← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Bốn Mươi Bảy Động chúa khóc trên vọng lâu
Thiền sư dưới thành mắng chửi

Quân vào bẩm:

- Bẩm Động chúa, binh triều đình kéo đến khiêu chiến mặt Nam đông lắm.

Quân sư khoát tay cho quân lui, rồi nói:

- Kế hoạch của ta bắt đầu! Ta hãy lên mặt thành xem sự thể ra sao đã.

Động chúa nghe Quân sư nói liền hăm hở chực đi ngay, Quân sư giơ tay ngăn lại mà rằng:

- Khoan đã Động chúa, tôi chắc là Tịch Mịch thiền sư xúi giục Nam Tấn Vương, thế nào Tịch Mịch cũng tranh giao đấu đầu tiên. Nay, binh ta dàn ở các mặt, cốt đánh lấy thua để đưa Nam Tấn Vương vào thành. Vậy Động chúa phải cố gắng khích cho Tịch Mịch thiền sư nóng lòng vì thắng lợi, khinh thường trước tình cảnh bi đát của ta, có thế mới làm cho binh Triều không còn e ngại gì nữa mà xông xáo đoạt thành Ngọc Lũ.

Động chúa gật gù chăm chú nghe, rồi hỏi lại:

- Quân sư định ta phải khích Thiền sư như thế nào?

- Trên thành, tôi đã cho bố trí cờ đen, binh canh kín đáo, trống đồng thay trống da trâu, tức là biểu lộ ta đang có tang thành. Tất thế nào tướng triều đình cũng cấp báo tình hình sáng nay ở mặt Bắc, Nam Tấn Vương ắt biết một tướng của ta bị chết, thành Ngọc Lũ bối rối. Triều đình vẫn cho ta chỉ là quân giặc cướp, bất quá cũng chỉ bằng các Sứ quân mà thôi. Nay Động chúa nhân cơ hội này, nhân ý nghĩ ấy của triều đình, Động chúa lên mặt thành cứ lấy lời bi thống mà trì hoãn, ra vẻ không muốn giao chiến. Đến lúc miễn cưỡng không được nữa thì hãy hẹn xuất thành đánh nhau, nhưng dùng dằng chậm trễ. Cứ thế mà làm cho binh Triều nóng ruột khinh thường ta thật quá đáng, lúc ấy Động chúa làm như cùng đường đành phải dốc lực ứng chiến, trận ấy nên đánh cho kịch liệt rồi thua cố chạy về thành. Có thế mới xong.

Động chúa lại gật đầu, các tướng tủm tỉm. Bên ngoài quân lại vào báo:

- Binh Triều đã tới gần dàn trận. Tịch Mịch thiền sư đang réo dưới thành gọi Động chúa ra giao chiến!

Ai nghe báo cũng kinh hãi, quả nhiên Quân sư đoán việc chẳng sai chút nào, đúng là Thiền sư xuất trận khiêu chiến trước!

Quân sư lại nói:

- Thôi bây giờ Động chúa lên thành đi!

Động chúa quay lại trước quan tài Đoàn Phúc Hải lặng nhìn chẳng nói gì, rồi Động chúa rảo bước đi ra. Theo sau Động chúa là hai tướng cận vệ Cung Địch Hồng quen xử ngọn roi sắt, và Vương Bảo Quyền lẫy lừng danh tiếng với ngọn chùy gai. Quân sư cũng đi theo.

Lúc ấy, trong thành không còn dân, các tướng phận sự ai người nấy đã làm xong, hỏa hiệu rải khắp nơi trong thành, vì thế đuốc lửa đều phải tắt hết, chỉ có vài nơi cần trong doanh là được dùng đến lửa mà thôi.

Động chúa lên mặt thành, lập tức trống đồng giục vang rồi bặt tiếng. Động chúa đứng trên mặt thành ngay trước cửa vọng lâu trông ra phía Nam. Ngoài thành, binh Triều trùng điệp, gần cuối đạo quân thấp thoáng bóng cờ xí là nơi Nam Tấn Vương ngự. Như thế là đại binh của triều đình đã tới cả trước thành Ngọc Lũ.

Động chúa mặc áo chẽn vạt treo màu lam nhạt quần đồng màu ống bỏ vào chiến hài, ngang lưng Động chúa thắt dây lưng nhiễu đen, cổ quấn thêm vuông vải đen, đầu chít võ cân cũng màu đen, Động chúa trông có vẻ buồn thảm, vẻ mặt u ám. Khắp mặt thành cờ đen rũ xuống, quang cảnh thê lương, lính đi lại thưa thớt vẻ hốt hoảng.

Dưới thành, Tịch Mịch thiền sư cưỡi con Lăng Tiêu màu xám, vừa thấy bóng Động chúa liền cất giọng ồm ồm quát lên:

- Bớ giặc Bộ Lĩnh sao còn núp trong hang không ra đây nạp mạng cho ta cho rồi!

Đinh Bộ Lĩnh đứng im chẳng đáp, đưa mắt quan sát binh Triều, nhìn trận thế binh Triều dàn ra trước sau ràng buộc đúng phép tắc, trong lòng chẳng khỏi tấm tắc khen. Vừa lúc ấy, Quân sư lững thững lên thành, Quân sư còn đi xem xét các nơi chuẩn bị xong xuôi mới lên đứng sau lưng Động chúa.

Dưới thành, Tịch Mịch thiền sư lại thét:

- Giặc Bộ Lĩnh, mi toan tính mưu mẹo gì mà sao cứ đóng chặt cửa thành vậy? Hay là mi sợ chết như thằng giặc non buổi sáng!

Tịch Mịch thiền sư quát xong, ngửa cổ cười như gió giật trong cây, dữ dội mà thê lương. Thì ra trong quân binh Triều đã biết tin Hoa Lư bị thiệt một tướng. Đinh Bộ Lĩnh nghe thiền sư quát mắng cũng cứ nín lặng. Lập tức, thiền sư giơ cao cây chày thiết mộc, hô quân tiến lên phá thành.

- Tôi với thiền sư có thù cũ, thù ấy xin sẽ được thanh toán sau, bây giờ tôi còn vướng bận, thiền sư tạm lui binh vài ngày có được không?

Tịch Mịch thiền sư lạ lùng dừng vó ngựa. Rõ ràng Động chúa nói năng khác thường. Ngó lên trên thành, binh vắng, cờ đen rũ xuống, chẳng có lẽ Hoa Lư lại thất thế đến như vậy? Thiền sư cười như điên như khùng một hồi mà rằng:

- Bớ Bộ Lĩnh, thế ngày xưa mi hại nhà ta có chờ cho ta được vài ngày chạy trốn cả hay không? Đừng nhiều lời nữa, hãy mau mở cửa chịu chết mau đi!

Bộ Lĩnh vẻ mặt thê lương mà rằng:

- Thiền sư, thiền sư: Ông là người tu hành, sao lại nỡ bức bách nhau trong lúc cùng quẫn này! Tôi xin ông vài ngày lo liệu cho người chết, rồi sẽ hầu tiếp ông mà không được sao?

Thiền sư lại quát lên:

- Đứa chết đã chết rồi, sao người còn lôi thôi lắm thế!

Động chúa vội cướp lời:

- Nếu vậy thì hận cũ cũng đã qua lâu rồi, sao ông còn nhớ mãi làm gì thế!

Thiền sư tức lồng lộn, gầm lên:

- Bộ Lĩnh, đừng có nhiều lời nữa! Mau mở cửa chịu chết!

Dứt lời, lại giục quân xông tới. Động chúa lại kêu lớn lên:

- Khoan! Khoan, Thiền sư, đã vậy để tôi xin xuống!

Bên ngoài, binh Triều hò reo rầm rĩ. Trên thành Động chúa cùng các tướng vào vọng lâu khép cửa kín lại mà ngồi bàn bạc. Dưới thành, Thiền sư tạm lui quân ra xa để đợi Động chúa xuất thành, Thiền sư đợi lâu quá không thấy cửa thành mở, ngó lên mặt thành thấy vắng lặng thì lấy làm lạ chẳng hiểu việc ra sao. Thiền sư cũng có ý nghĩ Hoa Lư lại bày kế, sau nghĩ đi nghĩ lại vẫn chẳng thấy Hoa Lư bày kế ở chỗ nào, lại thêm lời lẽ Đinh Bộ Lĩnh nài nỉ, quang cảnh thê lương tiêu điều, thì có lẽ Hoa Lư đang túng quẫn thật.

Đợi thêm lát nữa, vẫn chẳng thấy trong thành Ngọc Lũ có động tĩnh gì, Thiền sư liền hô quân tiến lên phá thành. Binh Triều đến sát hào vẫn chẳng thấy trên thành động tĩnh. Thiền sư liền ra lệnh cho quân vượt hào.

Tới lúc ấy, tên trên thành mới bắn xuống. Tên bắn không nhiều, nhưng ít mũi đi trượt đích, khiến binh Triều cũng chưa làm cách nào để vượt hào an toàn được.

Tịch Mịch thiền sư tức lồng lộn, lại réo tên Bộ Lĩnh ra mắng chửi. Trên thành, quân sư lại mời Động chúa cùng các tướng ra ngoài lần nữa, lần này dùng dằng xin khất vài giờ để đưa ma Đoàn Phúc Hải.

Thiền sư nghe nói không chịu, cứ khăng khăng đòi Động chúa mở cửa thành giao chiến. Động chúa đứng trên mặt thành ngay trước vọng lâu, sụt sùi mà rằng:

- Bây giờ là lúc Hoa Lư tôi chôn cất người chết, Thiền sư sao chẳng nể tình chậm cho vài giờ! Trời cao cũng còn không nỡ lùa gió vào lều rách, sao Thiền sư chẳng lấy từ tâm của Phật tổ đãi người chết một phen!

Thiền sư quát lại:

- Vậy mi muốn đến lúc nào thì chịu chết?

- Tôi xin được chôn cất cho người anh em xong, là ra hầu tiếp Thiền sư ngay. Bây giờ đến lúc ấy, cũng khoảng trọng Thân có được không?

Thiền sư khua vang chiếc mõ lạ, mà rằng:

- Ta ừ cho ngươi được chết chậm một chút cũng không sao!

Trên thành, Động chúa vái tạ Thiền sư một vái mà quay gót. Động chúa quay sang hỏi Quân sư:

- Hôm nay tôi chịu nhục để thi hành kế của ngài, bây giờ ta phải tính sao?

Quân sư đáp:

- Việc lớn dành phiền Động chúa chịu hạ mình một phen, cố trì hoãn để cho các mặt dàn xếp xong xuôi. Ta cũng phải làm ra vẻ thê lương bi đát, để đến lúc Động chúa giao chiến với Thiền sư ắt làm cho binh Triều nức lòng muốn cướp thành mà quên mọi nguy hiểm, có thế ta mới dụ được binh Triều vào thành mà chết!

Rồi Quân sư truyền nổi trống hiệu, đưa linh cữu Đoàn Phúc Hải ra ngoài thành cửa Đông mai táng. Đám tang Đoàn Phúc Hải cứ dềnh dàng mà đi, từ Động chúa, các tướng đến binh lính Hoa Lư ai cũng quấn khăn đen ở cổ, cúi đầu lặng lẽ theo nhau mà ra ngoài thành.

Quân sư lại truyền quân tế tác hết sức kín đáo dò la binh Triều xem động tĩnh thế nào, phải luôn luôn báo về cho Quân sư hay mọi việc. Trên thành, Quân sư đặt hỏa kị, núp kín các nơi, nếu thấy binh Triều đánh úp phải lập tức dùng tên lửa bắn xuống, lại phải xuất thành làm ra vẻ đã vây được binh Triều vào chỗ chết mà đâm chém. Quân sư đem hết các tướng, sai Quách Nghiệp Đường trông nom việc dân cùng đưa ra cho đông cốt để cho binh Triều không nghi ngờ gì tại sao Hoa Lư lại ít quân như vậy.

Quan tài Đoàn Phúc Hải chôn trên gò Đồng Lượng ngay bên sông Xích Đằng, đầu hướng về Tây, chân duỗi sang Đông. Mả Đoàn Phúc Hải đắp xong, Quân sư đến trước mộ vái ba vái mà rằng:

- Ô hô, ông Đoàn Phúc Hải, dũng tướng chẳng sống lâu, sự nghiệp mới chói lòa đã vụt tắt, trăm năm một chốc thành gió thoảng! Vào lúc thiên hạ sắp tranh hùng, tuấn kiệt đã lánh xa nơi náo nhiệt. Một dao Thủy thủ, một ngựa Á Lôi, xông xáo giữa binh Triều cứu bạn chẳng quản sống chết, hào khi trùm Hoa Lư, khí thiêng nghìn năm chẳng hết! Bây giờ, huynh đệ Hoa Lư còn lận đận, ông yên nằm đây ngoảnh mặt về quê nhà mà đợi ngày đắc thắng, lát nữa đây xem ngọn lửa đỏ đốt thành Ngọc Lũ để nhớ lại kì công đốt quân lương địch ngày nào, tai nghe sóng Xích Đằng mà nhớ lại dòng Sinh Khuyết dìm địch ở Vũ Lâm, Hoa Lư tranh hùng, một tay ông ngang dọc đưa tin truyền lệnh, chẳng quản gian nan gục ngã trước thành, bệnh vừa mới khỏi đã lại lên đường vì nghĩa cả. Ông Đoàn Phúc Hải, nay ông nằm xuống, xa cả anh em, ông lúc sống khôn ắt chết cũng thiêng, chắc thế nào cũng quanh quẩn bên anh em mà giúp rập. Mai sau, Hoa Lư đắc thắng, thu cả thiên hạ về một mối, công đầu nhớ lại chắc phải ghi đến tên ông! Ô hô, tuổi trẻ sớm ra người thiên cổ, tài ba dũng mãnh một chốc thoảng theo mây. Hai mươi bảy tuổi đã vì đại nghĩa bỏ mình tình cảnh ấy kẻ đi người ở xót thương sao kể hết! Thương thay!

Quân sư vái ba vái nữa, mắt đỏ hoe mà lui ra. Động chúa vẻ mặt bi thảm vào lạy trước mồ, lần lượt các tướng cũng đến lạy biệt Hải. Đến tướng Đỗ Mậu Đại, vóc dáng tiều tụy, khắp người còn buộc chằng chịt các vết thương, lê bước đến mồ Đoàn Phúc Hải mà khóc lóc thảm thiết, lại nghiến răng thề rằng: “Thế nào cũng phải tự tay làm chết tướng triều đình Lê Hoạt Hoàng để tạ ơn Hải cứu mạng mà chịu chết như vậy!”.

Đám tang Đoàn Phúc Hải còn đang tiến hành, quân vẫn đều đều báo tin về cho Quân sư biết. Đến lúc trời sẩm tối, tin cho hay: “Binh Triều đã lại kéo đến”, Quân sư làm như chẳng biết, cứ lẳng lặng để cho các cơ ngũ lần lượt đến lạy chào trước mồ Đoàn Phúc Hải, cố ý dềnh dàng cho chậm trễ. Đến lúc trời tối mịt, Quân sư ước chừng binh Triều đã lại gần, lúc ấy mới truyền quân gấp rút chạy về thành, cờ tang cái cuốn cái mở, quân không đóng thành hàng chỉnh tề, các tướng tất tả người cưỡi ngựa người chạy bộ, quang cảnh thật bi đát.

Quả nhiên, tế tác của binh Triều nhìn thấy, vội chạy về báo cho trung quân hay.

Tại trung quân binh Triều, từ lúc Tịch Mịch thiền sư cùng các tướng chia nhau đến hãm thành Ngọc Lũ bị kế “không thành” của Quân sư Hoa Lư làm cho tan cả thế trận, phải tạm lui về. Sau lại được tin Lê Hoạt Hoàng cả thắng ở mạn Bắc, giết một tướng, chém bị thương một tướng khác của Hoa Lư, thì Tịch Mịch thiền sư trong hội có thưa với Nam Tấn Vương rằng:

- Bẩm Vương gia, nay quả thật giặc Hoa Lư sức cùng lực kiệt, chúng có lúc đầu may nhờ nước lửa mà thắng binh Triều, nay Hoàng thượng dẫn quân bày trận, giặc phải bỏ cả Hoa Lư chạy tới thành Ngọc Lũ, tuy dàn quân được suốt một dải để chống lại binh ta, nhưng lại không liên lạc được với nhau, thành ra Ngọc Lũ thế cô, giặc Bộ Lĩnh suýt nữa bị chết. Tôi không hiểu tại sao giặc Bộ Linh trúng độc, mấy lần suýt ngã ngựa ngay trong quân, sau lại còn sống được? Bây giờ, giặc hoang mang, ta nên gấp đưa quân phá thành Ngọc Lũ, đừng để giặc có cơ hội chạy trốn nữa.

Nam Tấn Vượng tuy có thấy tướng Lê Hoạt Hoàng thắng trận ở mặt Bắc, nhưng ba mặt kia lại chẳng làm nên trò trống gì, vương phân vân nửa muốn nghe lời Thiền sư để tiến quân ngay, nửa lại sợ Hoa Lư có mưu mẹo gì. Các tướng thì không ai có lời bàn nào, vì ai cũng biết lỗi “chưa đánh đã tan hàng, mà chạy ắt lâm nguy!” thành thử vì thế chỉ có Nam Tấn Vương với Tịch Mịch thiền sư là tay đôi bàn cãi mà thôi. Tịch Mịch thiền sư nóng lòng với mối thù cũ, cố nói cho xiêu lòng Nam Tấn Vương, rằng:

- Giặc không liên lạc được với nhau, một trận giăng dài từ Ngọc Lũ về đến Hoa Lư không phải là dễ gìn giữ. Bây giờ Vương Thượng xuất binh tốc chiến, không cho giặc có thì giờ cứu nhau, thế nào cũng chiếm được Ngọc Lũ. Tôi lại xin đem quân đi tiên phong phá thành, bắt giặc Bộ Lĩnh.

Nam Tấn Vương cuối cùng nghe theo lời Thiền sư, nhưng Thiền sư tới dưới thành khiêu chiến thấy quang cảnh thê lương, trên thành Đinh Bộ Lĩnh nài nỉ xin có thời giờ chôn cất tướng tử trận, thì lại tin rằng dù chậm vài giờ, đám giặc Hoa Lư cũng không có cơ hội chạy thoát được, bèn tạm lui quân.

Thiền sư báo về trung quân cho Nam Tấn Vương biết sự thể, lại cho quân ra sức dò la tình hình, quân về trình quả nhiên Hoa Lư đưa ma, khóc lóc thảm thiết trước mộ. Đến sẩm tối, Tịch Mịch thiền sư ra lệnh tiến quân, quân do thám lại về cho hay là quân Hoa Lư biết binh Triều tiến đánh, chen nhau chạy trở vào thành, tình thế hỗn độn lắm. Tịch Mịch nghe báo cả mừng, trình về trung quân cho Nam Tấn Vương biết thêm.

Nam Tấn Vương được tin liên miên, tin nào cũng thấy Hoa Lư khốn đốn lúc đầu còn nghi hoặc, sau thì tin chắc là đúng, tiền bảo Tịch Mịch cứ ra quân, lại sai tướng Lê Hoạt Hoàng đem một cánh quân đi che chở cho bên trái Thiền sư, lúc nào Thiền sư đoạt được thành Ngọc Lũ rồi thì phải lập tức đưa quân lên trấn ở mặt Bắc. Nam Tấn Vương lại sai tướng Nguyễn Lạc Bình lĩnh hữu dực che chở cho Thiền sư, lệnh truyền lúc nào Thiền sư vào thành rồi, thì phải tiến lên mặt Bắc hợp với quân của Lê Hoạt Hoàng yểm trợ cho trong thành.

Lệnh truyền xong, Vương bắt đầu chuyển quân tiếp ứng cho Thiền sư ở phía trước. Lúc ấy, trời đã tối mịt.

Tịch Mịch thiền sư đem quân đến trước cửa thành Ngọc Lũ phía Nam, lại truyền quân nhất tề réo tên Đinh Bộ Lĩnh ra mà xỉ vả. Trong thành, đèn đuốc lù mù, trống tuần nện nghe thê thiết. Lập tức, Đinh Động chúa đem các tướng cùng Quân sư lên mặt thành xem xét.

Trong bóng chiều vừa tối, binh Triều chia làm ba đạo tiến lên thật rõ ràng. Hậu quân cờ xí chỉnh tề, rõ ràng là Nam Tấn Vương đóng ở đấy.

Quân sư nói:

- Bẩm Động chúa, bây giờ ta không còn có gì để trì hoãn nữa, Động chúa cứ ra trận cố đánh cầm cự, lúc nào thấy trên thành có hiệu thì cố tìm đường rút về nhé!

Động chúa nghe lời, đem theo tướng Cung Địch Hồng cùng ra trận. Quân sư đứng trên thành cao xem xét trận thế.

Lập tức, trống đồng giục rền rĩ, mười lực sĩ mình trần cổ tay buộc dải vải đen vươn mình đứng dậy, hai mươi cánh tay như sắt nguội nện xuống mặt trống ầm ầm như sấm lăn trên trời. Lửa đuốc đằng sau mười dũng sĩ, khiến cho vóc dáng mười dũng sĩ lồ lộ cực uy nghi hùng vĩ.

Cửa thành mở ra, Động chúa giục ngựa đi đầu, thanh đại phủ lăm lăm trong tay, cánh tay Động chúa tròn mà dài như khúc mình trăn gió cực kì vững chắc. Binh Hoa Lư xuất thành, đuốc thông soi tỏ cả một vùng. Vóc dáng Động chúa vừa oai nghiêm vừa nhanh nhẹn, binh Hoa Lư ai cũng có mảnh khăn đen quấn ở cổ. Quân ra khỏi cửa thành rẽ làm hai, một nửa theo Động chúa xông thẳng vào trận, một nửa theo tướng Cung Địch Hồng rẽ sang bên phải mà yểm trợ.

Đối trận, Tịch Mịch thiền sư trụ ngựa, cây chày thiết mộc lăm lăm trong tay, Thiền sư vừa thấy Động chúa đã ngửa cổ cười như ma khóc mà rằng:

- Bớ Bộ Lĩnh mi không chết vì độc Chòm Mo của ta ư? Bây giờ mới đến nộp mạng, ắt không còn có gì ân hận nữa chứ?

Động chúa cười vang mà rằng:

- Độc Chòm Mo của ngươi, chỉ hại được ma tăng các ngươi mà thôi, làm sao lại hại chính nhân được!

Tịch Mịch thiền sư giận run lên, huơ cây chùy thiết mộc giục con Lăng Tiêu vọt lên, cây chùy thúc thẳng vào ngực Động chúa. Động chúa chưa kịp phản ứng, tướng Cung Địch Hồng đứng bên cạnh đã vươn ngọn thiết tiên nhanh như chớp quật vào cây chùy. Cây thiết tiên như vòi bạch tuộc cuốn ngay cây chùy mà cản lại, Cung Địch Hổng quát:

- Ma tăng không được vô lễ! Hãy đấu với ta trăm hiệp xem sao đã!

Dứt lời, ngọn thiết tiên bật mở ra, một thế “Sơn Ca Đuổi Mây” như lằn chớp toan vọt lên cuốn lấy cổ Thiền sư, Thiền sư vừa giật mình, cử cây thiết mộc chùy lên gạt ngọn roi sắt. Nào ngờ cây roi sắt trong tay Cung Địch Hồng từng có tài chế ngự cọp dữ, quật chết cả đười ươi, vì thế Động chúa rất yêu tài Hồng mà cho đi bên cạnh để hộ vệ, nay Thiền sư vừa cử chùy lên toan phá thế “Sơn Ca Đuổi Mây", lập tức cây thiết tiên quẫy lộn lằng nhằng cực nhanh biến sang thế “Lạc Vương Mở Nước” vòng từ trên cao quật như chớp giật xuống vai bên phải Thiền sư.

Thiền sư kinh hãi, giục ngựa Lăng Tiêu vọt lên tránh đường roi, thuận đà cử chùy nhằm giữa đỉnh đầu Động chúa đang khoanh tay trụ ngựa xem trận đấu. Ngọn chùy thiết mộc vừa giơ lên, Thiền sư chưa kịp giáng xuống thì đằng sau Cung Địch Hồng đã vọt ngựa lên cây roi sắt vươn ra “vút” một tiếng quấn ngay lấy cây chùy. Cung Địch Hồng quát lớn: “Buông!” rồi vận sức giật mạnh thiết tiên lôi băng cây thiết mộc chùy khỏi tay Tịch Mịch thiền sư. Việc xảy ra mau quá, Thiền sư không ngờ tướng Hoa Lư tài nghệ lại tuyệt vời đến như vậy.

Tướng Cung Địch Hồng giật được cây chùy tuột khỏi tay Thiền sư, liền thu roi vươn tay toan chộp lấy cây chùy. Động chúa thấy vậy vội quát lớn lên: “Chớ!” Cung Địch Hồng Vội rụt tay về cây chùy rời khỏi ngọn roi sắt, đúng lúc ấy Thiền sư vọt ngựa Lăng Tiêu lên hết sức mau lẹ, chụp lấy cây chùy.

Tịch Mịch thiền sư trán lấm tấm mồ hôi. Cung Địch Hồng hồi mã toan giao đấu nữa với Thiền sư, Động chúa đã rút cây đại phủ giục ngựa lướt lên cản Cung Địch Hồng lại, Động chúa cười chọc tức Thiền sư:

- Bớ Tịch Mịch thiền sư, sao ông lấy hiệu là “Tịch Mịch” mà lại để cho lòng sôi nổi đến thế. Bây giờ ta cho ông cái vinh dự chết vì tay Hoa Lư Động chúa, chứ không đến nỗi phải uất hận thua vì tay roi sắt của tướng thuộc hạ ta nhé!

Tịch Mịch thiền sư gầm lên một tiếng uất hận, cây thiết mộc chùy nện vào chiếc mõ kỳ dị nghe tưởng đứt màng nhĩ, rồi Thiền sư thúc ngựa xông lên hỗn chiến với Động chúa. Cung Địch Hồng giắt ngọn roi sắt vào thắt lưng, quan sát chiến trận, hô quân giơ cao đuốc, sẵn sàng cung tên để cản binh Triều.

Tịch Mịch thiền sư với Động chúa đấu vùi với nhau một hồi, chưa bên nào thắng bại, thì hậu quân binh Triều mở ra, một tướng cưỡi con ngựa đen cao lớn dẫn một đạo quân vòng sang phía Tây bọc lấy tả dực binh Triều; ở phía bên phải, lại có một cánh quân nữa cũng do một tướng dẫn đầu tiến lên đi vòng phía Đông ép binh Hoa Lư vào giữa.

Động chúa vừa đấu với Thiền sư, vừa thấy tình thế, nhưng không có cách gì để nhất thời đánh thắng Thiền sư được. Bên ngoài, Cung Địch Hồng thấy binh Triều tiến hai mặt vây quân nhà, trong lòng cũng lo lắng lắm, chưa biết phải đối phó thế nào.

Ở mặt Tây, tướng cưỡi ngựa đen chính là Lê Hoạt Hoàng, Hoàng giục ngựa vào trận thanh gươm dài vươn ra trước, nhằm giữa ngực Cung Địch Hồng xỉa tới. Địch Hồng bật nhớ ra lời Đỗ Mậu Đại và Chu Kỷ Toàn nói là “tướng triều đình cưỡi con ngựa đen cao lớn giết Đoàn Phúc Hải, đả thương Đỗ Mậu Đại”, tự nhiên trong lòng Hồng sôi sục cố nén giận mà quát lên:

- Tướng kia, có phải mi giết huynh đệ ta, lại đả thương tướng nữa phải không?

Lê Hoạt Hoàng dừng vó ngựa, ngó mặt Cung Địch Hồng rồi bật cười vang đắc chí:

- Phải, chính ta giết một thằng giặc, đâm một thằng nhiều nhất chỉ tiếc là nó chưa chết hẳn đấy!

Cung Địch Hồng nghe Lê Hoạt Hoàng cười nói đắc chí, lửa giận bừng bừng, thù Đoàn Phúc Hải bỗng dâng cao, Hồng chẳng nói chẳng rằng rút cây roi sắt giục ngựa lăn xả vào Lê Hoạt Hoàng mà đánh. Lê Hoạt Hoàng chưa biết tướng Hoa Lư tài nghệ ra sao, chỉ thấy ngọn roi sắt lên xuống nhanh như chớp giật, quạt gió rít lên như bão thổi qua cành lá bao bọc khắp nơi khiến cho Hoàng không làm sao tiến lên được, Hoàng trong lòng chẳng khỏi kinh hãi.

Cung Địch Hồng người đất phủ Trường An, lúc nhỏ hay vào trong hang núi Gối ở huyện Phụng Hóa để nghịch ngợm, trong hang có đền thờ Giao Thần (thần Thuồng Luồng). Hồng khoe là được Giao Thần lấy gân lưng làm khí giới dạy Hồng vũ nghệ, vì thế phép đánh roi của Cung Địch Hồng lạ lùng chẳng ở đâu có, lúc xử rồi có thể khiến cho cây roi sắt lúc mềm nhũn như vệt nước, lúc lại hùng dùng như côn sắt, ngọn roi ào ạt có khi như nước lũ về xuôi, có khi lại uyển chuyển lững lờ như dải lụa.

Tướng Lê Hoạt Hoàng xông pha chiến trận, tài nghệ cao siêu, nhưng ít khi lại được đấu với những anh hùng hảo hán lạ lùng như trong lần xuất quân chinh phạt Hoa Lư này. Hoàng giao chiến với các hảo hán Hoa Lư gặp mỗi người một tài riêng, đặc sắc thì có đặc sắc nhưng chưa hề gặp ai lại có phép xử binh khí lạ lùng như Cung Địch Hồng.

Lê Hoạt Hoàng thận trọng lùi ngựa trở lại, vươn trường kiếm vận thức “Nước Chảy Vào Hang” trong thương pháp hợp với thế “Lạc Long Chia Con” của kiến pháp, lưỡi kiếm phóng ra xoáy như trôn ốc bay tới ngực địch thủ, trong thức “Loa thương” của ngọn kiếm lại bàng bạc ánh kiếm rong hai phía tả hữu, chia ra làm hai mặt che chở cho thức “Nước Chảy Vào Hang” mà công kích địch thủ, Cung Địch Hồng không biết đâu là hư thực, đâu là thế công thực của ngọn kiếm trong tay tướng triều đình, nghĩ chưa dứt đã thấy mũi kiếm bay tới, lại thấy gió từ lưỡi kiếm bốc ra rung rinh ẻo lả nhưng mười phần nguy hiểm, liền cử thiết tiên đánh ra một thế “Thuồng Luồng Đùa Sóng”, ngọn roi bay chếch từ dưới lên trên, nửa thân roi phía ngoài mềm nhũn, nửa phía trong nội lực phổ vào có sức đổ được thành, xô được núi. Ngọn roi bay lên ẻo lả theo với gió kiếm mà quyện lấy mũi kiếm, nửa thân rơi phía trong ào ạt xốc tới đập như ngọn côn sắt giáng vào ngực Lê Hoạt Hoàng.

Một thế đánh ra, Cung Địch Hồng vừa phá được cả thương pháp lại vừa vượt qua được thế bao bọc của kiếm pháp, phản kích dữ dội khiến cho Lê Hoạt Hoàng vã mồ hôi. Lê Hoạt Hoàng vọt ngựa giạt về một bên, thanh kiếm thần tốc bay ra một thế “Chim Sẻ Xuống Cành” theo với đà vặn mình của Lê Hoạt Hoàng chém bổ xuống cổ tay Cung Địch Hồng. Khí thế Lê Hoạt Hoàng cực mạnh và nhanh, đẹp vô cùng, Cung Địch Hồng thấy tướng triều đình giạt ngựa tránh lăn roi, lại vặn mình trở lại phản kích một kiếm cực nhanh, trong lòng phục quá miệng bật khen:

- Giỏi lắm!

Tiếng khen chưa dứt, Hồng đã uốn cổ tay gập lại, cây roi như sợi dây mây mềm nhũn tung lên lằng nhằng đỡ lấy lưỡi kiếm. Thiết tiên bung ra như muôn vàn sợi dây mềm nhũn cuốn lấy gươm của Lê Hoạt Hoàng. Hai tướng cuốn vào nhau đánh vùi, càng đánh càng dữ dội chưa ai thua ai nửa bước.

Đằng kia, Đinh Động chúa giao đấu với Tịch Mịch thiền sư cũng thật là dữ dội. Một bên cây đại phủ lớn bằng chiếc quạt nan lên xuống loang loáng thật khốc liệt, một bên cây chùy thiết mộc tuy ngắn nhỏ nhưng lại rất vững vàng, hai khí giới quyện lấy nhau đâm chém bổ quật không ngừng.

Động chúa vừa đánh vừa thầm khen tài nghệ của Tịch Mịch. Tịch Mịch thì nóng lòng muốn hạ cho kỳ được Bộ Lĩnh mau mau. Bộ Lĩnh ung dung đón đỡ đòn của Thiền sư, cố ý giằng dai để đợi lệnh trên thành.

Lúc ấy, ở phía Đông tướng Nguyễn Lạc Bình cũng xua quân ào tới, Bình thấy Lê Hoạt Hoàng đấu với một tướng Hoa Lư, thì liền rẽ ngựa chạy tới chỗ Thiền sư đang đấu với Động chúa Hoa Lư. Nguyễn Lạc Bình là Hữu tướng quân của binh triều trong cuộc Nam phạt Hoa Lư này, Bình giỏi phép đánh mã tấu. Thanh mã tấu của Bình ngắn mà to bản nặng ngoài năm mươi cân, lưỡi thép đen bóng có thể soi gương được.

Bình thấy Thiền sư đánh với Động chúa Hoa Lư chưa hơn một thế nào, liền thúc ngựa xông vào quần chiến. Thế là Tịch Mịch thiền sư với cây chùy thiết mộc hợp với hắc thiết mã tấu của Nguyễn Lục Bình dồn Động chúa vào thế phải chống đỡ hai mặt thật ráo riết. Hễ Thiền sư công phía trên, thì Nguyễn Lạc Bình kích phía dưới, hai người ăn ý với nhau cứ áp đảo Động chúa thật kín, khiến cho động chúa phải thực sự chống cự vô cùng khó khăn.

Trên thành Ngọc Lũ, trống đồng vẫn ầm ầm, Quân sư về nhàn nhã xem trận đánh khốc liệt trong ánh đuốc dưới thành. Quân sư thấy: nếu đánh lâu, thì phía Hoa Lư bất lợi, nhưng cũng lại cần phải để cho phía Hoa Lư đến khi nguy cấp mới được triệt binh, có thế thì mới mong không làm cho Thiền sư nghi ngờ.

Đằng xa, trung quân của Nam Tấn Vương cũng lại gần, rồi hậu quân mở ra để cho Nam Tấn Vương dẫn các tướng hộ giá giám trận.

Dưới thành, năm tướng giao chiến cực hăng, quân reo dậy đất, lửa đuốc sáng cả một vùng. Đánh thêm hồi nữa, Động chúa Hoa Lư bây giờ chỉ còn có thể thủ, trong lòng Động chúa lo lắng, thỉnh thoảng liếc nhanh mắt nhìn lên phía mặt thành vẫn không thấy có hiệu gì mới. Phía Cung Địch Hồng đấu với Lê Hoạt Hoàng ngang tài, càng đánh hai tướng càng trổ thêm tài nghệ, đấu đến độ quên cả hận thù mà khoan khoái phô diễn sở học như để ẩn chứng vũ nghệ của nhau.

Trời đêm về khuya, quân hai bên sát phạt nhau tơi bời, trống trận ầm ầm đuốc sáng rực. Trên thành cao, Quân sư vẫn lặng lẽ giám trận, Quân sư nghĩ: “Một trận đánh này, không cốt lấy thắng nhưng cốt mở đường để trá bại, đánh như vậy cũng đủ khích binh Triều rồi, bây giờ nên tạm hoãn”. Quân sư vừa nghĩ xong, chợt quân lên bẩm:

- Bẩm Quân sư, tướng Mạc Sa Cảnh đưa lệnh đi các mặt trận đã về rồi, hiện còn đợi lệnh.

Quân sư cả mừng vội truyền tướng Cảnh lên mặt thành ngay. Mạc Sa Cảnh lên mặt thành gặp Quân sư trình:

- Bẩm Quân sư, tôi mang lệnh đến các nơi, các ông ấy đã theo đúng lời Quân sư dạy đâu vào đấy cả rồi, nay đợi chờ để hành động đúng theo kế của Quân sư.

Quân sư vui vẻ:

- Ông Cảnh, ông vất vả quá, việc quân như vậy là nhờ ở ông lắm đấy. Ông xem, chiến trận dưới kia dữ lắm, nhưng hai bên đều mệt cả rồi, bây giờ ta nên cho quân tạm nghỉ đợi đánh trận thứ hai mới được.

Mạc Sa Cảnh dạ một tiếng, rồi thuật lại công việc ở các nơi, xong việc Cảnh về thành cửa Bắc như thế nào, mọi việc tốt đẹp cả. Quân sư nghe trình trong lòng hoan hỉ lắm chưa kịp ra lệnh thu quân, thì lại có quân lên bẩm:

- Bẩm Quân sư, có tin của tướng Phạm Cự Lượng trình về. Quân sư cho gọi quân liên lạc lên hỏi việc, quân lên rồi thưa:

- Bẩm Quân sư, tướng quân Phạm Cự Lượng sai trình về Quân sư rõ: đường dẫn nước Xích Đằng đã bắt đầu tiếp với đường khơi của tướng Chu Kỷ Toàn từ mặt Nam lên. Khoảng giữa giờ Tí thì mọi việc xong xuôi, đầu Sửu có thể dùng được rồi.

Quân sư vui xiết kể, truyền quân trở về báo cho Phạm Cự Lượng biết: “Khi nào thấy hỏa lệnh màu xanh, phải lập tức phá bờ không cho nước vào rãnh nữa!” Quân lĩnh mệnh đi ngay.

Nhìn xuống dưới thành, quân hai bên quấn vào nhau mà đâm chém. Quân sư liền bảo tướng Vương Bảo Quyền hãy xuất trận, không cần đem thêm quân, cốt sao làm rối loạn kinh Triều rồi đợi lệnh giúp Động chúa đem binh về.

Quyền dạ lớn một tiếng, truyền quân khai pháo, mở toang của thành, Vương Bảo Quyền một ngựa xông ra, khí thế uy mãnh vô cùng. Cây chùy gai trong tay Vương Bảo Quyền múa lên như gió giật sóng xô, phá binh Triều mạnh không gì có thể cản nổi. Vương Bảo Quyền người ở An Bản, Châu Trường An, thuở nhỏ cùng bọn với Bộ Lĩnh hay lấy sừng trâu làm khí giới, lúc lớn lên vứt bỏ rừng trâu, chọn chỗ thân cây chìa làm nhiều nhánh đẽo làm khí giới, rồi sau lại lấy sắt đúc một cây chùy dài ba thước đầu có gai lởm chởm làm khí giới ra trận. Quyền có tài lạ: lúc vào trận, thường bỏ ngựa đi bộ mà đấu với tướng địch, ngọn chùy gai tung hoành làm cho địch không làm sao đương cự nổi.

Bây giờ Vương Bảo Quyền xuất trận, cây chùy gai đập lia lịa, binh Triều chết không kịp la, Quyền xông thẳng đến chỗ Động chúa mà tiếp chiến.

Lúc ấy, Động chúa Hoa Lư vừa đỡ xong một mã tấu của tướng Nguyễn Lạc Bình, thì từ bên trái cây chùy thiết mộc của Tịch Mịch thiền sư đã lia tới ngang sườn. Đinh Bộ Lĩnh uốn người cử cây đại phủ chặn lấy ngọn chùy, thừa đà vươn búa chém ngang sườn tướng Nguyễn Lạc Bình, Bình thúc ngựa lùi hẳn lại ba bốn bước mà tránh. Bình chưa kịp định thần đã nghe tiếng quát như sấm mà rằng:

- Chết này!

Thì ra Vương Bảo Quyền đã xông tới, Quyền thấy tướng triều đình lui ngựa tránh lưới đại phủ của Động chúa liền giục ngựa lướt tới vận sức cử cây chùy gai tận lực đập xuống đầu Bình. Tịch Mịch thiền sư đánh hụt một đòn, lại thấy Nguyễn Lạc Bình bị công kích một đòn, liền vọt ngựa lên đúng lúc Vương Bảo Quyền xô tới, Thiền sư không còn thì giờ đón đánh với động chúa Hoa Lư, cũng quát lớn một tiếng chát chúa phóng cây chùy thiết mộc tận lực đỡ cây chùy gai của Vương Bảo Quyền mà cứu Nguyễn Lạc Bình bàng hoàng. Động chúa thấy có thêm tướng tiếp trận liền giục ngựa băng lên áp đảo Nguyễn Lạc Bình.

Vương Bảo Quyền một chúy đánh ra, những tưởng đập nát đầu tướng triều đình, nào ngờ bị Tịch Mịch thiền sư trong lúc gấp rút vẫn kịp cứu Nguyễn Lạc Bình thoát chết, Quyền giận tưởng đến dứt ruột ra được, liền hét lên một tiếng như cọp bị thương, buông cương phóng mình qua đầu ngựa mà xuống đất. Chân Quyền chưa chạm đất ngựa Lăng Tiêu cũng vừa vọt đến, Tịch Mịch Thiền sư lỡ bộ không công kích được tướng địch trên lưng ngựa nữa.

Thừa lúc vào sát địch, Vương Bảo Quyền cử cây chùy gai tận lực tung hoành, lăn xả vào ngựa Tịch Mịch thiền sư mà đánh. Thiền sư không có cách nào để địch lại được Quyền, đành cứ lui ngựa tránh, chỉ sợ con Lăng Tiêu trúng phải một chùy của tướng Hoa Lư ắt táng mạng. Vương Bảo Quyền được thể, lúc tấn công vào con Lăng Tiêu, lúc lại bất thần vọt lên đánh Thiền sư. Trong đời Thiền sư chưa bao giờ lại gặp phải tướng dị kì như lần này. Thiền sư đành giục ngựa chạy quanh.

Nguyễn Lạc Bình vừa thoát chết, đã lại bị Động chúa Hoa Lư tiến đánh tơi bời, dần dần Bình thấy thất thế, chỉ mong tìm đường thoát thân. Bình ngó ra, thấy Thiền sư cũng đang vất vả giạt ngựa tránh một tướng Hoa Lư đi bộ áp đảo dữ dội. Hoa Lư Động chúa thấy tình thế như vậy, trong lòng cả mừng, lại nhớ lời dặn của Quân sư liền lơi tay đánh với tướng triều đình, chỉ sát phạt binh Triều mà đợi chờ.

Đằng kia Lê Hoạt Hoàng đánh với Cung Địch Hồng vẫn ngang ngửa, nhưng ngó ra thấy quân nhà tán loạn thì biết rằng không xong, trong lòng cũng chẳng ham đánh lâu, liền tìm cách thu quân là hơn.

Hai bên còn chưa biết phải làm sao, một bên đợi lệnh trên thành, một bên chưa giữ được cho quân khỏi vỡ, thì tai đã nghe tiếng trống lệnh ở trung quân của Nam Tấn Vương thúc vang báo hiệu lui quân. Cùng lúc ấy, trên thành Ngọc Lũ trống đồng cũng im tiếng, trống lệnh thu quân cũng nổi lên.

Thế là, các tướng vội đoạn chiến, bên nào cũng thấy ngưng chiến là phải lắm. Nhờ vậy, không bên nào cho rằng mình bị thua!

Tại trung quân binh Triều, Nam Tấn Vương hội các tướng để bàn việc. Tịch Mịch thiền sư nói trước:

- Bẩm Chúa thượng, cứ tình hình này, thêm trận đánh vừa rồi, thì rõ ràng là giặc sức yếu lắm rồi. Tôi chắc là giặc đang toan tính mưu kế gì đây. Nếu giặc mạnh, thì một là đã không năn nỉ ta hưu chiến, hai là đã dàn quân các mặt để tranh thắng với ta. Nay giặc chỉ tiếp chiến vừa phải chứ không dám tranh thắng thực sự, tức là giặc đang chuẩn bị mưu kế. Vậy, ngay trong đêm hôm nay ta phải tiến binh hạ thành Ngọc Lũ, cho chúng không kịp trở tay mới được.

Tướng Lê Hoạt Hoàng cũng tâu:

- Tâu Chúa thượng, quả thật binh Hoa Lư không đông. Một là giặc kiệt sức, hai là đang dàn xếp để bày mưu đấy. Giặc kiệt sức thì nhất định là kiệt sức rồi, còn mưu kế thì không biết được. Tịch Mịch thiền sư nói rất phải, bây giờ ta nên cho quân tạm nghỉ ngơi, đợi hạ thành Ngọc Lũ ngay trong đêm hôm nay mới được, đừng để cho giặc kịp thì giờ chuẩn bị.

Nam Tấn Vương pháp:

- Hôm nay, giặc dụng kế “không thành”, dùng kì binh để phá quân ta, rồi lại năn nỉ xin hưu chiến lấy cớ là để ma chay cho tướng giặc bị giết, tới lúc ra trận giặc không có ý tranh thắng thực sự quang cảnh ấy ta cũng đã nhìn thấy. Vậy, trước hết phải hỏi là: tại sao giặc thắng ta một trận rồi lại phải dùng đến hư binh để nhất thời cản quân ta, tại sao lại năn nỉ xin hoãn chiến, tại sao không cố tình tranh thắng? Ta thấy: giặc còn sức, chứ chưa kiệt; nhưng giặc đang sửa soạn mưu kế đấy! Các ngươi nói đúng, giặc đang sửa soạn mưu kế. Vậy việc tiến binh ngay trong đêm hôm nay có cái lợi, mà cũng có cái không lợi.

Tịch Mịch thiền sư nóng nảy hỏi:

- Chúa thượng bảo chổ nào là có lợi, chỗ nào không có lợi?

Nam Tấn Vương chậm rãi:

- Nếu giặc kiệt sức thật, ta hạ thành Ngọc Lũ đêm nay, sớm lúc nào hay lúc nấy. Nhưng nếu giặc chưa kiệt sức mà lại dùng sức để dàn trận bày mưu, thì ta tiến quân vội quá ắt sa vào mưu kế của giặc.

Tịch Mịch thiền sư nói luôn:

- Như vậy, ta càng phải tiến quân sớm, giặc kiệt sức chẳng nói làm gì, nếu giặc còn sức thì tức là ta không để cho mưu kế của giặc có cơ dàn xếp xong.

Hội nghị bàn tán, rồi cũng quyết định hạ thành Ngọc Lũ ngay trong đêm hôm nay. Nam Tấn Vương truyền Tịch Mịch thiền sư mang quân khiêu chiến, lại sai tướng Lê Hoạt Hoàng đi theo giúp đỡ. Vương truyền các tướng hộ giá Vương ở trung quân, đợi lúc Tịch Mịch giao chiến với quân Hoa Lư thì hậu quân do Vương thống lĩnh vượt đường lén cướp thành. Các tướng nghe lệnh, ai cũng nô nức. Quân được nghỉ ngơi đến cuối giờ Tí thì bắt đầu lên đường.

Trong thành Ngọc Lũ, Động chúa đem quân trở về, lập tức Quân sư mời vào nghị sự ngay.

Quân sư bảo:

- Trận đánh chiều hôm nay, tuy hai bên chưa thua nhưng ta cần lui quân để kín tình thế. Thế nào đêm nay bình Triều cũng đánh thành, Tịch Mịch thiền sư là tay đáo để, y biết ta không mạnh, y nóng lòng muốn đánh. Còn Nam Tấn Vương giám trận ở trung quân, không dám cho thêm tướng ra trận mà lại giục tướng thu quân, rõ ràng là còn hồ nghi chưa tin hơn Tịch Mịch, sợ rằng ta có phục binh. Nhưng Nam Tân Vương thế nào cũng nghe lời Tịch Mịch để tiến binh đêm nay. Vậy, ngay bây giờ quân phải nghỉ ngơi, Động chúa cũng sửa soạn để giao chiến trận nữa, đến lúc cần tôi sẽ nổi hiệu, Động chúa cứ giả tảng thua trận, rút lui, cố để cho địch theo ta chứ đừng làm địch nghi ta.

Tướng Vương Bảo Quyền vội nói:

- Bẩm Động chúa, bẩm Quân sư, đêm nay ra trận, xin cho tôi được giết Tịch Mịch thiền sư có được không? Tôi đánh với y mới được vài hiệp chưa ra sao cả thì đã phải lui quân rồi, tức lắm!

Quân sư mỉm cười mà rằng:

- Ông đừng vội nóng, Tịch Mịch thiền sư không phải là kẻ dễ trị đâu, chẳng qua là ông xung trận kỳ quặc quá nên y chưa kịp trở tay đấy. Lần sau gặp y tất ông bị y làm khó cho mà xem!

Động chúa bảo:

- Thế Quân sư đã được tin của các mặt khác chưa?

- Bẩm, tôi được tin cả rồi. Bây giờ tôi đi xem xét công việc, Động chúa cứ đi nghỉ nếu địch có đến khiêu chiến mà tôi chưa về Động chúa cứ nghênh chiến nhé.

Động chúa y lời, truyền quân nghỉ ngơi, trên thành cứ tiếp tục canh gác cẩn thận đợi binh Triều.

Quân sư rời đại sảnh, đem theo vài tên quân đi ra cửa thành phía Đông xem xét công việc. Quân sư vừa ra khỏi thành, binh Triều đã lại kéo đến khiêu chiến.

Việc ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—