← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Năm Mươi Hai Đinh Liễn đi sứ gặp Vua
Quân sư dựng đài tấu nhạc

Trịnh Tú cưỡi Ô Truy, sau lưng Tú là Đỗ Mậu Đại, cả hai giục ngựa chạy vội về doanh. Dọc đường Trịnh Tú bảo Đỗ Mậu Đại:

- Con ngựa này thật tinh khôn, lúc tôi mới cưỡi nó, nó cưỡng lại ghê lắm! Đại tướng chủ của nó cưỡng lại ta còn chẳng được, làm sao nó cưỡng nổi ta chứ!

Đỏ Mậu Đại tai nghe Trịnh Tú nói, nhưng vẫn để ý đến nước phi thần tốc của con ngựa, bốn vó không chạm mặt đất, sức đi nhanh như vậy mà không xóc, ngồi trên lưng vẫn thấy êm ái như ngồi trên ghế ở nhà. Nếu đứng ở ngoài mà nhìn, thì con ngựa lúc phi nước đại cổ nó vươn thật thẳng, đuôi giăng dài, thành thử trông từ đầu đến chót đuôi chỉ thấy một vệt dài đen sì phóng đi như làn gió đen cuốn tới cực mạnh.

Ngựa quý thì có quý, nhưng Đỗ Mậu Đại không giết được tướng triều đình trong lòng lâu lâu lại sôi nổi uất ức, nay nghe Trịnh Tú cứ một mực mê man ca ngợi mãi con ngựa, thì bực mình gắt:

- Ông thì cứ con ngựa mãi, phải chi ông đừng mê ngựa ở lại giúp tôi một tay thì có phải là đã giết được thằng giặc ấy rồi không!

Trịnh Tú lơi bớt dây cương mà rằng:

- Thì còn nhiều dịp, ông lo gì chẳng có lúc Quân sư lại bày mưu cho mà giết tướng rửa thù!

Đỗ Mậu Đại chẳng nói gì, bây giờ mới thấy các vết thương cũ đau nhức. Đại bâng khuâng chẳng thiết gì nữa, chỉ một mực mong muốn mau mau lại được ra trận để rửa thù.

Về đến doanh, hai tướng được quân trình cho biết: “Quân sư đem tướng Đinh Liễn đi rồi, Quân sư có dặn là hai tướng về thì phải trông nom công việc ở doanh, không được bê trễ”.

Trịnh Tú, Đỗ Mậu Đại nghe lệnh, liền vội vàng cùng quân đi xem xét mọi mặt, cắt đặt xong xuôi, rồi ung dung đợi chờ.

Quân sư đứng trên đồi cao, giơ tay chỉ về phía Nam cho Đinh Liễn thấy thấp thoáng đạo quân của Động chúa rồi nói:

- Bây giờ, đại quân Nam Tấn Vương ở quá xuống phía Nam, tiền quân mở đường tiến lên phía Bắc định tới Ngọc Cầu, rồi từ Ngọc Cầu vượt Xích Đằng sang Đằng Châu. Tiền quân của Nam Tấn Vương sẽ bị tướng Trịnh Tú, Phạm Cự Lượng cản, đằng sau lại gặp đại binh của Động chúa uy hiếp, thế nào cũng phải tìm đường quay trở lại với hậu quân. Ở phía sau hậu quân triều đình, ta có đạo quân lớn đi theo, phía Tây cũng có quân ta đợi sẵn, phía Bắc quân ta dàn kín, chỉ còn có phía Đông là vướng dòng Xích Đằng. Binh Triều không có đường tiến thoái, Binh ta lại chuẩn bị đầy đủ, nếu có lệnh thì sẽ làm cỏ binh Cổ Loa tức thì. Nhưng, thời thế khiến ta không được giết Nam Tấn Vương, cũng không được cho quân của Nam Tấn Vương lúc về mười phần chỉ còn một. Cái thế ta cần dựng lên, là giữ được cho nước ta yên với phía Bắc, cuộc lui binh của Nam Tấn Vương phải như ngọn đòn đánh vào xương sống làm rung chuyển cả toàn thân, có thế bên ngoài ta mới vững, trong ta mới đạt được thế và cơ hội để ra tay thu thiên hạ...

Quân sư ngừng nói, tướng Đinh Liễn kính cẩn cúi đầu nghe, trong lòng Đinh Liễn chẳng khỏi ghê sợ nhân vật tuổi trẻ mặt ngọc này từ phương xa lại giúp rập Hoa Lư. Con người thanh nhã, ai ngờ lại chứa đựng cả thiên hạ ở trong lòng, hành động khoan thai, mà lại hóa ra cực kì lợi hại, tính toán xa xôi như thế đã nhìn thấu vạn sự ở ngày mai. Đinh Liễn liếc mắt nhìn Quân sư, Quân sư lặng lẽ nhìn về phía Nam, nắng sớm êm đềm đổ xuống vạn vật, trong ánh nắng lất phất có những đợt khói sương bốc lên từ cây cỏ.

Quân sư lại nói:

- Ta đứng đây, chỉ một lát nữa là thế nào cũng được chứng kiến tiền quân của Nam Tấn Vương thất bại chạy về. Ta chắc là sau trận này thế nào Nam Tấn Vương cũng bối rối không biết phải hành động ra sao, tới lúc ấy là lúc ta đưa tin báo cho y biết ta muốn điều đình với y. Bây giờ, tướng quân cần nghe cho rõ: Tướng quân đi sứ sang doanh của Nam Tấn Vương, phải tin chắc rằng sau lưng tướng quân, binh ta lúc nào cũng cực kì mạnh mẽ, cái thế đi điều đình của tướng quân là cái thế của kẻ thắng muốn lấy nhân nghĩa để ra ơn cho kẻ bại được toàn thân mà rút chạy đấy!

Đinh Liễn kính cẩn:

- Bẩm Quân sư, xin Quân sư chỉ rõ cho tôi mọi việc.

- Thì nhất định tôi phải chỉ rõ cho ông mọi việc rồi. Sở dĩ tôi chọn ông đi sứ, ấy cũng bởi ông đã bảo đảm được tiếng nói của Động chúa rồi. Từ đấy, ông thay mặt Động chúa thương lượng với Nam Tấn Vương. Trước hết, thái độ của ông phải đường hoàng, giữ cho được phong thái của kẻ thắng hiên ngang mà vẫn đại lượng, tin chắc là lí lẽ của mình nói ra không bao giờ sai trệch, dù rằng có khi lí lẽ ấy là ngụy biện chăng nữa cũng mặc. Những điều ông đòi hỏi Nam Tấn Vương, cũng không có gì là khó cho ông ta, bởi vì chính ông ta cũng đang mong muốn như thế.

- Nam Tấn Vương đang mong thế nào?

- Nam Tấn Vương mong được rút sang Đằng Châu để phục hưng sức lực mà đánh ta. Nhưng, ta chỉ cho phép Nam Tấn Vương sang Đằng Châu, rồi phải về Cổ Loa chứ không được ở lại. Ông chỉ dẫn cho y thấy rằng: mưu tính của y định lấy thủy trại Ngọc Cầu của Đằng Châu, Hoa Lư biết rõ cả, Hoa Lư không cho phép y làm như vậy nên tiền quân của y mới bị đánh lui. Lúc tướng quân ở doanh Nam Tấn Vương, thì binh ta dàn ở khắp mặt gần bảy nghìn người, đâu cũng sẵn sàng để tận dụng hỏa công thiêu binh Cổ Loa thành than cả, ông hãy đòi Nam Tấn Vương phải lui binh qua ngõ Đằng Châu, theo đường bộ đi từ Đằng Châu lên Bình Kiều, rồi Tế Giang mà về Cổ Loa. Ông cứ dọa thêm là quân của Nam Tấn Vương dọc đường đừng khiêu chiến với ai cả, bởi vì Bình Kiều thì Ngô Xương Xí giữ, sức chưa mạnh nhưng nếu biết binh Triều thất bại chạy về tất có thể bị đánh úp; còn Lữ Đường ở Tế Giang trong trướng có tay phù thủy ghê gớm lắm, người phù thủy ấy có phép sai khiến âm binh, tung cát thành quân, nửa đêm biến thành ma dơi hại người, vậy cũng đừng xâm phạm đến Lữ Đường. Ở bên kia sông, Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt sức mạnh như hùm beo, nhưng vướng sông rộng không hành động dễ dàng được, vậy Nam Tấn Vương cứ yên lòng, ông cứ nói dối rằng: “Vả lại, Hoa Lư liên kết với Tây Phù Liệt, sẽ có lệnh lên cho Nguyễn Siêu hay, để y không đánh úp binh Triều, ngoài ra còn đưa quân phòng hờ giúp binh Triều cản thủy quân nức tiếng của Đỗ Cảnh Thạc ở sông Đỗ Động nữa”. Những việc như thế, ông lựa lời mà nói, không quá kiêu căng, nhưng nhất định chẳng nhường Nam Tấn Vương nửa bước nhé.

Đinh Liễn chú hết tinh thần nghe lời Quân sư giảng, cố nhớ kĩ từng việc, thỉnh thoảng hỏi lại những chỗ chưa hiểu. Quân sư bảo:

- Giữa lúc Nam Tấn Vương đang muốn chạy chết, ông đến để thương lượng, tất thế nào Nam Tấn Vương cũng mừng, nhưng trước khi mừng hẳn có thể y vẫn còn muốn nhân cơ hội mà bắt chẹt, Thành thử ông vào doanh Nam Tấn Vương cũng có đôi phần nguy hiểm nhưng tôi đoan chắc với ông, thế nào cũng không nguy hiểm đến tính mạng, ông cứ yên lòng, giữ vững thái độ, chung quanh ông quân ta phục cả, Nam Tấn Vương nếu muốn giở trò ắt y không còn thây mà về Cổ Loa nữa.

Đinh Liễn hỏi thêm:

- Bẩm Quân sư, có thể nào tiền quân của Nam Tấn Vương vượt được đạo binh cản đường của ta mà cướp thủy trại Ngọc Cầu của Đằng Châu không?

- Thật ra, cản đạo binh tiên phong ấy của triều đình ta phải huy động đến nhiều quân mới xong, nhưng vì ông Trịnh Tú muốn cướp con ngựa đen, thành ra tôi chỉ kế cho ông ấy khiến cho binh Triều không cần đánh cũng tan. Vả lại, còn đạo quân lớn của Động chúa ở phía sau tiền quân của binh Triều, án phía trước đại quân của Nam Tấn Vương, thì tôi tin chắc là tiền quân của Nam Tấn Vương thế nào cũng thất bại, ông cứ đợi đây mà xem.

Đinh Liễn gật gù, tin Quân sư thì nhất định là tin, nhưng cũng còn có đôi ba phần nghi ngờ sự việc chẳng xảy ra đúng như lời Quân sư quả quyết. Nghĩ chưa xong, đã thấy phía Bắc quân reo ngựa hí, Đinh Liễn chú mục giương mắt nhìn vào khoảng lau sậy xa xa, Quân sư cũng định thần chăm chú quan sát.

Thấp thoáng có đạo quân ào ào từ Bắc đổ xuống Nam càng đi quá sang phía Tây, như để tránh đạo quân của Động chúa án ở phía Đông trông rất rõ. Quan sát một hồi, Quân sư vui mừng bảo:

- Quả nhiên tôi nói không sai! Tiền quân binh triều đại bại bỏ chạy rồi!

Đinh Liễn vẫn còn nửa tin nửa ngờ, Quân sư thoáng nhìn cũng hiểu ý Đinh Liễn liền tiếp:

- Ông đợi lát nữa, thế nào cũng thấy quân của Phạm Cự Lượng đuổi theo sau, rồi lại thấy đạo quân của Động chúa ở phía Đông giục trống thị oai cho mà xem!

Đinh Liễn không nói, đứng lặng mà nhìn. Đạo quân chạy xuống Nam thoáng lát là mất dạng. Cách khoảng chừng nửa tuần tra, lại thấy một đạo quân khác ít người hơn đạo quân trước nhiều lắm, cũng ào ào đổ xuống Nam. Thêm lát nữa, bỗng nghe trống trận giục vang vang từ đạo quận án ở phía Đông phát ra.

Lập tức, Đinh Liễn vụt quay trở lại, hướng về phía Quân sư kính cẩn vòng tay vái một vái mà rằng:

- Bẩm, quả thật ngài chẳng phải là người thường rồi! Một lạy này tôi xin thay vạn lời bái phục bực thần tiên!

Quân sư mỉm cười thật tươi, xua tay mà rằng:

- Ông đừng làm thế, nếu ông chịu khó xét kỹ mọi việc, thì ông cũng tính toán được cả, có gì mà thần với tiên!

Đinh Liễn vẫn còn bàng hoàng, Quân sư bảo tiếp:

- Thôi, ta về doanh sửa soạn để tin cho Nam Tấn Vương biết! Không biết ông Đỗ Mậu Đại có giết được tướng cưỡi ngựa đen để rửa thù không?

Đinh Liễn hỏi với:

- Nếu cứ cái cảnh tiền quân của Cổ Loa đại bại chạy về thế này, thì chắc là ông Đỗ Mậu Đại rửa được thù chứ chẳng sai!

Quân sư lắc đầu mà rằng:

- Ta chưa tin như thế! Tướng triều đình này giỏi lắm, y nhiều lần xuất trận làm cho các tướng của ta vất vả nhiều lắm. Mới đầu thì tướng Phạm Cự Lượng phải liên tiếp lui quân, rồi đến Lê Hoàn suýt nguy khốn, sau đến ông Hải bị giết, ông Đại bị trọng thương. Bây giờ ông Trịnh Tú nhờ vào địa thế để kềm chân ngựa, xử đến tài thiên hạ Đệ Nhất Kiếm để cướp con ngựa, chắc xong được. Còn ông Đỗ Mậu Đại, tài nghệ không tinh lắm, lại còn mang trong người vài vết thương chưa lành, tôi e rằng chưa đủ sức để cùng một lúc phải đấu cả vũ lẫn trí với tướng triều đình, giết người không xong, may thì không bị sứt mẻ nữa là khác đấy!

Đinh Liễn kinh ngạc:

- Nếu vậy, sao Quân sư còn cho ông ta đi làm gì, sao không để cho ông Trịnh Tú chỉ xử mọi lệnh có được không? Như vậy, không khéo tướng triều đình thoát chết mất!

Quân sư trầm ngâm:

- Mỗi người một ý nghĩ, ông Trịnh Tú chỉ mê ngựa được ngựa tất mừng quá nên quên cả giúp ông Đại; ông Đại có cơ hội để rửa thù, mừng quá để hỏng việc. Tướng triều đình thoát cơn chết trông thấy, không còn lòng dạ nào để giết ông Đại. Thôi thế cũng được, giết người để rửa thù xét ra cũng không vinh quang gì cho lắm, vả chăng ông Hải vì trái quân lệnh mà sinh họa, ông Đại vào trận vì không phải là người ngang tài với địch mà bị thương, nay cứ vịn vào những lẽ ấy để khăng khăng giết người, tôi thấy cũng không nên, đại cuộc nên đặt lên trên cả mới phải. Sau này ông cầm quân ra trận, cũng nên có lúc bỏ những tiểu tiết, để làm cho đại nghiệp sáng rõ mới được. Có thế, người làm tướng mới khuất phục được ba quân, đạt được đại công mà không có gì phải hổ thẹn trong lòng đấy!

Đinh Liễn cúi đầu nghe Quân sư chỉ dạy, thỉnh thoảng lại “dạ” một tiếng ra chiều kính cẩn.

Quân sư cùng với Đinh Liễn lên ngựa, nhắm hướng doanh Bình Lục mà trở về.

Vào doanh, Quân sư truyền quân sửa soạn sảnh đường để mở cuộc đại nghị. Mọi việc vừa xong, trước cửa đại sảnh nghe có tiếng ngựa khua, nhìn ra thì là Trịnh Tú cùng với Đỗ Mậu Đại cưỡi con Ô Truy của tướng Lê Hoạt Hoàng đến trình. Quân sư đứng dậy bước ra, Đinh Liễn theo sau.

Quân sư quan sát con ngựa, tấm tắc khen rồi bảo:

- Ta xem con ngựa đầu nhỏ mõm dài, đầu so với mình thì nhỏ lắm, tai ngắn, bờm dài óng ánh như tơ, hai mắt thật tròn, không có tướng gì là sát chủ cả, chỉ có tướng “ngựa thần vạn dặm đuổi gió” mà thôi, sao lại có việc tướng triều đình bị chết về tay Đỗ Mậu Đại được!...

Các tướng còn chưa biết nói sao, Quân sư nói tiếp luôn giọng vui vẻ:

- Tôi xin mừng ông Đỗ Mậu Đại rửa xong thù, lòng thanh thản rồi nhé!

Tướng Trịnh Tú thì vẻ mặt vẫn hân hoan, Đỗ Mậu Đại nghe Quân sư nói như vậy thì lúng túng lắm! Quân sư ra vẻ ngạc nhiên nhìn hai tướng; Đinh Liễn trong lòng có ý kinh hãi về những lời lúc nãy Quân sư nói về việc hai ông tướng này đi cướp ngựa rửa thù. Trịnh Tú đáp, giọng ngại ngùng nhưng vẫn có phần vui:

- Bẩm Quân sư, quả nhiên con ngựa ngày đi vạn dặm, sức nhanh còn hơn gió này bị vướng vào chỗ lúng túng, thật con chó con còn chạy được mau hơn, nhờ thế tôi đã được ngựa. Còn ông Đỗ Mậu Đại thì nhân nghĩa, chỉ chém tướng triều đình một nhát vào bàn tay, đâm một gươm vào bả vai, bắt tướng ấy phải cởi chiến hài, lăn lộn trong bùn cho nhục nhã rồi tha cho y đi rồi!

Quân sư nghe nói lấy làm kì, Đinh Liễn ngẩn người, Đỗ Mậu Đại nhíu mày vừa có phần tức, vừa có phần ngượng nghịu. Quân sư bảo:

- Việc thế nào, ông Đại kẻ tôi nghe xem sao?

Đỗ Mậu Đại lúng túng thuật lại mọi việc từ đầu đến cuối, rồi nói:

- Bẩm Quân sư, chỉ tại ông Trịnh mê ngựa thành ra hỏng cả việc lớn đấy!

Quân sư nghe Đại thuật hết mọi việc rồi nói như vậy, thì cười lớn mà rằng:

- Thôi thế cũng được! Cổ kim chưa có tướng nào giỏi bằng ông, tướng địch nức tiếng như vậy mà ông bắt y phải cởi chiến hài, lăn lộn trong bùn nhục nhã như thế rồi còn gì nữa!

Rồi Quân sự đem các tướng vào sảnh, rồi quay sang Trịnh Tú mà rằng:

- Ông được ngựa quý, hả lòng rồi nhé! Bây giờ đã yên dạ để nghe lệnh mới chưa?

Trịnh Tú cười thật tươi:

- Bẩm Quân sư, dù chưa được ngựa tôi cũng yên dạ đợi nghe lệnh của Quân sư!

Quân sư cười, bảo rằng:

- Tướng triều đình mất ngựa tất tả chạy về, chắc lúc này trong doanh Nam Tấn Vương tin thất bại đả rõ cả! Nam Tấn Vương thế nào cũng đang rầu rĩ. Vậy, ông cứ cưỡi con ngựa đen ấy, mang theo năm ba quân thôi, cầm thư của Động chúa báo cho Nam Tấn Vương biết là Động chúa muốn cử người thương lượng với Nam Tấn Vương nhé!

Trịnh Tú đứng dậy sẵn sàng đợi tiếp thư của Động chúa để ra đi. Quân sư truyền quân lấy bút mực, thảo ngay một phong thư gửi Nam Tấn Vương. Thư viết:

“Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh, tại đại doanh Bình Lục thư gửi Nam Tấn Vương.

Nay, Cổ Loa đem quân xâm phạm Hoa Lư, báo cho thiên hạ biết Hoa Lư là anh hùng đáng sợ hơn cả. Hiềm một nỗi, hùng tài Hoa Lư nhiều như lá rừng, sức mạnh như núi lớn muôn năm chẳng hết, cũng bởi vậy mà binh Cổ Loa từ lúc sang sông đến trước Hoa Lư, càng vào sâu trọng địa càng thêm thất thế. Lửa Đa Giá, nước Sinh Khuyết ở Vũ Lâm, rồi lại đến thành Ngọc Lũ, binh Cổ Loa tan nát, tướng Cổ Loa thay nhau tử trận. Ngay trước mắt, tướng tiên phong cởi cả chiến hài lăn lộn trong bùn làm trò cho tướng Hoa Lư xem, lại gửi ngựa thế mạng mới được ra về, như thế, thắng bại đã đành là rõ rệt, nhưng Hoa Lư tôi nghĩ lại chẳng muốn sát hại thêm sinh linh vô tội.

Ấy cũng vì thế, mới gửi thư này đến ngài, đề nghị việc Hoa Lư cử sứ tới doanh Cổ Loa đề nghị bàn, nói chuyện việc binh Cổ Loa thong thả ra về.

Giả sử, ngài muốn nhận sứ của Hoa Lư để tính việc có lợi, thì trước quân xin cứ treo một lá cờ, còn như ngài muốn tiếp tục tranh hùng, thì tôi cũng xin được trình bày mọi lẽ.

Ở phương Nam, ngay khi thành Ngọc Lũ cháy, đại quân của Hoa Lư vẫn ở sau lưng ngài; phía Tây, cả một dọc sông đỏ lửa, cũng đủ để ngài thấy binh Hoa Lư án kín, đạo quân bên kia sông của ngài, Hoa Lư muốn giết sạch lúc nào cũng được. Phía Đông Bắc, quân Hoa Lư trấn giữ, tướng tiên phong đem quân chực cướp Ngọc Cầu của Đằng Châu đã đại bại chạy về, đây là sự thật!

Binh Hoa Lư vây kín các mặt, quân đông bảy nghìn, tướng giỏi cả trăm; lại thêm, ngài lọt trọng địa, chỉ một mồi lửa nữa là Hoa Lư tôi thiêu rụi không còn một người của Cổ Loa. Sự thể này chắc ngài cũng rõ.

Vua không hàng giặc, nhưng Hoa Lư không phải giặc ắt buộc được ngài phải đầu hàng. Nhưng, Hoa Lư nhân nghĩa, hảo hán ở đời không nhân lúc người thất thế mà chèn ép, Hoa Lư vì vậy muốn để ngài được thong thả ra về, dọc đường không bị các nơi nhân cơ hội để hiếp đáp, bảo toàn được danh dự của Cổ Loa.

Người thức thời, biết thế, nhìn rõ cơ hội, tất không vì lý do gì để từ chối lẽ phải. Mong ngài hiểu cho.

Đinh Bộ Lĩnh thư.”

Viết xong phong thư, Quân sư trao cho Trịnh Tú mà rằng:

- Ông tới trước doanh Nam Tấn Vương, đưa thư này bảo gấp trình vào doanh. Nếu ông không mang quân, thì binh Triều không kháng cự, cứ trao thư tự nhiên. Rồi ông gấp cưỡi Ô Truy, đi mời Động chúa về doanh, trình với Động chúa chỉ để lại một tướng giữ binh đợi các hiệu lệnh mà thôi.

Trịnh Tú lĩnh mệnh, mang phong thư lên ngựa đi liền.

Tại doanh Nam Tấn Vương, sau khi đại tướng Lê Hoạt Hoàng đem tiền quân ra đi, Nam Tấn Vương truyền các tướng sửa soạn đợi lệnh xuất quân. Vương chỉ còn đợi tin của đạo tiền quân báo về là lập tức ra quân để ứng chiến tiếp cứu, hoặc sang sông tức thì. Đợi chưa lâu đã có tin gấp báo về cho hay: “Tiền quân gặp địch, khó lòng vượt qua được!”. Vương nhận tin, lòng bồn chồn lo lắng, hội các tướng để bàn việc.

Việc bàn chưa quyết ra sao, đã lại có tin: “Tiền quân lâm nguy, phải rút về, đại tướng Lê Hoạt Hoàng thất lạc, chưa biết số phận ra sao!”. Vương tiếp tin lòng càng kinh hãi. Đợi thêm lát nữa, ba tướng Thái Đạo Tường, Hoàng Hữu Nhạc, Nguyễn Lạc Bình đem bại quân về.

Ba tướng vào tâu trình mọi việc trước Nam Tấn Vương, thuật rõ quân Hoa Lư chẹn đường. Tướng Lê Hoạt Hoàng vướng trong trận chưa được tin gì. Nam Tấn Vương rầu rĩ, ngó các tướng ai cũng có vẻ thất sắc sợ sệt. Vương buồn bã phán:

- Nay ta muốn sang sông, phải nhờ vào thủy trại Ngọc Cầu, thì đường đi cũng bị chẹn. Giả sử bây giờ giặc lại dùng lửa vây đốt, e khó thoát hiểm, địa thế này ta không ở được lâu. Giả sử giặc lại đến khiêu chiến, thất thế thấy rõ về ta. Trong quân của giặc đúng là có người tài chỉ vẽ cho. Tình thế như thế này, các tướng khuyên ta nên tính sao?

Hội nghị yên lặng, giây lâu Nguyễn Lạc Bình tâu:

- Tâu Thánh thượng, việc binh thắng bại là thường, chỉ có điều nhận rõ tình thế để tiến thoái đúng lúc mới là đáng kể. Nay quân ta chưa thu được thắng lợi, nhất thời lâm nguy như thế này, cần ra thì ta cũng nên tạm dùng đến kế trì hoãn trước là để thoát hiểm, sau là có cơ hội để mở lại thế cờ.

Nam Tấn Vương hỏi:

- Như thế nào là tạm dùng kế trì hoãn? Như thế nào là đợi cơ hội để mở lại thế cờ?

Hữu tướng quân Nguyễn Lạc Bình giọng mạnh bạo:

- Tâu Thánh thượng, Hoa Lư chẳng qua chỉ là đám giặc lớn, nay chưa bị triều đình giết hết, lúc này chúng nó được lợi hơn ta tất không thể không thỏa măn. Bây giờ Thánh thượng đưa tin nghị hòa với chúng nó, hứa lui binh yên ổn, tất chúng nó không mong gì hơn nữa. Thánh thượng cũng lại có thể hứa phong chức tước cho chúng nó, thì thế nào chúng nó cũng vui lòng mà nhận! Thần làm tướng cầm quân, lẽ ra phải tử chiến giết giặc, nhưng nếu chỉ xông xáo để tìm lấy chết mà đáp đền được thánh ân thì nhất định hạ thần chọn chết; còn chịu chết để Thánh thượng thêm nguy, thì thần không nhận nên mới mạo muội tâu xin Thánh thượng lúc này tạm hoãn với giặc!

Các tướng nghe Nguyễn Lạc Bình khuyện Nam Tấn Vương tạm hòa với Hoa Lư ai cũng cho là rất phải, nhưng ngoài mặt còn dè dặt chưa dám biểu lộ ý kiến, còn đợi chờ xem Nam Tấn Vương có ý ra sao đã.

Nam Tấn Vương nghe Nguyễn Lạc Bình tâu, gật gù, vẻ mặt thật buồn, rồi thở dài mà rằng:

- Thật ra, trẫm cũng muốn thu phục Hoa Lư bằng cách khác. Ta không thắng được Hoa Lư kể từ lúc có trận Đa Giá - Vũ Lâm, sau Tịch Mịch thiền sư bàn việc cũng có lý lắm nên ta mới tiến binh, nhưng không ngờ Hoa Lư có kẻ tài giúp đỡ, thành ra kế hay của Thiền sư cũng hóa hỏng. Tình thế này, ta cũng nên tạm hòa với giặc thật!

Các tướng nhẹ nhẹ thở ra, Nam Tấn Vương phán luôn:

- Bây giờ ta nên hòa với Hoa Lư như thế nào?

Các tướng lại ngồi im suy nghĩ, chưa ai có ý kiến thì quân ngoài đã trình vào là “Tướng Lê Hoạt Hoàng đã về!”.

Vương nghe báo mừng lắm, liền cho mời tướng Lê Hoạt Hoàng vào ngay. Lê Hoạt Hoàng bước vào nghị sảnh, chân không chiến hài, bùn lem luốc khắp mình mẩy, có nơi lại pha cả máu, hình dung Lê Hoạt Hoàng thật tiều tụy tả tơi. Trên là Nam Tấn Vương, dưới là các tướng ai thấy tình cảnh Lê Hoạt Hoàng cũng đều kinh hãi quá chừng. Lê Hoạt Hoàng quỳ xuống hai hàng nước mắt ròng ròng, nghẹn ngào tâu:

- Thần mang trọng trách đưa tiền quân đi mở đường, mắc kế của giặc để đến nỗi mất cả ngựa, lại phải chịu nhục bỏ cả chiến hài mới có thể giữ tính mạng, phải lăn lộn cả trong bùn để tránh chết, cướp lấy ngựa của giặc mà về, khiến nhục cả mệnh Thánh thượng, làm hại đến cả tinh thần của ba quân! Tội thật đáng chết!

Nói rồi, Lê Hoạt Hoàng phủ phục mà khóc, nhung y bê bết bùn, vai bị thương, bàn tay bị chém máu còn chưa khô. Nam Tấn Vương bàng hoàng, rồi đứng dậy đỡ Lê Hoạt Hoàng đứng lên, lại bảo cởi chiến bào, xét vết thương. Các tướng xúm lại giúp Lê Hoạt Hoàng, lát sau Hoàng mới tạm tươm tất, bàn tay trái và vai buộc chặt vết thương ngồi vào bàn nghị sự. Lê Hoạt Hoàng tâu bày mọi việc, thuật rõ tình hình, và cùng đồng ý là nên tạm hòa với giặc.

Nam Tấn Vương phán:

- Trẫm quyết định tạm hòa với Hoa Lư, bây giờ phải làm thế nào?

Các tướng lao xao bàn bạc, Vương buồn bã ngồi đợi. Chợt quân hấp tấp từ ngoài vào quỳ gối dâng lên Nam Tấn Vương một phong thư mà rằng:

- Tâu Thánh thượng, giặc cho người đưa thư trình lên Thánh thượng xem xét.

Cả hội nghị ngạc nhiên, tướng Đặng Ngọc Hợp tiếp phong thư kính cẩn mở ra trình trước án Nam Tấn Vương. Vương lặng lẽ đọc phong thư, rồi bảo:

- Tức thật, Hoa Lư quả nhiên đúng ý trẫm nói là cũng muốn hòa, nhưng chúng nó lại cậy lợi thế hơn ta mà nói năng hỗn láo!

Các tướng im lặng đợi chờ. Vương trao lá thư cho tướng Đặng Ngọc Hợp bảo đọc lớn lên để các tướng cùng nghe. Các tướng nghe xong thư, Vương phán liền:

- Lúc này, đành phải nén giận, ta vừa muốn hòa, thì địch cũng muốn hòa tức là nó cũng không mạnh, nhưng ta cũng lại không đủ sức để tiến đánh nó! Vậy, các tướng bảo là nên đối xử thế nào đây?

Ngự tiền trung quân Đặng Ngọc Hợp tâu:

- Tâu Thánh thượng, như lời trong thư thì Hoa Lư chỉ muốn ta lui binh, không thấy đòi hỏi gì cả. Hoa Lư chỉ xin ta theo ngả Đằng Châu, dùng đường bộ mà về Cổ Loa, như vậy là thế nào, xin Thánh thượng chỉ bảo!

Nam Tấn Vương gật gù:

- Chắc Hoa Lư không muốn giao chiến nữa, cũng không xin xỏ điều gì, chỉ muốn ta theo ngả Đằng Châu mà về là nó có ý làm cho Đằng Châu bị ta trừng trị. Hoa Lư với Đằng Châu ắt có thù gì, nên Hoa Lư muốn nhân cơ hội này để hại Đằng Châu đấy chăng?!

Lê Hoạt Hoàng tâu:

- Tâu Thánh thượng, nếu như vậy thì việc ta muốn sang Đằng Châu giặc đã biết ý ta, sao lại còn muốn ta sang Đằng Châu yên ổn thanh nhàn như thế? Chắc giặc có ý gì khác nữa?

Nam Tấn Vương gật đầu:

- Quả đúng như lời khanh nói, chắc có dàn xếp gì trước ở Đằng Châu, bây giờ ta cứ nhận lời tiếp sứ, để xem Hoa Lư muốn như thế nào. Giả sử Hoa Lư có ý gì khác, thì ta cũng nắm được sứ của Hoa Lư trong tay làm con tin. Hoa Lư thế nào cũng phải cử sứ xứng đáng đến xin gặp ta.

Hội nghị cho là ý kiến của Vương rất phải. Lập tức Vương liền truyền sửa soạn tiếp sứ Hoa Lư, lại truyền ra trước doanh trại hạ hết các cờ, chỉ treo một lá cờ lớn mà thôi. Rồi Vương cũng sai tướng Nguyễn Lạc Bình mang mười hai quân thiết kị đến báo cho doanh Hoa Lư hay là Vương chấp thư chuẩn y việc nhân sứ.

Cờ trước doanh Nam Tấn Vương vừa chỉ treo có một chốc đã có tin ngay về Quân sư Hoa Lư biết, Quân sư cười mà rằng:

- Như vậy là đúng, ta hãy sửa soạn để đón sứ của Cổ Loa phúc đáp!

Quân sư vừa nói xong, đã có tin Động chúa đem các tướng về rồi. Quân sư vội dẫn các tướng ra cửa doanh đón Động chúa vào. Động chúa để lại tướng Lưu Cơ giữ đạo quân phía Đông đợi lệnh. Quân sư trình cho động chúa biết mọi việc, lại nói luôn về việc Nam Tấn Vương đã trương cờ hiệu nhận thương nghị, Động chúa hài lòng lắm mà rằng:

- Quân sư định liệu đâu vào đấy như thế tốt lắm. Bây giờ Quân sư nên chỉ dẫn mọi điều cho sứ của ta biết.

- Bẩm Động chúa, tôi đã thừa mệnh Động chúa nói cho sứ của ta nghe rồi. Bây giờ thì tướng Cung Địch Hồng đợi sẵn ngoài doanh, đón sứ của Cổ Loa vào đây nhé!

Cung Địch Hồng vội tuân lệnh, chỉnh tề chiến y, cuốn lại thiết tiễn, rồi rong ngựa đem một số quân nhỏ để đợi đón sứ Cổ Loa.

Trong doanh, Quân sư bảo chuẩn bị sẵn mọi thứ, nghị sảnh đường cực kì uy nghi. Hàng ghế trên cùng là Động chúa ngồi, bên trái Động chúa là Đinh lão, bên phải động chúa là Quân sư, rồi lần lượt các tướng chỉnh tề chiến phục, khí giới gọn gàng, quân hầu nghiêm túc gươm giáo sáng đến chói mắt.

Quân sư nói thêm:

- Bẩm Động chúa, Nam Tấn Vương hồi chiếm động Hoa Lư của ta, tôi có bố trí các mặt, rồi nửa đêm gảy đàn uy hiếp tinh thần Nam Tấn Vương, sau tiếng đàn ấy là đến trận Đa Giá - Vũ Lâm, Nam Tấn Vương ắt chưa quên tiếng đàn báo nguy ấy. Bây giờ nghị hòa, sứ của ta bàn cãi với Nam Tấn Vương, thế nào Nam Tấn Vương cũng muốn chèn ép, vậy tôi lại phải cho Nam Tấn Vương nghe lại tiếng đàn, cho y biết là trung quân Hoa Lư đang có mặt người làm y điêu đứng dạo nọ, có thế y mới chịu nghe lời ta.

Động chúa cả cười mà rằng:

- Quân sư giữa trận gảy đàn, Nam Tấn Vương nghe mê tít kéo quân chạy dài, cổ kim có truyện hay như vậy sao lại chẳng nên cùng mỗi người một tay để lưu tích ngàn năm sau này!

Nói rồi, Động chúa truyền quân sẵn sàng nghe lệnh Quân sư, Quân sư chưa kịp ra lệnh, đã thấy ngoài doanh báo vào: “Nam Tấn Vương cử sứ phúc đáp, tướng Cung Địch Hồng đã đón và đang đưa vào nghị sảnh”.

Mọi người nghe báo liền im lặng, nghị sảnh rộng người đông vậy mà không một tiếng động, ánh lửa nhỏ chiếu lên khí giới của quân hầu đứng dàn hai bên lấp lánh như sao sa, uy vũ tột cùng. Mọi người im lặng đợi chờ.

Một lát có tiếng Cung Địch Hồng từ ngoài nghị sảnh hô vang:

- Hữu tướng quân Cổ Loa Nguyễn Lạc Bình nhiệm mệnh Nam Tấn Vương đáp thư nghị hòa!

Quân sư truyền quân cho phép sứ giả vào.

Cung Địch Hồng liền đưa tướng Nguyễn Lạc Bình vào nghị sảnh. Các tướng ngồi im phăng phắc, Động chúa ngồi ngay ngắn ở ghế giữa, uy nghiêm như tượng thần, bên trái là Đinh lão già mà đẹp tướng, bên phải là Quân sư mặt ngọc dáng dấp ung dung. Cung Địch Hồng bước tới, vòng tay cúi đầu trước Động chúa, bẩm:

- Đại tướng Nguyễn Lạc Bình của Nam Tấn Vương đã tới phúc đáp về việc thư nghị hòa của ta.

Tướng Nguyễn Lạc Bình liền bước tới, dáng dấp hiên ngang, đầu vẫn ngửng cao, thắt lưng vẫn lủng lẳng thanh trường kiếm chứ không mang cây đao quý. Bình vòng tay trang nghiêm khẽ cúi đầu mà rằng:

- Hạ tướng giữ cờ hữu quân của Nam Tấn Vương, nhiệm mệnh Vương đến phúc đáp Động chúa về thư nghị hòa.

Nguyễn Lạc Bình nói chưa dứt, Động chúa đã giơ tay:

- Trước hết, tôi mời ông hãy ngồi đã, ta còn thì giờ để nói chuyện với nhau mà!

Giọng Động chúa vang mà êm, Nguyễn Lạc Bình khẽ cúi đầu ra vẻ cảm tạ rồi ngồi xuống ghế thật ung dung. Trăm mắt đổ dồn cả vào tướng Cổ Loa, Nguyễn Lạc Bình thần sắc vẫn bình thản không có gì là lúng túng. Quân sư ngợi khen trong lòng, rồi cất tiếng:

- Trước doanh binh Cổ Loa, cờ chỉ treo một lá, là ý Nam Tấn Vương đã thuận nghị hòa. Đại tướng tới đây thay Nam Tấn Vương để bàn việc hay chỉ để thông tin?

Tướng Nguyễn Lạc Bình nhìn nhanh nhân vật văn nhã của Hoa Lư, không biết người này là ai mà ngồi ở hàng ghế cao quan trọng như thế. Nghĩ rồi đáp:

- Bẩm, tôi mang lệnh của Nam Tấn Vương đến doanh Hoa Lư trình lên Động chúa là Vương thuận nghị hòa, và đợi nghe Động chúa cho biết sẽ cử sứ giả là ai và lúc nào thì gặp Nam Tần Vương để nghị bàn mọi việc?

Động chúa nghiêm nghị:

- Như thế, sứ giả của Hoa Lư ta sẽ sang doanh Nam Tấn Vương. Được, ta nhường cho ông ấy một bước. Vậy Quân sư định cử ai đi sứ?

Nguyễn Lạc Bình bây giờ mới biết nhân vật tuổi trẻ mặt ngọc chính là Quân sư của Hoa Lư, trong lòng vừa lấy làm kì vừa thoáng nhớ nhanh lại mọi việc mà ghê sợ. Quân sư khoan thai:

- Lẽ ra Động chúa thân nói chuyện với Nam Tấn Vương mới phải, nhưng không thể đường đột như vậy được. Vậy tôi xin Động chúa cử trưởng tử Đinh Liễn đi thay được không?

Động chúa ra vẻ suy nghĩ một chút, rồi gật đầu:

- Cũng được, Đinh Liễn đi thay ta được!

Quân sư bảo Nguyễn Lạc Bình:

- Vậy, phiền ông về trình với Nam Tấn Vương là giữa giờ Tị hôm nay, sứ giả Hoa Lư là Đinh Liễn, trưởng tử của Động chúa, sẽ thay Động chúa đến bàn việc với Nam Tấn Vương nhé!

Nguyễn Lạc Bình tuy trong lòng bất mãn về việc Động chúa chỉ cử con đi nói chuyện với Nam Tấn Vương, nhưng không biết làm sao mà nói được, đành im lặng. Quân sư nói tiếp:

- Cũng phiền ông trình với Nam Tấn Vương là Đại tướng Đinh Liễn đi sứ, được Động chúa Hoa Lư trao cho toàn quyền quyết định mọi việc, vì thế cũng coi như Động chúa thân đến bàn việc nhé!

Nguyễn Lạc Bình nhận lời, lập tức đứng dậy xin cáo từ. Động chua bảo:

- Lúc này không phải là lúc thanh bình yến tiệc, vậy đại tướng cho tôi nợ một lần khoản đãi nhé! Đợi khi nào tôi tới Cổ Loa thế nào cũng mời ông uống rượu một bữa thật say đấy!

Nguyễn Lạc Bình cúi đầu tạ ơn, lại được Cung Địch Hồng trịnh trọng đưa ra khỏi doanh. Bình ra khỏi, Quân sư truyền sửa soạn để tướng Đinh Liễn lên đường cho đúng hẹn. Việc cũng không có gì phải chuẩn bị nhiều. Quân sư hỏi Động chúa:

- Thân làm tướng sa cơ thất thế, tủi nhục ắt không tránh được. Nay Cổ Loa còn một tướng rất tài bị tướng quân Định Liễn dùng mẹo bắt sống hồi đi cứu tướng Phạm Cự Lượng dạo nọ, tôi nghĩ Động chúa nên tha cho tướng ấy, bảo lên ngựa theo tướng Đinh Liễn mà trở về, trước là tỏ ý tốt với Nam Tấn Vương, sau là đãi người tỏ ra đại lượng, để dành lấy cái vốn ấy mai sau, Động chúa quyết định ra sao?

Động chúa cười thật tươi, bàn tay to lớn vỗ mạnh lên vai Quân sư mà rằng:

- Quân sư khéo vẽ vời, ông muốn tha tướng lại xúi ta, ừ thì ta nghe lời ông để dành ân nghĩa với thiên hạ có sao đâu!

Lập tức Quân sư truyền dẫn tướng Khai Sơn Hồ Song Đao lên. Lát sau, quân đưa tướng Hồ vào. Hồ Song Đao tuy là bại tướng bị bắt sống, nhưng vẫn được đối xử tốt, chỉ có điều mình chẳng được mặc chiến bào, chân chẳng được đi giày trận, vóc dáng họ Hồ vẫn tươi tốt. Quân sư mời Khai Sơn tướng Hồ Song Đao ngồi xuống ghế rồi ôn tồn:

- Tướng quân chẳng may thất thế, nhưng Hoa Lư vẫn trọng tài, đối xử với tướng quân đủ lễ nghĩa. Nay Tấn Vương bại trận phải nhận nghị hòa với Hoa Lư. Lát nữa đây tướng Đinh Liễn của Hoa Lư ta đi sứ sang doanh Nam Tấn Vương, tiện đây tướng quân cũng được trả về chứ Hoa Lư tôi không dám giữ!

Khai Sơn tướng Hồ Song Đao ngẩn người nhìn Quân sư, rồi nhìn đến Động chúa. Hồ Song Đao sụp xuống lạy Động chúa một lạy mà rằng:

- Thân là bại tướng, được đối xử tử tế, tôi đã cảm kích, nay lại được Động chúa tha chết cho về, ân nghĩa ấy xin ghi lòng mãi!

Động chúa cười mà rằng:

- Ông thua trận không phải là tài kém, chẳng qua vì không may chút xíu mà thôi. Người trượng phu xứng đáng, dù có thất thế nhưng làm sao mà được phong độ, bởi vậy Hoa Lư ta yêu tài trọng nết ấy để ông được tự do ra về. Ông ở trong quân ta nhiều ngày, ắt thấy tình hình Hoa Lư ta, mai sau ông cứ thật mà kể cho mọi người nghe nhé!

Hồ Song Đao chưa kịp nói, Quân sư đã bảo:

- Nay mai ông sẽ thấy Nam Tấn Vương phải về Cổ Loa, rồi cả thiên hạ náo động. Hoa Lư bước ra thu lấy thiên hạ cứu trăm dân, lập đại thế để mở đường đương cự với họa phía Bắc. Người tài như ông nay chưa có cơ hội theo về đại nghĩa giúp nước, tôi chắc thế nào mai sau cũng có lúc ông thỏa chí giúp đời đấy. Bây giờ, thì ông sửa soạn để cùng với ông Đinh Liễn ra đi là vừa.

Đinh Liễn cùng bước lại, hai tay nắm lấy hai vai Hồ Song Đao thân mật nói:

- Lúc đối trận, tôi chưa đủ tài đành phải dùng đến mẹo để thắng ông, như thế là không chính đáng, vậy xin ông cũng đừng chấp nhé!

Hồ Song Đao bâng khuâng cảm kích, suy nghĩ giây lát, hai mắt rưng rưng lệ mà rằng:

- Bẩm Động chúa, bẩm Quân sư, trước kia còn ở ngoài, tôi thấy Hoa Lư có người tài trùm thiên hạ giúp rập, Nam Tấn Vương thường tỏ ý lo sợ lắm. Từ lúc bị bắt mà hóa lại may mắn được ở với Hoa Lư, biết Động chúa là người vì đại nghĩa mà xuất động, bên cạnh lại có Quân sư tuổi trẻ nhưng mắt nhìn thấy việc chẳng sơ sót chút nào, trong lòng mong muốn được theo về giúp rập các anh hùng hảo hán Hoa Lư, chỉ hiềm thân là bại tướng, nếu ngỏ lời xin thì chắc cũng chẳng...

Quân sư mỉm cười nói luôn, không để Hồ Song Đao nói hết ý:

- Tướng quân không cần nói thêm, Hoa Lư chúng tôi hiểu tâm trạng tướng quân. Nay, ông cứ về Cổ Loa, vả lại còn có vợ con gia đình cần phải bảo toàn, Hoa Lư yêu tài trọng đức của ông, nhưng không thể để ông mang tiếng là “theo giặc” được. Vậy ông cứ về, nếu quả thật một lòng hướng về dân tộc đất nước ta, thì sau này lúc Hoa Lư ra khỏi hang động để vẫy vùng thu thiên hạ, chỉ mong được ông liệu đường giúp đỡ một tay ở Cổ Loa là quý lắm rồi.

Hồ Song Đao biết Quân sư không muốn thu dụng mình ngay bây giờ, chỉ muốn dùng mình làm cớ để thương nghị với Nam Tấn Vương, cũng đành nghe lời.

Thế là, Hoa Lư chuẩn bị để sứ lên đường sang doanh Nam Tấn Vương thương nghị việc triều đình lui quân.

Vừa lúc ấy, tướng Vương Bảo Quyền cưỡi ngựa Á Lôi của Quân sư trở về. Quyền vào thẳng trong doanh trình rằng đã đi các mặt trận, truyền lệnh của Quân sư đến các tướng, ở đâu cũng đều đã nhận lệnh đầy đủ rồi. Quân sư rất hài lòng; Bảo Quyền kính cẩn trao trả Quân sư ngọn Giao Long trủy thủ. Quân sư dặn Động chúa cứ xếp đặt mọi việc, sẵn sàng tiến quân trong lúc sứ giả sang doanh Nam Tấn Vương, đề phòng bất trắc.

Xong rồi, Quân sư đem theo tướng Vương Bảo Quyền và một ít lính ra mé Đông, chọn hướng tốt, lập đài trên đồi cao để Quân sư tấu nhạc đuổi Nam Tấn Vương.

Việc chưa biết ra sao, sứ giả Hoa Lư sang doanh Nam Tấn Vương thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—