Hồi Thứ Năm Mươi Sáu Tấn Vương đánh úp Đằng Châu
Quân sư cầm quân đuổi địch
Đinh Liễn thuật lại mọi việc, báo cho biết Nam Tấn Vương phải đến khoảng trưa mai mới bắt đầu sang sông được, Quân sư nghe trình, trầm ngâm suy nghĩ, Động chúa không nói gì im lặng đợi xem Quân sư định liệu ra sao. Quân sư hỏi cặn kẽ từng việc một. Đinh Liễn thuật lại không thiếu việc gì, từ việc ép Nam Tấn Vương phải tiễn sứ linh đình, đến việc Vương tự thân ra tận xe loan mà biệt sứ, Đinh Liễn kể không thiếu chỗ nào, tuy có việc say ngự tửu gọi mãi mới dậy được thì giấu kín!
Quân sư chăm chú nghe, cúi đầu suy nghĩ hồi lâu, rồi buột miệng:
- Lạ thật! Lạ thật!
Động chúa, các tướng lấy làm ngạc nhiên, ai cũng có vẻ bồn chồn cho rằng Quân sư thấy có điều gì khác lạ, việc tất có chỗ không trôi chảy. Đinh Liễn nghe Quân sư kêu như vậy, trong lòng hồi hộp lắm.
Động chúa hỏi:
- Quân sư thấy có gì lạ?
Quân sư hơi nhíu mày, rồi chậm chạp đáp:
- Bẩm Động chúa, tôi thấy có điều gì không đúng! Ở chỗ: tuy rằng Hoa Lư ta với Nam Tấn Vương có giao ước để Nam Tấn Vương được lui binh êm thấm, nhưng không hề có việc bảo rằng ta không thể bất thần đánh úp Cổ Loa, việc binh không ai bắt buộc phải ngay thẳng thề thốt gì cả, địch sơ hở là ta có thể tiến đánh. Nam Tấn Vương cầm quân thừa biết như vậy, tại sao lại còn chùng chình đợi đến trưa mai mới di quân sang Đằng Châu? Vả lại, quân ta bao vây khắp mặt, thì Nam Tấn Vương ở đây có khác nào ngồi trên lò lửa, sao có thể ung dung từ tốn như vậy được?
Đinh Liễn chột dạ, nghe Quân sư biện bạch lấy làm lạ lắm! Động chúa nóng lòng hỏi vội:
- Như vậy, Quân sư cho là Nam Tấn Vương mưu toan những gì?
Quân sư không đáp lời động chúa, vẫn trầm ngâm suy nghĩ, rồi chợt ngẩng đầu nghiêm nghị hỏi Đinh Liễn:
- Tướng quân đi sứ, trừ lúc bị treo trên ngọn tre, còn có lúc nào tướng quân không cùng Nam Tấn Vương họp bàn, hoặc giả cùng các tướng Cổ Loa nghị sự mà không có mặt tướng quân không?
Đinh Liễn suýt nữa thì kêu lên kinh hãi, quả thật có lúc Đinh Liễn không cùng Nam Tấn Vương và các tướng Cổ Loa nghị bàn, vì lúc ấy Đinh Liễn say rượu ngủ mê mệt. Đinh Liễn thần sắc không tự nhiên, lúng túng ấp úng nói chẳng ra lời. Mọi người thấy thế, lấy làm ngạc nhiên. Quân sư ung dung nói thật rành rẽ:
- Nhất định phải có lúc tướng quân không họp bàn với Nam Tấn Vương, lúc ấy chính là lúc Nam Tấn Vương cùng các tướng Cổ Loa mật nghị, sau đấy mới có việc bảo là sẽ sang Đằng Châu vào xế trưa mai!
Cả hội nghị nín lặng hồi hộp, Đinh Liễn như ngồi trên đống lửa, mặt cúi xuống suy nghĩ không dám ngửng lên. Động chúa tuy không hiểu ra sao cả, hướng đôi mắt sắc như dao nghiêm nghị nhìn Đinh Liễn, lại chăm chú nghe Quân sư hỏi việc, Đinh Liễn không dám nhìn ánh mắt dữ dội của cha chàng.
Quân sư nói tiếp:
- Chắc là khi nghị bàn mọi việc với tướng quân xong, Nam Tấn Vương lại cùng các tướng mật nghị, lúc ấy là lúc không có mặt tướng quân Đinh Liễn! Nhất định phải có gì khác lạ trong doanh của Nam Tấn Vương đấy!
Quân sư nói xong, trầm ngâm suy nghĩ, ngón tay khẽ nhịp xuống mặt bàn. Cả hội nghị im phăng phắc. Hồi lâu, Quân sư ngửng đầu lên, giọng quả quyết:
- Bẩm Động chúa, Nam Tấn Vương bảo rằng xế trưa mai sẽ bắt đầu sang sông, tôi không tin như thế!
Động chúa nóng ruột hỏi luôn:
- Như thế, Quân sư có ý nghi Nam Tấn Vương muốn lừa ta?
- Bẩm Động chúa, quả thật Nam Tấn Vương không nói thật!
- Ý nói dối ở chỗ nào? Sao Đinh Liễn lại không biết? Quân sư nói rõ cho tôi nghe xem sao?
Bẩm Động chua, cứ theo lời tướng quân Đinh Liễn thuật lại đủ cả, thì không có chỗ nào có thể chen vào được những lời lẽ để cuối cùng có quyết định là Nam Tấn Vương sang sông muốn như thế! Một là tướng Đinh Liễn thuật còn thiếu chỗ nào, hai là Nam Tấn Vương đã quanh co xoay sở để tướng Đinh Liễn không biết...
Đinh Liễn nói:
- Thưa Quân sư, Nam Tấn Vương có nói rằng: “Thưa với Động chúa, thuyền bè không có, phải cắt lau sậy kết mảng vượt sông, nên việc mới chậm như thế”.
Quân sư mỉm cười:
- Nam Tấn Vương nói không ổn! Quân của y còn nhiều, lau sậy lại không phải là thứ khó cắt, sao lại bảo là vì thế mà chậm trễ? Bè lau sậy yếu nhưng lại vượt sông rất tốt, Nam Tấn Vương đem đại binh chạy chứ có phải là tuần du dâu mà muốn ngự thuyền cho sang! Chỉ có điều đáng để ý là: Tại sao Nam Tấn Vương muốn sang sông chậm?
Hội nghị im lặng, Đinh Liễn trong lòng nóng như có lửa đốt, Động chúa xem ra có vẻ bực tức hỏi:
- Quân sư thấy thế nào, định ra sao?
Lê Thảo ngửng đầu, giọng cương quyết:
- Bẩm Động chúa, tôi tin chắc là Nam Tấn Vương định lừa ta! Y nhất định không sang sông trễ đến như vậy! Lúc này, y gấp rút sửa soạn sang sông, lại hết sức dò xét động tĩnh của ta, thế nào y cũng muốn nhân cơ hội sang Đằng Châu bất thần cướp Đằng Châu đúng như điều tôi lo! Ta phải hành động trước y, cứ đúng như các điều tôi đã xếp đặt mà làm! Thế nào ta cũng vào Đằng Châu trước Nam Tấn Vương!
Quân sư vừa dứt lời, quân tế tác đã vào bẩm:
- Quân Cổ Loa nỗ lực cắt lau sậy kết mảng, việc làm rất nhanh. Chỉ cuối Sửu là cùng chắc đủ bè sang sông!
Cả hội nghị nghe báo kinh hãi, đúng như Quân sư suy tính: Nam Tấn Vương cố sang sông sớm!
Động chúa tươi cười nói:
- Đúng lời Quân sư định liệu: Nam Tấn Vương vẫn không thoát bàn tay tài hoa xinh xắn của Quân sư ta rồi!
Đinh Liễn thấy tình hình, cũng bớt lo trong bụng vì mọi người còn bận rộn với việc quân, không ai chú ý đến việc tại sao Nam Tấn Vương hẹn sang sông trễ nữa, như thế là tránh được khỏi phải nói ra chỗ mình say rượu tiết lộ quân mật!
Ngay trong chiều hôm ấy, lúc mặt trời vừa lặn, Quân sư đã xin Động chúa cầm quân bí mật sang sông, Quân sư đi cực kì lặng lẽ, đến sóng nước cũng không khuấy mạnh, chim chiều ngủ trong lau sậy bên sông cũng không bị thức giấc. Trời tối mịt, thì bình Hoa Lư do Động chúa đích thân trông nom, đã vượt sông xong xuôi, trấn đóng đâu vào đấy.
Quân sư dùng một thuyền nhẹ, sai mười hai tay chèo ra sức vượt sông, đi lại các mặt để Quân sư xem xét công việc.
Trên đảo Đà Lỗ, hai tướng Lê Hoàn, Nguyễn Bặc đã phục xong quân, lúc Quân sư tới mọi việc đều đã tốt đẹp.
Quân sư hài lòng lắm, dặn thêm:
- Hai tướng phải chuẩn bị thật đầy đủ, đợi khi binh ta quát đuổi Nam Tấn Vương chạy lên phía Bắc, phải hết sức mau lẹ vượt sông băng sang hướng Đông, đặt quân trấn giữ Đông Bắc Đằng Châu, nếu Sứ quân Phạm Phòng Át có cho hỏi cứ trả lời là: Quân sư sai đem quân giữ mạn Đông Bắc Đằng Châu, để phòng Cổ Loa hợp với Bình Kiều bất thần đánh tới. Binh phải cho nghiêm chỉnh, cấm tuyệt không đụng chạm đến dân, một con gà con cũng không được tơ hào, trái lệnh tội tất phải bị chém đầu!
Rồi Quân sư cho thuyền xuôi Nam, lên bờ tìm gặp Động chúa. Động chúa đã đem binh án kín dọc xông Xích Đằng phía Bắc Đằng Châu. Đạo quân của Động chúa có quân của hai tướng trên đảo Đà Lỗ ngó sang để phù trợ, Trịnh Tú mang quân đi các mặt, cũng đã xong việc vượt sông tới trình trước Động chúa. Quân sư vui vẻ bảo:
- Đêm hôm nay cho đến trưa mai là cùng, việc lớn quyết định xong xuôi cả. Động chúa khi ra mặt để cho Nam Tấn Vương thấy, rẽ trở về Bình Lục mà đợi. Còn tướng Trịnh Tú thì cứ cầm quân trấn giữ mặt Tây Bắc Đằng Châu, phía Đông Bắc sẽ có Lê Hoàn cùng Nguyễn Bặc giữ, như thế là ta có thể lấy cớ đóng quân che chở cho Đằng Châu, nhưng kì thực binh ta đã vào được trọng địa Đằng Châu êm thấm. Ở phía Nam, đạo quân của bốn tướng Đằng Châu vẫn còn, tướng Đinh Liễn giữ trọng trách điều động dạo quân ấy. Bốn tướng đưa về đây để cho ông Trịnh Tú trông nom quản thúc. Như vậy, mặt Nam binh ta cũng có, binh ấy tuy là của người nhưng lại do ta cầm giữ sai khiến vào việc của ta đấy!
Động chúa và các tướng nghe Quân sư giảng việc, ai cũng sợ, lại thêm hào khí sôi nổi, thế là Hoa Lư vừa lấy tiếng đuổi binh Triều, lại nhân cơ hội để mở mang bờ cõi. Ai nghe việc cũng phấn khởi. Động chúa hớn hở hỏi:
- Có phải như vậy là Quân sư bắt đầu cho Hoa Lư ta ra mặt tranh hùng với thiên hạ rồi đấy chăng?
Quân sư mỉm cười đáp:
- Bẩm Động chúa, thật ra với cái thế như vậy, ta lấy Đằng Châu dễ như trở bàn tay. Nhưng, việc binh đao sẽ làm rung động các nơi khác. Ở Bình Kiều, Ngô Xương Xí sức chưa đủ mạnh, nhưng bên cạnh còn có một tay đáng nể mặt giúp đỡ.
Động chúa hỏi vội:
- Người ấy là ai?
Quân sư nét mặt rạng rỡ:
- Bẩm, người ấy chính là anh ruột của tôi, tên gọi Lê Hiền đấy! Tiếc rằng anh tôi nhận định việc lớn không đúng mà đi giúp cho Xương Xí!
Nói xong, Quân sư nét mặt thoáng vẻ buồn, tiếp lời:
- Ta lấy Đằng Châu ầm ĩ bằng binh đao, tất Bình Kiều phải nhận thấy là an toàn ở mặt Nam của mình bị mất, phải xuống tay hành động. Như thế là ta vừa mới chống nhau với Nam Tấn Vương xong, quân chưa được nghỉ, tướng chưa được cởi giáp, đã phải dốc lực lượng cự với Bình Kiều, sao bằng cứ lẳng lặng đoạt Đằng Châu, khiến bên ngoài dù biết vậy cũng chẳng làm gì được ta có phải hơn không!
Động chúa vui vẻ:
- Vậy Quân sư tính sau việc ta phục ở đây, Đằng Châu sẽ thế nào?
- Bẩm, tôi xin vắn tắt: Phạm Phòng Át sẽ phải tới Hoa Lư để tạ ơn, nhân dây ta sẽ dùng mưu kế phá nát nội bộ Đằng Châu, làm cho Phạm Phòng Át không còn có chỗ về nữa, phải cúi đầu xin được nương náu ở nhà ta, làm tôi tớ cho ta mà thôi!
Động chúa, các tướng nghe Quân sư nói, ai cũng ghê sợ xen lẫn nghi ngờ. Quân sư nhìn mọi người, hiểu ý, liền bảo:
- Đây là việc mai sau, bây giờ thì: sau khi động chúa về Bình Lục rồi, ông Chu Kỷ Toàn giữ quân cùng với ông Trịnh Tú ở lại Đằng Châu, thế là ta có cả thảy năm tướng là các ông Lê Hoàn, Nguyễn Bặc ở Đông Bắc, Trịnh Tú, Chu Kỷ Toàn ở Tây Bắc, Đinh Điền ở mặt Nam, tất cả vây Đằng Châu để cho ta thi hành kế sau này. Riêng thủy trại Ngọc Cầu của Đằng Châu, lúc ấy tự nhiên bị mất liên lạc với phủ đường của Phạm Phòng Át, ta cứ để cho được thanh thản, sau sẽ thu phục.
Quân sư nói chuyện đến khi trời sắp về khuya, tới các từ Động chúa xuống thuyền lặng lẽ xuôi Nam đem theo Đinh Điền để xem xét tình hình, đợi đạo quân của bốn tướng vượt sông. Sông dài thăm thẳm, rộng mênh mông, về khuya trăng tròn vằng vặc nhưng lại bị mấy cộm đầy lâu lâu che khuất, gió nhẹ hiu hiu. Quân sư ngửng mặt nhìn trời, rồi lẩm nhẩm tính toán, đầu gật gù ra vẻ hài lòng.
Ở doanh Nam Tấn Vương, Vương đích thân đốc thúc binh tướng ra sức kết bè lau sậy. Quân làm không nghỉ tay, ăn ngay tại chỗ. Tướng cũng cùng với quân nỗ lực cắt sậy. Đến khuya, số sậy để kết bè đã đủ, Nam Tấn Vương truyền đem sậy ấy bó lại thành từng bó lớn bằng thân cây chuối lớn, bó thật chặt, sau mới đem kết lại thành mảng rộng mỗi chiều hai mươi thước (khoảng tám, chín thước tây), dày hai gang tay. Mỗi bè như vậy chở được đến ba bốn chục quân kể cả ngựa trận.
Tàn Sửu, bè kết xong cả, Vương truyền quân nghỉ ngơi, chuẩn bị để vượt sông ngay. Vương truyền các tướng hội lại mà rằng:
- Nhờ các tướng cùng binh hết lòng, bè ta làm xong được sớm. Nay phải nhân lúc còn nửa đêm, vượt sông sang Đằng Châu ngay mới được, đừng để cho trời sáng việc chuyển quân của ta không lợi.
Rồi Nam Tấn Vương truyền tướng Đặng Ngọc Hợp lĩnh cờ tiên phong mang quân sang sông, sại tướng Đạo Tường ở lại thủ doanh, lại cho người bí mật vượt Sinh Khuyết báo cho đạo quân do Nguyễn Phí Hồng cầm, lẻn sang sông cùng đại quân họp mặt.
Vương lại bảo doanh trại cờ xí như thế nào cứ để nguyên như thế, trong tuần canh vẫn đều đều giữ nhịp, các quân ở lại phải đều đều ra vào doanh tiếp tục cắt lau sậy mang về, làm ra vẻ quân còn chưa kết xong bè đợi đến đúng giữa trưa mai thì bất thần nhổ trại vượt sông đánh úp phía Nam Đằng Châu.
Quân Cổ Loa âm thầm xếp đặt, rồi âm thầm sang sông vào đầu giờ Dần. Binh Cổ Loa nhân con nước đứng ra sức vượt sông, bao nhiêu bè mảng đều bị trên đảo Đà Lỗ trông thấy cả. Bên kia sông đạo quân của Động chúa cũng thấy rõ mọi việc. Động chúa chẳng khỏi bội phục Quân sư tính việc chẳng sai, rõ ràng Nam Tấn Vương lén vượt sông sớm!
Ở mặt Nam, binh Cổ Loa vẫn thảnh thơi giữ nhịp trống canh, nhưng đạo quân nhỏ bên kia Sinh Khuyết thì đã lẻn được sang bên này sông, họp với quân của Thái Đạo Tường mà giữ doanh.
Quân sư cùng với Đinh Liễn bỏ thuyền lên bộ, lần đến doanh của bốn tướng Đằng Châu. Quân sư vào doanh, họp các tướng lại mà rằng:
- Binh của Nam Tấn Vương đã bí mật sang sông, nhưng lại không biết Động chúa đã đợi sẵn từ lâu rồi! Ở mặt phía Nam, thế nào cũng có một cánh quân đánh úp, nhưng không lớn mấy, vậy ba tướng Đằng Châu hãy lên đường đến hợp với đạo quân của Động chúa ở phía Bắc Đằng Châu, cùng Trịnh Tú giữ mặt ấy mà đuổi binh Triều.
Ba tướng Cao Hồ Đạo, Trịnh Xuân Thu, Phí Tiên Yên vâng lệnh lên đường sang sông. Còn lại tướng Phác Đức Giật được Quân sư ủy cho cùng với Đinh Liễn ở lại giữ quân, đợi đến khi nào binh Cổ Loa vượt sông đánh úp phía Nam Đằng Châu thì xuất hiện.
Việc quân Cổ Loa ở bên kia Sinh Khuyết vượt sông hợp với binh bên này, Quân sư cũng đã được biết, Quân sư liền cho quân gấp chạy ngựa đến Lai Xá, bảo đạo quân ở đây không cần trấn giữ nữa, hãy lên đường đến Bình Lục đợi lệnh.
Quân sư cho tế tác đi các mặt lấy tin, tin báo về liên miên. Quân sư ngồi một chỗ mà nhìn thấy rõ mọi mặt. Đến giữa buổi sáng, Quân sư được tin từ bên kia sông Động chúa gởi về cho hay: Nam Tấn Vương đã sang sông xong rồi, binh đang sửa soạn để tiến lấy Đằng Châu. Quân sư nhận tin mỉm cười, liền sai quân phát lệnh cho Lê Hoàn, Nguyễn Bặc ở đảo Đà Lỗ mang quân đổ bộ, đóng đằng sau binh của Nam Tấn Vương, đợi khi nào tiền quân của Nam Tấn Vượng gặp phải đạo quân của Động chúa thì lúc ấy mới được xuất hiện. Nếu có giao tranh cũng chỉ nên để tướng Đằng Châu là Nam Nhật Huy xuất trận mà lượm chiến công.
Quân sư phát lệnh xong, bảo Đinh Điền:
- Ta có hẹn với Phạm Phòng Át là trăng tròn hai buổi thì Nam Tấn Vương sang sông, quả nhiên vẫn không sai hẹn! Bây giờ chỉ còn đợi cho Nam Tấn Vương xuất quân nữa là xong. Có điều, tướng quân nên để ý là: phép đụng binh phải cốt lấy được nhiều tin tức của địch là cần. Nam Tấn Vương thế cũng không đủ dò la phía ta, ta vì dàn xếp trước nên ung dung ngồi cũng thấy hết mọi hành động của địch. Đằng Châu bưng tai ngủ kỹ, việc xảy ra ngay sát nách thế mà vẫn chẳng biết gì! Sở dĩ như vậy, là vì quân ta chẹn không cho tiền quân của Cổ Loa tiến đánh được thủy trại Ngọc Cầu.
Đinh Điền lắng nghe Quân sư chỉ bảo, cố lĩnh hội những điều khôn ngoan, rồi hỏi:
- Bẩm Quân sư, việc Quân sư hẹn với Phạm Phòng Át đêm mười tán thì đốt lửa, ắt cũng làm cho y lúc này phải chú ý đến công việc, cho quân dò la nghe ngóng tin tức mới phải, chứ sao y lại im lặng như thế?
- Có thể Phạm Phòng Át cũng đã cho lệnh đi rồi nhưng vì ta bảo là đốt lửa chứ có bảo y đàn quân ngăn địch đâu, cho nên y mới dại dột ung dung như thế! Chắc chẳng bao lâu nữa, chiến trận xảy ra, lúc ấy Phạm Phòng Át mới bàng hoàng kinh hãi đấy!
Quân sư vừa nói dứt, quân đã vào trình:
- Bẩm Quân sư, tướng Đằng Châu Phác Đức Giật xin vào bẩm việc.
Quân sư mời vào, Phác Đức Giật vào bẩm:
- Bẩm Quân sư, tin vào báo về nói rằng: đạo quân còn lại của Nam Tấn Vương cũng đang sửa soạn để vượt sông!
Quân sư cười:
- Tướng quân đừng lo! Ta đã xếp đặt xong xuôi hết rồi!
- Bẩm Quân sư, đạo quân ấy sẽ làm gì ở Đằng Châu ta?
- Đạo quân ấy đợi khi nào mặt Bắc Nam Tấn Vương xuất quân đánh vào phủ đường của Sứ quân Phạm Phòng Át, thì vượt sông đánh úp ở mặt Nam đấy!
Tướng Phác Đức Giật nghe Quân sư nói, giật bắn người, đứng bật dậy mà rằng:
- Thưa Quân sư, thế thì nguy mất! Sứ quân tôi đã được biết tin gì chưa?
Quân sư giơ tay bảo Phác Đức Giật ngồi xuống, rồi tiếp:
- Ông dừng lo! Sứ quân Đằng Châu đang yên ổn, đừng làm cho ngài mất cả bình yên! Việc quân đã có các tướng lo liệu.
Phác Đức Giật bồn chồn lo lắng, nghe Quân sư nói chịu không nổi bật cãi:
- Thưa Quân sư, như vậy không được! Việc gấp quá rồi sao còn ngồi yên được nữa! Đằng Châu không chuẩn bị ứng chiến thế nào được.
Quân sư nghiêm trang:
- Tôi đã bảo ông đừng lo, thì dừng lo! Các mặt Hoa Lư đã sẵn sàng cả rồi, Nam Tấn Vương sang Đằng Châu cuối cùng cũng chỉ chạy dài mà thôi, không có đánh nhau đâu! Nhưng, trước tôi có nói với sứ quân Bạch Hổ rằng: binh Đằng Châu không cần xuất trận, chỉ dàn thành trận để đuổi địch, nay việc dàn xếp ấy một mình Đằng Châu không thể làm được, tôi có cho binh Hoa Lư dàn xếp cả rồi. Nay tướng quân lúc đối trận nếu thấy hứng, thì cứ việc ra tài mà lấy chiến công nhé!
Phác Đức Giật nghe Quân sư trấn an, tuy cũng hơi yên lòng, nhưng vẫn còn băn khoăn nhiều lắm. Đức Giật là tướng không đến nỗi kém cỏi, lại thêm có óc quật cường, nay nghe Quân sư Hoa Lư bảo rằng “binh Hoa Lư đã vào Đằng Châu dàn xếp mọi mặt”, thì chẳng khỏi hoang mang, tự hỏi Sứ quân Bạch Hổ sao lại không biết những việc quan trọng như vậy, Hoa Lư tự tiện đem quân sang Đằng Châu là thế nào?
Nghĩ thì nghĩ, nhưng Đức Giật lúc này một mình ở đây với một nghìn rưỡi quân thì làm gì được, lại thêm bên cạnh có dũng tướng Hoa Lư Đinh Điền, thêm Quân sư nữa thì Đức Giật làm sao cưỡng lại được!
Đức Giật kín đáo thở dài, lòng lo lắng vô cùng, biết là việc hệ trọng cho Đằng Châu bắt đầu từ việc Hoa Lư mang quân sang sông này!
Quân sư thấy dáng điệu Phác Đức Giật, thừa hiểu là Giật lo lắng, liền bảo:
- Khi nào binh Cổ Loa đánh úp mặt Nam Đằng Châu thì binh của tướng quân sẽ ra mặt, lúc ấy tôi đoán chắc với ông là quân Cổ Loa sẽ bỏ chạy. Binh Đằng Châu đuổi ở đằng sau tha hồ mà chém giết, chiến công ấy tướng quân một mình lãnh cả nhé!
Rồi Quân sư truyền tướng Đinh Điền cũng sửa soạn cho quân sang sông trước binh Cổ Loa, Đinh Điền nhận lệnh đi thu xếp việc quân ngay.
Quân sư mỉm cười bảo Phác Đức Giật:
- Tướng quân đừng e ngại gì cả, binh Hoa Lư tuy có vào Đằng Châu thật, chẳng qua vì thế trận mà phải tạm giữ bí mật, sau thế nào Sứ quân Bạch Hổ cũng biết, lúc ấy mọi việc đã xong cả rồi. Việc không cần phải làm cho náo động, thì không cần phải làm bận lòng Sứ quân, ông lo là phải, nhưng Hoa Lư có bao giờ lại đi làm cái việc của Nam Tấn Vương làm cho Hoa Lư bao giờ! Việc lớn trong thiên hạ, Hoa Lư sẽ hành xử theo lẽ lớn của kẻ trượng phu, tướng quân cứ chờ mà xem!
Phác Đức Giật ngồi nghe Quân sư nói, đầu cúi xuống im lặng. Đức Giật thấy sôi nổi uất hận trong lòng, biết là Hoa Lư thế nào cũng thừa cơ chèn ép Đằng Châu chứ chẳng sai. Nghĩ rồi, không nén được, ngẩng đầu rắn rỏi nói:
- Thưa Quân sư, Đằng Châu chúng tôi tự biết không bằng được Hoa Lư, tài trí của Quân sư trong thiên hạ ít người đối địch được. Tôi tự biết trước sau Hoa Lư cũng lấy Đằng Châu, nếu phải có ngày ấy thì xin Quân sư cho tôi không phải nhìn cái hận ấy mà thôi!
Nói rồi, Phác Đức Giật nuốt hận, cố giữ cho nước mắt khỏi trào ra, rồi thở dài một tiếng mà đứng lên. Quân sư Lê Thảo trong lòng chẳng khỏi phục vị tướng này trung nghĩa, nhưng chỉ tiếc một điều là hẹp hòi không nhìn thấy việc lớn của dân tộc. Nghĩ rồi, ôn tồn bảo:
- Tướng quân sẽ không bao giờ phải nhìn cái hận nào cả, hãy vững lòng đợi xem, thế nào cũng được thấy hùng khí của dân tộc ta dâng cao, lúc ấy hào kiệt bốn phương sẽ tụ lại mỗi người một tay cứu trăm dân ra khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng, không cho họa phương Bắc đổ xuống đầu dân ta nữa đấy!
Phác Đức Giật không nói gì, vẻ uất hận vẫn còn, Quân sư bồi thêm:
- Lòng trung của tướng quân với Sứ quân Đằng Châu rất đáng ca ngợi, nhưng tôi hỏi tướng quân một điều: trăm dân khổ, tướng quân thương hơn, hay là đem địa vị của một người coi trọng hơn cả cuộc sống của trăm dân nào?
Phác Đức Giật ngẩng đầu:
- Thưa Quân sư, đành rằng trăm dân là trọng hơn cả, nhưng không vì thế mà mỗi lúc có việc phản phúc được...
Quân sư chặn lại:
- Ai bảo tướng quân làm công việc phản phúc bao giờ? Việc An Dương Vương dựng Âu Lạc, nếu không dứt được Hùng Vương Văn Lang, làm sao nên đại nghiệp: tiếp đến việc Hai Bà họ Trưng, nếu cứ việc gia trung giữ tiết ở chốn phòng the, không vì hận nước thù chồng mà đứng lên, sao có cơ hội mở ra cho dân ta một thời tự chủ. Đến đời Vũ Đế nhà Lương, năm Đại Đồng, Lý Bốn khởi nghĩa xưng vương, nửa đường đứt gánh, Triệu Quang Phục thay quyền sau cũng xưng vương, có thể nào gọi được là phản phúc hay không? Biết bao nhiêu việc xảy ra, trải qua Lý, đến Ngô là việc gần đây, anh hùng trong thiên hạ có bao giờ lại đi nhắm mắt giữ lòng trung với một người, mà lại bỏ quên mất cả trăm dân! Hào kiệt trong thế gian, không phải là người ở ngôi chỉ chăm việc xa hoa, nắn nót trau chuốt mảnh đất con của mình, hào kiệt là người nhìn xa mãi ra ngoài bốn phương trời, thấy trăm dân còn trọng hơn cả tính mệnh của mình, xem việc nước biết tính toán xa gần, người như vậy mới đáng để ta tìm đến mà thờ, bỏ mà đi mới đáng bị gọi là có tội phản phúc chứ!
Quân sư thừa đà lung lạc tướng Đằng Châu, làm cho Phác Đức Giật cứ cúi đầu mà nghe chẳng biết nói sao, trong lòng cũng thấy dịu lại.
Vừa lúc ấy, Đinh Điền vào trình đã thu xếp xong, xin đợi lệnh để sang sông. Quân sư nghe trình thì cười mà rằng:
- Sang Đằng Châu, không ai thuộc đường bằng ông Phác Đức Giật, vậy xin để ông cầm quân phát lạc mệnh lệnh, tìm nơi địa thế tốt đóng quân, đợi binh Triều đến!
Đức Giật bị Quân sư thuyết xong, lại dồn đến chỗ phải thân cầm quân của mình đưa Quân sư và tướng Hoa Lư vào lãnh thổ của chủ mình, trong lòng thấy không nỡ, nhưng lại sợ lỡ việc quân không cản được binh Triều khiến Đằng Châu bị nguy thì không gỡ được, đành tuân lệnh Quân sư mà ra lệnh cho quân sang sông!
Quân sư cho đi mời Tôn Phủ Nghi đến, rồi cùng nhau gấp rút sang sông. Phác Đức Giật đem binh đóng ở gần Nhân Dục, dựa vào sông nhỏ Cửu An đến kho Bằng Ngang mà trấn giữ. Quân sư thay thế không nói gì, truyền tướng Đinh Điền và Phác Đức Giật đến mà rằng:
- Hai tướng đóng quân như vậy cũng gọi là được, nhưng thật ra không đúng lắm. Lẽ ra phải đưa binh vào Bắc Hòa, dựa ngay mé Xích Đằng mà trấn mới đúng. Vả lại, ở Bắc Hòa dân ta không đông, người Tàu mới nhiều, binh đóng ở đâu tất thiệt cho bá tánh đến đó, sao không đem cái thiệt ấy cho người khác mà lại đổ cho dân ta! Các tướng phải nhớ kĩ điều đó, mai sau còn có nhiều phen dùng đến!
Các tướng vâng dạ nghe lệnh, Quân sư lại dặn:
- Hai ông nghe cho thật kĩ: Khi nào binh Cổ Loa sang sông, các ông cứ giữ quân im lặng, không được để lộ dấu vết, đợi đến khi nào binh Cổ Loa bắt đầu tiến đánh, lúc ấy ông Đinh Liễn phải ra trận trước, nhưng không cốt giao chiến thực tình, chỉ cốt bảo cho binh Triều biết là ta đã sẵn sàng mọi mặt, đợi từ lâu rồi. Đến khi binh Triều bỏ chạy, lúc ấy tướng Phác Đức Giật mới kéo quân đuổi theo mà lấy chiến công, tuy thế có chém giết cũng đừng quá tay làm gì, hại dân ta cả đấy thôi!
Hai tướng ngồi nghe chăm chú, Quân sư nói tiếp:
- Đuổi theo binh Triều lên phía Bắc rồi, hai ông hợp quân với binh của ông Trịnh Tú và Chu Kỷ Toàn, rồi ông Đinh Điền đem nghìn rưỡi binh Đằng Châu lại trở về Nam, tới Bắc Hòa đóng để đợi lệnh! Còn ông Phác Đức Giật hợp cùng với ba tướng Đằng Châu ở chỗ ông Trịnh Tú, đợi về trình Sứ quân Bạch Hổ mà thưa mọi việc. Như thế, là ở mặt Nam ta vẫn có lực đề phòng mọi bất trắc, giữ cho Đằng Châu khỏi bị loạn đấy!
Mọi việc xong xuôi, cũng đã vào đầu giờ Ngọ, quân ăn cơm ngay tại chỗ ẩn núp mà đợi chờ. Đến gần giữa Ngọ, binh Cổ Loa từ bên kia Xích Đằng bất thần xuống bè vượt sông. Bên này sông, binh Hoa Lư trông thấy rõ lắm. lập tức, Quân sư truyền sẵn sàng.
Binh Cổ Loa do tướng Thái Đạo Tường điều động, hợp với tướng Nguyễn Phí Hồng đông khoảng một nghìn rưỡi, vượt sông Xích Đằng thật mau lẹ, chẳng mấy chốc bè đã cập bờ, binh Cổ Loa đổ bộ ngay phía dưới binh Hoa Lư ẩn núp, rồi gấp rút chỉnh đốn hàng ngũ nhắm hướng Đông Bắc tiến phát.
Tức thì, Quân sư cho lệnh hai tướng Đinh Điền, Phác Đức Giật cũng thúc quân băng sang hướng Đông chặn đường quân Cổ Loa; Phác Đức Giật trong lòng hồi hộp lắm, đây là trận tranh hùng lớn lao đầu tiên trên giang sơn của Sứ quân Đằng Châu Phạm Phòng Át. Phác Đức Giật quên hẳn mọi lo âu, bây giờ hăm hở vào trận.
Quân vượt đường mà đi như vậy, chừng cạn hai tuần trà, thì dã tới được mé Đông Nam sát Đằng Châu, Quân sư truyền phục quân chờ đợi.
Quân đội chưa lâu, đã thấy lá rừng xao động, mặt đất rung rinh, binh Cổ Loa ào ào tiến tới chực đánh ụp phía Nam Đằng Châu.
Binh cả đôi bên đều vượt đường rừng mà đi, tránh những nơi dân ở, thành ra cả hai bên ra quân vẫn yên tĩnh, quân tiến không reo hò, cờ xí cuộn cả lại, chỉ có tiếng vó ngựa khua ầm ầm nhưng cũng chẳng làm bật được rễ cây rừng, Đằng Châu vẫn lặng lẽ!
Đợi cho binh Cổ Loa ra khỏi rừng trông đã rõ, Quân sư lúc ấy mới truyền Đinh Điền một mình một ngựa ra chặn đường, lại bảo Phác Đức Giật đợi khi nào Đinh Điền giao chiến thì xua quân đánh vào sườn binh Cổ Loa.
Đinh Điền xốc cây côn đồng, giục ngựa chạy ra khỏi chỗ nấp, rồi trụ ngựa nghênh ngang cản đường. Binh Cổ Loa do tướng Thái Đạo Tường mở đường ào ào tiến tới, gặp ngay Đinh Điền, Tường ghìm ngựa mà nhìn. Đinh Điền ngồi thắng trên lưng chiến mã, cây côn đồng gác ngang lưng ngựa. Đinh Điền thấy tướng triều đình ghìm ngựa nhìn, thì ngửa mặt lên trời cười như sấm nổ một hồi, rồi lớn giọng quát:
- Bớ giặc Nam Tấn Vương, toan đánh úp Đằng Châu vô phúc lại gặp phải ta được lệnh Quân sư đợi ở đây đã lâu rồi!
Binh Cổ Loa thấy bị chặn đường, thì chẳng còn hồn vía, tinh thần đã tan nát, nay tưởng lên đánh úp được Đằng Châu nào ngờ lại bị Quân sư Hoa Lư biết trước cho quân đợi sẵn, thế là từ tướng xuống đến quân đều run rẩy. Thái Đạo Tường mặt tái nhợt kinh hãi cứ ngẩn người mà nhìn.
Đinh Điền lại quát:
- Bớ giặc Nam Tấn Vương, sao chẳng biết điều, Hoa Lư ta rộng lượng cho được yên ổn chạy về Cổ Loa, sao lại còn gian trá lén lút muốn cướp Đằng Châu để chống lại Hoa Lư? Bay nghĩ sao, bay hành động thế nào, Quân sư Hoa Lư ta đều biết tất cả, bây giờ còn đứng nhìn hay sao còn chưa chịu xuống ngựa lạy hàng đi!
Giọng quát của Đinh Điền như sấm nổ, quân hai bên nghe thấy đều giật mình. Quát xong, Đinh Điền giục ngựa vọt lên, cây côn đồng vươn ra theo tiếng quát “Đỡ!” tận lực đập côn xuống đầu Thái Đạo Tường. Tường như tỉnh như mê, lại chán nản, chẳng muốn giao chiến, đến khi thấy quát lớn rồi cấy côn giáng xuống, Thái Đạo Tường liền giạt ngựa ra một bên rồi tung quả nhuyễn xách chùy lên đỡ. Côn đồng đập xuống quả chùy cực mạnh, nghe “chát” một tiếng ghê gớm.
Cùng lúc ấy, Quân sư trong trận truyền tướng Phác Đức Giật thúc quân xông ra. Tức thì, Đức Giật hô lớn, xua quân nhất tề ào tới. Bây giờ thì Thái Đạo Tường tỉnh hẳn cơn mê mẩn, thấy tình thế tuyệt vọng thì run sợ quá, chẳng còn ham chiến, vội hô quân bỏ chạy. Hậu quân do Nguyễn Phí Hồng trông nom, biết lọt phục binh của Hoa Lư, hồn vía lên mây, đến khi thấy tướng Thái Đạo Tường hô quân bỏ chạy thì cũng vội giục quân chạy không còn kể hàng lối.
Quân sư quay lại bảo Tôn Phủ Nghi:
- Bây giờ ta đi theo xem tướng Đằng Châu đoạt chiến công ra sao nhé! Rồi Quân sư thúc Á Lôi chạy ra, Tôn Phủ Nghi cũng vội cho ngựa chạy theo.
Đinh Điền nhớ lời Quân sư dặn là nhường cho tướng Đằng Châu, nên khi thấy tướng Cổ Loa chỉ đỡ một côn rồi bỏ chạy, lại thấy tướng Đằng Châu xuất trận thì nhường lối cho Phác Đức Giật. Đinh Điền cầm côn giục ngựa lướt theo vừa bảo vệ cho tướng Giật vừa trông nom binh Đằng Châu. Ngựa Đinh Điền lúc lên lúc xuống xem xét tình thế, gặp Quân sư, Quân sư bảo:
- Tướng quân nên cẩn thận, phải làm sao chèn không cho binh Cổ Loa chạy xa ven sông mới được, có thế mới không làm kinh mang cả Đằng Châu!
Đinh Điền tuân lệnh, thúc ngựa vọt lên, rẽ binh cả đôi bên mà chạy. Binh Đằng Châu lần đầu tiên được xuất trận giao chiến với quân triều đình, thắng thế rõ rệt thì nức lòng, hò reo ầm ầm, tha hồ đâm chém.
Thế là đạo quân của cả đôi bên vừa chạy vừa đâm chém nhau, tiếng hò reo rung chuyển cả một vùng từ phía Nam Đằng Châu dọc ven sông ngược mãi lên phía Bắc, Binh chạy tới đâu, Đằng Châu náo động đến đấy. Khốn khổ bá tánh vốn vẫn sống yên ổn, nay bất thần chinh chiến xảy ra như từ trên trời đổ xuống, không ai biết ra sao vội đóng cửa, bồng bế nhau mà chạy. Phút chốc, cả Đằng Châu náo động, Sứ quân được tin cấp báo thì như được vừa từ trời cao rơi xuống, bàng hoàng đến cuống cả tay chân, thẫn thờ đến nỗi không còn kịp xỏ giày cứ chân đất chạy ra truyền hội chúng tướng!
Ở phía Bắc, Động chúa thân cầm quân đợi chờ. Đến xế trưa bỗng nghe ở phía Nam có tiếng reo hò, thì biết là binh Cổ Loa đã sang sông đánh úp Đằng Châu, và thế nào đạo quân của Nam Tấn Vương cũng sắp sửa xuất trận. Động chúa nhớ lời Quân sư dặn, liền mang các tướng kéo quân đi.
Cùng lúc ấy, Nam Tấn Vương được tin binh bên kia sông do Thái Đạo Tường chỉ huy đã vượt sông đánh úp phía Nam, Vương liền truyền quân rời căn cứ, tức tốc kéo xuống Nam, nhắm phía phủ đường Đằng Châu ào ạt tiến tới. Binh của Nam Tấn Vương đóng ở phía dưới Ngọc Đồng, đoạn đường đến phủ Đằng Châu không mấy xa, đường đi dễ dàng không vướng núi rừng, chỉ có lau sậy mịt mù. Vương truyền quân đi gấp, tướng Đặng Ngọc Hợp cầm cờ tiên phong cuốn gọn lại, cây Bích Nguyệt kiếm đeo ở đai lưng. Hợp giục ngựa kéo dài quân đi, trung quân do Nam Tấn Vương đích thân điều khiển các tướng. Đại quân Cổ Loa nhất tề ào ào xuất trận, khí thế cực hăng, người ngậm chặt môi, không ai nói một tiếng, chỉ có tiếng vó ngựa nện ầm ầm mà thôi, binh của Nam Tấn Vương vào trận lặng lẽ như âm binh!
Tại bãi Đà Mạc, binh của Động chúa Hoa Lư theo lời Quân sư chỉ bảo, dựa mé sông Thiên Mạc đại binh của Nam Tấn Vương. Từ đây về đến phủ đường còn cách khoảng ba chục dặm đường.
Động chúa đợi thêm hồi nữa, càng nghe tiếng quân reo hò ở phía Nam lại gần thêm, thì biết rằng binh Cổ Loa đã bại trận đang chạy lên phía Bắc. Động chúa bảo các tướng hãy chuẩn bị thế nào cũng gặp binh của Nam Tấn Vương bây giờ!
Đợi thêm lát nữa, quả nhiên ở mặt Tây Bắc có tiếng vó ngựa, cũng vừa lúc ấy tế tác chạy tin về cho biết “Nam Tấn Vương đang thúc quân tới”. Động chúa liền kéo quân ra giữa bãi Đà Mạc dàn ra chờ đợi. Động chúa cưỡi ngựa đứng giữa, bên trái là Trịnh Tú cưỡi con Ô Truy, bên phải là Chu Kỷ Toàn gác trường thương trên đầu chiến mã, đằng sau là các tướng khác, tất cả dàn cả ra.
Nắng chiều xế bóng, gió thu hiu hiu. Binh Hoa Lư trấn giữa bãi Đà Mạc giăng dài một dải như bức thành. Một chập sau, từ phía Tây Bắc xa xa đã thấy bụi cuốn lên, rồi dần dần binh Cổ Loa hiện rõ.
Tướng tiên phong Đặng Ngọc Hợp rạp mình trên lưng chiến mã hăm hở phóng đi. Đạo tiền quân vừa lại gần thì binh Hoa Lư lúc ấy được lệnh trương cao cờ lên. Tiên phong Đặng Ngọc Hợp đang giục ngựa, bỗng nhiên thấy cách không xa cờ xí trương cao nhiều vô kể trong lòng hốt nhiên kinh hãi. Hợp vươn người trên lưng chiến mã nhìn xem cờ hiệu của ai, khi thấy là cờ Hoa Lư thì Hợp rụng rời tay chân, cơ hồ muốn ngã ngựa.
Đặng Ngọc Hợp như người mê man, cứ thúc ngựa chạy tới, đạo tiền quân thấy chủ tướng vẫn thẳng đường tiến phát thì cũng ào ào kéo theo, đợi mãi chẳng thấy lệnh dàn trận ứng chiến. Nhìn ra đằng trước, cờ Hoa Lư càng lúc càng trông rõ hơn nữa.
Hậu quân Cổ Loa cũng gấp rút vượt đường tiến lên theo sát đạo tiền quân. Nam Tấn Vương và các tướng lại nghe phía Nam có tiếng quân reo ngựa hí càng lúc càng lại gần thì trong lòng hồ nghi, không hiểu sao lại có việc như thế, không biết đạo quân của Thái Đạo Tường đánh úp mặt Nam có thành hay không? Nhìn về phía trước, Vương vẫn thấy tiền quân tiến tới thì lấy làm lạ, sao chẳng có hiệu gì cả, cũng không thấy tiền quân báo về cho biết tình hình ra sao? Tiến thêm một lát nữa, Nam Tấn Vương cảm thấy có điều gì khác thường, liền truyền tướng Phạm Hoàng Sơn vượt đường lên trước xem tình hình thế nào.
Phạm Hoàng Sơn được lệnh, liền thúc ngựa vọt lên, rẽ quân chạy gấp. Càng lên trên, Phạm Hoàng Sơn càng thấy lạ là binh nhà cứ cắm đầu thúc ngựa tiến gấp, chẳng thấy có hiệu lệnh gì của tướng tiên phong, Sơn vội giục ngựa gấp rút phóng lên. Phạm Hoàng Sơn vừa ngửng đầu đã thấy cờ xí Hoa Lư rợp trời cách chẳng còn xa nữa, Sơn kinh hãi quá chừng hết sức hô quân dừng lại rồi cứ giục ngựa cướp đường tiến tới.
Lên đến trên cùng, Sơn còn thấy tướng Đặng Ngọc Hợp vẩn giục ngựa xông tới, lại tưởng rằng tướng Hợp muốn thúc quân đánh thẳng vào tiền diện quân Hoa Lư. Đến khi nhìn thấy cờ tiên phong vẫn cuốn kĩ, Bích Nguyệt kiếm vẫn treo ở ngang lưng, thì lúc ấy Phạm Hoàng Sơn mới lấy làm lạ, liền thúc ngựa bay lên nắm lấy cương ngựa của Đặng Ngọc Hợp mà kéo lại.
Ngựa Hợp dừng vó, Hợp ngơ ngẩn như người mất trí, Phạm Hoàng Sơn hổn hển hỏi:
- Đại tướng đi đâu thế?
Đặng Ngọc Hợp nói như trong giấc mơ:
- Binh Hoa Lư! Binh Hoa Lư!
Phạm Hoàng Sơn kinh hãi, vội giật lấy cây cờ trong tay Đặng Ngọc Hợp trương cao lên, hô quân dừng bước, dàn thành trận thế cự với binh Hoa Lư. Rồi lập tức Sơn sai quân gấp rút đưa tin về hậu quân để Nam Tấn Vương rõ.
Ở tiền quân, Phạm Hoàng Sơn đứng cạnh Đặng Ngọc Hợp trong lòng nhủ thầm: “Thế này là cầm chắc chết cả mười phần!”. Nhìn sang bên cạnh thấy Đặng Ngọc Hợp dường như đã tỉnh, mặt Hợp tái mét. Phạm Hoàng Sơn tự nhiên hùng chí, bảo:
- Đại tướng yên lòng, đằng nào cũng chết, ta chết cho đáng một phen xem sao?
Sơn vừa nói dứt, đã nghe tiếng quân reo như sóng biển ầm ầm, rồi lại tiếng tù và giục lên rền rĩ nghe xa đến tận chân trời không hết, rõ ràng binh Hoa Lư đông không biết bao nhiêu mà kể. Khí thế ấy, làm cho binh Cổ Loa bủn rủn tay chân, người không dám cựa quậy, ngựa dẫm vó chẳng dám hí!
Rồi có tiếng vó ngựa rầm rập, cờ Hoa Lư phất phới lại nghe tiếng tù và lệnh thổi lên ầm ầm ghê rợn. Lau sậy rẽ ra, Động chúa Hoa Lư mình vận chiến bào màu chàm, hai cánh tay để trần, cổ quấn mảnh vải đen để tang Đoàn Phúc Hải, ngang lưng thắt chiến đai bằng mây “thiết đằng” bện lại, cây đại phủ gác ngang đầu ngựa. Động chúa đầu đội khăn võ cũng màu chàm, chân dận chiến hài bằng da gấu, trông đẹp mà hùng dũng lắm. Ngựa Động chúa phóng trước, theo sau là sáu bảy tướng Hoa Lư. Động chúa cùng các tướng đừng ngựa, đối trận nhìn Phạm Hoàng Sơn và Đặng Ngọc Hợp.
Hai tướng Cổ Loa ngây người mà nhìn, vóc dáng Động chúa vừa oai nghi lại vừa bốc sát khí lạnh người, khiến cho hai tướng nhất thời quên cả là mình đang đối trận, mười phần nguy hiểm cả mười, cứ ngây người nhìn!
Động chúa thấy vậy, ngửa mặt lên trời cười. Chuỗi cười cực kì dũng mãnh, khí lực cuồn cuộn theo nhau tuôn ra, tiếng cười có dễ còn át hết cả tiếng tù và lệnh đi mãi không ngừng. Cười dứt, Động chúa nghiêm nét mặt, vận sức lấy hơi quát lên như sấm nổ mà rằng:
- Bớ Nam Tấn Vương, mau ra nói chuyện!
Tiếng quát của Động chúa, đến hậu quân của Nam Tấn Vương cũng còn nghe tiếng! Đặng Ngọc Hợp bỗng nhiên tối tăm mặt mũi, suýt nữa thì ngã ngựa! Phạm Hoàng Sơn thì kinh hồn khiếp vía, cố gắng lắm mới dám tiếp tục ghìm ngựa đứng lại!
Nam Tấn Vương vừa được tin quân do Phạm Hoàng Sơn sai đến báo tin, lại thấy quân dừng lại, rồi lát sau nghe tiếng quân reo như sóng biển vỗ, tiếng tù và lệnh rúc âm u vang mãi sang tận núi rừng bên kia sông Xích Đằng, thì biết là gặp nguy rồi. Vương còn đang kinh hãi, đã lại nghe tiếng quát vang vang ở tiền quân, rõ ràng là tiếng của Hoa Lư Động chúa rồi!
Nam Tấn Vương vừa sợ vừa uất, thế là cố gắng đến đâu cũng vẫn không hơn được Hoa Lư nửa bước! Uất khí bốc lên, Nam Tấn Vương thấy mờ mắt, trong người bỗng nhiên mệt mỏi lạ lùng, ngồi trên yên ngựa không còn vững nữa, suýt nữa Nam Tấn Vương ngã xuống. Các tướng vội xô tới đỡ, dìu cho Vương ngồi vững trên yên ngựa.
Ở tiền quân, Động chúa Hoa Lư quát xong, không thấy quân tướng Cổ Loa đụng đậy, thì cũng lấy làm lạ, trụ ngựa đứng đợi một lát vẫn chẳng thấy đối phương rục rịch, liền quay sang bảo tướng Trịnh Tú:
- Tướng quân sang mời Nam Tấn Vương ra cho ta nói chuyện.
Trịnh Tú dạ một tiếng, giục con Ô Truy phóng ra, tới trước hai tướng Phạm Hoàng Sơn và Đặng Ngọc Hợp mà rằng:
- Động chúa Hoa Lư mời Nam Tấn Vương ra nói chuyện, tôi nhờ hai ông trình về cho Nam Tấn Vương biết.
Lúc ấy, Phạm Hoàng Sơn đã tỉnh táo, liền im lặng quay ngựa trở vào trong quân, Trịnh Tú lại về đứng bên Động chúa. Mặt trận im lặng ghê gớm, binh hai bên hồi hộp đợi chờ. Từ phương Nam, tiếng quân reo, vó ngựa rầm rập bây giờ nghe rõ lắm.
Lát sau, Nam Tấn Vương có các tướng hộ giá, cưỡi ngựa ra trước trận, Vương vẫn tề chỉnh giáp bào, nhưng nét mặt có phần tiều tụy, sắc mặt xanh mướt, hai mắt đục mệt mỏi. Vương ra trước trận dường như không còn oai quyền gì nữa, lẳng lặng đến trước quân nhìn sang Động chúa.
Động chúa Đinh Bộ Lĩnh, các tướng, ai cũng thấy tình cảnh ấy của Nam Tấn Vương, không ai là không mủi lòng! Đinh Bộ Lĩnh cất giọng ôn tồn:
- Thưa ngài, hai bên đã ước hẹn với nhau là binh ngài lui về Cổ Loa âm thầm, sao ngài lại bỏ lời ước đem quân lên đánh Đằng Châu như vậy?
Đinh Bộ Lĩnh trách như thế, Nam Tấn Vương vẫn chẳng nói gì. Bộ Lĩnh lại nói tiếp:
- Ngài cho quân lén đánh úp phía Nam Đằng Châu, may nhờ Quân sư ta biết trước nên binh ngài đã bại. Ở mặt Bắc, đường về của ngài qua ngả Ngọc Đồng, Nho Lâm, Bằng Nho, chứ không phải là quan lộ dẫn xuống phủ đường Đằng Châu của Phạm Phòng Át. Ta mượn đường Đằng Châu để binh ngài có lối đi, ngài lại nhân cơ hội định cướp Đằng Châu suýt tí nữa ta mang tiếng với thiên hạ rồi! Bây giờ, ngài lại gặp ta ở đây, ngài định thế nào?
Trong đời Nam Tấn Vương, lận đận với loạn thần cướp ngôi, lục đục với anh em trong nhà, cũng chưa có bao giờ Vương lại cảm thấy chán nản nhục nhã bằng lúc này! Vương nghe Đinh Bộ Lĩnh ôn tồn mà vẫn đầy vẻ hách dịch trách cứ, thì chẳng biết nói sao. Giây lát, Nam Tấn Vương mới cất giọng nhỏ nhẹ mà rằng:
- Quả là trẫm thua trí Quân sư Hoa Lư, Đằng Châu không phải là đất của Hoa Lư, thì dù trẫm có đem quân tiễu trừ giặc loạn cũng có hại gì cho Hoa Lư đâu...
Nam Tấn Vương chưa dứt lời, Đinh Bộ Lĩnh đã nói ngay:
- Ngài nói đúng lắm! Giả sử ngài đem quân từ Cổ Loa xuống đánh Đằng Châu, thì đây là việc của ngài. Nhưng nay ngài đem binh đánh Hoa Lư chúng tôi, thất bại phải nhờ đường của Hoa Lư mượn của Đằng Châu để đi, nếu ngài bất thần đánh úp Đằng Châu thì tất Hoa Lư tôi phải mang tiếng lớn với thiên hạ! Đấy là điều khiến Quân sư ta phải vất vả đem quân vượt sông vào Đằng Châu, mang tiếng với Đằng Châu chắc cũng không ít! Ngài còn trách cứ gì ta nữa!
Nam Tấn Vương còn phân vân chưa quyết, đã thấy phía Nam có người ngựa ào ào chạy ngược lên phía Bắc, bọn người theo ven sông mà chạy, cách bãi Đà Mạc cũng chẳng xa là mấy đủ để mọi người thấy rõ bại quân là quân Cổ Loa, binh Đằng Châu gấp rút đuổi theo sau. Lại thấy có cả bóng Quân sư cưới con Á Lôi cũng vừa chạy tới, cạnh Quân sư còn có văn sĩ Đằng Châu Tôn Phủ Nghi.
Mọi người còn đang sửng sốt, đã lại nghe phía Tây Bắc có tiếng quân reo, hậu quân binh Triều náo động, tiếng quân reo như kéo về phía Đông Nam rồi mất hút.
Chưa biết sự việc ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—