← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Năm Mươi Bảy Đằng Châu đốt lửa đuổi vua
Quân sư ra tài đảo Vũ

Quân sư cùng văn sĩ Đằng Châu Tôn Phủ Nghi tách khỏi đám quân, rẽ về bãi Đà Mạc. Cả hai bên đối trận thấy Quân sư xuất hiện thì đều lấy làm lạ. Động chúa trong lòng vui mừng, Nam Tấn Vương vừa thấy bóng Quân sư Hoa Lư thì trong lòng lại càng chán nản!

Quân sư thúc ngựa vào giữa trận, ung dung như chủ nhân đi giữa hai hàng quan khách đến dự tiệc, Quân sư đến đứng bên cạnh Động chúa, sau lưng Quân sư là văn sĩ Đằng Châu. Quân sư đưa mắt nhìn quang cảnh một lượt, rồi cất giọng thật rõ ràng mà rằng:

- Thưa bệ hạ, bây giờ ắt bệ hạ không còn hi vọng gì nữa rồi! Vừa mới đây, đạo quân đánh úp Phía Nam Đằng Châu của bệ hạ đã bỏ chạy, thấy bệ hạ ở đây mà cũng không làm sao rẽ vào nhờ vả được! Tôi đã nói là: bệ hạ nên về thẳng Cổ Loa êm thấm, thế mà bệ hạ cũng chẳng nghe, giả sử binh vây khắp mặt chẳng phải là Hoa Lư chúng tôi, mà là Đằng Châu thì liệu lúc này bệ hạ có còn được an toàn đứng ở đây nữa hay không?

Nam Tấn Vương cúi đầu chẳng nói, Động chúa cất giọng sang sảng hỏi:

- Bây giờ, ngài có còn muốn tranh hùng nữa hay thôi? Binh Hoa Lư chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng tiếp ngài đấy!

Nam Tấn Vương nghe Động chúa hỏi, lúc ấy mới giật mình chưa kịp lên tiếng chối từ giao chiến, thì Quân sư đã nói tiếp luôn:

- Thưa bệ hạ, lúc này không phải là lúc bệ hạ còn lưỡng lự chiến hay hòa được nữa! Chỉ còn một đường duy nhất cho bệ hạ, là bệ hạ trở về Cổ Loa! Hoa Lư chúng tôi không muốn phải gây náo nhiệt trên đất Đằng Châu, chắc bệ hạ cũng không muốn thế!

Nam Tấn Vương thở dài, cuối cùng chỉ nói một câu ngắn ngủi:

- Được, ta về!

Rồi nhà vua lẳng lặng thúc ngựa quay gót trở lại trung quân. Quân sư thấy thế, liền quay sang nói với Động chúa:

- Bẩm Động chúa, việc ở đây như vậy là tạm xong, xin Động chúa gấp về Bình Lục ban phát mệnh lệnh!

Động chúa nghe Quân sư nói như vậy, biết là đến lúc mình nên về để tránh khỏi phải gặp Sứ quân Phạm Phòng Át, liền khẽ gật đầu, quay lại các tướng dặn dò mọi việc, rồi tạm biệt Quân sư đem vài tướng hộ vệ lui vào trung quân rồi về Bình Lục ngay lúc ấy.

Quân sư tiễn Động chúa đi rồi, liền gọi tướng Chu Kỷ Toàn đến ghé tai bảo Toàn hãy mau mau đem một toán quan đến Ân Thi, ở phía Đông Bắc phủ đường Đằng Châu chừng mười dặm, chọn trong số hai mươi tám gò đất lấy gò nào cao nhất thì dựng lên một cái đài cao chín tầng theo hình tám góc, đài cao ba trượng sáu thước, trên cùng không có mái, bày bàn thờ sắp sẵn đuốc nhựa thông đèn dầu chàm, lại lấy cờ năm sắc tám mươi mốt cái chia ra cắm chung quanh dài, mỗi cờ đặt một quân canh giữ. Quân sư lại dặn: “Bàn thờ hãy đặt quay mặt về hướng Đông Bắc, trên bàn thờ chỉ để một chiếc đỉnh sắp sẵn trầm hương mà thôi. Rồi cấm không cho ai qua lại gần đài ấy, phủ đường Đằng Châu có hỏi thì cứ bảo là Quân sư sai dựng đài để cầu mưa”.

Chu Kỷ Toàn lĩnh mệnh, lấy hai trăm quân vội vã ra đi ngay.

Cũng lúc ấy, hai tướng Đinh Điền và Phác Đức Giật đem binh từ phía Bắc trở về, hai tướng đến trình trước Quân sư mọi việc, Đinh Điền bẩm:

- Bẩm Quân sư, như thế là lệnh Quân sư đã xong ở mặt phía Nam, binh Cổ Loa đã chạy xa rồi. Đại tướng Đằng Châu Phác Đức Giật đem quân vào trận ghê gớm quá, tướng Cổ Loa không dám chống cự chỉ một mực cắm cổ chạy dài! Chiến công này thật là lớn lắm!

Quân sư nghe Đinh Điền trình, mặt tươi như hoa. Tướng Phác Đức Giật biết Đinh Điền có ý tâng bốc để làm đẹp cho mình, có phần hơi ngượng nhưng trước ba quân tướng sĩ đông quá tự nhiên cũng thấy sung sướng, liền tới trước Quân sư kính cẩn thưa:

- Thưa Quân sư nhờ Quân sư xếp đặt, lại thêm tướng Đinh Điền giúp đỡ, nên binh Triều không dám giao chiến, nhờ thế mà tôi mới có dịp được may mắn hơn các tướng khác đấy ạ!

Quân sư hài lòng lắm, liền bảo tướng Đinh Điền lập tức mang một nghìn rưỡi binh Đằng Châu xuống Bắc Hòa trấn ở đấy. Đinh Điền vâng lệnh kéo quân đi, lúc ấy trời đã sâm sẩm tối.

Quân sư hội các tướng lại mà rằng:

- Hôm nay, Nam Tấn Vương thất bại không cướp được Đằng Châu, mới thật là não nề. Nam Tấn Vương phải rút lên mạn Bắc theo như ta muốn, không còn hi vọng gì nữa rồi. Tuy thế Nam Tấn Vương trước khi thật lòng quay đi, thế nào cũng còn cố cưỡng cho mà xem, dù vậy cũng vẫn chẳng làm gì được, ta xếp đặt Xong xuôi hết rồi.

Tướng Trịnh Tú thưa:

- Thưa Quân sư, muốn đề phòng tốt, thì tôi tưởng rằng nên đem quân đi theo mà xua binh Nam Tấn Vương về Cổ Loa mới phải, nay để cho nhà vua tự ý đem quân về, nhỡ ông ta lại xoay sở nữa thì sao?

Các tướng cũng lao xao cho lời nói của Trịnh Tú là đúng, Quân sư bảo:

- Lẽ ra, thì ta phải mang quân đuổi cho Nam Tấn Vương chạy cho xa mới được, nhưng việc ấy bây giờ không cần, tướng Đằng Châu sẽ ra tài đuổi Nam Tấn Vương cho mà xem!

Các tướng ngạc nhiên nhìn nhau, bốn tướng Đằng Châu cũng tưởng rằng Quân sư sẽ truyền lệnh cho bọn mình đuổi theo binh của Nam Tấn Vương, nhưng đợi mãi chẳng thấy Quân sư nói gì.

Quân sư bảo Trịnh Tú:

- Bây giờ ông Trịnh Tú ở lại đây, cai quản các quân. Các tướng cũng giúp cho ông Tú được dễ dàng mọi việc nhé. Bốn tướng Đằng Châu cứ việc cởi giáp nghỉ ngơi, đợi trình lên Sứ quân mà lĩnh thưởng nhé! Bây giờ tôi có chút việc phải làm cho xong, rồi ta sẽ gặp nhau sau.

Nói rồi, Quân sư một mình một ngựa chạy về hướng Đông Bắc, bóng Quân sư dân mất hút. Các tướng tuân lời Quân sư, chia nhau giám sát mọi việc, hạ trại nghỉ quân.

Vừa lúc ấy, có tin Sứ quân đem các thuộc tướng tới. Tướng Trịnh Tú nghe báo vội vàng chỉnh tề quần áo, đem các tướng ra ngoài doanh nghênh đón Sứ quân Bạch Hổ.

Sứ quân Bạch Hổ đem theo cả nàng Hồi Chúc tới, Trịnh Tú ra đón kính cẩn mời vào doanh, lại tự tay nhắc ghế cao nhất để mời Sứ quân và nàng Hồi Chúc ngồi. Các tướng lần lượt chia nhau ghế ngồi, rồi Trịnh Tú kính cẩn vòng tay thưa:

- Bẩm Sứ quân, binh Cổ Loa thất bại, lấy đường Đằng Châu để rút về, nhưng lại muốn nhân cơ hội đánh úp Đằng Châu để lấy căn cứ cầm cự với Hoa Lư, may Quân sư Hoa Lư biết cả nên mới lặng lẽ dàn binh đuổi địch...

Sứ quân Phạm Bạch Hổ nói vội:

- Bây giờ Quân sư Hoa Lư ở đâu?

- Bẩm Sứ quân, sau khi đối trận Động chúa chúng tôi đuổi Nam Tấn Vương về rồi...

Sứ quân hấp tấp:

- Động chúa Hoa Lư cũng có mặt ở đây?

- Bẩm Sứ quân, Động chúa chúng tôi có xuất trận, nhưng sau khi gặp Nam Tấn Vương thì Động chúa chúng tôi đã trở về Bình Lục rồi...

- Thế còn Quân sư?

- Bẩm, Quân sư bảo rằng còn có chút việc, sau sẽ gặp lại.

Sứ quân Bạch Hổ hỏi về việc quân, bốn tướng Đằng Châu lần lượt thay nhau thuật rõ tất cả. Đến mặt trận ở phía Nam Đằng Châu, thì Sứ quân kinh ngạc quá, việc Quân sư Hoa Lư xếp đặt êm lặng quá Đằng Châu chẳng được biết chút nào! Sứ quân ngồi yên lặng, cúi đầu suy nghĩ. Nàng Hồi Chức nghiêm nghị:

- Bây giờ, binh Cổ Loa tuy đã chạy, nhưng vẫn còn có thể thừa cơ uy hiếp Đằng Châu, việc ấy chính Quân sư Hoa Lư cũng đã định liệu từ trước, nay không biết việc ra sao? Vả lại, trước Quân sư Hoa Lư chỉ nói là mượn binh Đằng Châu để dàn trận đuổi binh Cổ Loa, nay sao lại tự tiện mang quân vào Đằng Châu như thế này?

Bốn tường Đằng Châu không biết nói sao, Trịnh Tú thấy cũng khó nói, nhưng Tú vốn là người chín chắn, đúng mực, mọi việc đều hành động rất khôn ngoan, nay nghe Hồi Chúc hỏi như vậy, thì liền thận trọng đáp:

- Bẩm Sứ quân, thưa Tiên nương, quả thật lúc Quân sư chúng tôi sang Đằng Châu, ở Hoa Lư có thay đổi lớn, Nam Tấn Vương bất thần được kì nhân đến giúp, suýt tí nữa thì sinh chuyện lớn. Vì thế Động chúa chúng tôi phải sai một tướng ra tận biên ải đợi Quân sư trinh mọi việc, do đó Quân sư chúng tôi mới phải dàn quân, đổi chiến trận, nay thì mọi việc đã yên, Quân sư phải xin đến Động chúa đích thân xuất trận ở đây, để cho Nam Tấn Vương thấy rõ cái thế của ông ta mà chịu rút quân. Động chúa chúng tôi biết là vì việc hệ trọng chung cho cả Đằng Châu lẫn Hoa Lư, nên sau khi lên tiếng mắng đuổi Nam Tấn Vương rồi thì cũng lên đường về Bình Lục ngay, chứ không ở lại đây là để tỏ lòng không bao giờ có ý dám tự tiện xâm phạm Đằng Châu vô cớ đấy ạ!

Quả thật Động chúa Hoa Lư đã về, lại việc lớn còn rành rành trước mắt, bốn tướng Đằng Châu cũng nói là có tướng ra đón Quân sư Hoa Lư rồi có lệnh mới gấp rút, nay việc đã tạm xong, tướng Đằng Châu lại còn đạt được chiến công, thì Sứ quân, Tiên nương cũng vì thế mà bớt được đôi chút phiền muộn, và chẳng còn có việc Động chúa Hoa Lư phải thân xuất trận cố giữ cho Đằng Châu không bị náo động, dù sao chăng nữa đấy cũng là một việc Đằng Châu phải chịu nợ rồi!

Hội nghị còn đang lặng lẽ, chợt có quân từ ngoài vào tới trước tướng Trịnh Tú vòng tay mà rằng:

- Bẩm Tướng quân, có tin gấp từ phủ đường Đằng Châu đưa lại!

Sứ quân nghe bẩm vội hỏi:

- Tin gì thế?

Quân vòng tay kính cẩn đáp:

- Bẩm Sứ quân, có tướng Đằng Châu đến nói là xin vào gặp ngài để trình việc gấp!

Tướng Trịnh Tú nghe nói thế, liền bảo quân ra mời tướng ấy vào ngay. Quân ra rồi dẫn một tướng Đằng Châu vào. Tướng này đến thẳng trước mặt Sứ quân kính cẩn trình:

- Bẩm Sứ quân, tướng Trấn Giang Nghi Bá Tường vừa cho ngựa chạy gấp về báo tin: hổi xế chiều, có một đạo quân mang hiệu Cổ Loa từ phía Nam chạy lên phía Bắc Ngọc Đồng, rồi sẩm tối lại có đại binh mang cờ hiệu Nam Tấn Vương cũng từ mặt Nam kéo lên, hợp với đạo quân trước tạm hạ trại đóng từ Ngọc Đồng lên đến Nho Lâm. Tướng Trấn Giang nhớ lời Sứ quân dặn là vào ngày trăng tròn ba buổi, đợi đến nửa đêm thì nổi lửa từ Ngọc Đồng lên đến Bằng Nho. Nay là trăng tròn ba buổi, lại có binh Triều đóng dọc chỗ đốt lửa, tướng Trấn Giang gấp tin về Chúa công rõ và sẽ đúng giờ đốt lửa!

Sứ quân, Hồi Chúc, các tướng Hoa Lư, Đằng Châu, nghe trình việc ai cũng thấy kinh sợ trong lòng, thì ra Quân sư nổi lửa là để đuổi binh Nam Tấn Vương!

Sứ quân chợt như vừa nhớ ra điều gì, hỏi vội tướng Trịnh Tú:

- Tướng quân có biết Quân sư Hoa Lư hiện giờ ở đâu không?

Nàng Hồi Chúc hai mắt chớp chớp nhìn Trịnh Tú, nóng lòng đợi nghe Tú trả lời. Trịnh Tú trang nghiêm:

- Bẩm, lúc tiễn Động chúa chúng tôi trở về xong, Quân sư dặn dò vài việc, rồi nói rằng còn chút việc phải làm cho xong, hẹn sẽ gặp lại sau, vì thế chúng tôi không biết lúc này Quân sư ở đâu.

Vừa lúc ấy, lại có quân vào trình Trịnh Tú:

- Bẩm Tướng quân, ngoài doanh có tướng xin vào trình việc Sứ quân!

Trịnh Tú lại cho mời tướng ấy vào. Lần này tướng Đằng Châu vào doanh có bận võ phục đầy đủ, tướng ấy tới trước Sứ quân trình:

- Bấm Chúa công, tôi mang quân tuần đi mạn Đông Bắc, đến vùng Ân Thi, thấy có việc lạ, quân lạ canh giữ, lại có đám người dựng một cái đài cao. Tôi có tra hỏi, thì một tướng xưng là người của Hoa Lư, tuân lệnh Quân sư đến dựng đài cầu mưa, cấm không ai được lại gần. Tôi phải về gấp trình Chúa công định liệu!

Cả hội lúc ấy mới vỡ lẽ ra là Quân sư đi Ân Thi sai tướng dựng đài cầu mưa! Sứ quân nghe trình, trong lòng lấy làm bằng lòng, mọi người ai cũng nóng lòng muốn biết các việc bên ngoài, mỗi người một lời bàn bạc, lại xúm nhau nghe tướng Phác Đức Giật thuật về chiến trận. Sứ quân hỏi:

- Việc Động chúa Hoa Lư đối trận trách mắng Nam Tấn Vương ra sao? Tại sao Động chúa không ở lại đích thân điều khiển ba quân cho đến khi Nam Tấn Vương về hẳn Cổ Loa mà lại về Bình Lục ngay như vậy?

Trịnh Tú thưa:

- Thưa Sứ quân, Động chúa chúng tôi phải về ngay Bình Lục, là để sai khiến các mặt khác, bởi vì khi binh của Nam Tấn Vương bỏ chạy, tất thế nào cũng làm cho cả thiên hạ náo động, nếu Động chúa chúng tôi ở lại coi một mặt trận này, làm sao còn thì giờ để nhìn được hết các mặt khác mà tính việc được nữa. Vì thế, Động chúa chúng tôi chỉ cần có mặt để Nam Tấn Vương thấy là đủ rồi, việc đánh đuổi Nam Tấn Vương sau đấy chỉ là việc nhỏ thôi.

Mới đầu Sứ quân Bạch Hổ không tin là Động chúa Hoa Lư Đinh Bộ Lĩnh lại có mặt ở mặt trận Đằng Châu, sau các tướng Đằng Châu đều một lời trình rằng đã thấy đích thân Động chúa xuất trận, trách mắng Nam Tấn Vương ra sao, rồi các tướng cùng Quân sư tiễn Động chúa về Bình Lục thế nào, tất cả đều kể ra cho Sứ quân nghe, lúc ấy Sứ quân mới chịu tin là thật.

Trịnh Tú đợi cho mọi người thuật đủ rồi, lúc ấy mới vòng tay trình xin Sứ quân:

- Bẩm Sứ quân, bây giờ cũng đã muộn rồi, xin Sứ quân ban lệnh cho các tướng sĩ được tạm nghỉ ăn cơm, đợi chờ xem tướng Trấn Giang Đằng Châu đốt lửa, và xem Quân sư Hoa Lư cầu mưa ra sao?

Sứ quân rất đẹp ý, thế là đại quân Hoa Lư Đằng Châu mở hội, vật trâu giết bò, đại quân mừng chiến thắng lớn. Sứ quân cùng các tướng Hoa Lư, Đằng Châu vừa ăn uống vừa bàn bạc lại các thịnh sự, không ai là không tranh nhau ca tụng Quân sư Hoa Lư, nhất là Tôn Phủ Nghi thì lại càng khâm phục Quân sư hơn hết thảy mọi người. Tiệc càng về khuya càng vui, quân được một bữa no nê ngay tại mặt trận, thi nhau nghiêng vò mà uống, trâu bò càng bị vật thêm nữa để mừng đại thắng!

Trong tiệc, Sứ quân Bạch Hổ vui vẻ bảo:

- Hôm nay, tình cờ các tướng Đằng Châu lại cùng các tướng Hoa Lư ngồi một tiệc, cùng kể việc chiến trận. Chỉ tiếc một điều là ta tới chậm thành ra không được đón tiếp Động chúa Hoa Lư! Lại thêm Quân sư vất vả một mình với việc của Đằng Châu, sau tiệc này các tướng hãy cùng với ta đến xem Quân sư cầu mưa như thế nào nhé!

Sứ quân vừa dứt lời đã thấy quân vào bẩm: “Ở phía Bắc lửa cháy sáng quá!”.

Sứ quân nghe báo giật mình, vội hỏi xem lửa cháy vì việc gì? Tướng Trịnh Tú vội đứng dậy ra ngoài, lát sau Tú vào bẩm:

- Bẩm Sứ quân, đấy là tướng Trấn Giang của Đằng Châu y hẹn, nổi lửa đốt dọc ven sông đấy ạ!

Sứ quân nghe trình, vui vẻ lắm, nhưng lại lo trong lòng là việc đốt lửa không biết có đúng như lời Quân sư Hoa Lư tính trước hay không, vả lại sao không thấy tướng Trấn Giang có tin gì thêm cho Sứ quân biết!

Sứ quân ngồi trong tiệc, nhưng lòng rất bâng khuâng về việc binh Hoa Lư sang Đăng Châu, lại vắng cả mặt Động chúa lẫn Quân sư, không hiểu hai người đó vắng là có ý gì, mấy lần Sứ quân muốn hỏi nàng Hồi Chúc nhưng lại thấy bất tiện, thành ra vẫn ấm ức trong lòng. Hồi Chúc từ lúc cùng Sứ quân gặp các tướng Hoa Lư, nghe kể mọi việc, lại cùng ngồi dự tiệc mừng quân, nàng suy nghĩ nhiều lắm về việc quan của Hoa Lư, Hồi Chúc không phải không thắc mắc về việc binh Hoa Lư âm thầm vào Đằng Châu, lại thêm các tướng Đằng Châu sang giúp Hoa Lư tất phải biết các việc ấy, tại sao lại không thấy gấp báo về cho Sứ quân rõ. Hồi Chúc định bụng: Lúc gặp lại Quân sư Hoa Lư phải hỏi cho ra lẽ mới được. Vì suy nghĩ, đắn đo nên Hồi Chúc ngồi trong tiệc từ đầu đến giờ chẳng một lời. Đến khi có tin báo về lửa cháy, Hồi Chúc mới cất tiếng mà rằng:

- Thưa Chúa công, như vậy tất lúc này ở mạn Bắc có nhiều việc lớn. Bây giờ ta nên đi xem xét các mặt xem sao!

Sứ quân nghe Hồi Chúc nói rất bằng lòng, vì chính ngài cũng đang nóng lòng muốn biết các việc ở ngoài. Các tướng thì cũng nôn nao muốn được xem việc Quân sư dàn xếp đốt lửa đuổi binh Triều, rồi ai cũng háo hức muốn được xem Quân sư cáo tế cầu mưa ra sao, đến khi nghe Hồi Chúc bảo như vậy thì tướng nào cũng rất tán tụng.

Thế là, tiệc tàn, các tướng theo Sứ quân Bạch Hổ ra ngoài xem lửa. Cả một vùng phía Bắc, trời đỏ rực, ánh lửa hòa vào với những cụm mây dày cộm buổi sơ thu bất thường đỏ quạch, khiến cho quang cảnh thật thê lương, khí thế thật ghê rợn của cảnh chiến trường đang hồi náo nhiệt. Sứ quân, Hồi Chúc cùng các tướng đứng lặng nhìn cảnh trời đỏ lửa, ánh lửa ngày càng lớn, càng ngày càng như lan rộng thêm mãi.

Trời về khuya thật im lặng, có gió thoảng theo hướng Tây Bắc thổi về Đông Nam, mọi người đã ngửi thấy mùi khói khét. Mọi người đứng nhìn như thế thật lâu, lửa càng lúc càng cháy lớn, bây giờ đứng ở trước doanh cũng cảm thấy nóng mặt. Các tướng lao xao bàn tán, ai cũng lo sợ nếu cứ cháy thế này thì chẳng mấy lúc lửa sẽ đến cả nơi đây, lan đến tận phủ đường Đằng Châu cũng nên.

Vừa lúc ấy, có tin từ bên kia sông của tướng Trấn Giang Nghi Bá Tường trình về: “Lửa cháy càng ngày càng lớn, binh Triều hốt hoảng kéo nhau chạy cả lên phía Bắc, cố vượt lãnh thổ Đằng Châu mà chạy rồi. Nhưng lửa lớn quá, tướng Trấn giang phải đưa quân về doanh Ngọc Cầu để tránh sức lửa nóng tưởng chừng nứt nẻ da thịt. Không biết Quân sư Hoa Lư có cầu được mưa để dập tắt lửa hay không? Nếu không có mưa, thì ắt cả Đằng Châu nguy vì lửa đuổi binh Triều!”.

Các tướng nghe trình trong lòng lo lắm, các tướng cũng kinh hãi bàn nhau là phải nên sẵn sàng trước thì hơn, nghĩa là phải chuẩn bị để di quân đi nơi khác, phòng khi lửa cháy đến tận nơi này. Các tướng Đằng Châu ai cũng đồng lòng là nên làm như thế, có người lại còn bàn là nên chuẩn bị cả phủ đường, rao tin cho dân chúng biết mà sẵn sàng chạy lửa! Sứ quân, Hồi Chúc nghe các tướng Đằng Châu bàn như vậy thì lo lắm.

Nhưng các tướng Hoa Lư thì lại rất bình tĩnh, không người nào tỏ ra lo sợ lửa cháy không rập được, vì ai cũng tin ở Quân sư tính toán tất không sai?

Vì thế, Trịnh Tú quả quyết:

- Bẩm Sứ quân, lửa cháy có lớn thật, nhưng tôi tin chắc là Quân sư chúng tôi đã tính việc ắt chẳng sai, thế nào Quân sư cũng cầu được mưa để tắt lửa, vậy xin Sứ quân cứ yên lòng!

Sứ quân cùng các tướng Đằng Châu từng được thấy tài Quân sư Hoa Lư, nhất là các tướng cầm quân sang giúp Hoa Lư thì lại càng thấy tài thần tiên của Quân sư, trong lòng các tướng ấy cũng có phần nào bình tĩnh, nhưng Sứ quân thì vẫn lo lắm!

Sứ quân nghe Trịnh Tú nói thế, liền bảo:

- Đành rằng Quân sư Hoa Lư có lắm tài, nhiều phép lạ, nhưng liệu mưa có kịp đổ xuống để tập lửa, hay mùa này làm gì có mưa lớn được, khiến lửa thiêu rụi cả Đằng Châu ta thì nguy mất!

Hồi Chúc nghe Trịnh Tú nói, trong lòng nàng vốn vẫn tin tài Lê Thảo, nay càng vững tin hơn nữa. Hồi Chúc ung dung nói:

- Bây giờ ta nên đi xem Quân sư Hoa Lư cầu mưa ra sao?

Sứ quân gật đầu. Các tướng nghe thế thì mừng lắm. Thế là Trịnh Tú cắt đặt, truyền lệnh cho quân cứ bình tĩnh dồn trại, không được ồn ào trái quân lệnh, rồi Trịnh Tú cùng hết thảy các tướng theo ngựa Sứ quân và Hồi Chúc cùng đi về hướng Đông Bắc để đến gò Ân Thi.

Đường đi ước khoảng chục dặm đường, dọc đường thấy lửa vẫn tiếp tục cháy lớn, thoáng gió Tây Bắc thổi về Đông Nam đưa hơi nóng đến khó chịu vô cùng.

Đi thêm hồi nữa, nhìn về hướng Tây Bắc, thỉnh thoảng đã thoáng thấy có ánh ngọn lửa rung rinh, lửa cháy sáng cả trời, ở tận phía Nam chỗ mọi người đứng nhìn có thể giơ tay nhìn rõ các chỉ trong lòng bàn tay.

Sứ quân đứng ngẩn người nhìn lửa, lòng lại sôi nỗi lo lắng, ngẩn người giây lát liền giục ngựa nhắm hướng gò Ân Thi chạy gấp. Các tướng cũng thúc ngựa chạy theo.

Đến vùng gò Ân Thi, từ xa đã thấy quả nhiên trên một cái gò cao nhất có dựng một cái dài. Vùng này địa thế lạ lùng, có cả thảy hai mươi tám cái gò đất rải rác trong một vùng rộng vài trăm trượng. Trong số các gò này, có gò Ân Thi ở về mé Nam là cao hơn cả, tục truyền hồi Cao Biền đem quân sang đuổi giặc Nam Chiếu ở Giao Châu trừ xong giặc, Biền thường cưỡi diều giấy đi thăm thú địa thế Giao Châu, thấy địa thế nhiều nơi kì dị thường nói: “Đất Giao Châu địa thế lạ lùng, người Giao Châu sau này tất làm cho phương Bắc ăn ngủ không yên!”. Cao Biền là tay rất giỏi về địa lý, tài tình về khoa phong thủy, y ra tay trấn yểm mất nhiều thế đất của Giao Châu. Đến khi Cao Biền cưỡi diều giấy đến vùng Đằng Châu, quan sát địa thế các gò đống ở đây, bỗng giật mình kinh hãi. Cao Biền bảo các thuộc tướng rằng: “Vùng này có cả thảy ba mươi hai cái gò, hào kiệt Giao Châu sẽ thu thiên hạ khởi tự chỗ vùng gò đống này đây. Vậy phải triệt hạ!”. Rồi Cao Biền sai quân ngày đêm san phẳng các gò ấy, nhưng có điều lạ là, hôm trước quân ra sức san bằng, qua một đêm gò lại nổi lên. Cao Biền dốc lực phá thế đất mấy tháng trời cũng chỉ san bằng được bốn gò, vì thế này mới còn lại có hai mươi tám gò.

Cao Biền không phá được thế đất, liền buồn rầu bảo các thuộc tướng: “Ta không cưỡng được mệnh trời! Trăm năm sau ắt có dị nhân đến đây gọi gió gào mưa, ấy là lúc Giao Châu bước vào thời tự chủ! Ta chỉ phá được bốn gò, cũng đủ làm cho Giao Châu không còn sức để xâm phạm Bắc phương, người phương Nam còn phải lận đận cả nghìn năm nữa mới mong yên ổn được!”. Lời Cao Biền nói hồi ấy, là năm Canh Mão (871) đời nhà Đường bên Tàu.

Và bây giờ, Quân sư Hoa Lư là Lê Thảo đến dựng đài cầu mưa trên gò Ân Thi, lời nói của Cao Biền một trăm năm về trước nay đã ứng!

Sứ quân cùng các tướng giục ngựa lại gần, đi được thêm mấy bước đã bị một tướng Hoa Lư cưỡi ngựa chạy tới ngăn lại. Các tướng Hoa Lư nhìn ra, thì là tướng Chu Kỷ Toàn. Tướng Toàn chưa kịp nói thì Trịnh Tú đã chạy vội lại nói:

- Bẩm Sứ quân, đây là tướng Chu Kỷ Toàn của Hoa Lư chúng tôi, chắc có sứ mạng của Quân sư giao phó.

Tướng Chu Kỷ Toàn nghe Trịnh Tú nói vậy, liền kính cẩn vòng tay hướng về Sứ quân mà rằng:

- Tiểu tướng bái kiến Sứ quân!

Sứ quân hài lòng bảo:

- Ta nghe Quân sư Hoa Lư dựng dài cầu mưa ở đây, nay lửa cháy lớn quá nên đem các tướng đến xem Quân sư làm phép lạ. Tướng quân hãy cho ta gặp Quân sư!

Chu Kỷ Toàn vội kính cẩn:

- Bẩm Sứ quân, Quân sư chúng tôi sai dựng dài, rồi truyền quân canh giữ các nơi không cho ai vào cả! Vậy xin phiền Sứ quân cho phép mạt tướng được đắc tội!

Sứ quân mỉm cười chưa kịp nói, Hồi Chúc đã cất tiếng thánh thót mà rằng:

- Quân sư Hoa Lư dựng dài cầu mưa ở đây, sao chẳng cho Đằng Châu ta biết để giúp cho được long trọng. Mà sao chẳng có đèn đuốc gì cả thế này?

Quả thật chung quanh đài cao không có lấy một ngọn đuốc nào cả, chỉ thấy bóng quân canh nghiêm chỉnh. Ánh lửa ở hướng Tây Bắc rừng rực chiếu tỏ cả vùng gò Ân Thi, Chu Kỷ Toàn lại vòng tay thưa:

- Bẩm Sứ quân, ở đây đèn đuốc không có, đây là lệnh của Quân sư. Nhưng trên đài có đuốc nhựa thông đèn dầu chàm để Quân sư làm phép hô thần gọi mưa. Kính bẩm Sứ quân có thể lại gần thêm chút nữa để xem cho rõ, nhưng cầu xin Sứ quân và các tướng nên im lặng đừng nói chuyện để khỏi xúc động đến thần linh!

Sứ quân, Hồi Chúc, các tướng nghe Chu Kỷ Toàn nói thảy đều mừng lắm, ai cũng sợ tướng Hoa Lư vì lệnh của Quân sư không cho lại gần thì uổng mất cơ hội nghìn năm chẳng có đến hai lần để được tận mắt xem kì nhân cầu mưa gọi gió!

Tướng Chu Kỷ Toàn dẫn mọi người lại gần gò Ân Thi, thì lại kính cẩn xim Sứ quân dừng bước đứng cả ở đấy mà xem, không thể lại gần thêm được nữa. Sứ quân vui vẻ bằng lòng, các tướng chia nhau chỗ cao để quan sát.

Trên gò Ân Thi đài đảo vũ rộng bằng căn nhà tám góc, dưới chân dài quân cầm khí giới tuốt trần canh gác thật trang nghiêm, cờ năm sắc cắm rải rác khắp nơi. Nhìn lên đài, thấy bóng Quân sư quỳ trước một bàn thờ hướng về phương Nam. Trên bàn thờ leo lét ánh đuốc nhựa thông và một địa đèn dầu chàm, ánh sáng thấp thoáng chiếu lên khuôn mặt Quân sư.

Quân sư trên đài im lặng như bức tượng. Ánh sáng chập chờn từ ánh lửa rừng rực đằng xa hắt lại, khoảng trời Tây Bắc đỏ trong lớp khói quyện đày đặc. Mọi người đứng nhìn quang cảnh ấy hồi lâu, Sứ quân ghé tai Trịnh Tú khẽ hỏi:

- Bây giờ là giờ nào rồi?

Trịnh Tú quan sát bầu trời giây lát, rồi đáp:

- Bẩm Sứ quân, bây giờ cũng phải sắp bước sang giờ Tí rồi!

Sứ quân Bạch Hổ nghe Trịnh Tú nói là sắp bước sang đầu giờ Tí, trong lòng hồi hộp lắm. Sứ quân quay sang Hồi Chúc, ghé tai nàng khẽ nói: “Đến giờ hẹn của Quân sư Hoa Lư rồi đấy, nàng đã thấy có vẻ gì là sắp mưa hay chưa?”.

Hồi Chúc cũng như các tướng, ai cũng bồn chồn nhìn trời, vẫn chẳng thấy có điềm gì là mưa lớn sắp đổ. Nhìn lên Tây Bắc, lửa vẫn ngùn ngụt, mỗi lúc càng lớn thêm mãi. Bây giờ, lửa cháy đã trông thấy ngọn, tiếng gió phát từ biển lửa ra nghe như tiếng cuồng phong rít dữ dội, ai thấy quang cảnh ấy cũng kinh hoàng. Hồi Chúc, các tướng nếu không có lời hẹn của Quân sư, chắc chẳng ai còn lòng dạ nào đứng nhìn lửa cháy như vậy được nữa. Một vùng bao la, hun hút về phía Bắc, lửa cháy tưởng chừng dòng Xích Đằng ở ngay bên cạnh cũng phải sôi nước, đứng xa cả trăm dặm đường vẫn còn thấy ánh lửa!

Nhìn lên trời, ráng đỏ đục rung rinh ánh lửa, lớp khói dày cộm theo gió chầm chậm trôi về hướng Đông Nam, Bây giờ, mọi người thấy nóng bức lạ lùng, cái nóng của lửa hận cũng có, mà nóng như trước lúc trời đổ mưa sau nhiều ngày oi bức nắng hạn cũng có. Từ xa xa phía phủ đường Đằng Châu, vẳng tiến trống cầm canh báo hiệu bắt đầu sang giờ Tí.

Trên đài cao, Quân sư Hoa Lư bận áo văn sĩ, đầu đội khăn chữ “nhân”, cây Giao Long trủy thủ vẫn giắt ở thắt lưng bây giờ Quân sư đứng dậy hướng về phía Đông Nam, hai tay Quân sư dang rộng như đợi đón chờ một người nào. Quân sư đứng như vậy thật yên lặng, tà áo buông thẳng, cờ năm sắc cắm quanh đài cũng lặng lẽ rũ cả xuống. Mọi người đứng ở các gò đống chung quanh mà nhìn, ai cũng im lặng hồi hộp chú mục xem Quân sư hành động ra sao.

Trên trời, khói quyện thôi không theo gió trôi về Đông Nam nữa, nhưng ngọn lửa thì vẫn ngùn ngụt. Tướng Chu Kỷ Toàn vẫn lặng lẽ cưỡi ngựa chậm chậm bước một đi tuần quanh gò Ân Thi, xem xét đám lính cầm cờ đứng quanh đài đảo vũ.

Trống sang canh được chừng cạn tuần trà, trên đài cao Quân sư đứng dang tay cũng đã lâu, mọi người vẫn hồi hộp đợi chờ, thì từ phía Đông Nam gió nhẹ hiu hiu thổi lên, các lá cờ năm sắc khe khẽ lay động, trên đài cao tà áo Quân sư cũng lay động.

Gió Đông Nam thổi đến, mọi người thấy mát mẻ dễ chịu. Gió vừa thoảng hiu hiu, nay bỗng vụt thổi mạnh, cuốn bụi mà lôi đi. Phút chốc cuồng phong nổi dậy, trên trời cao không có sấm chớp mà mưa đổ xuống ầm ầm. Mưa trút xuống dữ dội, tưởng chừng đang giữa mùa mưa cũng chưa chắc có trận mưa lớn đến như vậy. Cờ năm sắc cắm quanh đài cầu mưa vừa mới tung bay và gió giật, nay đẫm nước mưa rũ cả xuống. Trên đài cao vẫn còn thấy bóng Quân sư Lê Thảo đứng hai tay dang rộng, như thể đón thần mưa từ hướng Đông Nam đến. Mưa đổ xuống lễ dài không mái, bó đuốc nhựa thông đã tắt ngấm, đĩa đèn dầu chàm cũng đã tắt từ lâu. Quân sư người sũng nước mưa, ánh lửa từ đằng xa chiếu lại bây giờ đã yếu, chỉ còn thấy lờ mờ quang cảnh.

Bên dưới đài, đám lính cầm cờ vẫn nghiêm chỉnh. Trên các gò đống chung quanh mọi người vẫn đứng đội mưa mà xem, lúc nãy nóng bức khó chịu, bây giờ mưa trút xuống ầm ầm đến nghẹt thở, mát đến lạnh người. Nhìn lên phía Tây Bắc, lửa cháy vẫn sáng, nhưng với trận mưa này thì chắc chắn không có lửa nào có thể cháy được nữa.

Trong trận mưa như nghiêng vò mà trút nước xuống, từ Sứ quân Bạch Hổ, Hồi Chúc Tiên nương, đến các tướng Hoa Lư - Đằng Châu, không ai là không sững sờ đến lặng người, tất cả đứng lặng dưới trận mưa, đua nhau vuốt mặt và kinh hãi quá chừng, không ai có thể tin được việc Quân sư Hoa Lư lại có được cả phép nhiệm màu gọi mưa gọi gió đến như thế này!

Bây giờ, mưa trút xuống ầm ầm, còn ai là còn nghi ngờ được nữa! Đội mưa đứng lặng mà xem, mỗi người mang một ý nghĩ riêng trong đầu!

Lửa cháy đằng xa dịu dần, nền trời nhạt dần màu đỏ, cả khu gò Ân Thi tối đen, thỉnh thoảng chớp giật nhằng nhằng còn thấy bóng Quân sư vẫn đứng yên, vừa lúc ấy lại thấy Chu Kỷ Toàn mang một cây cờ đen cột cờ thật cao lên đài lặng lẽ dựng ở phía sau Quân sư, rồi lại thấy bóng Chu Kỷ Toàn thấp thoáng trong mưa mà đi xuống. Mưa càng lúc càng dữ dội, cách xa vài trường là chẳng thấy gì, cả một vùng bao la mù mịt nước trút xuống.

Sứ quân Đằng Châu cùng các tướng bây giờ rét run cầm cập, nhìn ra bốn phía chẳng có nơi nào trú mưa được, các tướng phải cởi giáp bào ghép lại che mưa cho Sứ quân và Hồi Chúc Tiên nương, đứng đợi xem nốt cảnh kì lạ và đợi Quân sư.

Mưa đổ như vậy đến đầu giờ Sửu mới lắng đần rồi tắt hạt, lửa ở Tây Bắc bây giờ đã tắt ngấm. Sau trận mưa dữ dội, trời tối đen, chỉ còn sấm chớp ẩm ì, thỉnh thoảng có tiếng sét nổ long trời ở gần đâu đấy. Mọi người vẫn còn lặng lẽ đợi Quân sư, nhìn ra chẳng thấy tướng Chu Kỷ Toàn đâu, đài cầu mưa lẫn vào bóng đêm đen sì trông chẳng rõ, đám lính cầm cờ vẫn còn thấy thấp thoáng chung quanh. Sứ quân vừa đưa tay vuốt mặt gạt những giọt mưa lất phất để nhìn rõ, thì chớp giật xanh biếc đến chói mắt, rồi sét nổ như đánh ngay cạnh mang tai nháng lửa dữ dội. Trong ánh lửa sét nổ, mọi người còn trông rõ cả dài cầu mưa tung lên, cột tre ván gỗ bay tơi tả, cây cờ đen trên đài trong chớp mắt cháy bùng rồi tắt ngấm.

Mọi người kinh hồn, sự việc xảy ra nhanh và bất ngờ quá, không ai kịp kêu một tiếng nào, chừng đến khi lại hồn, cũng vừa kịp thấy tướng Chu Kỷ Toàn truyền quân bật hồng đốt đuốc. Chu Kỷ Toàn và đám quân vẫn nghiêm trang, bình tĩnh, duy có Sứ quân, Hồi Chúc Tiên nương và các tướng Đằng Châu, Hoa Lư là ai cũng bàng hoàng hốt hoảng, tất cả đổ xô nhau đến chỗ đài cầu mưa để tìm Quân sư. Không ai thấy bóng Quân sư đâu cả. Tướng Đỗ Mậu Đại gào to lên thảm thiết:

- Quân sư! Quân sư!

Sứ quân Đằng Châu ngơ ngẩn, Hồi Chúc Tiên nương hai má ướt đẫm không biết ướt vì nước mưa hay nước mắt! Văn Sĩ Tôn Phủ Nghi như người mất hồn mặt nhợt như tàu lá. Tướng Chu Kỷ Toàn lúc ấy truyền quân thu xếp cờ năm sắc, tụ tập lại một chỗ để đợi lệnh, rồi Toàn đến trước Sứ quân kính cẩn trình mọi việc.

Chưa biết việc ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—