← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Sáu Mươi Quân sư định kế phân thiên hạ
Đằng Châu đánh tiếng viếng Hoa Lư

Quân sư cao giọng, sang sảng nói:

- Các Sứ quân chia nhau hùng cứ, có người ở riêng một cõi, có nơi vài ba người tụ lại gần nhau, có nơi ruộng đồng phì nhiêu, có chỗ núi rừng trùng điệp. mỗi nơi một khác. Tuy thế, có điều cũng dễ cho ta là Giao Châu đất rộng, nhưng các Sứ quân tụ cả lại một vùng trung nguyên, xa lắm là có Sứ quân Trần Lãm vùng biên, vì thế lúc ta khởi binh lấy thiên hạ không gặp phải cái vất vả binh dốc hết về Tây, rồi lại chuyển cả về Đông. Binh ta ra cho khéo, thì đường ta đi đến đâu địch phải tan đến đó, chẳng khác nào mắt lưới bị tuột một đường sẽ làm tung cả lưới không còn một chỗ.

Đinh lão hỏi luôn:

- Như thế, ắt Quân sư phải chọn đường tiến binh của ta, chứ không phải là ra quân theo lối “bước dài cùng khắp”?

Quân sư đáp:

- Thưa tiên sinh đúng! Nhưng trước khi ra quân lấy thiên hạ, ta cũng phải sửa soạn cho chính ta đã.

Động chúa hỏi:

- Ta cần sửa soạn cho chính ta thế nào? Ta cần phải có bao nhiêu binh?

Quân sư nghiêm giọng:

- Bẩm Động chúa, binh bao nhiêu cũng không hệ trọng bằng nền tảng tiến binh của ta, không có nền tảng ấy thì dù ta có cố mộ được muôn binh cũng vô ích!

Động chúa hỏi thêm:

- Trong cuộc tranh hùng mà sao muôn binh là vô ích? Lại phải xây dựng cái nền tảng của ta là làm sao?

Quân sư trịnh trọng:

- Đây là việc lớn người cầm vận mệnh trăm dân phải xét đến trước. Đại tướng cầm quân ra trận, trước hết phải lượng sức mình, định được lương thực, biết được việc quân sẽ hao thiệt thế nào, lấy đâu ra bồi đắp. Có thế, mới có thể mang quân tung hoành trong thiên hạ mà không lo cạn mất lực. Việc nước cũng thế, nếu chỉ có binh đông là được, thì việc gì còn phải có quốc tế dân sinh, làm gì còn cần phải vỗ an trăm dân, làm cho nước giàu dân mạnh nữa?

Đinh lão lại hỏi:

- Quân sư định quốc kế ra sao, rồi sau mới tiến binh?

Quân sư vẻ mặt đăm chiêu, rồi đáp:

- Bẩm, Giao Châu ta từ lúc hai bà Trưng khởi nghiệp, đến Ngô Vương phá tan Nam Hán, Giao Châu dù đã xưng vương, dựng kinh thành thật đấy, nhưng kỉ cương vẫn chưa định, việc sinh sống làm ăn của trăm dân vẫn bị bỏ quên, triều đình một là chưa có thì giờ nghĩ đến dân, hai là vẫn chưa ổn định được nội bộ, thành ra vẫn chưa có quốc kế để làm cho dân sống được yên bình, làm ăn được phát đạt, khả dĩ làm cho Giao Châu ta giàu mạnh. Đến như việc đặt cho “nước ta” một tên riêng cũng còn chưa làm được, vẫn cứ dùng cái tên “Giao Châu” của phương Bắc đặt cho, làm sao có thể bảo được rằng nghiệp lớn đã thành?

Cả hội nghị im lặng, hồi lâu Động chúa trịnh trọng đứng dậy, hai tay Động chúa tì xuống mặt bàn, vóc dáng Động chúa thật cao lớn, Động chúa giọng rổn rảng như chuông đồng thật minh bạch mà rằng:

- Quả thật Quân sư nói đúng! Nếu ta chỉ mài gươm cho sắc, luyện sức cho hùng, quân cho đông, ngựa cho nhiều, rồi ồ ạt đi cướp thiên hạ, dù có cướp được chăng nữa cũng chẳng nên công đại định được, nghiệp lớn không thể bảo là đã dựng thành được! Hoa Lư ta mừng là trời đã đưa hiền tài đến giúp rập, quả thật quốc kế cần phải dựng trước, rồi sau mới được tiến quân thu thiên hạ, Hoa Lư xin lắng nghe hết lời chỉ bảo của Quân sư!

Lập tức, tất cả các tướng nhất tề đứng dậy, hướng về phía Quân sư mà tung hô, Quân sư cũng vội đáp lễ, rồi nghiêm trang đáp:

- Lê Thảo tôi từ Phong Châu tới đây, mong chỉ được giúp hào kiệt dựng nghiệp lớn, nay đã được mọi người tin yêu, sao còn dám có chỗ nào là không hết lòng nữa!

Hội nghị lại tề chỉnh, lúc ấy Quân sư mới giảng:

- Tổ tiên ta người dòng Bách Việt, cả nghìn năm nay vất vả khai phá phương Nam này, liệt sĩ anh hùng hiện rồi tan, dân ta tuy tụ lại mà vẫn chưa có tên để gọi, người “nước ta” có nhà để ở mà lãnh giới vẫn chưa phân. Giấc mộng của dân ta, là người Bách Việt ngày sau phải hùng mạnh, phải vĩ đại mai sau, ta phải đặt tên cho “nước” sao cho tiêu biểu được ý chí vĩ đại ấy. Trông vào cuộc sống của dân ta, vẫn vất vả với ruộng đồng con con, loi ngoi trong sông trong biển để kiếm cá đổi lấy gạo lấy vải. Việc đi lại làm ăn khó khăn vì sông nước núi rừng, lại thêm cái nạn một thùng gạo đổi lấy một vuông vải, nếu cần trăm vuông vải thì gạo đổi phải bao nhiêu? Công việc biết bao phiền nhiễu khó khăn sao không nghĩ ra thứ gì để tiêu biểu cho gạo, cho vải, cho cá, cho trâu bò, nhà cửa, để cho dân nương vào đấy dễ dàng trong việc đổi chác, có thế mới mong công việc của dân phấn chấn, nghề nghiệp mới mở mang, nhờ đó nước mới giàu, dân mới mạnh được...

Đinh lão hỏi:

- Thưa Quân sư, tôi hiểu ý Quân sư lắm, nhưng chỗ tạo ra vật gì tiêu biểu để đổi lấy các thứ là thế nào xin Quân sư giảng rõ?

Quân sư gật gù:

- Vâng, phải làm sao để cho công việc đổi chác của dân được dễ dàng, mới mong dân mở rộng được công việc làm ăn. Giả sử, dân ta phải đem cả một thuyền lớn thóc gạo, vất vả trên sông nước, đi thật xa mới tới chỗ đổi được vài chục vuông vải; nay nếu có thứ gì thay được cho cả thuyền thóc gạo ấy, vật đó chỉ lớn khoảng bằng bàn tay chẳng hạn, cất trong người cũng gọn, cầm trong tay cùng tiện, ta định cho nó xứng đáng bằng một thuyền thóc, hay bằng một con bò, hoặc bằng năm dê, mười gà... thì có phải là dân có thể mang một đẫy vật ấy cũng đổi được cả đàn bò, có được hàng trăm súc vải, lấy được hàng chục thuyền gạo... việc di chuyển dễ dàng, khiến cho công việc lớn giải quyết được dễ dàng, nhờ đấy dân phấn chấn lên, công việc rộng ra biết bao nhiêu?

Động chúa gật gù, rồi mỉm cười hỏi:

- Nghe Quân sư chỉ vẽ thấy mê thật! Thể có nước nào đã biết dùng đến cái phép ấy của Quân sư chưa?

Quân sư đáp:

- Người thời cổ lấy vật đổi vật, sau có nơi chọn vỏ sò làm vật tiêu biểu đổi chác, ở nước Tàu giỏi hơn thì họ có những vật bằng vàng, bạc, đồng, thay thế cho đồ vật cồng kềnh. Ta không cần phải lấy vàng hay bạc mà làm vật ấy, chỉ cần bằng đồng, bằng gỗ cũng được, miễn là phép nước nghiêm minh, ta định giá cho nó bằng pháp luật nghiêm minh trăm dân vui mừng mà tuân theo, thì vàng hay gỗ cũng thế!

Hội nghị xôn xao, không ai là không hân hoan phấn khởi, Động chúa truyền cho Quách Nghiệp Đường phải ghi chép lại hết thảy những lời Quân sư nói về quốc kế, Quân sư vắn tắt lại:

- Phải đặt một cái tên cho nước, để trăm dân hướng cả về chỗ tiêu biểu cao nhất ấy mà nỗ lực: tên nước phải làm sao biểu lộ được dân tộc ta là dân Bách Việt vừa vĩ đại, vừa hùng mạnh. Còn việc hệ trọng hơn cả, là mối đầu của công việc làm ăn của trăm dân được dễ dàng, phát đạt, mở rộng ra mãi, là phải đặt ra một vật tiêu biểu thay cho hàng hóa mà dùng vào việc đổi chác, không có vật ấy dân ta không thể mở rộng đến vô cùng việc làm ăn được vì thế nước khó lòng giàu, dân không mạnh!

Hội nghị bàn nhau xem nên gọi vật ấy là gì. Ai cũng bảo nó là “phép tiên, vật tiên” vì chỉ cần một mảnh con con cũng có thể có được cả bò cả trâu, có khi lại có thể có được cả ruộng đồng ao hồ nữa cũng nên? Hội nghị tạm gọi nó là “vật tiên”.

Nhờ có quốc kế của Quân sư, sau này khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi mới đặt tên nước là Đại Cồ Việt, rồi lại sai chế “vật tiên” bằng đồng để cho dân dễ dàng trong công việc làm ăn, hi vọng nước được giàu mạnh, vì thế nhà Đinh là triều đại đầu tiên ở nước ta biết đúc tiền cho lưu hành trong dân gian. Nước ta mạnh nhờ tiền giúp dân dễ dàng trong công việc đổi chác, rồi sau là mua bán.

Quân sư lại đặt cho các phép an dân, lấy căn bản là khai thác ruộng đồng mà tích trữ lương thực, giăng lưới vét sông mà bắt cá, trồng dâu nuôi tằm mà dệt lấy vải, lại khuyến khích khách thương hồ đi xa đem vật lạ của nơi này đến nơi khác mà đổi chác, làm cho đâu đâu cũng được hưởng khắp cả phẩm vật của quê hương khiến cho trăm dân nức lòng yêu nước. Quân sư lại định ra lệ “ kể chuyện tổ tiên, để con cháu hiểu lịch sử mà sinh lòng yêu nước quý dòng giống của mình ” truyền bá học thuật của người phương Bắc để giúp kiến thức được rộng thêm nhưng phải luôn luôn nhớ đến cội nguồn, vay của người nhưng không vì vay nợ ấy mà thành tôi tớ nô lệ cho người.

Quân sư nói:

- Cùng một lúc thi hành quốc kế dân sinh, ta lại phải làm sao cho dân ta trăm vạn người như một bình thường thì ra sức làm ăn để cho nước thêm giàu thêm mạnh, đến khi có biến thì ai cũng là người cầm giáo mang gươm lên ngựa ra chiến trường được cả.

Quân sư khuyên Động chúa:

- Tổ tiên ta lập quốc chưa được nghìn năm, họa phương Bắc không lúc nào bớt, mối lo ấy nghìn đời sau chưa nguôi được. Động chúa phải cố làm cho dân ta trở thành dân tộc anh hùng, ai cũng là chiến sĩ ra trận được, ai cũng mong được vào chỗ nguy hiểm để cho nước được yên. Vả chăng, phương Bắc đã vậy, còn phương Nam đất rừng hoang vu, có những giống dân tộc thua kém dân tộc ta xa lắm, mai sau ắt dân tộc ta phải mở mang bờ cõi, làm sao lại không đào tạo ra những thế hệ anh hùng giỏi chiến trận, khéo việc binh đao? Đất nước ta tất phải còn mãi, dân tộc ta nhất định phải sinh sôi nảy nở, biết đâu con cháu ta mai sau lại chẳng ngự trị tại phương Nam, phương Tây xa xôi nào đấy lúc này ta chưa biết được. Nước trị tất cũng có lúc loạn, anh hùng hiện ra ắt cũng có những kẻ gian tà bán nước, lúc ấy dân tộc ta dũng liệt trăm vạn người như một đều yêu nước, quý nước, trọng giống nòi, thì những kẻ gian tà hại nước đù có được thời làm càn cũng chỉ được ít lâu tất bị diệt vong!

Quân sư khuyên Động chúa định tuổi dân, bắt phải học lịch sử, lại phải luyện võ nghệ, tổ chức thành hàng ngũ giúp nước một thời gian sau mới được về hẳn làng mình cày ruộng hay làm ăn mọi việc. Nhờ thế, lúc Đinh Bộ Lĩnh lên ngồi rồi, nhớ lời Quân sư dặn mới tổ chức xã hội nước ta có quy củ, quân đội chia ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ thật đường hoàng, hùng mạnh.

Quân sư khuyên:

- Con người lấy tình mà ở với nhau, tình ấy loạn tất phải có phép để phân xử gìn giữ cho tình khỏi tiêu vong. Như thế, phép nước tuy nghiêm mà vẫn phải sáng tỏ được tình, có thế mới giúp được dân trí tiến bộ, bảo toàn được xã tắc không loạn.

Hội nghị nghe Quân sư định quốc kế, ai cũng thấy như sống trong mơ, đường xa khó khăn mà vẫn thấy phấn khởi vô cùng. Tới việc trước mắt, Quân sư nói:

- Bây giờ đến việc trước mắt, là việc thiên hạ hôm nay với cuộc đứng dậy của Hoa Lư ta mai sau. Giặc cướp lúc này nhiều lắm, nhưng nếu ta thu phục được các Sứ quân thì dần dần giặc nhỏ cũng tự tan cả. Gần ta nhất, là Phòng Át ở Đằng Châu, mọi người đã biết y là người thế nào, việc thu phục Đằng Châu tôi cũng đã nói rồi, bây giờ chỉ còn đợi lúc y tới Hoa Lư là ta bắt đầu thi hành kế.

Động chưa hỏi:

- Quân sư ước độ bao lâu nữa thì Phạm Phòng Át sẽ tới Hoa Lư?

- Bẩm, tôi cho rằng chỉ ít ngày nữa là ta có tin.

Rồi Quân sư nói tiếp:

- Phía Bắc Đằng Châu, là Bình Kiều với Ngô Xương Xí. Xương Xí thấy triều đình nghiêng ngửa, ngồi ở ngai vua mà còn thấy nản lòng phải bỏ đi chiếm một mảnh đất để mong dựng lại nghiệp lớn, người như thế tất không thể nên nghiệp được!

Tướng Lê Hoàn hỏi:

- Thưa Quân sư, xin Quân sư giảng rõ tại sao Xương Xí lại không nên nghiệp được? Xương Xí là vua bỏ ngai, tất sẽ được lòng người hơn các Sứ quân khác, lại được cái lợi là triều đình cũng nể không nỡ đánh dẹp, tại sao lại không nên nghiệp?

Quân sư gật gù đáp:

- Tướng quân nhận xét như vậy là hay lắm! Xương Xí dòng dõi Ngô Vương, mai sau là người kế nghiệp cho Nam Tấn Vương, nhưng từ lâu đã có tham dự việc triều chính, Xí giữ Bình Kiều là cũng để lo việc mai sau, nhìn như vậy kể cũng là biết nhìn xa trông rộng. Nhưng, lúc còn nắm cả trăm dân ngồi trên trăm quan văn võ, quyền uy đầy đủ mà chẳng nên việc, làm sao lại có thể thành việc lúc tự xếp mình ngang hàng với đảng cướp lớn Sứ quân được? Xương Xí không hiểu việc định quốc an dân mà chỉ biết nhìn đến ngai vàng của dòng họ, làm sao có thể là minh quân thu phục cả thiên hạ được? Ta quả quyết rằng: lúc thiên hạ đại loạn, thì kẻ tan trước nhất ắt là Xương Xí, Xí không tin ở quyền uy của mình nơi triều đình, làm sao còn đủ đởm lược để tin ở sức mình trong cuộc tranh hùng với thiên hạ được?!

Tướng Lê Hoàn cúi đầu không nói, Động chúa hỏi:

- Như vậy, thì với Bình Kiều ta phải tính sao?

- Bẩm, Bình Kiều không phải là chỗ ta đáng sợ, Xương Xí nếu là người ngoài hoàng tộc thì là điều lo của ta.

Đinh lão hỏi vội:

- Tại sao lại như vậy?

Quân sư nhìn Đinh lão, vẻ mặt Quân sư buồn vui lẫn lộn mà rằng:

- Nếu Xương Xí là người trong thiên hạ có chí lớn mà nổi lên, thì chí ấy là điều ta phải sợ. Nhưng nay Xương Xí không phải là người như vậy, ta không cần nói nữa. Chỗ đáng sợ, là bên cạnh Xương Xí có một danh sĩ đại tài giúp đỡ...

Đến lượt Động chúa cướp lời Quân sư mà hỏi:

- Người ấy là ai?

- Bẩm, trước tôi cũng có nói về người ấy rồi, người ấy là anh ruột của tôi, tên gọi là Lê Hiền. Anh tôi muốn nương vào cái gốc cũ để phục thiên hạ, nhưng tôi không tin rằng cái gốc cũ ấy lại đủ vững để chống đỡ trăm ngàn việc lớn...

Đinh lão tiếp luôn:

- Như thế, ông Lê Hiền cũng không phải là người giỏi, vì nhìn việc vẫn còn sai lầm quá đến thế!

Quân sư cười thê thảm:

- Bẩm, chính vì thế tôi tiếc tài chí của anh tôi, phải chi anh tôi cùng với tôi giúp cho Hoa Lư thì tốt biết mấy!

Động chúa hỏi tiếp:

- Ông Lê Hiền tài giỏi ra sao, lại so với Quân sư thì thế nào?

Quân sư thẳng thắn đáp:

- Tài thì không thể so sánh hay bắc lên cân được nhưng tôi biết cả cõi Giao Châu này không có tướng nào đủ tài địch lại anh tôi! Đã thế, anh tôi còn tinh thông thiên văn, giỏi địa lí, suy nghĩ về phép chiến trận, ngày đêm bày ra các cách trị dân giữ nước...

Động chúa lại ngắt lời:

- Nếu thế thì Xương Xí thế nào cũng thành nghiệp lớn!

Quân sư chưa vội đáp, cả hội nghị gay cấn đợi chờ xem Quân sư trả lời ra sao. Lát sau, Quân sư mới rắn rỏi cao giọng mà rằng:

- Bẩm, tôi quả quyết Xương Xí sẽ tan trước tất cả các Sứ quân, Tài của anh tôi thế nào cũng uổng! Tôi thừa biết rằng: anh tôi đem chí ra phó thiên hạ, một lòng trung kiên không bỏ chủ, lại lúc nào cũng giơ cao gốc cũ Ngô Vương, thì nếu phá được hết các điều quan trọng ấy tất tài của anh tôi dù có nghiêng trời lệch đất cũng đành chôn kĩ mà thôi! Hỏng việc lớn, không phải vì anh tôi kém tài, mà chính vì con người Xương Xí không phải là hào kiệt ở đời, thế nào y cũng ngã lòng trước các việc của Hoa Lư ta dàn xếp ngoài thiên hạ cho mà xem. Đến lúc ấy, liệu anh tôi làm thế nào giữ cho vững được cây cột muỗng mục từ trong ruột mà ra, Xương Xí dù lúc ấy có ở ngôi vua cũng ngã lòng mà bỏ tất cả!

Hội nghị nghe Quân sư nói, ai cũng thấy ghê trong lòng về chí quyết liệt của Quân sư. Động chúa hỏi nữa:

- Vậy Quân sư định đối phó với Bình Kiều ra sao?

- Bẩm, thật ra đối với Bình Kiều ta không cần phải đối phó gì cả, ta cứ để tự nó tan ra bằng những việc xảy ra chung quanh. Như thế có hai điều lợi, điều thứ nhất, ta khỏi phải phí sức nhọc lòng, điều thứ hai là tránh cho tôi khỏi phải mang tiếng là “anh em chẳng hòa, mỗi người một chủ đến nỗi phải đâm chém tiêu diệt nhau!”

Động chúa gật gù, Đinh lão cũng gật gù, các tướng hết nhìn Quân sư lại nhìn đến Động chúa, sau lại nhìn nhau, ai cũng thấy cảm phục Quân sư hành động giữ vẹn mọi đường. Động chúa gật gù xong, hỏi tiếp:

- Quân sư định dàn xếp các việc chung quanh ra sao?

Quân sư cúi đầu lặng lẽ một lát, rồi ngửng lên giọng chững chạc nói:

- Bẩm, Đằng Châu đã thuộc về ta, việc ấy cả thiên hạ đều biết, cả thiên hạ đều e ngại Hoa Lư ta. Sau Đằng Châu, là bọn Lý Khuê ở Siêu Loại, Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du, Lữ Đường ở Tế Giang, ba Sứ quân ấy tuy hùng cứ thật đấy nhưng lại ở cùng một vùng đất, mỗi người có một cái lợi hay cái hại. Cả ba, đáng sợ hơn cả là Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp, Tiệp một mặt sợ Cổ Loa, một mặt ngại Lữ Đường với Lý Khuê chèn ép, vì thế Thủ Tiệp đang ra sức thuyết phục hai Sứ quân Lữ Đường, Lý Khuê cùng với Tiên Du hợp một, cùng chống lại Cổ Loa, cùng đề phòng Bình Kiều, cùng đón đỡ Nguyễn Siêu và Đỗ Cảnh Thạc ở bên kia sông. Ba Sứ quân này có vẻ sắp hợp được với nhau, ta phải ra tay trước phá tan thế quân ấy tiêu tan, khiến cho Bình Kiều không đánh cũng tự tan, làm cho Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu ở bên kia sông đêm ngủ không yên, ngày ăn không ngon. Đợi phá xong thế liên minh của ba Sứ quân ấy rồi, ta được cả một vùng lớn lao, phía Tây Bắc sát Cổ Loa, bên kia sông ta uy hiếp Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, thừa thắng đánh nốt các Sứ quân khác...

Động chúa vẻ mặt hân hoan, hỏi:

- Vậy, Quân sư định phá ba Sứ quân Lý Khuê, Lữ Đường, Nguyễn Thủ Tiệp như thế nào?

Các tướng chăm chú đợi nghe, Quân sư đáp lời Động chúa ắt lại sắp nói ra kế lớn làm tan thiên hạ đây!

Quân sư nét mặt tươi tỉnh mà rằng:

- Lữ Đường ở Tế Giang không có tài, lại thích việc thần thánh ma quỷ, lấy phù thủy làm trò yêu thuật cho ngồi ghế Quân sư, nếu ta lại lấy trò phép thuật ra dọa y thì thế nào y cũng để ý đến ta. Việc tôi cưỡi mây gọi gió mà vượt sông vào Đằng Châu, mượn Long Vương ở biển Đông chín con rồng lửa để đốt thành Ngọc Lũ, lập dài sai bảo Thần Mưa đến rập rửa ven Xích Đằng, sai Thiên Lôi giáng búa hủy đài cầu mưa, bằng ấy việc đã vào tai Lữ Đường cả rồi! Lữ Đường đang giục phù thủy Quân sư của y mau luyện các phép màu như tôi, làm sao phù thủy quân sư luyện phép cho được! Nay, nếu ta đánh tiếng cho Lữ Đường biết là ta nhân tự Đằng Châu đi lại giao hảo liên minh với Lý Khuê ở Siêu Loại, lại hẹn cùng Khuệ hợp sức phá Lữ Đường, dẹp Thủ Tiệp, tất thế nào Lữ Đường cũng vội cùng Thủ Tiệp liên minh đánh Lý Khuê trước. Cùng lúc ấy, tôi lại mạo thư của anh tôi ở Bình Kiều gửi cho Lữ Đường, nói rằng ở mặt Nam thì liên minh với người em là tôi, xin cùng với Lữ Đường hợp lực diệt Thủ Tiệp - Lý Khuê, thư ấy gửi lầm vào tay Thủ Tiệp, thư gửi cho Lý Khuê thì lại giả vờ để lọt vào tay Lữ Đường, thế là ba Sứ quân ấy phải ra binh đánh lẫn nhau, đợi cho bọn ấy kiệt sức ta mới ra tay mà tiêu diệt!

Kế ly gián của Quân sư như thế là cay nghiệt, nếu làm được đúng ý thì cả ba Sứ quân tất đâm chém nhau ngay. Quân sư nói tiếp:

- Một điều khó trong kế ly gián này, là làm sao cho thư của anh tôi gửi cho Lữ Đường lại lọt vào tay Nguyễn Thủ Tiệp, vì Tiệp ở mãi phía Bắc. Lữ Đường ở phía Nam, thì làm sao thư lại lên mãi phía Bắc thất lạc được?

Hội nghị bàn nhau xem có kế gì không, hồi lâu vẫn chẳng giải quyết được gì, Quân sư lúc ấy mới nói:

- Nguyễn Thủ Tiệp cậy có sức mạnh như thần, lại có đệ tử dán bùa ở lưng xung trận nói rằng không bao giờ chết. Tiệp lại nương vào địa thế cực kì lợi hại, như Đông Nam có căn cứ núi Bát Vạn, rặng núi này hồi xưa Cao Biền có dựng một cái tháp, gọi Tháp Bát Vạn để trấn yểm linh khí của thông thổ cõi Giao Châu ta. Thủ Tiệp xây thành dưới chân Bát Vạn Sơn, phụng thờ Thần núi linh ứng vô cùng, giữ thành mà cự với mặt Đông Nam là Sứ quân Lý Khuê. Lại ở phía Nam, cách Tiên Du bốn dặm Có rặng núi Lạn Kha, trên núi có ao Thú Long, đỉnh núi Thất Sơn có bàn cờ đá, tiên thường xuống đánh cờ ở đỉnh núi này, dưới núi có động Vạn Phước cảnh trí u nhã cực kì, nhưng dùng vào việc quân thì lợi hại lắm. Chính ngày xưa Triệu Đà đóng quân ở rặng Lạn Kha này mà chống nhau với An Dương Vương. (Sau cùng ở nơi thần tiên này có kị sĩ Từ Thức cởi áo lông cừu tặng cho Tiên nữa) Thủ Tiệp trông cậy vào rặng Lạn Kha để cầm cự với Cổ Loa, đỡ Lữ Đường ở mặt Nam. Hàng năm vào đầu mùa Đông, Thủ Tiệp thường sai người mang ba bộ da gấu xám núi Lạn Kha xuống Tế Giang tặng Lữ Đường gọi là để tỏ tình giao hảo, nhưng kì thực là để tính việc lâu dài. Ta nhân lúc sứ giả của Thủ Tiệp xuống Tế Giang, cùng một lúc gây nghi kị chia rẽ giữa Lữ Đường với Lý Khuê, rồi giả vờ để lọt thư của ta gửi Lữ Đường lại chẳng may lọt vào tay sứ giả của Thủ Tiệp là hay nhất!

Hội nghị mừng rỡ, nếu được như vậy thì có thể phá thế liên minh của ba Sứ quân thật. Động chúa còn đang cười nói bàn thêm với các tướng, Quân sư đã nghiêm trang tiếp:

- Bẩm Động chúa, dù rằng ta không chú ý đánh Bình Kiều, nhưng cũng vẫn phải chuẩn bị. Đợi khi nào Phạm Phòng Át sang Hoa Lư ta, lúc ấy một mặt ta làm cho nội bộ Đằng Châu tan nát, một mặt dùng tướng của ta ở sẵn bên đó quấy phá Bình Kiều, đổ tiếng cho Đằng Châu gây sự. Bình Kiều ắt phải đối phó...

Động chúa hỏi luôn:

- Như vậy, thì có sợ rằng Bình Kiều ra tay khiến cho kế phá ba Sứ quân Thủ Tiệp, Lý Khuê, Lữ Đường của ta bị khó khăn gì không?

- Bẩm, nếu ta chưa gởi được thư đến tay các Sứ quân, thì ta chưa cho binh quấy phá Bình Kiều. Chỉ sau khi được thư của ta gởi, ta mới làm cho Bình Kiều cựa quậy, tỏ ra rằng Bình Kiều muốn tranh hùng thật.

Đinh lão tiếp:

- Đành rằng Binh Kiều cũng phải cựa quậy một chút cho hợp lí, thế trong cái sự cựa quậy ấy của Bình Kiều ta sẽ hành xử ra sao?

Quân sư cười thật tươi:

- Bẩm, lúc ấy ta một mặt đem thủy quân của Đằng Châu ngược sông Xích Đằng mà lên, binh thủy Đằng Châu lúc ấy ta nắm được rồi. Đạo thủy quân kéo lên như vậy ta sẽ làm cho Bình Kiều kinh sợ. Bình Kiều sẽ không dám ra mặt đương tự với ta, tôi sẽ nhân đấy đưa tin cho anh em tôi xem sao, tôi sẽ bảo là thủy quân ấy không xâm phạm đến Bình Kiều, mà sẽ chỉ đánh Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt và Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động Giang thôi. Nếu tôi làm như vậy, một là anh tôi không dám ra quân, hai là ta làm cho Ngô Xương Xí càng mau chán ngán, nản lòng không muốn tranh hùng với thiên hạ nữa.

Tướng Lưu Cơ hỏi:

- Thưa Quân sư, lúc nãy Quân sư có bảo rằng ta phải đợi lâu nữa mới ra tay được, sao bây giờ nghe Quân sư nói thì là quân ta đã hành động rồi là thế nào?

Quân sư vui vẻ:

- Tướng quân hỏi như vậy là đúng lắm. Một đằng, ta đã ra quân đâu, đấy mới chỉ là thủy quân của Đằng Châu hành động, chứ binh ta đã xuất chiến đấu; đằng khác, tướng quân chưa nghe tôi nói nốt mà!

Hội nghị thở phào một tiếng, thì ra mọi cử sự vẫn chỉ mới trong vòng dàn xếp của Quân sư, chứ chưa đến lúc Hoa Lư thực sự xuất hiện!

Quân sư tiếp:

- Khi thủy quân Đằng Châu lên ngược dòng Xích Đằng, thật ra cũng không phải là để đánh ai cả, chẳng qua chỉ là dụng cái kế “đem bả độc mà nhử cọp dữ” đấy thôi!

Phạm Cự Lượng hỏi ngay:

- Thưa Quân sư, trong hồi đánh nhau với Nam Tấn Vương, tôi thường được Quân sư chỉ vẽ cho nhiều kế hay lắm, bây giờ lại nghe kể lạ “đem bả độc mà nhử cọp dữ” là thế nào?

Hội nghị cũng nóng lòng như Cự Lượng, muốn được nghe kế của Quân sư, Quân sư nghe Cự Lượng hỏi, gật đầu rồi ung dung đáp:

- Đỗ Cảnh Thạc chiếm Đỗ Động Giang, Thạc vốn là tướng giỏi của Cổ Loa, nay bỏ triều đình hùng cứ một nơi, ắt Thạc phải là kẻ hiểu việc binh, tỏ tình thế hơn nhiều Sứ quân khác. Giang sơn của Cảnh Thạc đất rộng, nhiều sông hồ kì tú, nhưng lại là linh địa nhiều hơn là trọng địa trong phép dụng binh. Cảnh Thạc vẫn có ý muốn nhòm ngó Đường Lâm của Ngô Nhật Khánh, vì chiếm được Đường Lâm là Cảnh Thạc có địa thế lợi hại để đương cự với phương Bắc là Cổ Loa, lại có sức ruộng đồng phì nhiêu làm kế lâu dài để tranh hùng với thiên hạ. Ở mặt Nam Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt, chẳng khác nào như mũi dao nhọn ngày đêm chĩa vào lưng Thạc, Nguyễn Siêu được vùng địa thế cực tốt, vừa có núi sông che chở, lại vừa có ruộng đồng màu mỡ, vì thế Cảnh Thạc tuy thèm Đường Lâm của Ngô Nhật Khánh, nhưng lại vẫn ngại đằng sau lưng là Nguyễn Siêu hơn.

Quân sư ngừng lại, đưa mắt nhìn mọi người, rồi bỗng hỏi:

- Này tướng quân Phạm Cự Lượng, giả sử là Đỗ Cảnh Thạc, thì ông sẽ phải hành động ra sao? Đánh Đường Lâm hay đánh Tây Phù Liệt? Vả lại lúc ấy thủy quân Đằng Châu sắp lên đánh Tây Phù Liệt đấy?

Bỗng nhiên Phạm Cự Lượng bị Quân sư hỏi lúng túng không biết nói sao. Các tướng khác cùng phân vân, mọi người lao xao bàn với nhau, rồi tướng Nguyễn Bặc rắn rỏi đáp:

- Thưa Quân sư, nếu tôi là Cảnh Thạc, tôi phải nghĩ rằng: Đằng Châu vừa đuổi xong Nam Tấn Vương, thế rất mạnh, sức rất lớn, bây giờ đem binh đánh Tây Phù Liệt thì thế nào Nguyễn Siêu cũng bị nguy. Nguyễn Siêu bị nguy, thì Cảnh Thạc cũng không yên. Ngó sang phía Đông có Lữ Đường ở Tế Giang, phía Tây có Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm. Đánh Lữ Đường thì khó, nhưng nếu cướp Đường Lâm thì không khó, lúc ấy Cảnh Thạc sẽ phải đánh Ngô Nhật Khánh để đoạt địa thế tốt mà giữ thân!

Hội nghị nghe Bặc nói, im lặng gay cấn, đợi xem Quân sư nói sao. Quân sư nghe Nguyễn Bặc nói, mỉm cười mà rằng:

- Như vậy là tướng quân cũng có chí mở bờ cõi, tìm địa thế mà phòng thân. Nhưng, binh pháp có bao giờ cho phép ta không canh giữ cổng ngõ, bỏ chạy vào sâu trong nhà, rồi trèo tường sang hàng xóm tìm chỗ ẩn thân chống giặc hay không? Đằng Châu vừa thắng Nam Tấn Vương, sức mạnh đã đành rồi, nhưng chỉ đem một thủy quân đi viễn chinh, sao có thể gọi là đã có thể tất thắng được? Vả chăng, Đỗ Cảnh Thạc lập thủy trại vĩ đại, Thạc rất giỏi nghề thủy chiến, thì sao lại sợ thủy quân Đằng Châu mà vội chạy cuống cuồng như vậy?

Nguyễn Bặc nghe Quân sư nói, ngẩn người bẽn lẽn, cả hội nghị im thin thít. Quân sư nghiêm nghị tiếp:

- Tôi cho rằng, ngay khi được tin thủy quân Đằng Châu ngược Xích Đằng toan đánh chiếm Tây Phù Liệt, thế nào Cảnh Thạc cũng phải vội theo quân gấp chiếm Tây Phù Liệt trước, cùng lúc ấy đưa thủy quân xuống phía Nam sẵn sàng nghênh chiến với thủy quân Đằng Châu…

Động chúa ngạc nhiên hỏi:

- Tây Phù Liệt chưa xâm phạm gì bờ cõi của Cảnh Thạc, lại sắp bị binh ngoài tiến đánh, thì có hại gì cho Thạc. Thạc tiến quân như vậy, lại không lo các mặt khác hay sao?

Quân sư mỉm cười mà rằng:

- Nếu Cảnh Thạc để Đằng Châu cướp mất Tây Phù Liệt, cũng chẳng khác nào đằng sau nhà Cảnh Thạc có bức tường lại bị phá đổ, bên ngoài nhìn suốt vào trong nhà Cảnh Thạc, làm sao Thạc ăn ngủ cho yên được. Thạc chỉ cần đem một đạo binh không lớn đi đánh Tây Phù Liệt, cũng có thể giành được phần thắng. Thắng là vì, Tây Phù Liệt phải chia sức chống đỡ với Đằng Châu, lại phải hai mặt thủy bộ đỡ với Cảnh Thạc. Đằng Châu từ xa tới, thấy có đánh nhau tất e dè đợi xem bên nào thắng bại đã, như thế là Cảnh Thạc được yên lòng mà đánh với Tây Phù Liệt. Nếu Thạc được Tây Phù Liệt, thì thanh thế còn vững hơn Hoa Lư ta, sức mạnh đủ để uy hiếp các Sứ quân ở chung quanh...

Động chúa nghe nói giật mình, vội cướp lời mà rằng:

- Như thế, thì Quân sư giúp cho Cảnh Thạc lấy thiên hạ, hại ta rồi!

Hội nghị cũng nhận thấy thế, ai cũng hồ nghi xôn xao bàn tán. Quân sư ra hiệu cho các tướng im lặng rồi giảng:

- Có bao giờ ta lại giúp Cảnh Thạc như vậy! Tôi đã bảo rằng, ta dụng cái kế “Đem bả độc mà dử cọp dữ” chứ có bảo là “đem thịt ngon dâng cho cọp” đâu!

Động chúa hỏi thêm:

- Đành là lấy bả dử cọp dữ, nhưng rõ ràng là Cảnh Thạc nếu được Tây Phù Liệt thì bả dữ chẳng thấy đâu, chỉ thấy Thạc được miếng thịt ngon quá!

Quân sư lúc ấy giảng:

- Đỗ Cảnh Thạc bất đắc dĩ phải ra tay cướp Tây Phù Liệt trước, Thạc sẽ lâm vào cái thế: ngồi im cũng chết, cử động thì vất vả vô cùng may ra mới có hi vọng được phần nào không chết. Thạc thừa biết: nếu Thạc cử sự, tức là làm cho Cổ Loa nhìn tới, Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm ghé mắt ngó sang, Lữ Đường ở Tế Giang có thể nhân cơ hội xông vào nhà Thạc để cướp đất làm chỗ thoát thân giữa các Sứ quân khác. Vả chăng Tây Phù Liệt tuy phải cùng một lúc đánh đỡ Đằng Châu ở Nam, vẫn chưa chắc đã thua ngay Cảnh Thạc ở mặt Bắc. Vì thế, Cảnh Thạc bất đắc dĩ mà phải ra quân. Lúc nào ta thấy Cảnh Thạc vừa xâm phạm bờ cõi Tây Phù Liệt, là lúc ấy ta dừng thủy quân Đằng Châu đợi xem thịnh sự, Thạc lỡ bộ rút quân về thì cũng là đã gây sự với Nguyễn Siêu rồi!

Các tướng hỉ hả, ai cũng khoan khoái với lời giảng của Quân sư. Tướng Lưu Cơ hỏi:

- Thưa Quân sư, thế nhỡ Đỗ Cảnh Thạc chót đã xuất quân, rồi cứ tiến quân thì sao?

- Trước hết, Thạc sẽ không bao giờ dại dột bỏ nhà mình để đi gây sự với thiên hạ, sau nữa là nếu thủy quân Đằng Châu không đánh Tây Phù Liệt là Nguyễn Siêu có toàn lực để đánh nhau với Cảnh Thạc, chưa chắc Nguyễn Siêu đã bị bại ngay được. Cảnh Thạc xuất chiến lâu ngày, tức là tự chuốc lấy họa vào thân. Thạc chẳng bao giờ dại như thế!

Bây giờ thì mọi người đều hiểu rõ cả rồi, không ai còn thắc mắc hồ nghi gì nữa. Đinh lão lại hỏi:

- Nếu Cảnh Thạc rút quân về giữ nhà, Nguyễn Siêu cũng không cử sự gì, thì lúc ấy ra sao?

Hội nghị lại im lặng đợi nghe về một tình thế mới. Quân sư đáp ngay:

- Bẩm, đấy là việc của Hoa Lư ta đấy ạ!

Đinh lão:

- Thế nào là việc của Hoa Lư ta?

- Bẩm, lúc nãy tôi có nói là: Trấn Giang Đại tướng của Đằng Châu là Nghi Bá Tường đã ngầm theo về với Hoa Lư ta rồi, lại thêm Tôn Phủ Nghi muốn cướp Đằng Châu hạ Phạm Phòng Át nên y sẵn sàng nghe theo mệnh lệnh của tôi, lúc ấy, tôi bảo Tôn Phủ Nghi với Bá Tường bí mật thông tin cho Nguyễn Siêu, nói là Hoa Lư ta chèn ép Đằng Châu khiến Phạm Phòng Át phải bị giam lỏng ở Hoa Lư, Đằng Châu bên ngoài vờ khuất phục Hoa Lư, nhưng bên trong cầu giao hảo với Nguyễn Siêu để cùng mở mang bờ cõi. Thủy quân Đằng Châu ngược Xích Đằng là cốt để che mắt Hoa Lư, nhưng kì thực là để cùng Siêu cầu hợp lực đánh các nơi, cướp các trọng địa, làm thế lớn cự với Hoa Lư ta.

Động chúa lặng lẽ suy nghĩ, rồi hỏi:

- Thế liệu ngài đã nắm chắc được bọn Bá Tường, Phủ Nghi trong tay chưa?

- Bẩm Động chúa, tôi trộm phép Động chúa thu phục được hai người ấy rồi. Tôn Phủ Nghi trái lời tôi là y bị Phạm Phòng Át giết ngay. Bá Tường nếu có ý gian dối lừa lại tôi thì y sẽ bị các tướng của ta ở Đằng Châu bắt giết tức thì, lấy cớ là Bá Tường tạo phản toan thừa lúc Phạm Phòng Át vắng nhà định cướp quyền.

Động chúa vui vẻ!

- Nếu vậy thì hay lắm! Rồi Đằng Châu với Tây Phù Liệt vờ giao hảo, liệu Nguyễn Siêu sẽ làm những gì?

Quân sư chưa đáp, cặp mày lưỡi kiếm nhíu lại gần nhau, Quân sư suy nghĩ rồi thưa:

- Bẩm, Đằng Châu sẽ bảo Nguyễn Siêu: “Mặt Nam để Đằng Châu lo liệu cố trì hoãn với Hoa Lư, mặt Bắc Nguyễn Siêu phải gấp rút mở rộng đất đai để lấy thêm chỗ trống đỡ các mặt, Hoa Lư nhất thời chưa thể cất quân viễn chinh được vì còn có Phạm Phòng Át giao hảo. Nguyễn Siêu nên tiến quân ra ý đánh nhau với Cảnh Thạc nhưng kì thực thì là mượn đường gấp rút mà đánh Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm”.

Động chúa hỏi:

- Tại sao Cảnh Thạc xuất quân để toan lấy Tây Phù Liệt, mà Phù Liệt không đánh lại Cảnh Thạc, lại đi đánh Đường Lâm là thế nào?

- Bẩm, Đường Lâm đánh không khó bằng đánh Cảnh Thạc, vả chăng Đường Lâm đối với Cảnh Thạc cũng như Tây Phù Liệt đối với Cảnh Thạc, cả hai nơi đều là cái họa sát nách của Thạc.

Tướng Cung Địch Hồng buột miệng:

- Nếu thế thì lại là cái kế “bả độc dử cọp dữ rồi!”.

Quân sư cười mà rằng:

- Tướng quân nói rất đúng! Lúc ấy, Cảnh Thạc lại phải tính đường cướp Đường Lâm trước Nguyễn Siêu. Nguyễn Siêu không lui quân như Thạc lui không đánh Tây Phù Liệt, Nguyễn Siêu cứ việc cùng với Cảnh Thạc tranh nhau mà đánh Đường Lâm!

Hội nghị vui lắm, thế là gần hết các Sứ quân bị liên lụy về kế “nước loang cát lở” của Quân sư, hì hục người nọ nhìn ngó người kia rồi đánh nhau lung tung khắp cả.

Quân sư nói tiếp:

- Đường Lâm đại loạn, Kiều Thuận ở Hồi Hồ dù ngày đêm có ẩn mình trong giang sơn của y, bưng tai bịt mắt cũng không yên thân được. Vả chăng Ngô Nhật Khánh chèn ép cướp cả rặng núi Mộng Sơn của Kiều Thuận, trấn suốt một dải sông Bạch Hạc, làm cho Kiều Thuận như bị giam lỏng một nơi, nay Đường Lâm biến động thì Kiều Thuận thế nào cũng tìm cách đánh Đường Lâm để thoát ra chỗ bị giam hãm. Thế là, ba mặt sẽ đánh Đường Lâm, kẻ được người thua đều đợi ta đến mà giết cả!

Hội nghị lại hân hoan, xôn xao bàn tán. Một hồi sau Quân sư nói tiếp:

- Tới lúc ấy, chỉ còn có hai Sứ quân Kiều Công Hãn ở Phong Châu, và Nguyễn Khoan ở Tam Đái là chưa bị ta làm khổ. Nhưng Phong Châu có danh sĩ Điền Bạc ngồi ghế Quân sư cho Kiều Công Hãn, Điền Bạc là người có tài trùm cả thiên hạ, y từng một mình xuống tận Tam Đái tung hoành trước mắt thầy trò Sứ quân Nguyễn Khoan, rồi ung dung mà về, lại phá nát cả nội bộ Tam Đái, dụ hàng được hai đại tướng cực giỏi.

Hội nghị nhất loạt bật lên những lời tán thán, kinh ngạc. Quân sư phải kể qua cho mọi người nghe kì công của Điền Bạc, Động chúa nghe xong, lại nghe các tướng bàn bạc, liền hỏi Quân sư:

- Thiên hạ bao la, người tài không ít, tôi chưa thấy Quân sư khen một ai, nay mới nghe Quân sư hết lời ca ngợi Điền Bạc, thì Điền Bạc mai sau có phải là kẻ đáng sợ của ta không?

Quân sư đáp:

- Một đường xuống Tam Đái, một đường về như đi chơi, một câu hát xúi con trẻ, một tiếng trống đánh trên sông, Điền Bạc đánh lui đại quân của Nguyễn Khoan, làm rung động cả Đường Lâm, tài ấy ắt phải là đáng sợ. Tôi cho rằng mai sau khi thiên hạ đại loạn, Điền Bạc ắt dâng mưu cho Sứ quân Kiều Công Hãn để tranh thiên hạ, nhưng Hãn không phải là người đang ở ngôi cao, thì làm sao Điền Bạc thi thố được tài năng đến kì cùng. Nếu thế, thì mọi vẫy vùng của Điền Bạc cũng sẽ lại uổng công như anh tài ở với Ngô Xương Xí cho mà xem. Phong Châu - Tam Đái kết đại thù rồi. Điền Bạc có tài thánh cũng không làm cho hai Sứ hòa thuận với nhau để lôi kéo các nơi khác. Thế nào sau cùng cũng tan nát cả!

Hội nghị trầm ngâm, các tướng lầm rầm bàn bạc, Quân sư tiếp:

- Sở dĩ Điền Bạc xuống Tam Đái, là để vừa phá Tam Đái vừa làm cho Tam Đái lâm vào cái thế trên dưới thù địch, phải cùng với Phong Châu, liên kết để chống với Cổ Loa, cự với các Sứ quân chung quanh. Nguyễn Khoan là anh ngu dốt, làm sao hiểu được chí lớn của Điền Bạc, Kiều Công Hãn cũng vậy, làm sao dùng được hết tài Điền Bạc. Mai sau, khi Hoa Lư ta tiến ra lấy thiên hạ, phải đề phòng chỗ: Điền Bạc thấy các Sứ quân lần lượt bị ta tiêu diệt, phải ra sức thuyết phục các Sứ quân còn lại liên minh với nhau mà đương cự ta đấy!

Động chúa hỏi:

- Giả sử Điền Bạc làm đúng như lời Quân sư bảo, là y sẽ cố thuyết phục các Sứ quân khác cùng với Phong Châu liên kết chống Hoa Lư ta, thì lúc ấy Quân sư định kế phá bọn ấy như thế nào?

Quân sư ung dung đáp:

- Điền Bạc quả là có cái chí. Nhưng, giả sử Điền Bạc đừng dụng mưu phá nát Tam Đái, không gây thù với Tam Đái, mà làm sao để cho Đỗ Cảnh Thạc ở ngoài xâm phạm Đường Lâm, uy hiếp Hồi Hồ, làm cho Tam Đái phải bị nguy, rồi sau mới du thuyết các Động chúa ấy thì mới hi vọng các Sứ quân tỉnh ngộ. Nay Phong Châu - Tam Đái đã kết thù, lại kéo theo cả Đường Lâm, thì dù trong cơn nguy biến bọn ngu phu Sứ quân ấy làm sao mà còn đầu óc để nghe lời Điền Bạc, cố né nhường nhau một bước để lo việc lớn được! Điền Bạc có thế nào chăng nữa, tôi chắc là các Sứ quân cũng chẳng chịu nghe lời cho mà xem!

Động chúa nghe Quân sư nói vậy, cũng đành tin như thế, vả lại không tin lời Quân sư thì còn biết tính sao nữa! Thế là, Hội nghị bàn tán rộng ra mãi, sau cùng thì thấy lời Quân sư nói thật không sai. Điều khó là phải làm sao để cho cả thiên hạ chuyển động theo đúng dàn xếp của Quân sư. Quân sư bảo:

- Đã đành rằng định liệu là một việc, còn ra tay lại là việc khác. Nhưng việc lớn trong thiên hạ làm gì có sự dễ dàng ngồi một chỗ mà xong, chẳng vất vả mà được việc? Nam Tấn Vương phải chạy dài theo đúng ý ta, thì việc lớn trong thiên hạ vất vả hơn một chút là xong chứ gì? Tôi quả quyết là hơn một tháng này âm thầm vận động, đã đến lúc sắp có thịnh sự rồi đấy! Năm ông ở Đằng Châu, cũng chẳng nên ở lại Hoa Lư đâu, các ông biết rõ việc rồi, một là phải tự liệu việc mà làm, hai là đợi lệnh từ Hoa Lư mật gửi đến cho. Các ông nên về Đằng Châu ngay đi, đừng để Phạm Phòng Át nhỡ hỏi đến mà các ông vắng mặt cả thì y nghi ngờ ra. Lúc nãy ông Lê Hoàn bảo rằng không nghe Đằng Châu động tĩnh gì về việc sắp sang Hoa Lư, nhưng thật ra tôi biết chắc là Phạm Phòng Át sắp lên đường rồi đấy!

Ai nghe Quân sư nói cũng ngạc nhiên. Quân sư biết ý nói tiếp:

- Phạm Phòng Át đang sửa soạn để sang Hoa Lư, lại sai các tướng đi kiếm thứ long nhãn danh tiếng hạt nhỏ cùi dày để đem sang biếu Động chúa. Các tướng mấy ngày nay chia nhau đi các ngả mà kiếm vật quý, chỉ nay mai là thế nào ta cũng có tin.

Hội nghị càng ngạc nhiên, Quân sư lại tiếp:

- Ở Đằng Châu có khí hậu lạ, cuối năm bao giờ cũng giá rét, người người cảm mạo thời khí ấy, tay chân nhức mà đầu ngứa ngáy lở lói, cái họa ấy Đằng Châu không làm sao trị được! Động chúa nên nhờ Thần y chế sẵn cho một ít thuốc quý để tặng lại cho Phạm Phòng Át, tất ông ta cảm kích thêm nữa!

Hội nghị vui vẻ, ai cũng phục Quân sư nhìn xa trông rộng, lại lo liệu đến cả những việc nhỏ của địa phương.

Chưa biết việc ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—