Hồi Thứ Năm Mươi Tha Tấn Vương bảo toàn thế lớn
Nghe quân sư cử sứ điều đình
Tướng Nguyễn Lạc Bình lại hấp tấp quay vào lập cập tâu:
- Tâu Chúa thượng, bây giờ thì tình hình rõ ràng lắm rồi! Giặc vây ta không hở một mặt nào, suốt từ Bình Lục vòng sang phía Bắc Mỹ Cầu, xuống đến Cổ Viên, giặc đều đóng quân kín cả. Đằng sau lưng ta là thành Ngọc Lũ cháy thành than, chung quanh ta là rừng lau sậy ở nơi đất trũng, giả sử giặc lại đốt một mồi lửa nữa thần e quân ta không còn chỗ thối lui!
Nam Tấn Vương nghe tâu, lặng người nhìn các tướng. Vua tôi ngẩn ngơ nhìn nhau ai cũng sợ sệt. Vương thở dài một tiếng, truyền tướng Nguyễn Lạc Bình hãy ra tiếp tục việc tuần canh, rồi Vương bảo các tướng:
- Cái thế của ta lúc này không còn chỗ tiến, thoái cũng khó lòng! Bây giờ chỉ còn có một đường là đầu hàng giặc!
Nam Tấn Vương ngừng nói, Vương đưa mắt nhìn khắp các tướng một lượt, không tướng nào ngẩng đầu lên. Vương chậm chậm phán tiếp:
- Không làm gì có việc vua lại đi hàng giặc! Vậy thì, một là phải tiễu trừ cho đến tận gốc rễ giặc, hai là phải tìm cách nào để lui binh được an toàn.
Các tướng nghe Vương phán, nhẹ thở dài, tất cả như vừa trút dược gánh nặng nghìn cân đè lên vai lên ngực. Vương lại bảo:
- Các mặt giặc vây ta thật, nhưng cũng không phải là không có đường cho ta đi. Bên kia Xích Đằng là Đằng Châu, dù rằng Đằng Châu có giặc Phạm Phòng Át, nhưng bản triều vẫn còn quyền cai trị cả cõi Giao Châu, thì Đằng Châu vẫn là đất đai của ta mà thôi. Như thế, ta đem binh sang sông vào Đằng Châu là tìm dược thế đương cự với giặc Hoa Lư. Đằng Châu đất rộng, dân đông, giàu có, ta có thể mau chóng phục hồi sức mạnh mà đánh giặc. Các tướng nghĩ thế nào?
Các tướng nghe Vương phán, luận rõ mọi việc không ai là không mừng, tướng Lê Hoạt Hoàng tâu:
- Tâu Chúa thượng, lời vàng ngọc quả là cao siêu, hạ thần nghe thấy như có thần linh chỉ lối cho. Như vậy, việc quân ta sang sông vào Đằng Châu là đúng lắm, hạ thần xin được lĩnh mệnh lo liệu đưa quân sang sông!
Tướng Đặng Ngọc Hợp hỏi:
- Đại tướng Lê Hoạt Hoàng xin lĩnh mệnh của Chúa thượng đưa quân sang sông là điều rất phải, nhưng Đại tướng định làm cách nào để quân ta vượt được Xích Đằng đây?
Nam Tấn Vương nhẹ nhẹ gật đầu, đại tướng Lê Hoạt Hoàng đáp:
- Bây giờ, thì giờ của ta gấp rút quá rồi, ta không còn thư thả để đóng thuyền kết bè được. Vả chăng, nơi đây nhà cửa không có, rừng xa xôi, không thể lấy lau sậy kết mảng vượt sông được. Tôi được biết: Ở Ngọc Cầu, giặc Phạm Phòng Át có lập thủy trại lớn. Nay ta đánh chiếm thủy trại ấy lấy đường sang Đằng Châu là hay nhất!
Các tướng khẽ xì xào, ai cũng tỏ ý tán thành ý kiến của tướng Lê Hoạt Hoàng. Nam Tấn Vương tươi nét mặt mà rằng:
- Hay lắm, nếu đánh thủy trại Ngọc Cầu của giặc Phạm Phòng Át, chắc cũng chẳng khó khăn gì. Vậy ngươi định quân ta phải tiến ra sao?
Lê Hoạt Hoàng nét mừng hiện trên mặt, trịnh trọng tâu:
- Tâu Chúa thượng, việc đánh thủy trại Đằng Châu hạ thần xin được cầm quân phá giặc, việc chắc không khó. Nhưng thần thiết nghĩ: cái khó là ta phải làm sao để từ bây giờ đến lúc sang được sông vẫn không bị giặc Hoa Lư quấy phá ngăn cản. Lúc này giặc vây hãm ta tất chúng nó không để cho ta muốn làm gì thì làm. Vả lại, Chúa thượng có phán là trong quân của giặc Hoa Lư có kẻ tài giúp dỡ, tất nó cũng có thể biết được ý định của ta. Cái khó là ở chỗ đó, xin Chúa thượng phát lạc thánh ý để chúng hạ thần hành động.
Nam Tấn Vương lại gật gật đầu suy nghĩ, các tướng lại có vẻ lo lắng. Giây lát, Vương phán:
- Khanh nói rất đúng, tất khi giặc vậy ta chúng nó cũng có dự định cả rồi. Nhất cử nhất động của ta chúng nó phải dòm ngó, ý định sang sông của ta tất chúng nó phải ngăn cản. Từ đây đến Ngọc Cầu đường không xa, vậy tướng Lê Hoạt Hoàng lĩnh một nghìn quân, tùy tiện đem theo các tướng nào tiện dụng, tiến đánh cố chiếm lấy thủy trại Ngọc Cầu. Ta mang đại quân cùng các tướng đón đỡ các mặt làm thế yểm trợ.
Lê Hoạt Hoàng lĩnh mệnh, xin thêm các tướng Thái Đạo Tường, Nguyễn Lạc Bình và Hoàng Hữu Nhạc đi lấy thủy trại Ngọc Cầu của Đằng Châu. Còn lại đại quân, Nam Tấn Vương cử Ngự tiền trung quân Đặng Ngọc Hợp giữ cờ lệnh.
Thế là, binh Cổ Loa lập tức nhổ trại, lại hết sức kín đáo để quân Hoa Lư không biết.
Lại nói đến việc Hoa Lư sau trận hỏa thiêu thành Ngọc Lũ.
Quân sư đứng quan sát thành Ngọc Lũ đỏ lửa một hồi, tai nghe tiếng trống đồng còn đập trên thành thì lấy làm lạ. Hồi lâu, Quân sư mới đem các tướng Chu Kỷ Toàn, Hồ Tường Thụy cùng lên cả Bình Lục gặp Động chúa.
Lên đến Bình Lục, cũng vừa lúc hai tướng Cung Địch Hồng và Vương Bảo Quyền đem đám quân từ thành Ngọc Lũ kéo lên. Quân sư gặp lại Động chúa, nghe Động chúa kể lại việc tranh đấu với Tịch Mịch thiền sư, rồi nhớ lời dặn của Quân sư bỏ thành mà đi. Động chúa nói thêm:
- Khi thành đỏ lửa, tôi cũng thấy mạn phía Tây lửa đốt dài một vệt ghê lắm, thế là mặt Tây cũng xong rồi. Sau, tôi lại được tin các mặt các tướng cũng hành động đúng cả, chỉ còn mặt phía Nam không biết tướng Đinh Điền hiện giờ đóng đâu?
Quân sư vui vẻ đáp:
- Bẩm Động chúa, như thế thì mọi dàn xếp không có chỗ sai lạc, tôi chắc lúc này tướng Đinh Điền cũng vượt thành Ngọc Lũ lên phía Bắc, bám vào sau lưng binh Nam Tấn Vương đợi lệnh của ta rồi.
Quân sư vừa dứt lời, quân vào bẩm: “Hai tướng Trịnh Tú, Lưu Cơ, đã mang quân đến Bình Lục đợi lệnh”. Quân sư vui vẻ quá, nói với Động chúa:
- Bẩm Động chúa, hai hổ tướng cũng đã tới rồi. Ngọc Lũ ra than là việc đáng tiếc, nhưng một thành nhỏ tàn để lập thế lớn lúc này cũng không nên ân hận nhiều làm gì!
Rồi Quân sư sai tướng Hồ Tường Thụy ra mời các tướng Trịnh Tú, Lưu Cơ vào. Một lát, các tướng vào đầy đủ, Quân sư hoan hỉ cùng ngồi, rồi nói:
- Bẩm Động chúa, việc đốt thành Ngọc Lũ xong rồi, nhưng chưa biết kết quả ra sao. Chỉ có hai tướng Cung Địch Hồng, Vương Bảo Quyền là biết một ít, vậy xin để hai tướng thuật lại.
Hai tướng Cung Địch Hồng và Vương Bảo Quyền lần lượt thuật lại mọi việc, ai nghe cũng xuýt xoa, đến đoạn hai tướng thấy Tịch Mịch thiền sư đi trong biển lửa, mặt mày máu me, cười như điên đập trống rồi mất hút giữa vùng thành đổ ngút lửa, thì Động chúa chẳng khỏi cảm động mà rằng:
- Thế là Thúc Bạch Dương kết thúc cuộc đời bi đát như thế! Thù xưa oán cũ ta nợ y mà quên rồi, y mượn màu thanh tịnh của nhà Phật lấy hiệu là Tịch Mịch để rửa sôi nổi trần tục, ai ngờ duyên nghiệp vẫn không dứt để phải chết thảm như vậy!
Cũng vừa lúc ấy, tin báo vào cho hay: “Tướng Đinh Điền cùng bốn tướng Đằng Châu quả nhiên đã lên phía Bắc Ngọc Lũ, bám ở sau lưng binh Triều trương cờ gióng trống, dàn quân như thể sắp xuất trận, Hiện giờ Đinh Điền còn đợi lệnh Quân sư. Quân báo vừa ra, lại có quân vào trình: “Hai tướng Đinh Liễn, Phạm Hạp sau khi đốt ven sông, đã lên phía Bắc Ngọc Lũ, gặp binh của Nam Tấn Vương, hiện giờ hai ông dàn quân uy hiếp binh Triều, trống đánh không dứt tiếng, cờ mở rợp trời để đợi lệnh Quân sư, Quân sư nghe trình rất hài lòng, lại thêm quân vào báo: “Hai tướng Lê Hoàn, Nguyễn Bặc thấy lửa đã tàn ở Ngọc Lũ tuân lệnh cùng tướng Mạc Sa Cảnh kéo quân vượt sông, tiến lên Đông Bắc, dọc đường đến trọng địa đối diện với Nho Lâm bên kia Xích Đằng, thì cho quân báo về Bình Lục để Quân sư rõ”.
Quân sư hài lòng nói:
- Bấm Động chúa, thế là quân ta dàn ra các mặt, binh triều đình chẳng khác nào cá nằm trong rọ. Bây giờ Động chúa định đoạt thế nào?
Động chúa vừa toan nói. Đinh lão đã vừa vuốt bộ râu đen nhánh vừa sang sảng mà rằng:
- Tôi xin được nói trước nhé! Lúc Quân sư từ Đằng Châu về, đã sai tướng Đoàn Phúc Hải đi các mặt đem lệnh dàn quân, mọi việc không có gì sai lạc, duy có điều Hải tuổi trẻ chưa chín chắn trái lệnh thành ra uổng mạng. Lúc Quân sư định kế, ắt hẳn trù liệu sẵn số phận của binh Triều rồi, nay Quân sư chỉ nói ra là đủ!
Dứt lời, Đinh lão cười thật tươi. Đằng kia, các tướng Trịnh Tú, Lưu Cơ chăm chú nghe ba tướng Cung Địch Hồng, Vương Bảo Quyền, Đỗ Mậu Đại thuật mọi việc, nghe đến chỗ Đoàn Phúc Hải bị giết thì hai tướng không cầm được nước mắt, vừa lúc ấy nghe Đinh lão nói hết, tướng Trịnh Tú gạt nước mắt mà rằng:
- Tôi xin được mạn phép góp lời nữa. Binh Triều tới Hoa Lư không có ý tốt với ta, chỉ mong giết sạch được ta, giết chưa được nhưng cũng đã hại bạn ta là Đoàn Phúc Hải, Bây giờ Quân sư đã đưa được binh Triều vào chỗ chết, chẳng khác nào như cá đã vào rọ. Vậy tôi xin được đi trước để giết Nam Tấn Vương, chém tướng Hoa Lư cưỡi ngựa đen rửa thù cho Đoàn Phúc Hải!
Trịnh Tú vừa nói vừa khóc, ai nghe cũng mủi lòng. Động chúa trầm ngâm mà rằng:
- Thế tất phải đánh tan binh Triều. Nhưng đúng như lời chú vừa nói, Quân sư dàn xếp, lại mượn thêm quân của Đằng Châu, tất có kế gì đây, cần nghe Quân sư giảng mới được.
Quân sư trịnh trọng:
- Vâng, việc tôi sang Đằng Châu mượn binh, không phải là rỗi rãi đi chơi làm việc hồ đồ. Nay binh Triều ở vào cái thế của “cá đã vào rọ”, ta chỉ thò tay vào là bắt được ngay. Nhưng có điều, cá còn một con, giết nốt hồ ao còn gì nữa? Bởi vậy...
Trịnh Tú ngắt lời Quân sư:
- Quân sư muốn tha chết cho Nam Tấn Vương?
Cả hội ai cũng chung ý nghĩ như Trịnh Tú. Quân sư nghiêm trang:
- Phàm đã dàn quân mở trận, thì phải đoạt lấy toàn thắng, làm gì còn có việc tha địch nữa.
Trịnh Tú thở phào ra, nói tiếp luôn:
- Vậy tôi xin Quân sư cho tôi ra trận trước!
Quân sư mỉm cười:
- Đúng lúc, tướng quân sẽ ra trận!
Quay sang Động chúa, Quân sư nghiêm giọng:
- Động chúa quyết định thế nào?
Động chúa ngồi ngay ngắn, lớn tiếng đáp:
- Ta bỏ căn cứ Hoa Lư, vất vả mà đến chỗ này, thiệt tướng thiệt quân, đốt thành, sau mới vây hãm được Nam Tấn Vương. Thì đây là lúc mở trận lớn cuối cùng cho xong chiến trận đấy!
Các tướng xì xào hài lòng, hào khí bốc cao. Quân sư không nói gì, đợi cho hội nghị im lặng lại, rồi mới rắn rỏi từng tiếng một, rằng:
- Việc lớn trong thiên hạ còn dài lắm, lúc này tôi không kịp thì giờ để trình bày cho Động chúa và các anh em được rõ. Việc lúc này, là xua Nam Tấn Vương về Cổ Loa, chứ không phải là giết Nam Tấn Vương!
Quân sư khoan thai nói, mỗi lời thật rõ ràng, trong cái giọng thánh thót êm đềm ấy tràn ngập hào khí lạ kì, mọi người nghe Quân sư nói đều ngẩn ngơ, không ai lên tiếng hỏi lại. Giây lát, Đinh lão mới nói:
- Quân sư định liệu thì không sai, việc lớn còn dài chưa nghe đủ được, xin Động chúa cho nghe vắn tắt được chăng?
Động chúa gật đầu ra vẻ tán thành lời nói của Đinh lão. Quân sư trang nghiêm:
- Bẩm, không phải chỉ có việc Hoa Lư đương cự cố đẩy lui binh Triều, việc lớn là ở chỗ phải tạo thời thế để thu cả thiên hạ. Vắn tắt thì như vậy. Còn việc trước mắt đây, tôi thấy: Nam Tấn Vương lâm nguy thế này, chắc chắn không bao giờ ông ta lại án binh đợi ta đến giết, tất thế nào ông ta cũng tìm đường thoát thân.
Động chúa hỏi:
- Như ý Quân sư, Nam Tấn Vương tính kế thoát thân thế nào?
- Bẩm, Nam Tấn Vương không còn chỗ thoát thân, chỉ còn một đường là vượt sông Xích Đằng vào Đằng Châu mà thôi. Nếu vào được Đằng Châu, là Nam Tấn Vương có cơ phục hận, có thể để tiêu diệt Hoa Lư ta. Nhưng...
Động chúa nóng lòng hỏi vội:
- Nhưng y sẽ làm gì? Ta làm được gì?
- Y sẽ không sang được Đằng Châu. Nam Tấn Vương bây giờ phải đi đứng theo lệnh của ta. Ta bảo y đi ngả nào y phải đi ngả ấy, không có việc Nam Tấn Vương tự ý hành động nữa!
Cả hội gay cấn, không ai hiểu Quân sư “ra lệnh” cho Nam Tấn Vương như thế nào, ai cũng nóng ruột muốn nghe kế của Quân sư. Đinh lão lại cố giữ khoan thai hỏi:
- Xin Quân sư cho nghe tiếp!
- Muốn vượt Xích Đằng, Nam Tấn Vương không thể để đến ngày mai được, nghĩa là y không có thì giờ để chuẩn bị thuyền bè, chậm một ngày ta biết được y sớm một ngày. Nam Tấn Vương tất hiểu tình cảnh của mình lúc này. Vậy thì, Nam Tấn Vương phải động binh, chọn đường cướp thủy trại của Đằng Châu ở Ngọc Cầu, tức là phía Bắc Bình Lục này của ta. Binh ta chọn ở đây, Nam Tấn Vương làm sao thực hiện được ý muốn cướp thủy trại Ngọc Cầu để sang sông được!
Cả hội nghị không ai thở mạnh, lắng hết tinh thần nghe Quân sư giảng tình thế. Quân sư ngừng lại một lát rồi nói tiếp:
- Các mặt quân ta đóng cả, phía Bắc Ngọc Cầu lại có đạo quân của các tướng Lê Hoàn, Nguyễn Bặc đóng đối diện Nho Lâm bên kia sông, dù binh Nam Tấn Vương có vượt được ta ở Bình Lục này, vẫn không ra khỏi vòng tay ta bóp nghẹt. Ta nhất định không cho Nam Tấn Vương đi qua Bình Lục, phải ở lại trong rọ nghe lệnh ta sang sông đúng chỗ ta muốn, tức là binh Triều phải sang sông phía dưới Bình Lục.
Động chúa giơ tay quệt mồ hôi trên trán, hỏi:
- Quân sư chưa cho tôi nghe đầy đủ chỗ phải tha Nam Tấn Vương, vậy lúc khác tôi nghe đoạn ấy. Còn việc bây giờ, Quân sư dàn binh vây hãm Nam Tấn Vương lúc nào cũng được, thế mà không giết, lại muốn ra lệnh cho y phải đi đứng theo ý ta, vậy Quân sư định bảo cho y biết như thế nào?
Quân sư mỉm cười:
- Nếu ta phá binh Triều, ắt ta cũng thiệt đôi chút chứ chẳng được vẹn toàn, nhưng thế lớn trong thiên hạ hỏng mất. Việc ta đuổi Nam Tấn Vương lúc này là cần, nhưng lại phải đuổi cho y chạy theo đúng ý ta, tất phải có người của Hoa Lư ta “đi sứ” mới xong!
Mọi người lại hồi hộp gay cấn, ai là người ở đây đủ sức “đi sứ” bảo Nam Tấn Vương biết đường lối chạy về Cổ Loa cho được? Động chúa còn trầm ngâm, Đinh lão đã hỏi:
- Quân sư đi sứ được không?
Quân sư nhẹ lắc đầu:
- Tôi không thể bỏ mà đi đâu được cả, mọi việc tính toán có thể được đúng cả, nhưng cũng vẫn cần phải đề phòng cái chỗ đột biến như tình hình mấy hôm nay, bất ngờ chỉ vì trong quân của Nam Tấn Vương có Tịch Mịch thiền sư tự nhiên ở đâu hiện đến.
Động chúa hỏi:
- Trong quân ta, Quân sư chọn người như thế nào mới đi sứ được?
- Bẩm, ít ra cũng phải là người thay được lời Động chúa, nói ra một lời cũng quan trọng như chính Động chúa nói ra.
- Chú tôi đi được không?
- Bẩm, tiên sinh đã già rồi, nhỡ xảy bất trắc sức tiên sinh chịu không nổi...
- Như vậy Quân sư liệu trước là sứ của ta có thể gặp nguy với Nam Tấn Vương?
- Trong lúc điều đình, Nam Tấn Vương ắt không quên y là Vua, mà ta chỉ là “giặc”, cái thế tranh thắng trong cuộc biện luận có thể làm khó dễ cho ta.
- Quân sư dàn xếp để chống đỡ sự khó dễ ấy thế nào?
- Bẩm, khi nào sứ lên đường, thì dù Nam Tấn Vương có ngoảnh mặt về phía nào chăng nữa cũng chỉ trông thấy có chết, đi cũng chết, đứng lại cũng chết, nghe theo lời ta sai khiến tất khổ nhưng không chết! Có lập được thế mạnh một trăm lần như thế, thì chỉ đòi hỏi y có một phần thôi tất y phải nhận.
- Như vậy, cần gì phải có người thay được tôi đi sứ mới được?
- Bẩm, sứ của ta vào doanh của Nam Tấn Vương phải đủ đởm lược, đầu không cúi vì kinh hãi, chân bước không run vì đặt chân vào nhà địch, giọng nói không yếu, mở mồm nói ra tiếng nói vẫn như chuông đồng, đưa đề nghị vừa như truyền lệnh lại vừa như giảng giải cho biết mọi nhẽ. Sứ của ta phải là người để cho địch tin được là có đủ phong độ để thương nghị, chứ không phải chỉ là kẻ đưa tin chạy hiệu.
Cả hội nghe Quân sư với Động chúa tay đôi bàn cãi, ai cũng nể trí tài của Quân sư. Động chúa lại nói:
- Như vậy, các tướng của ta: Lê Hoàn, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ, Phạm Cự Lượng, Đinh Điền, Đinh Liễn, Chu Kỷ Toàn, Hồ Tường Thụy... cùng các người khác, có người vóc dáng hiên ngang, có người hình thù gọn ghẽ, có người giọng nói như chuông đồng, có người tiếng nói thánh thót êm đềm, dũng lược, trí, mưu, ai là người Quân sư chọn đây?
Các tướng bứt rứt, hồi hộp. Quân sư trầm ngâm chẳng ngẩng đầu nhìn một ai, rồi chậm rãi:
- Thật ra, sứ giả của ta không cần phải huy động đến những dũng, những trí gì cả, chỉ cần bảo đảm được cái uy tín của Động chúa mà thôi.
Động chúa nói gấp:
- Như thế, Quân sư rõ ràng không chọn tướng nào vậy tôi đi chăng?
Quân sư ngẩng đầu, hai mắt long lanh:
- Động chúa mà đi, Hoa Lư tất tan thành cát bụi! Nam Tấn Vương nắm được Động chúa trong tay, thì dù tôi có dàn xếp gấp mười lần như lúc này cũng không đỡ được đại bại đến tan nát cả!
Đinh lão vuốt chòm râu đen biếc mà rằng:
- Lão không đi được. Động chúa đi không được, vậy con Động chúa đi được không?
Quân sư cười thật tươi:
- Bẩm tiên sinh, đấy là sứ của ta đấy!
Các tướng thở phào, Động chúa cũng thở phào rồi nói:
- Thì Quân sư cứ nói ngay ra có phải hơn không, ông chỉ được cái cứ úp úp mở mở thôi!
Quân sư cười tiếp:
- Không phải, tôi phải nói rõ ra cái địa vị của sứ, sứ mạng của sứ, đành rằng quân ta dàn xếp các mặt. Sứ của ta cũng là một mặt trận mà lại là mặt trận thành hay bại! Tướng Đinh Liễn là người phải đi sứ đấy!
Rồi Quân sư quay sang Vương Bảo Quyền mà rằng:
- Ông hãy một mình một ngựa lên đường gấp, đường đi nhất định thênh thang không có trở ngại gì đâu, ông về Tây Bắc triệu hồi tướng Đinh Liễn mau về đây. Ông nhớ lời tôi dặn: bảo các mặt trận rằng phải luôn luôn nhìn cả về Bình Lục mà đợi hiệu, một phát tên lửa quân reo trống đập ba hồi, một phát tên xanh binh tiến nửa dặm; cả hai tên lửa đỏ xanh cùng bắn, quân về vị trí cũ; tên lửa bắn trước tên xanh đuổi theo ghim ngang ấy là hiệu quân sẵn sàng xung trận công phá thực sự; tên xanh bắn trước tên lửa đỏ bay theo ghim ngang ấy là hiệu hưu chiến đấy. Ông đừng quên, cũng dặn các mặt đừng quên. Ông đi một vòng cho biết tình hình rồi về ngay nhé!
Hội nghị lắng hết tinh thần nghe Quân sư dặn dò Vương Bảo Quyền, Quyền nhíu mày dồn cả tinh thần vào nghe lời dặn, rồi Quyền nhắc lại các điều dặn, lại mang Giao Long truy thủ làm lệnh, mượn ngựa Á Lôi của Quân sư để rong ruổi.
Lúc Quyền lên đường, Quân sư bảo:
- Bây giờ đã sang đầu giờ Mão, trận của ta không nới rộng lắm, ông Quyền đi như vậy thì chỉ cuối Thìn là về được đến đây rồi đấy.
Quyền lĩnh mệnh giục ngựa Á Lôi vọt ra ngoài doanh, cửa doanh đóng lại và bóng Quyền mất hút lên phía Tây Bắc.
Quân sư hướng sang Động chúa mà rằng:
- Bẩm, ông Quyền đi thì lâu, nhưng tướng Đinh Liễn tất về ngay bây giờ đấy. Vậy ta cứ chuẩn bị các mặt, đợi ông Liễn nhưng phải xong các xếp đặt mới được.
Động chúa hỏi:
- Ta có cần sửa soạn gì cho Đinh Liễn đi sứ không?
Quân sư gật gù:
- Lễ vật ta không cần! Chỉ cần vài quân hầu là đủ? Trước khi tướng Đinh Liễn đi, ta cũng lại phải báo tin trước cho Nam Tấn Vương biết.
Rồi Quân sư ra lệnh cho các nơi, đâu đấy phải sửa soạn sẵn sàng giáp chiến, tuần canh không được trễ nải, các tướng ai trấn giữ nơi nào phải ở luôn nơi ấy không được cởi chiến bào, khí giới phải cầm sẵn trong tay. Tình hình xem ra gay go lắm.
Mọi việc xếp đặt vừa xong, quân ngoài doanh đã truyền tin về cho hay: “Tướng Đinh Liễn đã về”, Động chúa lập tức truyền tướng Đinh Liễn vào nghe lệnh liền.
Đinh Liên nhận lệnh, vội sửa sang chiến bào, xốc lại cương đao, rồi thong thả tiến vào nghị sảnh. Trong sảnh Quân sư vẫn ngồi trước án nghị sự, xem xét công việc, nghe các nơi trình về. Động chúa và các tướng cũng vẫn ngồi cả ở bàn nghị sự, mọi người còn bàn việc, thì Đinh Liễn bước vào.
Tướng Đinh Liễn bước vào sảnh thi lễ xong xuôi. Quân sư giơ tay mời ngồi nói:
- Nay việc quân đang hồi náo nhiệt, tướng quân ở ngoài không biết cả các nơi. Tôi nói qua để tướng quân rõ: Nam Tấn Vương trong quân có dị nhân giúp đỡ suýt làm nguy đến cả Động chúa, khiến cho tướng Đoàn Phúc Hải của ta tử trận...
Đinh Liễn giật nảy mình, thốt:
- Phúc Hải chết rồi!
Quân sư chậm rãi:
- Phải, Phúc Hải chết rồi, Đỗ Mậu Đại bị trọng thương. Nhưng rút cục đị nhân ấy cũng đã theo thành Ngọc Lũ mà cháy thành than rồi. Bây giờ, ta dàn xếp các mặt, lẽ ra thì giơ tay ra hiệu là lấy mạng Nam Tấn Vương, phá nát binh Cổ Loa dễ như bỡn, nhưng việc lớn phải đợi thời tạo thế, chứ không phải là hồ đồ làm việc lợi trước mắt để gây hại lớn mai sau, vì thế mới có việc mời tướng quân về đây để nhận lệnh đi sứ, sang doanh của Nam Tấn Vương thương lượng mọi việc.
Định Liễn ngạc nhiên lắm, hỏi lại:
- Quân sư nói rằng việc lớn phải đợi thời tạo thế, lúc này ta chưa phải là có thời, có thế để phá Cổ Loa hay sao mà lại đi thương lượng với Nam Tấn Vương?
Quân sư ôn tồn:
- Thì tôi đã nói là phá Cổ Loa dễ như bỡn, nhưng rồi làm lỡ việc lớn mai sau. Bây giờ không còn thì giờ để nói nhiều được nữa, tướng quân lĩnh mệnh đi sứ được không?
Đinh Liễn là con lớn của Đinh Bộ Lĩnh, vóc dáng hùng vĩ chẳng kém gì cha, hai mắt Đinh Liễn sắc vàng, lúc nào cũng long lanh như có nắng chiếu vào, khuôn mặt nở nang cân đối. Đinh Liễn cũng có cặp môi dày như Đinh Bộ Lĩnh, răng trắng muốt nho nhỏ đều dặn. Ở hàm bên phải gần rái tai, Đinh Liễn có nốt ruồi lớn, từ nốt ruồi ấy mọc ra một chùm râu, có thầy tướng bảo rằng râu ấy là “râu chết non”, không nên nuôi làm gì, Đinh Liễn giận lắm, bèn nhất định cứ nuôi cho chùm râu dài ra xem sao. Đinh Liễn tính tình cương trực, nhưng lại không phải là người thao lược, vào việc lớn kém tài xoay sở, nếu bên cạnh không có người đầu óc chỉ vẽ cho thì chẳng làm gì được.
Đinh Liễn giỏi nghề cưỡi ngựa cầm gươm, tính ít nói nên dù là trưởng tử của Động chúa mà giữa cha con vẫn đối xử với nhau giữ lễ như Động chúa đối với các tướng khác, hoặc có khi còn không được bằng các tướng khác nữa. Đinh Liễn không lấy thế làm buồn, thường bảo: “Trượng phu đứng trong trời đất, nếu cứ e ấp bịn rịn với tình cha con vợ chồng, sao còn rảnh để tung hoành được!”. Vì thế, Đinh Liễn không mấy gần gũi cha.
Bây giờ được gọi về doanh, nghe Quân sư nói cho biết mọi việc rồi lại hỏi như vậy, Đinh Liễn khảng khái:
- Quân sư đã chọn, tôi vinh dự được nhận lệnh ra đi. Việc khó, tất nguy hiểm cũng có, nhưng không phải vì chùm râu chết non này mà tôi sợ không dám vào doanh của Nam Tấn Vương đâu!
Vừa nói, Đinh Liễn vừa tủm tỉm cười giơ tay vuốt chùm râu cạnh rái tai. Quân sư cười thật tươi mà rằng:
- Hay lắm, vậy tướng quân hãy nghe cho rõ mọi việc nhé!
Hội nghị im lặng, Động chúa vẫn chẳng nói một lời, Đinh Liễn trịnh trọng ngồi lại cho ngay ngắn. Quân sư nhìn mọi người một lượt, vừa toan cất tiếng, sực quân vào bẩm gấp:
- Bẩm Động chúa, Nam Tấn Vương tiến quân muốn lên phía Bắc, sắp lại gần đại doanh của ta!
Cả hội nghị sửng sốt, rồi đổ dồn nhìn cả vào Quân sư, Quân sư khẽ nhíu mày, khoan thai hỏi:
- Tướng nào của triều đình cầm quân mở đường?
- Bẩm Quân sư, tin báo về cho hay là tướng cưỡi ngựa đen cao lớn, cầm kiếm bạc.
Chợt Đỗ Mậu Đại kêu lên:
- Đúng y rồi!
Đại vừa kêu dứt, đã lại thấy Trịnh Tú buột miệng:
- Tướng ấy tôi có giao chiến với y một lần rồi! Xin Quân sư cho tôi ra trận giết y để rửa hận thù cho Đoàn Phúc Hải!
Chưa biết việc ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—