuật xong lại khóc lên hu hu, nghiến răng mà rằng:
- Ông Hải ơi, ông vì cứu tôi mà bị chết thảm, tôi thì bị thằng giặc cưỡi ngựa đen đâm chém tha hồ! Thù này thế nào cũng phải trả thì lúc chết mới nhắm được mắt đây!
Đại than khóc, làm mọi người lại xúc động khóc thêm lần nữa! Quân sư đợi cho mọi người khóc thêm lát nữa rồi nghiêm nghị bảo:
- Bẩm Động chúa, bây giờ ta nên bắt tay vào việc ngay, chẳng nên cứ xúm quanh ông Hải mà than khóc mãi như thế!
Động chúa bảo phải, Quân sư liền sai Quách Nghiệp Đường trông nom việc Đoàn Phúc Hải, lại bảo Quách Nghiệp Đường phải lo liệu cho hết thảy binh lính, các tướng, mỗi người một vuông vải đen quấn ở cổ để tang Hải, cho đến lúc nào đuổi được quân Nam Tấn Vương về Cổ Loa mới thôi.
Quân sư lại mời Động chúa, các tướng vào bàn nghị sự thêm lần nữa.
Quách Nghiệp Đường lấy ngay nghị sảnh làm nơi đặt linh cữu Đoàn Phúc Hải, thành ra trong lúc cần kíp các tướng phải đứng mà nghị sự với Động chúa. Quân sư bảo:
- Các tướng hãy lấy gương ông Hải làm trọng. Lẽ ra ông Hải không thiệt mạng, chỉ vì ông ấy không nghe lời tôi ở lại Cô Nghĩa nghỉ ngơi mà thành hỏng cả thế này! Các tướng cũng lại nên theo gương ông Hải xả thân để cứu huynh đệ, nhưng cố tránh đừng để đến nổi sinh thiệt thòi như thế! Đại nghiệp đường còn xa, ai cũng phải thận trọng, không được tự ý hành động sai lạc.
Các tướng rơm rớm nước mắt cúi đầu im lặng, Quân sư quay sang Động chúa mà rằng:
- Bẩm Động chúa, theo tôi tính toán, thì thế nào trong ngày hôm nay binh Triều cũng nhất tề đem quân vây thành Ngọc Lũ này, ta cứ theo như định liệu trước mà làm, nay thêm việc ông Hải, ta cũng lại nhận đấy mà làm cho kế của ta thêm hiệu nghiệm hơn nữa, có thể mới tạm rửa được thù cho ông ấy!
Động chúa mắt còn đỏ, các tướng im lặng, Quân sư nói tiếp:
- Động chúa cứ chuẩn bị ra trận, ít nhất Động chúa cũng phải giao chiến liên miên đến quá nửa đêm mới mong bỏ thành mà chạy được. Còn từ giờ đến lúc ấy, các tướng ai lo phận sự nấy, không được chậm trễ, nhất là ông Lượng phải đi ngay mới kịp.
Cự Lượng dạ một tiếng, xin phép đi ngay. Trước khi đi, Cự Lượng còn đến nhìn xác Đoàn Phúc Hải một lần nữa, rồi quệt nước mắt mà bước ra. Các tướng khác cũng lục tục ra đi, mặt mọi người ai cũng đượm vẻ buồn.
Động chúa về doanh sửa soạn. Quân sư ở lại xem Quách Nghiệp Đường lo liệu cho Đoàn Phúc Hải. Quan tài Hải đặt trong nghị sảnh, đuốc thông cháy sáng rực, quân mang gươm trần đứng canh thật uy nghi.
Quân sư lại truyền trên thành bao nhiêu cờ thay bằng cờ đen hết, lại bảo phải luôn luôn đổ nước vào cờ cho cờ nặng mà rũ xuống, không được để gió thổi bay cờ tỏ ý thành Ngọc Lũ để tang, lại vừa dụng ý xếp đặt để đánh binh Triều.
Gần giữa Ngọ, các tướng vào lạy quan tài Hải lần chót, rồi kéo quân lặng lẽ ra đi. Binh Hoa Lư, trên từ Động chúa, xuống đến người lính dắt ngựa, ai cũng quấn ở cổ một mảnh vải đen, bao nhiêu màu xanh đỏ đều tạm cất cả. Các tướng lại còn lấy thêm sợi vải đen mà buộc vào tay cầm khí giới. Ngựa trận cổ cũng buộc miếng vải đen, rõ ràng là Hoa Lư để tang mà ra trận.
Quá Ngọ, Quân sư truyền trên thành bỏ trống da, dàn trống đồng thay thế, lấy trống đồng đánh mà thay trống tuần. Cờ đen ướt sũng rũ xuống, lâu lâu trống đồng lại nhất tề nện vang một tiếng nghe như tiếng gào khóc thê lương, quang cảnh thật bi tráng, nắng lên cao đậu trên đỉnh đầu, trên thành Ngọc Lũ vắng vẻ thấy đến rợn người, không khí nặng mùi chết chóc.
Trong thành, Động chúa cùng các tướng tùy tùng đã chuẩn bị xong, trong nghị sảnh quan tài Đoàn Phúc Hải vẫn lặng lẽ đợi lệnh Quân sư. Quân sư cho quân đi dò la tình hình binh Triều, tin đưa về đều đều, Quân sư tiếp tin lặng lẽ suy nghĩ. Đến giữa giờ Mùi, tin khẩn báo đưa về, Quân sư đứng bật dậy đợi nghe.
Chưa biết tin về ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—