← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Năm Mươi Tám Tấn Vương lui binh bại chiến
Quân sư nói việc lâu dài

Trong ánh đuốc sáng rực. Tướng Chu Kỷ Toàn đến trước mặt Sứ quân Phạm Bạch Hổ vòng tay thưa:

- Bẩm Sứ quân, Quân sư chúng tôi truyền dựng đài cầu mưa, nay việc đã xong. Quân sư tôi có dặn: “Trình lại với Sứ quân, ngài cứ trở lại phủ đường trước, Quân sư chúng tôi tiễn Thần Mưa Thần Gió rồi xin đến hầu chuyện ngài sau”.

Sứ quân Bạch Hổ, Tiên nương và các tướng ai nghe Chu Kỷ Toàn nói cũng ngạc nhiên quá, lại còn có cả việc Quân sư Hoa Lư tiễn thần mưa thần gió nữa hay sao? Như thế, thì quả thật không có việc Quân sư Lê Thảo chết trong tiếng sét đánh tan đài cầu mưa rồi!

Sứ quân vuốt mặt, mình đẫm nước mưa, Ngài truyền các tướng hãy theo ngài cả về phủ đường. Thế là tướng Phác Đức Giật tiến lên trước, mở đường dẫn cả bọn về phủ đường Đằng Châu.

Kể lại việc binh Cổ Loa bị đại bại ở phía Nam Đằng Châu kéo chạy lên phía Bắc, rồi Nam Tấn Vương đối trận nghe Động chúa Hoa Lư trách, sau đó Nam Tấn Vương rầu rĩ truyền các tướng đem đại quân lẳng lặng lên đóng ở phía Bắc, dọc sông Xích Đằng bên tả ngạn, quân trấn rải rác từ phía trên Ngọc Đồng lên đến gần Bằng Nho.

Binh Cổ Loa chuyển động âm thầm, cả quân lẫn tướng không ai muốn nói nửa lời, bại binh mới thật là buồn thảm. Ngay khi quân vừa dừng bước, Nam Tấn Vương đã truyền các tướng cùng Vương hội nghị ngay tại bờ sông. Vua tôi xuống ngựa, đứng trong lau sậy mà bàn việc, trên trời cao mây đỏ vần vũ, gió Tây Bắc hiu hiu. Các tướng lặng lẽ, giây lâu Nam Tấn Vương mới cất lời buồn bã mà rằng:

- Chư khanh, trẫm mang binh tiễu giặc lần này là lần đầu bị bại, giặc dám lớn tiếng trách cứ trẫm đủ điều có lúc suýt nữa là uất khí dâng lên trẫm tưởng đã ngã ngựa mất rồi! Bây giờ, binh ta phải theo lời giặc tới đây, Đằng Châu cách chẳng xa mà ta không làm sao lấy được!

Vương ngừng nói, các tướng vẫn cúi đầu, suy nghĩ giây lát Vương liền truyền quân hãy gấp rút xuống phía Nam dò xét xem Hoa Lư - Đằng Châu có đem binh theo quân của Vương không? Tế tác vâng lệnh, chia nhau các ngả đi dò tìm.

Vương lại phán:

- Trẫm cho rằng: giặc Bộ Lĩnh mấy phen thắng thế, ắt sinh kiêu, việc con nó ngồi xe loan tất thế nào cũng làm cho chúng nó đâm chém nhau. Còn lúc này, Bộ Lĩnh dù sao chăng nữa cũng không dám tung hoành ở Đằng Châu, vì còn có giặc Phạm Phòng Át. Giặc Phạm Phòng Át, một mặt khiếp sợ quân ta, một mặt lo sợ giặc Bộ Lĩnh, tất phải nhờ vào việc ta lui quân lo quay sang đối phó với Bộ Lĩnh...

Vương nghỉ nói, thở dài một tiếng, rồi tiếp:

- Như vậy, trẫm tin là đằng sau binh ta không có giặc theo đuổi, lúc này chúng nó còn đang phải lo ngấm ngầm cầm cự với nhau, nếu ta bất thần kéo đại quân đánh xuống phủ đường của giặc Phạm Phòng Át thì có thể thắng được đấy!

Ngự tiền trung quân tướng Đặng Ngọc Hợp hỏi:

- Tâu Thánh thượng, việc giặc Phạm Phòng Át phải lo chống đỡ với giặc Bộ Lĩnh là đúng lắm, nhưng thần nghĩ rằng: nếu ta đánh Đằng Châu tất Đằng Châu phải chống cự, lại thêm giặc Bộ Lĩnh thấy thế nguy nên phải giúp Đằng Châu đương cự với ta, lúc ấy ta phải cùng một lúc chống với hai giặc, thần e có điều không lợi chăng?

Nam Tấn Vương cúi đầu suy nghĩ, hồi lâu ngẩng lên giọng cương quyết:

- Khanh nói đúng lắm. Nhưng, giặc Bộ Lĩnh không đem binh sang Đằng Châu, chứng cớ là nó dàn quân ở bên kia Xích Đằng, chỉ đem ít binh sang Đằng Châu, vả lại lúc nãy các tướng chẳng thấy hiệu kì Đằng Châu ở khắp mọi nơi là gì? Giặc Bộ Lĩnh có mặt trong đám lính thật, nhưng nó không có quân đâu!

Các tướng còn phân vân chưa quyết, tế tác đã về báo tin: “Các mặt đều trống cả, không có binh Đằng Châu Hoa Lư theo đuổi binh Triều”.

Nam Tấn Vương được tin, vừa hài lòng vừa nghi ngờ, Vương đắn đo:

- Các tướng thấy thế nào? Có thật giặc không theo ta không?

Tướng Lê Hoạt Hoàng tâu:

- Bẩm Thánh thượng, lời nói của Thánh thượng vừa rồi thế là đúng. Nhưng có điều thần nghĩ: Hoa Lư có Quân sư quá giỏi, tất nó không sơ xuất điều gì, thần e việc giặc không theo ta là có điều ám muội gì đây?

Vương hỏi:

- Các tướng thấy điều ám muội thế nào?

Đặng Ngọc Hợp tâu:

- Tâu Thánh thượng, giặc không theo ta có thể là nó tin rằng ta lần này về Cổ Loa thật, hoặc giả nó còn đang tranh chấp với nhau, cũng lại có thể như lời tướng Lê Hoạt Hoàng nói là Quân sư của nó có dàn xếp việc gì ta chưa biết.

Vương phán:

- Trẫm thấy có nhiều điều để cho giặc hục hặc với nhau. Vả lại, lúc ta đem quân đi, giặc vẫn đóng yên một chỗ, như thế thì nhất định nó khinh xuất tin rằng ta không còn dám nghĩ đến quay trở lại nữa đấy!

Vương ngửa mặt nhìn trời, rồi bỗng thốt:

- Hôm nay là ngày nào, mà trời lại là thế này?

Tướng Lê Hoạt Hoàng tâu:

- Bẩm, hôm nay là ngày Giáp Mùi, sơ Thu, Thánh thượng thấy có hiện tượng gì lạ đêm nay?

Nam Tấn Vương phán:

- Ngày Giáp Mùi, tiết sơ Thu, sao trời lại vần vũ muốn mưa?

Các tướng ngẩng mặt nhìn trời, chỉ thấy mây dày cộm thong thả trôi về hướng Đông Nam, không thấy có dấu hiệu gì là trời muốn mưa. Vương suy nghĩ giây lát, rồi nét mặt tươi tỉnh hăm hở phán:

- Này các tướng, trẫm cho đây là Trời Phật giúp ta, thế nào cũng sắp có mưa lớn lắm! Ta nhân trận mưa lạ ấy, đem quân đánh Đằng Châu, tất là thắng lợi. Giặc còn đang cầm cự nhau, còn đang tranh nhau kể công, ta nương theo mưa lớn ập đến tất chúng nó không kịp trở tay, thế nào cũng thắng!

Các tướng nghe Vương phán cũng phấn khởi! Vương quan sát địa thế, rồi gật gù phán:

- Đằng Châu đất phẳng, ven sông toàn lau sậy rồi tiếp đến rừng. Địa thế này nếu châm một mồi lửa, ắt thiêu rụi cả Đằng Châu, lúc này tiếc rằng ta không châm lửa dược, phải đợi mưa rồi nương theo mưa chứ không thể làm cho giặc kinh động đề phòng được! Nếu giặc quả thật giỏi ra, thì ắt chúng nó phải có phục binh ở đây, có thế mới là biết phép dụng binh đấy!

Nam Tấn Vương hân hoan truyền các tướng chuẩn bị, bảo quân lặng lẽ nghỉ ngơi ăn uống, đợi mưa xuống sẽ ra sức đổ xuống phía Nam cướp Đằng Châu, trong lòng Vương chứa chan hi vọng.

Lệnh Vương vừa ban ra, quân bỏ khí giới, vội vàng nghỉ ngơi ăn uống. Cơm nuốt chưa hết miếng đầu, đã thấy suốt dải ven sông có tiếng quân reo dậy đất, binh Cổ Loa lần này thì không còn ai là người chẳng vỡ mật bay hồn, tay chân run bần bật, ngơ ngẩn như đám người đi rừng nghe tiếng cọp rống voi gầm! Tiếng quân reo còn chưa dứt, đã thấy lửa phụt cháy dữ dội, lửa như từ lòng đất phun lên, loáng cái đã biến thành biển lửa ngút ngàn không biết đến đâu là hết!

Các tướng sững sờ, có tướng vừa cởi chiến giáp tay cứ khư khư áo trận, người như mất hồn cứ đứng ngẩn người, có tướng hốt nhiên cười lên ha hả rồi nhảy lên lưng ngựa phóng vào bóng đêm chạy miết! Nam Tấn Vương chết lặng, rõ ràng là có phục binh ở đây, lại thêm giặc dốt lửa dữ dội thế này có ý muốn đốt binh Cổ Loa ra than cả!

Nam Tấn Vượng và các tướng mê mẩn tâm hồn, nhìn ra đại quân xô nhau chạy cả lên phía Bắc, Nam Tấn Vương lúc ấy mới lại hồn vội cố gắng truyền các tướng lên ngựa trông quân, thôi thì sẵn đà quân chạy cử việc cho chạy một mạch lên phía Bắc, vượt Nho Lâm, tới Bằng Nho rồi vào lãnh thổ Bình Kiều!

Đằng sau đại binh Cổ Loa, lửa cháy ngút trời, tiếng phục binh reo ầm ầm rồi lặng dần. Binh của Nam Tấn Vương chạy như vậy cho đến gần cuối giờ Hợi thì đã đi được rất xa, vào lãnh thổ Bình Kiều, chưa bao giờ lại có việc chuyển quân mau lẹ đến như vậy! Lúc ấy, quay đầu nhìn lại đã thấy lửa ở mãi xa xa, bây giờ chắc hẳn là an toàn rồi, lúc ấy Nam Tấn Vương mới truyền các tướng cho quân dừng bước, nghỉ ngơi.

Nhìn ra chung quanh, sông Xích Đằng vẫn lặng lẽ, bát ngát. Bình Kiều đất phẳng rừng cùng với ruộng đồng chen nhau, bốn bề vắng lặng. Nam Tấn Vương hội các tướng lại. Vương rầu rĩ nghẹn ngào:

- Trẫm nhiều phen cầm quân tiễu giặc, chưa lần nào lại khốn đốn như lần này, chưa trận nào gọi là được giặc!

Vương nói dứt, cổ họng nghẹn lại, uất khí bốc lên, lại thêm suốt ngày mệt nhọc đến lúc này thì kiệt sức, Vương đang ngồi trên lưng ngựa bỗng gục xuống, các tướng xúm lại kinh hãi cố cứu tỉnh Nam Tấn Vương. Hồi lâu, Nam Tấn Vương tỉnh lại, giọng thều thào:

- Hận này làm sao trả được! Bộ Lĩnh! Bộ Lĩnh!

Rồi nghĩ đến Quân sư Hoa Lư tuổi trẻ tài vượt thiên hạ, Vương lại thấy buồn bã vô cùng, hai hàng lệ bỗng chậm chậm đổ xuống. Các tướng nhìn quang cảnh ấy, không ai là còn lòng dạ nào nghĩ đến việc chiến chinh, riêng Khai Sơn tướng Hồ Song Đao vừa thương Nam Tấn Vương lại vừa kinh hãi thầm trong lòng về nhân vật Quân sư Hoa Lư, Hồ Song Đao thấy lời nói của Quân sư Hoa Lư thật chẳng sai, một mai ắt có phen Hoa Lư về đến tận Cổ Loa mất!

Thế là, vua tôi xúm nhau lại than thở, nhìn xuống phía Nam lửa cháy rừng rực, Vương thẫn thờ phán:

- Hoa Lư có Quân sư giỏi quá, bao nhiêu việc ta định liệu đều bị y đoán biết trước cả! Đến chặng chót mà y cũng còn đốt được lửa phục được binh để phá quân ta! Cứ lửa này, bình thường thì chỉ đến sáng mai là cả Đằng Châu phải biến thành than, nhưng y giỏi quá tính biết được cả thiên văn, biết trời sắp mưa lớn, thế là y vừa dùng lửa được lại vừa nhờ được trời trút nước mà dập lửa! Trời không tựa ta, khiến cho ta không dùng lửa được, mấy phen toan tính đều không xong!

Than rồi, Nam Tấn Vương lại rơi lệ. Đêm hôm ấy, quả nhiên mưa đổ ghê gớm. Vương trong người đã mệt mỏi, nay lại gặp phải trận mưa đêm lạnh lẽo, thế là sức khỏe bị quỵ, Vương không còn sức ngồi trên lưng ngựa, phải ngồi võng mà về Cổ Loa, tình cảnh thật bi đát.

Nam Tấn Vương đem bại binh về Cổ Loa, qua ngả Bình Kiều, vào Tế Giang, dọc đường cứ theo ven Xích Đằng mà đi, có nơi hoang vắng, có nơi dân cư đông đúc, quân của Vương kéo về Cổ Loa tin lan truyền khắp nơi, không đâu là không biết.

Bình Kiều Ngô Xương Xí cũng gạt nước mắt thương cho Nam Tấn Vương, Lê Hiền (anh của Quân sư Hoa Lư Lê Thảo) kinh hãi trong lòng quả nhiên lời em mình nói là đúng. Ở bên kia Xích Đằng, Sứ quân Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt muốn nhân cơ hội kéo quân đánh úp đằng sau Nam Tấn Vương để lấy riêng, nhưng lại e Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc giữ sông Đỗ Động bất thần đánh lén.

Sứ quân Lữ Đường ở Tế Giang, toan chặn đường không cho binh triều đình kéo qua, nhưng lại sợ Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du, Sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại thừa cơ đánh trộm, ắt cùng một lúc phải đối địch với ba mặt tất khó yên ổn.

Nhờ các Sứ quân người nọ sợ lẫn người kia, thành ra Nam Tấn Vương về được Cổ Loa an toàn, nhưng cũng từ đấy các Sứ quân hoàn toàn không còn coi triều đình nhà Ngô ở Cổ Loa ra gì nữa, các Sứ quân hứng khởi về việc binh Hoa Lư đuổi quân triều, ai cũng tưởng mình thừa sức làm được như Hoa Lư, tất cả đều công khai kèn cựa rồi đem quân đánh lẫn nhau, khiến cho cả cõi Giao Châu mờ mịt binh lửa, trăm dân không còn hang hốc nào là yên ổn để được lánh thân. Đây là việc sau này.

Bây giờ nhắc lại việc Sứ quân Đằng Châu Phạm Bạch Hổ đem các tướng Hoa Lư - Đằng Châu kéo về phủ đường nửa đêm hôm ấy còn lất phất mưa, đoàn người lặng lẽ cho ngựa bước đi, không ai nói một lời, mỗi người một ý nghĩ riêng.

Cả bọn về đến trước phủ đường, đã thấy trước cổng phủ Quân sư Lê Thảo áo quần tề chỉnh cùng với vài tên quân Đằng Châu đứng đợi. Mọi người ngạc nhiên quá!

Sứ quân Bạch Hổ chạy vội tới mà rằng:

- Quân sư! Quân sư! Sao ngài lại ở đây?

Các tướng cũng vội chạy lại, Hồi Chúc hai má ướt ngấn lệ. Quân sư Lê Thảo cười tươi như hoa mà rằng:

- Bẩm Sứ quân, tôi mạn phép Sứ quân với Tiên nương, dựng đài cầu mưa dập tắt lửa, sau lại phải đưa tiễn thần mưa nên không đón tiếp Sứ quân, Tiên nương được!

Sứ quân hỉ hả lắm, Hồi Chúc cũng như các tướng tận mắt thấy Quân sư đứng trên đài mà gọi mưa gọi gió, rồi lại thấy tận mắt sét giáng tan đài, Quân sư biến mất, thì việc Quân sư bảo là “phải bận tiễn thần mưa” cũng chẳng làm cho ai ghi ngờ gì nữa!

Sứ quân mời tất cả vào phủ đường, ngay trong đêm hôm ấy mở hội nghị bàn việc. Mọi người vừa yên chỗ, có quân vào bẩm: “Tướng Trấn Giang cho người về báo tin”. Sứ quân truyền cho vào. Người đưa tin vào bẩm:

- Bẩm Chúa công, Trấn Giang tướng Nghi Bá Tường sai về trình: tự nhiên mưa đổ giúp làm tắt lửa, may lúc ấy binh của Nam Tấn Vương bị lửa xua đã kéo nhau chạy miết lên cả phía Bắc rồi! Bây giờ tướng Nghi Bá Tường đợi lệnh mới của Chúa công!

Sứ quân Phạm Phòng Át hài lòng lắm, truyền cho người đưa tin lui ra, rồi Sứ quân quay sang hỏi Quân sư:

- Thưa ngài, việc ngài dàn quân thế nào, tôi được các tướng cho nghe cả rồi, không mảy may sai lạc, tất cả đều đúng ý muốn của ngài, quả thật ngài là người “nhà trời” rồi! Bây giờ ngài thấy công việc ra sao?

Quân sư Lê Thảo vốn vẫn khinh Sứ quân Phạm Phòng Át là kẻ chẳng biết gì, nay nghe Sứ quân hỏi như vậy thì có khác nào bảo rằng: “Quân sư của Hoa Lư cũng là Quân sư của Đằng Châu, và Hoa Lư – Đằng Châu là một hay không!”. Nghĩ rồi Quân sư cao giọng:

- Bẩm Sứ quân, quả thật mọi việc không sai mảy may với các xếp đặt, nhưng tôi thấy không phải như vậy là mọi việc đã xong xuôi cả đâu.

Sứ quân nhíu mày hỏi vội:

- Ngài thấy còn những việc gì nữa?

- Bẩm, việc trong tuy đã xong, nhưng việc ngoài thì mới là lúc bắt đầu...

- Xin ngài nói rõ thế nào là lúc mới bắt đầu?

Quân sư Lê Thảo không thể đem việc lớn thiên hạ ra mà nói cho Sứ quân Đằng Châu nghe được liền đáp:

- Bẩm, tôi chắc là lúc này các Sứ quân khác đều đã rục rịch cả rồi. Binh của Nam Tấn Vương thất bại mà về, ắt làm cho các nơi khác rung động, có người muốn nhân cơ hội Nam Tấn Vương bại binh mà cướp Cổ Loa nữa cũng không biết chừng.

Hồi Chúc nhịn không được, giọng nũng nịu:

- Như thế là chính Quân sư đã làm cho cả thiên hạ loạn rồi còn gì nữa! Bây giờ Quân sư tính ra sao?

Lê Thảo mỉm cười đáp:

- Thưa Tiên nương, Tiên nương gán cho tôi cái tội to quá, tôi làm gì đủ sức làm cho cả thiên hạ loạn được, duy có điều: từ đây phải đề phòng Ngô Xương Xí ở Bình Kiều, Lý Khuê ở Siêu Loại, Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt, tức là các Sứ quân ở gần có thể nướng cái đà “gió bốc lên, sông chảy xiết” để ra tay đánh phá các nơi, làm hại cả đến Đằng Châu đấy ạ!

Tiên nương lại hỏi:

- Sao Quân sư chỉ nói đến hại của Đằng Châu, mà chẳng thấy nói đến hại của Hoa Lư thế?

Lê Thảo thấy gai gai trong người, liền nghiêm trang đáp:

- Thưa Tiên nương, Hoa Lư chúng tôi ở cách hẳn một nơi, núi trong sông ngoài, quanh năm chỉ có đói chứ không có gạo để dành trong vựa, một nơi như thế thì chỉ Nam Tấn Vương mới là người dại dột đem binh đến rước lấy thảm bại đấy mà thôi!

Sứ quân nghe đối đáp, chỉ gật gù, tướng Chu Trạch Phương liền hỏi:

- Thưa Quân sư, nếu có việc các Sứ quân khác ra quân, tôi thiết nghĩ là họ phải đánh nhau mới đúng, chứ có lẽ nào lại đi xâm phạm Đằng Châu là người vừa mới đuổi binh Triều chạy dài bao giờ!

Lê Thảo cười tươi tắn:

- Đại tướng nói đúng lắm, chỉ có việc đem quân hiếp đáp kẻ yếu, chứ sao có việc để bịnh đi chọc ghẹo kẻ khỏe bao giờ. Nhưng Đại tướng cũng phải cho các Sứ quân khác cái hi vọng uy hiếp được Cổ Loa chứ! Nam Tấn Vương về Cổ Loa, sao chẳng khỏi gây ra việc thiên hạ đại loạn? Đại tướng có biết Lý Khuê ở Siêu Loại nếu hòa được với Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du và Lữ Đường ở Tế Giang, thì đã cùng một lúc đánh cả Bình Kiều lẫn Đằng Châu ta rồi không? Ba Sứ quân ấy đang cố tìm cách liên minh với nhau, sau mới đánh các nơi, chỉ nay mai là cả Đằng Châu lẫn Bình Kiều biết việc binh đao, sao Đại tướng lại bảo là không có binh đao được?

Cả Đằng Châu nghe Quân sư Hoa Lư nói, ai cũng kinh hãi, Hồi Chúc hỏi vội:

- Quân sư nói vậy là có việc ba Sứ quân liên minh để tranh giành thiên hạ?

- Thưa Tiên nương, ba Sứ quân ấy cùng ở trên một vùng, phía Bắc cùng lo Cổ Loa, phía Tây Nam cùng lo Bình Kiều Ngô Xương Xí nhưng nếu cả ba giao hảo với nhau thì lại có sức phá cả thiên hạ. Lữ Đường ở Tế Giang dưới trướng có tay phù thủy biết các tà thuật ghê gớm, có thể chỉ ngồi ở nhà lấy được tính mạng của người ngoài trăm dặm. Lý Khuê ở Siêu Loại có người nữ tướng mỗi lúc xuất trận thường giắt ở lưng bảy ngọn liễu dao, có tài phóng ra như chớp giật lấy tính mạng tướng địch dễ như lấy đồ vật trong túi: y thị lại có tính dâm dục, mỗi lần ra trận là một lần lăm le bắt tướng địch đem về để dùng trong phòng the! Đến Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du thì y có sức mạnh ngang với thần thánh, ý chí cương cường trên đời hiếm có, y lại ỷ có núi Bát Vạn linh khí ngút trời, dưới trướng có ba nghìn đệ tử cởi trần dán bùa ở lưng ra trận không bao giờ chết. Ba người ấy đang thương lượng với nhau để cùng đoạt thiên hạ đấy!

Tiên nương nghe Quân sư nói, chăm chú lắm, mọi người ai nghe cũng lo trong lòng, Sứ quân chưa kịp nói thì Tiên nương đã tủm tỉm cười mà rằng:

- Tay phù thủy ở Tế Giang muốn tìm kình địch tất phải tìm đến Quân sư Hoa Lư; nữ tướng ở Siêu Loại gặp được Quân sư ắt thế nào cũng mời về chứ chẳng không; núi Bát Vạn, ba nghìn đệ tử ở trần dán bùa ở lưng, thì chắc chỉ có Quân sư là trị nổi; như vậy, thì thế nào thiên hạ cũng đi tìm Quân sư Hoa Lư, chứ ai đến Đằng Châu này làm gì!

Sứ quân, hết thảy các tướng nghe Hồi Chúc Tiên nương nói như thế, thảy đều cười thật vui vẻ, trăm mắt nhìn cả vào Quân sư Lê Thảo, Quân sư đỏ mặt cố nói át:

- Thưa Tiên nương, trước khi tới được Hoa Lư, thì ba Sứ quân ấy tất phải qua Đằng Châu trước, lúc ấy sợ rằng khi Hoa Lư chúng tôi ra gặp họ thì bên ngoài đã tan nát cả, làm gì còn có việc thiên hạ xem nhau tranh sức được nữa!

Sứ quân nghiêm giọng:

- Như thế, Quân sư định liệu thế nào?

- Bẩm Sứ quân, việc Động chúa chúng tôi phải ra trận cũng là để lo liệu các việc mai sau đấy ạ! Giả sử Nam Tấn Vương không thấy có Động chúa chúng tôi, tất lại cho là Hoa Lư chỉ dùng đến nghi binh mà thôi, chứ không thật dàn quân các mặt. Còn đối với các Sứ quân khác, việc Động chúa chúng tôi phải thân ra trận ở Đằng Châu, ấy cũng là để nhất thời trấn an thiên hạ đấy ạ...

Sứ quân hỏi vội:

- Động chúa trấn an thiên hạ thế nào?

- Bẩm, nếu binh Cổ Loa đến đây thì lặng lẽ về thẳng ắt làm cho các nơi náo động, ai chẳng muốn ra tay kiếm lời, Nam Tấn Vương về có khác nào con mồi bị trọng thương người thợ săn nào lại chẳng muốn bắn một phát tên nhẹ nhõm mà được lời lớn! Do đó việc Động chúa chúng tôi xuất hiện ở Đằng Châu, rồi đe cho Nam Tấn Vương về được yên ổn cũng là ngầm bảo cho thiên hạ biết rằng: Hoa Lư không phải là không đả bại được Cổ Loa, nhưng muốn để cho Cổ Loa được vẹn toàn chẳng sứt mẻ, thiên hạ ai dám cử binh thừa cơ đánh trộm Nam Tấn Vương, ấy là trái ý muốn của Động chúa chúng tôi, việc binh biến tất không thể tránh được!

Quân sư nói ra những lời lẽ như vậy, cả Đằng Châu không người nào vừa lòng, ai cũng cho là Quân sư Hoa Lư tự thị quân mình quá lắm, coi thiên hạ chẳng vào đâu. Vẻ mặt vừa tỏ ra không vui, lại có phần khó chịu, Quân sư thừa biết như thế, liền nói tiếp:

- Bẩm Sứ quân, thưa Tiên nương, vả chăng các nơi chỗ nọ dòm ngó chỗ kia, đâu cử binh tất sẽ bị các nơi khác bất thần đánh úp, việc Động chúa chúng tôi thân tới Đằng Châu, làm cho cả thiên hạ có cớ mà hòa với nhau, ai cũng sẽ cho rằng: “Động chúa Hoa Lư tới Đằng Châu, tất là giao hảo tốt đẹp với Đằng Châu, làm gì còn việc Đằng Châu bị sơ hở mà thừa cơ đánh trộm”. Do đấy, Đằng Châu được yên ổn, các nơi khác không bao giờ dám có ý xấu cho Đằng Châu đấy ạ!

Mọi người “Ồ” một tiếng, lao xao bàn nhau về lời nói của Quân sư, Hồi Chúc lại tủm tỉm cười mà rằng:

- Ngài nói như thế, có ý bảo rằng Đằng Châu chúng tôi phải nhờ có Hoa Lư mới được yên ổn, người ngoài không dám dòm ngó chăng?

Quân sư cũng tủm tỉm cười, nhìn sâu vào mắt Hồi Chúc mà rằng:

- Thưa Tiên nương, có lời nào của tôi Tiên nương thấy nói rằng phải có Hoa Lư, Đằng Châu mới được yên không? Tôi chỉ nói rằng: thế giằng co Đằng Châu - Hoa Lư làm cho thiên hạ e ngại, việc Động chúa chúng tôi tới Đằng Châu là việc bất đắc dĩ phải phạm phép của Sứ quân, chứ thật lòng là chỉ muốn giúp Nam Tấn Vương về Cổ Loa yên ổn mà thôi! Còn như bảo người ngoài không dám dòm ngó, thì tôi không dám chắc, riêng tôi nếu không vì việc quân mà tới Đằng Châu, ắt tôi ung dung tới bằng cách khác, vì lẽ khác đấy ạ!

Hồi Chúc chăm chăm nhìn Quân sư, rồi hỏi luôn:

- Ngài đến vì lẽ nào?

Quân sư tủm tỉm:

- Thưa Tiên nương, tôi thật khó nói quá! Chỉ xin được kể một câu chuyện thay lời mà trình đến Tiên nương nhé!...

Quân sư nói chưa hết, Sứ quân cũng như các tướng ai cũng vui vẻ, trong cuộc hội bàn việc bấy giờ lại hóa ra kể chuyện làm vui! Hồi Chúc hai mắt long lanh tình tứ, Quân sư mặt tươi tắn như ngồi trong tiệc vui chứ không còn là đang trong lúc bàn việc lớn an nguy của thiên hạ nữa. Sứ quân kéo Hồi Chức vào lòng mà rằng:

- Nàng có muốn nghe Quân sư Hoa Lư kể chuyện không?

Các tướng cười “ồ”. Hồi Chúc hai má đỏ bừng, nàng thỏ thẻ:

- Chuyện hay ai là người không muốn nghe! Chỉ sợ chuyện không hay nghe rồi uổng công!

Rồi Sứ quân quay sang Quân sư nói tiếp:

- Phiền Quân sư kể chuyện hay cho mọi người nghe xem sao nhé!

Lê Thảo trong lòng cũng vui, nhưng vẫn không quên việc lớn, thấy Sứ quân như vậy thì chán ngán lắm, nhưng lại cho rằng “như thế cũng tiện cho việc lớn mai sau, khỏi phải ân hận gì cả!”. Nghĩ rồi, liền mỉm cười đáp:

- Bẩm Sứ quân, thưa Tiên nương, mỗi người nghe tất hiểu một cách, riêng người kể cũng hiểu theo việc của mình, vậy tôi xin nói trước để mọi người đừng khiển trách gì là chuyện nghe uổng công mới được!

Mọi người không ai là không vui, đợi cho cả hội bớt ồn, lúc ấy Quân sư mới đĩnh đạc kể:

- Bẩm Sứ quân, thưa Tiên nương, hồi còn ở ẩn ở Bồ Điền, tôi thường thích đọc một cuốn sách nói về giống Rợ ở về phía Đông Trung Quốc, giống Rợ ấy sống ở biển, tuy man di nhưng lại rất chuộng đạo nghĩa, lấy cái hùng của biển rộng sóng cao làm đạo sống, bởi thế mỗi hành vi cử động của người giống Rợ ấy đều cốt sao tỏ lộ được cái hùng khí mới nghe...

Sứ quân ngắt lời:

- Trước khi kể chuyện. Quân sư hãy nói tên cuốn sách xem sao đã.

- Bẩm, cuốn sách ấy nguyên của Thành quân Khuất Hoặc Nguyệt nhà Chu chép sáu mươi chuyện lạ của thế gian, sách chép chỉ có một bản tên gọi là “Thế Gian Dị Sử”, sau bị Thủy Hoàng nhà Tần toan đốt may được chức bác sĩ lĩnh mệnh phần như tiếc quyển sách lạ, lén giấu đi, nhờ thế người đời sau mới có, nhưng sách được chép lại nhiều lần chắc vì thế mà có nhiều chuyện huyền hoặc không ra sao cả, duy có chuyện “Ngọn lửa thành Mặc Liêu” là tôi thấy có đủ nghĩa, thích hơn cả...

Quân sư kể lai lịch cuốn sách, không ai nghe biết bao giờ, văn sĩ Tôn Phủ Nghi chăm chú dốc hết tinh thần, lục mãi trong trí nhớ cũng không thấy có ở đâu nói đến tên quyển sách lạ này! Quân sư nghỉ một chút, mọi người im lặng đợi nghe, Quân sư kể tiếp:

- Chuyện kể: “Ở thành Mặc Liêu, có Thái Tường Địch Vụ Tướng quân hầu ở dưới Sa Điền lãnh chúa. Thái Tường Địch Vũ thường cắp gươm theo hầu chủ nên lúc nào cũng ở bên cạnh Sa Điền, Sa Điền trấn thành Mặc Liêu, oai danh lẫy lừng không giống rợ nào dám xâm phạm, Sa Điền lại ôm giấc mộng bước lên Trung Nguyên thu phục cả thiên hạ, nên ngày đêm đi lại các nơi, thu phục các tay gươm kiệt hiệt, lập ra đạo quân gọi là “Thái Dương Lên Lục Địa” để toan thu thiên hạ. Sa Điền Lãnh chúa có một người vợ rất trẻ, vóc dáng yểu điệu, sắc đẹp của nàng cả Trung Nguyên đều nghe tiếng, nàng tên là Minh Lệ Nhược Hồng...”

Cả hội im lặng chăm chú nghe Quân sư kể, tưởng như đây là buổi dạ yến mừng lúc thanh bình hoan lạc, chứ không phải là đang trong lúc thiên hạ đại loạn. Quân sư lại kể tiếp:

Địch Vũ tướng quân theo hầu Sa Điền lãnh chúa thường được gặp nàng Minh Lệ Nhược Hồng, sắc đẹp của nàng đã làm cho tay kiếm sĩ trẻ tuổi tài cao rung động, và chính nàng Minh Lệ cũng biết mối tình âm thầm của chàng. Nhưng kiếm sĩ Địch Vũ luôn luôn nghiêm chỉnh, cắp gươm hầu chủ không hề bao giờ vì sắc đẹp của Minh Lệ mà tỏ ra phạm thượng. Mối tình âm thầm nung nấu trong lòng, có sức mạnh có lẽ còn hơn cả sóng biển đại dương, vượt khỏi thân xác Địch Vũ mà vương vấn tâm hồn nàng Minh Lệ.

Rồi một sớm mùa Thu, Địch Vũ theo Sa Điền lãnh chúa lên đường. Buổi ra đi ánh mắt nàng Minh Lệ mới thật là êm đềm tha thiết nhìn Địch Vũ, khiến cho Địch Vũ xao xuyến không cùng. Buổi ra đi, ai ngờ cũng là ngày đại họa xảy đến...

Cả hội nín thở, Sứ quân cố nén không được bật kêu lên:

- Chắc là cuộc tình đã làm cho Địch Vũ phản bội lén giết Sa Điền để quay về thành Mặc Liêu đoạt nàng Minh Lệ...

Các tướng mê man, nàng Hồi Chúc bứt rứt. Quân sư mỉm cười đáp:

- Bẩm Sứ quân, tôi xin được kể tiếp...

Sa Điền Lãnh chúa ôm mộng bước lên Trung Nguyên nhưng quên mất bên cạnh còn có tùy tướng Thạch Chiêu Dương vẫn đợi cơ hội để phản chúa, cướp quyền, đoạt mỹ nhân. Sa Điền đi buổi ấy, giao quyền cho Thạch Chiêu Dương thay thế giữ thành. Thạch Chiêu Dương đem bộ hạ làm phản cướp thành. Các tay kiếm còn trung thành với Sa Điền xả thân chống trả, Thạch Chiêu Dương đốt thành Mặc Liêu rồi đi tìm nàng Minh Lệ. Cuộc chiến đấu thê thảm máu tràn khắp thành Mặc Liêu, đôi bên đâm chém nhau gần sáu ngày mà Thạch Chiêu Dương vẫn không giết hết được thủ hạ của Sa Điền. Ngay lúc Thạch Chiêu Dương làm phản, một kiếm sĩ đã lên đường đi tìm Sa Điền báo tin ngay. Sa Điền vội cùng Thái Tường Địch Vũ gấp rút trở về, về đến nơi cũng là lúc các tay kiếm trung thành với Sa Điền sắp bị chết hết, thành Mặc Liêu ngút lửa mấy ngày, không biết nàng Minh Lệ lưu lạc về đâu...

Sa Điền Lãnh chúa gầm thét điên cuồng, tay kiếm vô địch của Lãnh chúa đi đến đâu là bọn phản bội chết đến đấy. Thạch Chiêu Dương đền tội, nhưng Minh Lệ vẫn bặt tăm, Sau ra đến cửa thành phía Bắc, Sa Điền gặp một kiếm sĩ mình bị đâm chém nát bét mà vẫn chưa chết. Kiếm sĩ thều thào nói cho hay là nàng Minh Lệ trốn trên lầu “Minh Phụng”.

Thế là Sa Điển cùng Thái Tường Địch Vũ và thủ hạ gấp chạy đến lầu Minh Phụng. Đến nơi, thì lầu Minh Phụng cũng vừa ngút lửa không làm sao vào được. Sa Điền Lãnh chúa điên cuồng, đám thủ hạ cuống cuồng không biết phải làm sao. Trước ngọn lửa bừng bừng dữ dội. Thái Tường Địch Vũ tướng quân môi mím chặt, rồi quay sang Sa Điền Lãnh chúa mà rằng:

- Bẩm ngài, thuộc hạ xin vượt lửa mà vào, nhưng đã vào rồi thì nhất định chẳng còn sống mà trở ra được nữa! Mạng thuộc hạ không đáng kể, phải cứu lấy nữ chủ mới được!...

Sa Điền Lãnh chúa nghe nói, càng bối rối. Thái Tường Địch Vũ thưa tiếp:

- Bẩm ngài, thuộc hạ vào rồi, lúc nào trên lầu cao tôi ra hiệu ngài hãy cho lấy dây thiết đằng buộc vào đuôi mũi tên mà bắn vào, sau đấy thì tôi sẽ nhảy ra, bên ngoài kéo dây lôi xác tôi ra khỏi lửa thì mới được.

Địch Vũ dặn lãnh chúa cho người bắn tên kéo dây vắt ngang kì đài trước lầu Minh Phụng, để lúc chàng nhảy qua cửa xuống đất thì nhờ kì đài cao sẽ giữ dây lại, rồi mọi người hãy giữ dây mà giòng xác chàng xuống...

Nói xong, Địch Vũ không đợi lệnh của Sa Điền Lãnh chúa, rút trường gươm quát lên một tiếng đến bạt cả lửa cháy ở lầu Minh Phụng, rồi múa gươm xông vào biển lửa.

Mười ngón tay Hồi Chúc bíu chặt vào thành ghế, Sứ quân, các tướng nét mặt gay cấn, có người nghẹn thở, Quân sư tiếp:

Thái Tường Địch Vũ xông vào biển lửa, chỉ loáng mắt là lửa đã bén vào cả áo quần, Địch Vũ tay gươm vẫn múa tít vẹt lửa chạy vào. Trong lầu, chỉ có lửa, không một bóng người. Địch Vũ chạy lên lầu, vừa chạy chàng vừa gọi tên Minh Lệ. Lầu Minh Phụng cao mà rộng lắm nên phần trên lửa chưa bén tới. Địch Vũ vừa lên hết thang lầu, xăm xăm rảo bước, thì bất thần một kiếm sĩ mình đẫm máu từ trong chỗ nấp phóng ra, một đường gươm xả xuống trúng vai Địch Vũ. Địch Vũ huơ gươm, thì kiếm sĩ cũng vừa gục xuống. Địch Vũ cố nén đau, mặc cho máu ròng ròng trên vai lại xông xáo đi tìm Minh Lệ Nhược Hồng, ngọn lửa theo gót Địch Vụ bén lên lầu cao. Địch Vũ gào thét gọi tên Minh Lệ, cuối cùng chàng cũng gặp được nàng ẩn mãi trong góc lầu, Minh Lệ lúc ấy kinh hãi quá chừng, lại thêm mấy ngày chạy giặc khốn khổ mệt nhọc quá, nên nàng có nghe thấy tiếng Địch Vũ gọi mà vẫn không làm sao cất tiếng đáp lại được.

Bây giờ gặp Địch Vũ ở đây, Minh Lệ mừng đến lặng người, tự nhiên hai hàng lệ đổ xuống. Địch Vũ chạy vội lại, bốn mắt nhìn nhau tha thiết, rồi bất thần Minh Lệ Nhược Hồng như không còn tự chủ được nữa ngã vào lòng Địch Vũ. Cả vũ trụ quay cuồng, ngọn lửa bừng bừng cháy ngoài cửa lầu, trong thoáng lát Địch Vũ như quên hẳn tất cả, mỹ nhân danh vang đến tận Trung Nguyên đang nép trong cánh tay vững như thành đồng vách sắt của chàng để cầu che chở, mối tình âm thầm bây giờ ngút cháy trên lầu cao ngụt lửa.

Quân sư lại ngừng kể, có tiếng thở dài của ai như thể để trút đè nén trong ngực, Sứ quân giục:

- Quân sư kể tiếp mau đi!

Địch Vũ vòng tay ôm lấy ngang lưng Minh Lệ thì cũng vừa lúc ấy lửa tràn vào lầu, thoáng lát cả lầu mờ mịt khói lửa, nóng khôn tả. Địch Vũ tỉnh cơn mơ, lập tức xốc nàng Minh Lệ dạt về phía trước lầu mà tránh, Minh Lệ vẫn êm đềm vòng tay ôm lấy cổ Địch Vũ, vũ trụ chung quanh như không thể đốt cháy được mối tình âm thầm trong lòng nàng. Trong cơn cấp bách, Địch Vũ tướng quân nghiêm giọng:

- Bẩm nữ chủ, phải mau mau ra thoát nơi này mới được, không thì chết cả!

- Ta muốn được cùng chết với chàng ở đây, chỉ có đôi ta thôi!

Địch Vũ nghiến răng, rồi nhẹ đẩy Minh Lệ ra, giọng quả quyết:

- Bẩm nữ chủ, thuộc hạ không thể tuân lời nữ chủ được, phải ra khỏi nơi này ngay!

- Nếu ta còn là nữ chủ của chàng, thì lệnh ta là: chàng với ta cùng chết ở đây!

- Bẩm nữ chủ, dưới kia Sa Điền đại nhân còn đang đợi, thuộc hạ cầu xin nữ chủ giữ được trọn trinh tiết với Sa Điền đại nhân!

Minh Lệ Nhược Hồng nghe Thái Tường Địch Vũ nói chẳng khác nào có muốn hộc nước giá lạnh ở biển Bắc vừa dội xuống đầu, Minh Lệ tỉnh cơn mê, sắc mặt nghiêm nghị, nàng bảo:

- Chồng ta đợi dưới kia! Làm sao ra khỏi nơi này được bây giờ?

Lửa ngùn ngụt, Địch Vũ môi mím chặt, khuôn mặt khôi ngô vã mồ hôi, vóc dáng cao lớn hiên ngang của Địch Vũ như muốn vượt ngọn lửa mà cao hơn nữa. Thoáng lát suy nghĩ, Địch Vũ đanh nét mặt mà rằng:

- Bẩm, không còn đường nào ra khỏi lửa được rồi! Thuộc hạ có dặn trước, ta phải theo đường cửa lầu nhảy ra mới xong, như thế thì nữ chủ chắc không an toàn. Thuộc hạ đã có cách…

Địch Vũ ôm lấy Minh Lệ đẩy nàng ra phía cửa lầu trông ra kì dài, lửa táp vào lưng Địch Vũ nóng đến cháy da sôi mỡ. Địch Vũ nhìn xuống, quả nhiên mọi người còn đứng đợi. Tức thì Địch Vũ giơ cao trường gươm ra hiệu, bên dưới đích tay Sa Điền Lãnh chúa phóng mũi tên đi, mũi tên bay lên cửa lầu vẹt ngọn lửa lôi theo cả sợi thiết đằng lớn bằng nửa cổ tay. Địch Vũ vươn tay đón lấy mũi tên, rồi quay sang Minh Lệ mà rằng:

- Thưa nữ chủ, ngoài lan can lửa cản đường, không có cách gì chạy qua được. Bây giờ trong này mọi thứ đều cháy cả, cũng không còn cách gì để che được cho nữ chủ, chỉ còn xác của Địch Vũ này mà thôi! Vậy thuộc hạ xin được mổ bụng mọi ruột làm nơi ẩn nấp cho nữ chủ, rồi nhờ dây ở dưới lôi ra khỏi biển lửa này mới xong!

Minh Lệ Nhược Hồng thảng thốt kêu lên:

- Không được! Tướng quân mổ bụng cho ta có nơi nấp mà trốn lửa?

- Bẩm chính thế

- Không được! Thà ta chịu chết!

- Bẩm, nếu nữ chủ còn kính yêu Sa Điền đại nhân, nếu nữ chủ còn nhớ đến Địch Vũ này, thì phải nghe lời thuộc hạ nhận sự hi sinh của Địch Vũ này cho...

- Cho ai?

- Cho người yêu trong giấc mộng!

Minh Lệ Nhược Hồng áp mặt vào ngực Địch Vũ, khẽ gọi: “Địch Vũ!”. Lửa đã bén vào xiêm y Minh Lệ, Địch Vũ rắn rỏi:

- Thưa nữ chủ, gấp lắm rồi, xin được hành động ngay!

Rồi Địch Vũ lẹ tay thắt sợi thiết đằng vòng lấy hai người, Địch Vũ khẽ đẩy Minh Lệ ra rồi tay gươm quyết liệt xả một đường từ ngực xuống dưới, máu tuôn xối xả, hai mắt Địch Vũ trợn tròn. Địch Vũ lách mũi gươm đầy ruột gan ra ngoài, rồi hai tay phanh hai mảnh xác giọng run rẩy:

- Nữ chủ mau vào đi!

Minh Lệ như người đã mất thần đứng lặng mà nhìn Địch Vũ! Tình yêu vĩ đại của Địch Vũ, mối tình trong sạch, băng tuyết cũng không sánh được, có sức mạnh nghiêng trời chuyển đất, làm cho Địch Vũ vượt ra ngoài sống chết tầm thường, mổ phanh bụng moi ruột gan, vật tim phổi mà vẫn không ngã xuống. Hai tay Địch Vũ kéo hai mảnh thân xác ôm lấy Minh Lệ mà khép lại. Rồi thanh gươm giơ cao vẫy vẫy...

Sứ quân thảng thốt kêu lên:

- Trời ơi!

Hồi Chúc như chết lặng trên ghế phượng, các tướng như biến thành tượng gỗ cả!

Phía dưới sân lầu Minh Phụng, Sa Điền vừa thấy thanh gươm của Địch Vũ giơ lên làm hiệu, lập tức Lãnh chúa cùng thuộc hạ ra sức kéo dây. Sợi thiết đằng khép vòng nút lại, cột chặt hai mảnh thân xác Địch Vũ che kín Minh Lệ Nhược Hồng ở trong. Lửa ngùn ngụt cháy, áo quần Địch Vũ bừng bừng lửa, sợi thiết đằng kéo xác Địch Vũ qua cửa lầu, ra lan can rơi ra ngoài, đỉnh kì đài giữ sợi dây lại. Lãnh chúa cùng thuộc hạ mau tay hạ sợi dây buông cái xác Địch Vũ ngùn ngụt lửa xuống rồi lôi nàng Minh Lệ Nhược Hồng ra. Minh Lệ Nhược Hồng không bị thương tích gì cả, toàn thân nàng máu nhuộm đỏ, Minh Lệ như người mất hồn trong vòng tay sung sướng đến điên lên của Sa Điền Lãnh chúa…

Quân sư kể tới đây thì ngừng lại, mọi người đều thở ra một tiếng nhẹ nhõm, cơn đè nén nặng nề trên ngực cũng tiêu tan. Quân sư nói:

- Bẩm Sứ quân, thưa Tiên Dương, câu chuyện “Ngọn lửa thành Mặc Liêu” đến đây là hết...

Sứ quân cắt lời Quân sư mà rằng:

- Truyện Quân sư kể hay quá! Thế quyển sách ấy bây giờ Quân sư cất ở đâu?

- Bẩm Sứ quân, lúc tôi bỏ Bồ Điền mà đi, đã ném quyển sách vào lửa rồi, giữ việc thiên hạ làm chi, việc nước mình sao chẳng lo trước đã!

Hồi Chúc Tiên nương lúc ấy mới lên tiếng:

- Ngài kể câu chuyện khiếp quá! Như thế, thì ngài định đến Đằng Châu với ý nghĩa nào? Địch Vũ với Minh Lệ, hay Địch Vũ với Sa Điền đây?

Quân sư nghe Hồi Chúc hỏi, lại thấy Hồi Chúc hai mắt long lanh, trong tâm trí một thoáng rung động, liền đáp:

- Giả sử tôi có Minh Lệ để mà đến, ắt sung sướng hơn là đến với Sa Điền! Đằng Châu nức tiếng trong thiên hạ là tiên trên trời xuống nhiều lắm, chỉ tiếc một điều là Nam Tấn Vương không biết thế lại đem binh đến quấy rối, khiến cho tôi đến Đằng Châu chẳng được nhàn nhã mà ăn chay cầu tiên xuất hiện đấy!

Hồi Chúc nghe Quân sư Lê Thảo nói, từ đấy không nói gì, vẻ mặt bâng khuâng nghĩ ngợi. Sứ quân hỏi tiếp:

- Rồi việc Nam Tấn Vương bây giờ thế nào, có liên quan gì đến ngọn lửa thành Mặc Liêu của ngài không?

Quân sư rắn rỏi:

- Bẩm Sứ quân, ngọn lửa thành Mặc Liêu làm chết một dũng sĩ, biến một mối tình thành bất tử, giúp cho Lãnh chúa Sa Điền Có cơ hội trừ khử loạn ở hàng thu túc, còn như lửa Đằng Châu thì đuổi Nam Tấn Vương, làm cho thiên hạ rung động, nhưng Động chúa Hoa Lư đã xuất hiện ở Đằng Châu làm cho cả thiên hạ không ai dám vọng động, không ai dám nghĩ đến việc xâm phạm Đằng Châu, há chẳng phải là hai ngọn lửa mà ý nghĩa khác hẳn nhau, giá trị cũng xa hẳn nhau là gì?

Sứ quân gật gù và suy nghĩ, văn sĩ Tôn Phủ Nghi bồi thêm:

- Bẩm Chúa công, trong những ngày tôi được ở bên doanh Hoa Lư, cũng đã trộm phép Chúa công để xem xét mọi việc, quả thật thấy Hoa Lư mỗi khi định việc đều đắn đo ước lượng hơn thiệt cho Đằng Châu ta, Động chúa Hoa Lư hành xử rõ ra là người biết lo đến sự liên quan tới các nơi khác.

Sứ quân không nói gì, các tướng sang giúp Hoa Lư bây giờ ai cũng thấy Hoa Lư quả thật phải dàn quân chẳng qua chỉ vì an nguy của Đằng Châu, chứ Hoa Lư thì chẳng có lợi gì. Những ngày sống với Hoa Lư, các tướng Đằng Châu cảm thấy mình gần gũi thân thiện với Hoa Lư, bây giờ trong hội thì đua nhau mà khen Hoa Lư vì nghĩa chứ không vì lợi riêng.

Sứ quân nghe các tướng bàn như thế, thì nói rằng:

- Như vậy, thì việc Động chúa Hoa Lư phải cất công sang Đằng Châu làm cho Đằng Châu ta mắc nợ, vả chăng Động chúa không lưu lại cũng tỏ rõ ra là không có ý xâm phạm lãnh thổ của ta, việc chẳng tránh được mà đành phải làm thế. Như vậy, thì còn việc các đạo quân khác với Hoa Lư hiện còn trấn ở các nơi Đằng Châu, thì Quân sư nói thế nào?

Quân sư Lê Thảo nghiêm trang thưa:

- Bẩm Sứ quân, có hai điều để tôi thưa với Sứ quân về việc này. Sau khi cần dàn quân để Đằng Châu đốt lửa, thì các đạo quân Hoa Lư còn đóng lại ở Đằng Châu trước hết là làm cho xong nhiệm vụ của mình.

Sử quân hỏi ngay:

- Nhiệm vụ gì ở Đằng Châu này?

- Bẩm Sứ quân, Hoa Lư xua binh Cổ Loa chạy qua ngả Đằng Châu, làm cho Đằng Châu náo động, dễ bị bên ngoài dòm ngó; nay Cổ Loa chạy xa rồi, trách nhiệm của Hoa Lư là phải bảo đảm được sự an toàn của Đằng Châu, đấy là nhiệm vụ của mình phải làm cho xong trước đã.

Sử quân nghiêm nghị hỏi thêm:

- Còn điều thứ hai?

- Bẩm Sứ quân, thành Mặc Liêu cháy vì lửa phản bội bên trong mà ra, giả sử Sa Điền Lãnh chúa giữ trước được các mặt, thì lúc lên đường làm gì còn có cái họa sau lưng mà chẳng biết. Đằng Châu cũng thế, giặc ngoài không khởi tự Đằng Châu, mà do Hoa Lư gây ra, binh Hoa Lư trấn vài chỗ ở Đằng Châu là để trả cái nợ làm ra loạn ấy, bên trong Đằng Châu không có lửa đốt thành của Thạch Chiêu Dương làm gì còn có cơ hội cho Địch Vũ với Minh Lệ được tỏ tình giữa cơn nguy cấp. Vậy thì, binh Hoa Lư vượt sông khiến Động chúa Hoa Lư phải thân xuất trận, lại chẳng phải là cơ hội để Đằng Châu, Hoa Lư kết nghĩa là gì?

Hội nghị ồ một tiếng, thì ra việc Động chúa Hoa Lư sang Đằng Châu lại còn hệ trọng đến như vậy! Nhưng, Hồi Chúc từ lúc nghe Quân sư kể chuyện lửa thành Mặc Liêu, lòng vẫn bâng khuâng rào rạt lạ lùng, bây giờ mới chợt hỏi như người nói trong giấc mơ:

- Quân sư Hoa Lư luận việc như thế, tôi có thấy chỗ nào dành riêng cho Quân sư đến với Đằng Châu như việc trong truyện ở đâu?

Quân sư Lê Thảo bồn chồn trong dạ, trong một thoáng thật nhanh Quân sư nghĩ: “Hồi Chúc dồn mình đến cùng chối phắt cũng hỏng việc, lộ liễu quá cũng hỏng việc!”. Nghĩ rồi, đáp lững lờ:

- Thưa Tiên nương, giả sử Đằng Châu có loạn, tôi xin được đến như Địch Vũ vào lầu Minh Phụng, còn lúc Đằng Châu thái bình, tôi xin được làm Sa Điền Lãnh chúa ở chốn dân gian!

Ngoài Hồi Chúc ra, không ai trong hội lại hiểu được ý nghĩa lời nói của Quân sư, mọi người chỉ cười “làm duyên”, còn Hồi Chúc vẻ mặt rạng rỡ mà rằng:

- Vừa rồi Đằng Châu có ngọn lửa ven Xích Đằng Giang, chứ không có lửa lầu Minh Phụng, ắt mai sau thế nào ngài cũng là Lãnh chúa Sa Điền rồi!

Quân sư khẽ giật mình, không ngờ Hồi Chúc lại táo bạo đến thế? Quân sư nói rằng mình mong được làm Sa Điền ở chốn dân gian, chứ sao lại có việc làm Sa Điền không như vậy?! Quân sư chỉ dám mỉm cười rồi nghiêm ngay nét mặt. Sứ quân không hiểu gì cả liền vui vẻ đáp:

- Thôi, việc Sa Điền hãy để đấy đã! Còn việc bây giờ, thì Quân sư bảo liệu binh đao đã yên chưa?

- Bẩm Sứ quân, trước mắt thì binh đao đã yên rồi, nhưng sau lưng có thể chưa yên được...

- Sau lưng là chổ nào, mà sao lại chưa yên được?

- Bẩm, tôi có nói rằng binh Cổ Loa kéo về ắt làm cho cả thiên hạ náo động, ai không muốn nhân cơ hội xuất binh, đây là việc sau lưng loạn lớn.

Sứ quân lại hỏi:

- Thế Hoa Lư đã phòng bị được đến thế nào?

Quân sư lại một phen cười thầm trong bụng, có ai lại đi hỏi việc ruột gan của người khác như vậy bao giờ?

Quân sư đáp:

- Bẩm Sứ quân, Hoa Lư chúng tôi một mình đứng ở chỗ núi rừng heo hút, chắc chẳng ai muốn nhòm ngó làm gì. Nhưng nhà nghèo cũng có đồ vật để quân trộm cắp thèm thuồng, sao bằng rào giấu cho kín, giao hảo quen tiếng với hàng xóm láng giềng mà đề phòng có phải là tốt hơn không. Vì thế, Hoa Lư chúng tôi bao giờ cũng thèm được giao hảo với mọi nơi đấy ạ!

Sứ quân cười ha hả, quay sang Hồi Chúc mà rằng:

- Hoa Lư nhún nhường, nhận là nhà nghèo, ta ở Đằng Châu là nhà giàu sao lại không biết rào giấu cho kín, đi lại với láng giềng, có phải không nàng!

Hồi Chúc đáp ngay:

- Tướng công nói rất phải, Đằng Châu ta không phải chỉ muốn được giao hảo với một mình Hoa Lư, có cơ hội tốt Tướng công đừng để lỡ!

Quân sư hồi hộp đợi xem Sứ quân nói gì nữa, quả nhiên Sứ quân vui vẻ bảo:

- Động chúa Hoa Lư thân tới Đằng Châu, vì công việc mà phải về gấp. Đằng Châu ta nợ món nợ ấy, phải trả đủ trước đã! Ta quyết định sang chơi uống rượu với Hoa Lư Động chúa một phen mới được.

Quân sư mừng như mở cờ trong bụng, thế là mới chỉ loanh quanh chọn đường thì Sứ quân đã tự nói ra là muốn sang thăm Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư!

Lời Sứ quân nói ra, các tướng đều vui. Hồi Chúc hai mắt long lanh kín đáo nhìn Lê Thảo. Quân sư vội trịnh trọng đáp:

- Bẩm Sứ quân, Sứ quân đã có lòng như vậy, ngay hôm nay tôi xin trở về Hoa Lư để báo tin cho Động chúa chúng tôi biết mà nghênh đón Sứ quân cho đúng lễ!

Sứ quân rất đẹp lòng, ngài bảo:

- Quân sư cũng chẳng phải vội như thế, ta còn rộng ngày giờ mà!

Rồi quay sang Hồi Chúc, Sứ quân hỏi:

- Nàng có muốn cùng với ta đi chơi một chuyến không nào?

Hồi Chúc cười tươi như hoa đáp:

- Đi chơi với Tướng công, chẳng muốn thì còn muốn gì nữa!

Nghĩ tới Quân sư ở Hoa Lư, Hồi Chúc lại xôn xao trong lòng. Sứ quân nghe Hồi Chúc nói thế thì cười vui bảo:

- Ta với nàng đi Hoa Lư, liệu ở nhà có Thạch Chiêu Dương đốt lửa không đấy?!

Quân sư chột dạ, Hồi Chúc cười lanh lảnh mà rằng:

- Ta không có lầu Minh Phụng, lại chẳng có nàng Minh Lệ Nhược Hồng ẩn trên lầu cao, làm gì có Thạch Chiêu Dương châm lửa nữa! Vả lại, nếu có lửa ấy, ắt Quân sư Hoa Lư được thỏa lòng một phen như lúc nãy ngài có nói nhé!

Quân sư đang lo trong lòng, Hồi Chúc nói như vậy khiến cho Quân sư mừng thầm, liền đáp:

- Bẩm Sứ quân, ngài lo xa như vậy là phải lắm nhưng tôi chắc chẳng đến nỗi như thế. Vả lại, ngài vì việc lớn mà sang Hoa Lư, thịnh tình ấy Hoa Lư chúng tôi rất cảm tạ. Vậy, các đạo quân của Hoa Lư được vài trăm người xin được tạm ở lại Đằng Châu để làm lính canh gác cổng ngoài của Đằng Châu, phòng vệ các ngả đối với bên ngoài để Sứ quân cùng Tiên nương yên lòng xem phong cảnh Hoa Lư chúng tôi, lúc nào Sứ quân về thì các đạo quân ấy cũng xin được phép trở lại Hoa Lư.

Sứ quân rất hài lòng, thế là ngay trong đêm hôm ấy binh Cổ Loa còn đang khốn đốn ở Bình Kiều, Quân sư Hoa Lư đã cùng một lúc dụ được Sứ quân Đằng Châu sang Hoa Lư, lại được đóng quân trên đất Đằng Châu!

Muốn biết việc sẽ ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—