← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Năm Mươi Chín Binh Hoa Lư tế mồ Phúc Hải
Luận việc đời, Lê Thảo định mưu

Sau lửa Xích Đằng, Quân sư tạm biệt Sứ quân Đằng Châu mà về Bình Lục, ba đạo quân Hoa Lư tạm đóng lại ở Đằng Châu. Sứ quân Đằng Châu đã nhận lời hứa với Quân sư Lê Thảo là sẽ sang Hoa Lư hội kiến Động chúa Đinh Bộ Lĩnh. Quân sư trước khi trở về Bình Lục, còn nói với Sứ quân Phạm Bạch Hổ:

- Bẩm Sứ quân, tôi về lo liệu mọi việc để đợi đón Sứ quân và Tiên nương. Ba đạo quân Hoa Lư xin tạm ở lại Đằng Châu cho đến khi nào Sứ quân đi chơi Hoa Lư về thì xin triệt thoái. Còn bây giờ, Đằng Châu tạm yên ổn, Sứ quân nếu có lo thì cũng chỉ nên thao luyện binh sĩ chứ không cần phòng bị gì cả.

Sứ quân vui lòng lắm. Quân sư lại dặn riêng các tướng Hoa Lư ở lại Đằng Châu là phải giữ cho nghiêm chỉnh, ngày đêm phải lưu tâm đến các biến động ở bên ngoài, lại phải luôn luôn liên lạc với Hoa Lư trình rõ tình hình, sẵn sàng nghe mệnh lệnh. Các tướng: Đinh Điền ở mặt Nam Đằng Châu; Lê Hoàn, Nguyễn Bặc trấn mặt Đông Bắc Đằng Châu; Trịnh Tú, Chu Kỷ Toàn ở mặt Tây Bắc Đằng Châu, năm tướng lên đường tiễn Quân sư đến tận bờ sông.

Lúc ấy, nhìn lại chỉ còn năm tướng nhà, Quân sư đứng ngay bên sông Xích Đằng, bảo các tướng lắng nghe lời Quân sư dặn, Quân sư nói:

- Việc binh Hoa Lư ta vào được Đằng Châu, không phải là cốt để đuổi Nam Tấn Vương, mà cốt để phục sẵn trong gan ruột Đằng Châu đợi mai sau hành động đấy…

Trịnh Tú vội hỏi:

- Thưa Quân sư, như thế là Quân sư định cho Hoa Lư đánh úp Đằng Châu?

- Đánh úp Đăng Châu, ta thừa sức. Nhưng làm thế nào, binh đao sinh ra biến động khó gỡ binh bên ngoài đánh vào. Quân ta phục ở Đằng Châu, là cốt để cho thi hành mưu kế mai sau. Các tướng chỉ cần nghe ta dặn mà nhớ cho kĩ là: luôn luôn phải hòa nhã, đi lại giao thiệp với mọi người ở Đằng Châu, lại phải tỏ ra ngày đêm lo lắng canh phòng binh ngoài xâm phạm Đằng Châu, lúc nào cũng phải bảo rằng nhiệm mệnh Quân sư Hoa Lư gìn giữ Đằng Châu cho yên ổn để trả cái nợ làm Đằng Châu náo loạn...

Lê Hoàn hỏi:

- Thưa Quân sư, như vậy thì binh Hoa Lư ta sẽ phải ở lại Đằng Châu đến bao lâu?

Quân sư gật gù, rồi đáp:

- Làm cho Đằng Châu náo động rồi mất thì dễ, nhưng chưa phải lúc để Hoa Lư ta lấy cả thiên hạ. Các ông ở lại Đăng Châu cùng lắm là đến cuối thu năm nay thôi, cũng lại có khi lâu chưa biết là bao nhiêu năm, còn tùy ở tình thế cả cõi Giao Châu ta, lúc ấy ta dù chưa muốn lấy Đằng Châu, nhưng Đằng Châu lúc nào cũng sẵn sàng là của riêng ta rồi. Bây giờ, các ông phải cố tránh, đừng bao giờ tỏ ra để ý đến mọi việc nội bộ của Đằng Châu, phải thật kín đáo đợi lệnh Hoa Lư bí mật gửi đến, đừng bao giờ xao lãng cả nhé!

Năm tướng vui vẻ lĩnh mệnh, tiễn Quân sư xuống thuyền vượt sông. Lúc Quân sư xuống thuyền, tướng Đinh Điền lại hỏi:

- Thưa Quân sư, sao Quân sư lần này không gọi mây sai gió đưa qua sông có phải nhanh hơn không, mà lại đi như thế?

Quân sư cười thật tươi:

- Ấy, cũng có lúc nhờ cậy đến thần thánh chứ! Tướng quân nhớ lấy đấy chắc mai sau có lúc dùng đến!

Rồi thuyền Quân sư tách bến, năm tướng trở về doanh chẳng ai biết việc đời lại trôi chảy nhiều biến đổi!

Quân sư về Bình Lục, tới chẳng doanh gặp Động chúa. Tại doanh, Động chúa cùng hết thảy các tướng đã tề tựu, Quân sư trở về khiến ai cũng mừng. Tức thì Động chúa truyền mở hội nghị ngay để bàn mọi việc. Quân sư xét thấy không thiếu một tướng nào, chỉ trừ năm tướng ở lại Đằng Châu, thì vui vẻ lắm. Quân sư bảo:

- Bẩm Động chúa, bây giờ mọi việc tạm yên, Bình Lục không phải là nơi đóng quân lâu được, việc đầu tiên là ta có thể về Hoa Lư được, rồi sau sẽ tính các công việc khác.

Động chúa hỏi:

- Thế còn việc bên Đằng Châu bây giờ thì thế nào?

- Bẩm, Đằng Châu sẽ không bị bên ngoài nhòm ngó nhưng tôi cứ lấy cớ ấy mà để năm tướng Đằng Châu lại. Nhớ ơn Động chúa thân đến tận mặt trận để đuổi Nam Tấn Vương, nên Phạm Bạch Hổ có hẹn sẽ xin sang Hoa Lư gặp Động chúa...

Động chúa hỏi liền:

- Phạm Bạch Hổ với Hoa Lư liệu có hại gì cho ta không?

- Bẩm, giả sử Phạm Bạch Hổ đến Hoa Lư ta để cầu cứu, thì ta còn đắn đo, đằng này y đến để tạ ơn ta, thì ta chỉ có lợi. Vả lại, ta để năm tướng của ta lại Đằng Châu cũng là có ý giúp thêm một tay vào việc ta đoạt Đằng Châu đấy!

- Quân sư định lấy Đằng Châu như thế nào?

- Bẩm, tôi xin sẽ được trình bày lên Động chúa việc ấy sau. Bây giờ, ta nên về Hoa Lư chấn chỉnh lại mọi việc, để đợi việc lớn mai sau.

Động chúa hài lòng, giao mọi việc cho Quân sư đưa binh về Hoa Lư, Quân sư hội các tướng lại mà rằng:

- Nhờ các tướng vất vả xông pha, nay Hoa Lư vững vàng đánh thắng binh Triều. Việc thế là tạm xong, thế mà vẫn còn năm tướng phải lặn lội ở ngoài để lo việc mai sau, công lớn ấy Động chúa truyền cho tôi thay mặt ngài để định công cho các tướng. Việc binh thắng bại là thường, cốt sao cho vững tinh thần, hết lòng lúc vào việc, lúc thắng tất phải nghĩ đến lúc thua, thắng càng phải sáng suốt thêm nữa, thua phải suy nghĩ xem nguyên cớ vì đâu, Quân lệnh không được sai trệch, có thế trăm việc mới mong làm trọn vẹn được tám mươi.

Các tướng nghiêm chỉnh nghe Quân sư nói, Quân sư đưa mắt nhìn các tướng một lượt rồi tiếp:

- Bây giờ, không thể nói được tướng nào công lao hơn tướng nào, mà phải nhận rằng tướng xông xáo nơi mặt trận, cũng còn phải trông cậy vào cái thế phòng trợ của người khác ở đằng sau, như vậy thì dù là tướng vào trận hay tướng ở nhà, từ quân lương cho đến quân cụ, thảy đều có công như nhau cả. Vả lại, hào kiệt Hoa Lư tụ lại với nhau không cốt ở chỗ tranh công, mà cốt ở chỗ cùng nhau sống chết lo dựng việc lớn. Như thế, công lao lớn hơn cả là phải làm sao để lịch sử mai sau nói rằng: “Chúng anh hùng Hoa Lư vì đại nghĩa, quên thân mình để dựng việc lớn cho dân tộc ta”. Đây mới là đại công. Đại công của Hoa Lư vừa xong ở chặng đầu, nghĩa là không để cho Hoa Lư bị tan vì một đạo quân của Nam Tấn Vương không biết thời thế. Đại công đã thành một phần, chỉ tiếc có điều là: các tướng Hoa Lư vào trận, có lúc nguy khốn, có người bị thương, quân không tránh khỏi mạng vong, như Đoàn Phúc Hải không biết đè nén cái dũng khí của tuổi trẻ, không biết dùng cái dũng lược vào đúng chỗ, hăm hở xem việc lớn như một cuộc đi chơi, khiến phải bỏ mạng...

Các tướng lặng lẽ nhìn nhau, Đỗ Mậu Đại hai mắt rớm lệ. Quân sư tiếp:

- Tướng Đoàn Phúc Hải tử trận, cũng vì muốn xả thân cứu anh em, không thể tìm cái an cho mình mà chịu đứng nhìn anh em mình bị chết. Đây là điều người cầm gươm lúc nào cũng phải nhớ kĩ trong lòng, đại nghĩa phải thắng vị kỉ, nếu có trách thì trách ông Hải không nghiêm quân lệnh, chứ không thể trách ông Hải là đã làm một việc soi tỏ hùng khí của hào kiệt được!

Quân sư ngừng nói, Động chúa vẫn lặng lẽ, Quân sư tiếp:

- Có một điều tất cả anh em phải nhớ thật kĩ, là: Hoa Lư ta vì đại nghĩa dân tộc mà ra tay, chứ không vì sung sướng của mỗi người chúng ta. Vậy thì, mọi ám ảnh phú quý đều phải coi là kẻ thù của hào kiệt trong lúc dựng đại nghiệp, mọi lỗi lầm sa ngã đều phải được anh em hết lòng dạy dỗ nhau cho thức tỉnh được cơn mê. Thánh thần còn có vị lành vị ác, thì con người ta ắt không tránh khỏi những bản tính thường tình, tôi không dám ép buộc anh em phải giết cho kì hết thường tình con người, mà chỉ đòi anh em phải tạm quên thường tình để lo việc chung. Có như thế, hào kiệt Hoa Lư mới không bị đời sau phê bình chê trách được.

Rồi Quân sư truyền các tướng hội quân, sai tướng Đinh Liễn, Phạm Hạp lo việc đưa quân về Hoa Lư, Quân sư lại xin phép Động chúa cho quân đi qua ngả thành Ngọc Lũ, để làm lễ tế mồ Đoàn Phúc Hải, bỏ vải tang cho ba quân. Động chúa y lời xin của Quân sư. Thế là binh Hoa Lư theo lệnh hai tướng Đinh Liễn, Phạm Hạp, tề chỉnh hàng ngũ để về Ngọc Lũ. Còn các tướng khác rảnh rỗi, rong ngựa đằng sau quân mà bàn mọi việc chiến trận.

Chiều hôm ấy, binh Hoa Lư về đến Ngọc Lũ, đại quân dừng lại nhìn tòa thành còn âm ỉ khói, không ai là không bùi ngùi. Hai tướng cầm quân một mặt lệnh cho quân đội thu dọn các xác quân tử trận ở các mặt, một phần tuân lệnh đào một cái huyệt lớn ở dưới chân đồi mộ Đoàn Phúc Hải.

Trăng sơ thu khuyết vành vừa lên, thì nấm mồ chung chôn xác quân đội bên tử trận cũng đắp xong. Mọi người vừa rửa tay nghỉ ngơi, thì có tin Quách Nghiệp Đường lĩnh mệnh di dân thành Ngọc Lũ ra xa mặt trận, nay đã làm xong việc và đưa dân về trình trước quân. Đinh Động chúa rất hài lòng, liền đem các tướng ra ngoài doanh mà đón.

Cùng đi với Quách Nghiệp Đường còn có Đinh lão, vợ chồng Thần y Hồ Xich Tú. Động chúa đứng trước gần bốn trăm gia đình thành Ngọc Lũ cảm động mà rằng:

- Hoa Lư vì việc quân, làm cho mọi người bị thiệt hại đến nhà cửa tài sản, may mà không ai bị thiệt đến tính mạng. Việc quân khó tránh được những điều ấy, nay mọi việc xong rồi Hoa Lư xin mời tất cả về Hoa Lư để lập nghiệp. Hoa Lư hứa sẽ giúp mọi người tận tình để dựng lại tất cả!

Thế là, trong đêm hôm ấy dân thành Ngọc Lũ cùng với đoàn quân Hoa Lư vây quanh ngọn đồi, để tế mồ Đoàn Phúc Hải và các binh sĩ tử trận của cả đôi bên.

Quân sư truyền lập lễ đài phía trước mồ Đoàn Phúc Hải, lại sai lập thêm một đài nữa trước mộ chung các binh sĩ dưới chân đồi. Đêm hôm ấy, Quân sư đem đại quân Hoa Lư dàn hàng quanh đồi, đuốc thắp sáng rực một vùng, cùng một lúc Quân sư cho làm lễ ở cả hai đài.

Trước mồ Đoàn Phúc Hải, không thiếu mặt một ai, chỉ trừ năm tướng còn ở bên Đằng Châu. Đỗ Mậu Đại xin được cầm ngọn đuốc lớn đứng bên cạnh mồ Đoàn Phúc Hải ngay đằng sau lễ đài.

Quân sư truyền gióng trống, nổi hiệu tù và, trống đập ầm ầm, tù và âm u rờn rợn một hồi dài nghe vang đến tận Hoa Lư bên kia Sinh Khuyết. Trống giục ba hồi, tù và ba lần cất tiếng, rồi Quân sư bước vào làm lễ. Quân sư kể lại việc quân, nhắc lại kì công gian nan vất vả của Đoàn Phúc Hải, lại thuật đến hùng khí của Hải làm bùng ngọn lửa thành Ngọc Lũ, thiêu rụi Tịch Mịch Thiền sư, làm cho binh Triều kinh hoàng, giúp cho Hoa Lư vào được Đằng Châu. Quân sư cao giọng:

- Lúc này chiến trận tạm xong. Ông nằm bên dưới mồ ắt còn thấy đất rung chuyển vì vó ngựa binh Triều chạy trốn, nhìn ra đằng trước còn thấy thành Ngọc Lũ bốc khói, anh em chẳng thiếu một ai, duy dưới chân ông còn xác mấy ngàn tử sĩ nằm chung, tình cảnh ấy, chẳng khỏi để hận cho người nằm xuống, khiến cho kẻ ở xa mãi mãi còn mơ tưởng đến ngày về của người đi chinh chiến! Hỡi ôi, sống đã chia li, chết càng tách biệt, cõi Giao Châu dậy sóng ấy cũng bởi còn có hùng liệt muốn đưa trăm dân ra khỏi vòng nước lửa, anh hùng nằm xuống ấy cũng vì muốn nêu cao đại nghĩa xả thân, sống chết đi về nào có nghĩa lý gì, nghìn năm sử sách chép lại công sao chẳng khỏi bùi ngùi luyến tiếc!...

Rồi Động chúa vào lạy trước mồ, lần lượt các tướng vào lạy theo, quân quanh đồi lại giục trống, rúc tù và thê lương, nửa đêm lễ tế mồ tử sĩ tàn, binh Hoa Lư im lìm dưới trăng mới khuyết buổi sơ thu nghỉ đêm ở cạnh thành Ngọc Lũ.

Binh Hoa Lư còn ở lại xây đắp mộ cho Đoàn Phúc Hải thật lớn lao, lại dựng bia đá kể công anh hùng Đoàn Phúc Hải, đến hai hôm sau đại quân mới rầm rộ lên đường trở lại Hoa Lư.

Buổi ấy là sơ thu năm Tân Hợi, đời Hậu Ngô, ít lâu sau thì Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập toan cướp ngôi vua, nhưng không thành mà chết.

Đến mùa thu năm Mậu Tuất (1418), đời Thành Tổ Nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 16, ở đất An Nam có ông Lê Lợi nổi lên ở núi Lam Sơn, thì sông Xích Đằng nước lên cao ghê gớm, sinh lụt lội khắp nơi, dân An Nam bảo đấy là vì giặc Minh tàn ác quá đến nỗi trời đất quỷ thần cũng phải cau mày giận dữ, sông núi cũng phải cựa mình muốn trỗi dậy. Lúc ông Lê Lợi sai bốn tướng Lý Triện, Phạm Văn Xảo, Trịnh Kha, Đỗ Bí cầm quân ra đánh Quốc Oai, Quảng Oai, Gia Hưng, Quy Hòa, Đà Giang, Tam Đái (Bạch Hạc), Tuyên Quang để chặn đường viện binh của giặc ở Vân Nam sang, các tướng có ghé vào lạy mồ Đoàn Phúc Hải, mồ Hải lúc ấy chỉ còn tấm bia đá trải qua gần năm trăm năm, thành Ngọc Lũ cũng chỉ lờ mờ còn ít đá vụn. Bốn tướng của ông Lê Lợi vào cầu trước mồ Đoàn Phúc Hải, xin phù trợ cho binh ra Bắc được thành công. Ngay đêm hôm ấy, quân của bốn tướng còn đóng lại ở Ngọc Lũ, nước dòng Xích Đằng chưa hẳn mùa dâng cao cũng đột nhiên dâng lên cuồn cuộn tràn ngập khắp cả. Lạ một điều là gò mộ Đoàn Phúc Hải ở cao, thế mà dòng nước cũng xoáy tung được cả bia mộ mà đem đi mất. Người ở chung quanh đây kể rằng: “Lúc nước dâng cao nhổ bật bia mộ, có làn khói trắng như dải lụa từ chỗ ấy bay lên hướng Bắc, đến chỗ binh của bốn tướng đóng thì làn khói trắng tan mất.” Rồi ai cũng bảo rằng đây là linh khí của ông Đoàn Phúc Hải theo quân mà phù trợ.

Người đời sau, đi tìm dấu tích cử chỉ thấy được vài cái trống đồng ở Ngọc Lũ, còn di tích dũng tướng Đoàn Phúc Hải thì chẳng còn gì.

Kể lại quân Hoa Lư rời Ngọc Lũ, vượt Sinh Khuyết về giang sơn cũ, binh về đến quê nhà khải hoàn, mừng vui kể sao cho hết, Tướng cởi giáp, binh chùi khí giới, hoan ca liên miên cả tháng trời cũng còn chưa hả thì một sớm trọng thu, Quân sư đã vào trình Động chúa:

- Bẩm Động chúa, binh ta thắng lớn một trận, giang sơn Hoa Lư nay đã vững vàng. Cả tháng trời qua bao việc trong thiên hạ xảy tới, nay sắp đến hẹn Sứ quân Đằng Châu Phạm Bạch Hổ sang thăm Hoa Lư ta, ta nên bắt đầu mọi việc lớn là phải lúc đấy.

Động chúa hỏi:

- Tại sao Sứ quân Đằng Châu sang thăm Hoa Lư ta, mà lại là lúc ta bắt đầu việc lớn?

- Bẩm Động chúa, tôi xin Động chúa mở đại hội để Hoa Lư tính việc lớn thiên hạ có được không?

Động chúa vui vẻ:

- Tôi chỉ mong đợi lúc ông hỏi điều ấy, ngay khi vây chặt binh Nam Tấn Vương tôi đã chẳng xin ông cho tôi thừa thế ấy mà tung hoành rộng ra cả thiên hạ. Ông bảo chưa được, tôi đợi mãi bây giờ mới được nghe ông nói đến điều mong ước đấy!

Rồi Động chúa truyền nổi hiệu tù và, triệu tập các tướng không còn thiếu một ai để nghe Quân sư định việc lớn thiên hạ. Quân sư lại xin Động chúa cho sửa soạn hội nghị nhiều ngày, việc lớn ắt phải bàn đến nơi đến chốn, rồi Quân sư sai tướng Lưu Cơ sửa sang đại sảnh, cờ Hoa Lư treo khắp nơi, chuẩn bị đầy đủ để Hoa Lư Đại hội. Qua hôm sau, đại sảnh đã chuẩn bị xong đúng vào ngày Quý Tị, tiết sương giáng. Quân sư chiếu theo sao Phòng chọn giờ Thìn là giờ đại cát đại định mời Động chúa gióng cồng khai hội.

Trong đại sảnh, Động chúa Đinh Bộ Lĩnh ngồi ghế chính giữa, mình vận bộ đồ màu lam, dầu đội khăn lớn lụa màu chàm, ngang lưng thắt chiến đai huyết vân đằng (loại mây vỏ có vân như mây hồng), phía sau Động chúa bên phải dựng soái kì mang chữ “Đinh”, bên trái lực sĩ vác cây đại phủ mà đứng.

Bên phải Động chúa là ghế Quân sư, bên trái là ghế Đinh Công Dự lão nhân gia. Rồi đến hai hàng các tướng ngồi suốt một chiều dài đại sảnh, trong hàng các tướng còn năm ghế bỏ trống. Đại sảnh khí độ uy nghi, oai phong ngất ngất.

Bên ngoài, khắp nơi cõi Hoa Lư binh canh phòng cẩn mật nhưng vẫn không náo động.

Động chúa khai hội, nghiêm nghị nói:

- Này các tướng, kể từ lúc quân ta khởi hành, đuổi Nam Tấn Vương về tận Cổ Loa, đến nay cũng được cả tháng trời. Việc lớn không phải chỉ có thế, Hoa Lư ta không mãn nguyện với một mảnh núi rừng này, mà chí lớn phải che cả cõi Giao Châu mới được. Lấy thiên hạ, nhòm ngó ngôi báu, cũng lại không phải là chí nguyện của hào kiệt, cứu trăm dân khỏi cảnh điêu linh mới là việc làm của Hoa Lư ta. Nay, Cổ Loa điêu tàn, mối giềng long lở cả, khắp nơi giặc cướp nổi lên, lại có những kẻ xưng là “Sứ quân” chiêu binh mãi mã, có kẻ tranh bá đồ vương, có kẻ chẳng qua chỉ là phường hại nước thừa cơ cọ quậy cho thỏa cái chí của kẻ ngu phu giàu có, vì thế trăm dân Giao Châu ta lầm than, vì thế người hào kiệt ngày đêm mệt mỏi tim óc tìm phương chuyển thế xoay thời, quyết vì trăm dân mà đứng dậy. Hoa Lư ta, sức chưa đủ mạnh, thời chưa chín, cơ hội còn phải dựng mới có, thế còn phải lập mới xong, vì thế hôm nay Hoa Lư mở đại hội bàn việc lớn thiên hạ các tướng đông đủ cả, chỉ thiếu năm tướng Lê Hoàn, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Chu Kỷ Toàn, Đinh Điền là còn vướng trách nhiệm ở Đằng Châu, đại hội bàn việc lớn ai cũng nên cố góp phần, ta mong các tướng hết sức...

Động chúa ngưng nói, các tướng lặng lẽ nghiêm chỉnh, Động chúa tiếp:

- Sức mạnh xông pha nơi chiến trận, phải nhờ đến các tướng, nhưng không phải như vậy là được. Trong thiên hạ, sức mạnh thiếu gì, các tướng từng vào trận đều thấy rõ cả. Duy có điều hệ trọng, là sức mạnh ấy sẽ thành sức mạnh thánh thần, khi nào có bàn tay nhiệm màu của trí óc chỉ xử biến hóa, nếu không ít sức mạnh ấy chỉ là sức mạnh của ngựa trâu. Chỉ xử mọi việc, định kế dựng mưu, dàn xếp việc xa gần, ngồi một chỗ biết việc ngoài ngàn dặm, chỉ một ngày hôm nay mà liệu được việc đời sau, khiển xử cho núi rừng cũng phải thành vật dụng nghe hiệu lệnh của ta, giơ một tay chỉ bảo cũng đủ sai khiến thiên hạ phải nghe theo mà làm, đấy là việc làm có sức mạnh lệch trời nghiêng đất không sức mạnh nào đương cự nổi. Các tướng của ta, ai đủ tài ấy?

Động chúa lại ngừng nói, đưa mắt sắc như gươm mà nhìn các tướng, các tướng không một ai nhúc nhích, giây lâu Đinh lão mới nói:

- Xét trong sử sách, các bậc vĩ nhân dựng nước chẳng bao giờ thiếu sức mạnh tướng quen chiến trận, nhưng nếu thiếu đầu óc mưu sĩ thì việc lớn chẳng thành. Gương xưa còn rành rành nào là Quản Trọng nhà Chu, Ngũ Tử Tư giúp Hạp Lư, Câu Tiễn có Phạm Lãi, Tô Tần ở Triệu, Tiêu Hà - Trương Lượng nhà Hán, Khổng Minh xuất hiện thời Tam Quốc, ở nước ta địa thế hoang vu, thời lập quốc tổ tiên vất vả, vừa phải vận sức vừa phải tìm mưu mới vững được, thế mà họa phương Bắc vẫn không bao giờ cất đi được. Hai bà họ Trưng nổi lên trước nhất, đem mưu trí của nữ nhân địch với danh tướng Bắc phương, nếu bảo rằng sức hai bà mạnh hơn giặc thì không đúng, mà phải bảo rằng cái “chí” của hai bà đã giúp thành đại nghiệp. Rồi trải qua biết bao trăm năm, nước ta bị phương Bắc cai trị, phải đợi đến lúc Ngô Quyền phá quân Nam Hán thì dân ta mới được thấy sức mình chống giặc ngoài, định được giặc trong. Ngày nay, thế nước lung lay, sức mạnh không thôi không an định được cả thiên hạ, mạnh thì ai mạnh bằng Hạng Vũ, thế mà chỉ một tiếng sáo của thư sinh văn nhược Trương Lương cũng đủ để vùi dập sức mạnh của Hạng Vương. Thế thì, chiến trận mới đây, các tướng ai không thấy sức mạnh như thế nào, nhưng trí xảo lại lợi hại gấp vạn lần ra sao, binh Cổ Loa chạy dài chắc chưa phải vì đại bại trước sức mạnh của Hoa Lư ta. Nhờ đâu mà ta có sức mạnh ghê gớm ấy?

Đinh lão ngừng nói, các tướng không ai bảo ai đều đưa mắt nhìn vào Quân sư, Quân sư vẫn trang nghiêm ngồi. Động chúa tiếp lời:

- Như vậy, các tướng đều thấy rằng: sức mạnh của các tướng trở thành vô địch, ấy cũng là nhờ có trí xảo của Quân sư ta đây! Các tướng mang sức mạnh ấy mà tung hoành, yên lòng là sức mạnh ấy không gì đương cự nổi, vì bên trên sức mạnh của các tướng còn có mưu thần của Quân sư dàn xếp, làm sao thiên hạ địch cho lại! Nay, việc thiên hạ đến hồi sôi nổi, Hoa Lư ta hội nghị để nghe Quân sư luận việc, có ai còn chưa phục Quân sư không?

Lập tức, tướng Phạm Cự Lượng đứng bật dậy, vòng tay thưa:

- Bẩm Động chúa, bẩm Quân sư, Lượng tôi hồi đem quân ra đương cự binh Triều, những tưởng lấy sức mạnh mà đánh được địch, nào ngờ phải chạy về đến tận Hoa Lư. Hồi binh Hoa Lư lên cả Cô Nghĩa, tôi không biết mưu thần của Quân sư nên cưỡng lại, tận mắt được thấy Quân sư tuy vóc người mảnh mai thế mà vũ dũng lại ghê gớm, có lẽ chẳng tướng nào ở đây địch được! Vì thế mà tôi bị Quân sư chế ngự, tưởng chẳng khác nào như con gà con bị đại bàng uy hiếp!...

Lời nói Phạm Cự Lượng, làm cho cả hội nghị bàng hoàng, ai cũng kinh ngạc! Cự Lượng tiếp:

- Sức mạnh ấy Quân sư không dùng tới, nhưng sức mạnh trí thần của Quân sư thì bây giờ cả thiên hạ đều biết, Cổ Loa mai kia tàn vong, thiên hạ san định, tôi chắc là nhờ Hoa Lư có Quân sư, làm gì còn có ai không phục Quân sư nữa!

Động chúa ngửa mặt cười như sấm nổ, ngày vui không cùng, các tướng cũng vụt vui theo, đại hội quay sang chúc tụng Quân sư thật náo nhiệt. Lập tức, Động chúa truyền quân mang rượu để hội nghị vừa uống vừa nghe Quân sư luận việc cho thêm phần sảng khoái.

Men rượu ngấm, làm ấm lòng các tướng buổi sương giáng ở núi rừng lành lạnh, Quân sư trịnh trọng:

- Bẩm Động chúa, Động chúa đã yêu mà sai tôi lo liệu, việc chung tôi không dám chối từ, chỉ được xin Động chúa và các tướng đừng quá khen, chỉ nên tin cẩn tôi là được.

Rượu lại nghiêng vò, Đinh lão bảo:

- Hội nghị Hoa Lư quan trọng thế này, tiếc còn thiếu năm tướng bận việc ở Đằng Châu!

Quân sư mỉm cười đáp:

- Bẩm tiên sinh, năm tướng cũng vào uống rượu bàn việc ngay bây giờ đấy ạ!

Lời nói của Quân sư, không ai là không ngạc nhiên, Đinh lão ngẩn người tay vừa đặt chén rượu xuống bàn chưa kịp nói, các tướng còn ngẩn người đã thấy quân vào trịnh trọng vòng tay trước Động chúa:

- Bẩm Động chúa, các tướng Lê Hoàn, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Chu Kỷ Toàn, Đinh Điền đến trước doanh xin vào nghe lệnh!

Động chúa, các tướng lặng người, Quân sư khoát tay cho quân lui ra, rồi đích thân Quân sư đứng dậy xin phép Động chúa ra đón các tướng vào.

Lát sau, Quân sư cùng năm tướng vui vẻ bước vào. Tướng nào cũng chiến bào tề chỉnh. Năm tướng tới trước Động chúa lạy chào, Động chúa vui quá liền bảo:

- Các ông chắc cũng có phép cưỡi mây hay sao, Quân sư vừa dứt lời là các ông đã về tới trước doanh rồi là thế nào?

Cả hội náo nhiệt, các tướng xúm lại hỏi han năm tướng, hồi lâu hội nghị mới lại tề chỉnh. Quân sư nói:

- Bẩm Động chúa, chẳng qua các tướng về đúng lúc, cũng là vì tôi vẫn thông tin đều đều với các ông ấy đấy ạ!

Mọi người lúc ấy mới vỡ lẽ, Quân sư mỉm cười tiếp:

- Thế là Hoa Lư hôm nay mở đại hội, không thiếu một ai, việc chung chẳng ai là không biết. Việc mai sau, mỗi người một phần trách nhiệm, Hoa Lư ta định liệu thế nào ắt không thể để bên ngoài biết được, các tướng chắc cũng hiểu như vậy!

Các tướng im lặng, Động chúa nghiêm giọng:

- Đã hẳn là phải giữ kín! Mọi người xem nhau như anh em cả, một lời nói ra, một cử chỉ làm ra, đều có liên lụy đến nhau, có thể làm hỏng việc lớn, các tướng cần phải thận trọng!

Quân sư tiếp lời:

- Bẩm Động chúa, năm tướng ở Đằng Châu về rồi, việc Đằng Châu thế nào tôi xin được trình bày trước đã!

Mọi người chăm chú đón nghe, Quân sư hướng tới năm tướng hỏi:

- Các ông ở Đằng Châu, đã được thêm tin gì về việc Sứ quân Phạm Phòng Át sắp sang Hoa Lư ta không?

Tướng Lê Hoàn thưa:

- Thưa Quân sư, cho đến lúc tôi lên đường, bí mật về đây theo lệnh Quân sư thì Đằng Châu vẫn không có gì khác lạ cả.

Quân sư gật gù, ra vẻ hài lòng, rồi nói:

- Bẩm Động chúa, từ ngày bình ta từ Đằng Châu về tôi vẫn bí mật liên lạc với năm tướng của ta, các ông ấy cũng lại làm quen được với nhiều nhân vật Đằng Châu, mua chuộc được họ. Riêng phần văn sĩ mặt trắng Tôn Phủ Nghi, thì đã bí mật về với Hoa Lư ta, y lúc nào cũng ôm giấc mộng đoạt Đằng Châu thay Phạm Bạch Hổ, rồi nhờ tôi cướp cả thiên hạ! Y vịn việc ngày xưa y nằm mơ thấy cưỡi con cóc đen bơi trong suối mát mà ngao du, lại có kẻ thầy bói bảo rằng điềm ấy sau thế nào cũng làm chủ cả thiên hạ, vì thế ngày nay y mới mờ mắt mưu toan những điều xằng bậy. Tôi nhân đấy mà sai bảo y. Tôi lại liên lạc được với Đại tướng Trấn Giang của Đằng Châu là Nghi Bá Tường. Tường thường bị Sứ quân nghi ngờ vì lầm phải lời gièm pha. Tôi làm cho Tường nghi ngờ trong lòng đến khi thấy Đằng Châu có biến ắt thế nào cũng cầu cứu đến ta để được nghe khuyên bảo, lúc ấy ta sẽ khuyên y nên giúp Tôn Phủ Nghi, thế là Phạm Bạch Hổ sang Hoa Lư sẽ không còn đường trở lại Đằng Châu, mà Đằng Châu thì lại do bọn phản phúc tạm thời làm tay sai giữ đất cho ta, cho nên khi ta ra tay lấy cả thiên hạ thì bọn ấy cũng sẽ tự chúng nó tiêu diệt lẫn nhau!

Mọi người nghe Quân sư nói, thảy đều kinh hãi ngạc nhiên, không ai ngờ được rằng trong lúc Hoa Lư liên miên mở hội mừng thắng trận thì Quân sư lại làm được những việc ghê gớm như thế mà chẳng ai hay! Động chúa quay sang Quân sư mà rằng:

- Quân sư hành động như quỷ thần, tôi ở bên cạnh mà có thấy Quân sư đi lại lúc nào đâu, sao lại có thể làm đến như vậy được?

Quân sư tươi cười:

- Vâng, tôi trộm lệnh Động chúa dàn xếp mọi việc ở Đằng Châu. Lúc này, ta được Tôn Phủ Nghi, Nghi Bá Tường, Đằng Châu đều nghe lời họ Tôn khuyên bảo, lại nể nang nhất là họ Nghi; tới lúc thuận tiện thì Đại tướng Tổng quản sẽ là người đứng lên để đánh bọn phản nghịch. Tướng Tổng quản Đằng Châu là Chu Trạch Phương là người rất trung nghĩa được thêm tướng Phác Đức Giật thường vẫn nghi ngờ Hoa Lư ta mưu toan hại Đằng Châu, thế nào hai tướng ấy cũng cố ra sức dẹp loạn. Nhưng ta có năm tướng đợi sẵn, quân Hoa Lư sẽ lấy cớ Đằng Châu có biến mà điều động loanh quanh, làm vướng chân các tướng họ Chu họ Phác, để cho bọn họ Nghi đoạt được Đằng Châu. Lúc ấy, năm tướng của ta một mặt cứ trấn giữ các nơi trọng yếu, một mặt ta đưa tin cho bọn làm phản hay là: Sứ quân Bạch Hổ ở Hoa Lư cầu cứu Động chúa, binh Hoa Lư sắp lên đường dẹp bọn phản nghịch, thế là Đằng Châu ta chỉ giơ tay là lấy được. Còn Sứ quân Bạch Hổ, ta giữ lại ở Hoa Lư, nói thác đi là Hoa Lư sẽ mang quân giúp dẹp phản nghịch, nhưng lại bảo rằng các Sứ quân khác đang sắp sửa khởi binh cả, rồi chùng chình trì hoãn, đợi cho các nơi có thịnh sự là ta gấp lo việc ta. Sứ quân Đằng Châu không còn nơi nào về nữa tất đành xin ở lại với ta, lúc ấy ta có cớ lấy Đằng Châu, rồi tiến ra ngoài thiên hạ!

Các tướng nghe Quân sư luận việc, phấn khởi khoan khoái lắm. Động chúa bảo:

- Thế Quân sư định liệu đến lúc nào ta có thể lấy được Đằng Châu, rồi mở đường tiến ra ngoài thiên hạ được?

Quân sư suy nghĩ rồi ngửng đầu lên đáp:

- Bẩm Động chúa, đấy là việc lớn nhất của thời nay, vấn đề ấy chỉ sai một chút xíu cũng đủ làm cho đại cuộc tất hỏng cả. Đại hội Hoa Lư này hệ trọng hơn cả là bàn về việc ấy đấy!

Quân sư ngừng nói, nhìn khắp anh hào Hoa Lư một lượt, rồi thong thả nói: - Thiên hạ nổi lên khắp cõi Giao Châu, thời thế bây giờ mọi người thấy thế nào?

Không ai đáp lời Quân sư, mọi người nín lặng ra chiều suy nghĩ lung lắm. Lát sau, Đinh lão trang trọng vuốt chòm râu đen mà rằng:

- Cổ Loa đổ nát, anh hùng trong thiên hạ ai mạnh là được cả, xưa nay việc đời vẫn là như vậy, tôi chắc là Giao Châu ta cũng không có gì khác.

Quân sư vẫn chẳng nói, đợi Động chúa xem ý kiến thế nào, Động chúa ngồi thẳng người trên ghế, hai vai mở rộng thật uy nghiêm, Đinh lão bảo:

- Nếu cứ như tôi, thì ngay từ đầu tôi đã ra binh, lại nếu được cái đà thắng binh Triều, ắt tôi cướp luôn Đằng Châu mà tranh hùng với thiên hạ. Còn bây giờ nghe lời Quân sư dàn xếp mọi việc, tôi chưa biết phải hành động thế nào?

Quân sư giọng rắn rỏi:

- Thưa tiên sinh, trong thiên hạ kẻ nào khỏe là tất được, điều ấy quả không sai. Nhưng bây giờ, ai là người khỏe đây? Hoa Lư ta đủ sức để đánh vài nơi, nhờ đấy mà bồi thêm sức, nuôi thêm lực, ra thiên hạ với cái kế “nước loang cát lở”, ắt cuối cùng cũng có thể xong đại nghiệp, nhưng thiên hạ không phải là ngồi yên đợi ta đến giết. Vả chăng hệ trọng hơn cả, là cái họa Bắc phương nếu không khắc chế được thì biến động ở Giao Châu sẽ giúp Bắc phương xua quân đánh chiếm, tới lúc ấy công lao mở đầu tự chủ của hai bà Trưng, đại công của Ngô Quyền phá Nam Hán trong chớp mắt hóa thành uổng cả. Giả sử ta ra binh, làm cho Bắc phương gấp rút xuống tay như thế, hỏi rằng cái tội lớn làm mất nước ấy ghi trong lịch sử về ai gánh chịu?

Cả hội nghị nín thở, mỗi lời Quân sư nói ra là một lời thật nghiêm trọng, liên hệ đến cả vận mệnh cõi Giao Châu, chứ chẳng còn là việc nhỏ của mỗi Sứ quân nào nữa. Không ai dám hé môi bài bác điều gì, tất cả chỉ nín lặng đợi nghe nữa. Quân sư tiếp:

- Cho đến ngày nay, Bắc phương với Đại Lương đổ nát, loạn lạc còn gặp mười Giao Châu ta, nhờ thế Bắc phương chưa có thời giờ rảnh rang để xem xét việc phương Nam, ta nhân đấy còn kịp lo liệu mọi mặt. Kể từ niên hiệu Hội Xương nhà Đường (831-846), nước Tàu sai Vũ Hồn lĩnh chức Thứ sử Giao Châu, Vũ Hồn tinh giỏi môn địa lí, chọn Đường An là quý địa để ở, toan tính gây dựng cho con cháu ở Lạp Trạch (Mộ Trạch) Khả Mộ thế đất “nghìn năm văn học cầm mệnh nước”, thì từ đấy đến nay phương Bắc tuy vẫn có cái danh là nhận triều công của ta, nhưng sự thực thì chưa có thời giờ xem việc Giao Châu ta, nhân đấy việc Ngô Vương Quyền phá quân Nam Hán, bắt giết Thái tử Hoằng Thao khiến cho Hán Chủ chỉ dám khóc chứ không dám cử binh Nam phạt, cũng là nhờ cái may Bắc phương có loạn. Ngày nay cũng thế, loạn Thập Quốc làm rung chuyển khắp nơi, nhưng không phải vì thế mà Bắc phương không còn giấc mộng bức hiếp Giao Châu ta. Loạn Thập Quốc ắt trước sau cũng tàn, kẻ anh hùng gồm thâu thiên hạ trước sau cũng lại dòm ngó phương Nam. Lúc ấy ta phải đủ sức mạnh, trăm dân phải ấm no sung túc, kỉ cương đã phải vững bền, mới có sức đương cự. Còn bây giờ, giả sử Nam Tấn Vương dạo nọ bị ta thẳng tay chém giết, Giao Châu không có chủ, sao lại chẳng động đến Bắc phương, lúc ấy Bắc phương lấy cớ Giao Châu có loạn sai một tướng thống lĩnh vài chục vạn quân Nam phạt, thì thử hỏi Mười hai Sứ quân ai là người đứng ra dẹp loạn trong, đánh lui được giặc ngoài, hay là lúc ấy Giao Châu ta lại mất vào tay nước Tàu rồi? Vì thế tôi mới phải thả cho Nam Tấn Vương về Cổ Loa, lại phải mời Động chúa xuất hiện ở Đằng Châu để cho thiên hạ tưởng rằng Đằng Châu với ta liên kết, không dám cử sự, chẳng dám kinh động đến Nam Tấn Vương trên đường về Cổ Loa. Nhưng, tôi vẫn ngại một điều là: Giao Châu đại loạn, tất triều đình phải ra sức đi dẹp, thảng hoặc Nam Tấn Vương là tay cương cường, lúc xông pha trận mạc nhỡ chỉ một mũi tên cũng đủ đoạt mệnh, lúc ấy tình thế gấp rút ta có kịp ra tay để vừa dẹp được loạn trong, lại vừa chuẩn bị đỡ được giặc ngoài hay không?

Quân sư ngừng nói, bây giờ mọi người mới hiểu tại sao Quân sư đã vây chặt được Nam Tấn Vương, mà lại cứ mềm mỏng tìm đường cho Nam Tấn Vương an toàn mà về Cổ Loa. Cả hội trường trăm mắt nhìn vào Quân sư, không ai là không khiếp phục Quân sư nhìn việc lớn, Động chúa chậm rãi hỏi:

- Đành rằng ta phải giữ Nam Tấn Vương, để giữ lấy cái thế bình thường của Giao Châu ta đối với phương Bắc, nhưng Quân sư định liệu đến lúc nào thì ta có thể lấy được thiên hạ?

Quân sư hai mắt rực rỡ, nhìn các tướng một lượt rồi đáp:

- Có hai đường để ta lấy thiên hạ. Một là, nhân lúc này vị anh hùng Bắc phương là Triệu Khuông Dẫn còn đang lận đận, ta cướp thời cơ mà ra tay thì, nếu sức ta đủ mạnh đánh bại các Sứ quân trong năm bảy tháng hay một năm, đạp đổ được Ngô Triều đã đổ nát, thì hay nhất. Nhưng...

Động chúa ngồi thẳng dậy hỏi ngay:

- Nhưng Quân sư thấy thế nào?

- Bẩm, sức ta chưa đủ đánh thiên hạ, ấy là còn phải đề phòng thiên hạ thấy nguy đứng lại với nhau cùng đánh ta nữa mới nguy. Vả chăng, Ngô Triều đổ nát, nhưng còn đủ uy tín để gọi thiên hạ cùng theo về đánh dẹp ta, chính vì Ngô Triều không biết giục lòng người, chẳng biết dựng thời thế, cho nên mới tan nát như bây giờ. Ta phải đợi thiên hạ cấu xé nhau, triều đình đến đám giặc cỏ cũng chẳng coi vào đâu, lúc ấy ta mới ra tay được!

- Con đường thứ hai?

- Bẩm, đường thứ hai là ta một mặt bồi dưỡng sức lực, chuẩn bị mở mang ranh giới, một mặt ra mưu bày kế dàn xếp để cho thiên hạ náo loạn, tất cả đều phải hành động đúng theo ý muốn của ta, cho đến lúc nào cả Giao Châu biến động theo đúng ý ta, ấy là lúc ta đứng dậy vươn vai mà thu thiên hạ!

Hội nghị không ai nén được nữa, nhất loạt thở phào một hơi dài, ai cũng tưởng như vừa trải qua một cơn thử thách lâu dài đến nặng cả ngực, bây giờ mới thở ra được. Hội nghị lao xao, Đinh lão gật gù vuốt chòm râu đen nhánh, Động chúa hân hoan nhưng vẻ mặt không giấu được nét băn khoăn, các tướng thì thầm về Quân sư. Lát sau, Động chúa hỏi thêm:

- Như vậy, Quân sư chọn con đường thứ hai?

Quân sư mỉm cười hỏi lại:

- Giả sử Động chúa chọn con đường thứ nhất, thì ta gặp phải khó khăn ở những đâu?

Động chúa ngẩn người, thật chẳng biết khó khăn sẽ ở chỗ nào, đành nhẹ lắc đầu rồi mỉm cười đáp:

- Thật tôi thấy khó khăn thì nhiều lắm, nhưng bảo nói rõ xem khó ở đâu, khó ra sao thì tôi không biết nói thế nào cho được?

Quân sư lại quay sang các tướng hỏi:

- Còn các ông, ý các ống thế nào?

Các tướng đều cười, mỗi người lao xao một lời, nói chung lại thì mọi người đợi để nghe Quân sư giảng việc định mưu.

Quân sư nói tiếp:

- Thật ra, ta chọn con đường thứ hai thì có hơi lâu một chút, nhưng lúc đã ra tay thì nhất định thu xong thiên hạ, cùng lắm chỉ một năm là hoàn thành đại công. Tôi trù liệu giữa lúc ta còn đang dàn xếp đưa cả thiên hạ vào hành động theo đúng ý của ta, rủi ro Nam Tấn Vương bị chết thì lúc ấy ta gặp khó một chút, đành phải mau lẹ ra tay mới xong.

Đinh lão hỏi:

- Tôi còn e việc Bắc phương, sợ rằng loạn sớm chưa xong thì sao?

Quân sư mỉm cười:

- Bẩm Tiên sinh, tôi ước loạn ở Bắc phương cũng phải vài ba chục năm nữa mới yên được, lúc ấy ta đã đại định được Giao Châu lâu rồi, còn sợ gì nữa!

Động chúa hỏi:

- Con đường thứ hai Quân sư chọn tuy có hơi lâu, nhưng liệu độ bao lâu thì tới?

Quân sư đáp ngay:

- Bẩm, nếu không có gì bất ngờ, cũng phải mươi năm, còn bất ngờ thì lại phải tùy theo bất ngờ mà định công việc ngay mới được.

Động chúa bảo:

- Việc lớn mươi năm thì chẳng lâu, chỉ khó ở chỗ làm cho cả thiên hạ chuyển động đúng theo ý ta. Thế Quân sư định kế lớn như thế nào?

Các tướng nghe Động chúa hỏi, ai cũng biết là đã tới hồi nghiêm trọng, Quân sư sắp sửa nói ra trăm kế ngàn mưu để rung chuyển cả thiên hạ. Mọi người chỉnh tề lại thế ngồi, trăm mắt dồn cả vào Quân sư, ai cũng lắng nghe lời Quân sư nói.

Quân sư nghe Động chúa hỏi, thì hỏi lại:

- Trước khi nói ra đại kế định thiên hạ, trước hết tôi xin được hỏi lại Động chúa, các tướng, mọi người hiểu các thế lực tranh hùng ở Giao Châu ta lúc này có những ai, như thế nào?

Cả hội nghị xôn xao, không ai biết rõ, chỉ hiểu rằng có một số cường hào phú hào nổi lên làm loạn, gọi là Sứ quân, như Sứ quân Phạm Phòng Át, tan rồi thì có Sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu, còn nói rõ từng người một thì không tài nào biết hết được. Mọi người đành đợi nghe Quân sư giảng và định kế.

Muốn biết Quân sư giảng ra sao, định kế thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—