Hồi Thứ Sáu Mươi Mốt Cảnh Thạc tiến đánh Đường Lâm
Nguyễn Siêu hội quân định kế
Cuối năm Tân Hợi, Nam Tấn Vương đưa bại quân trở về Cổ Loa, cả thiên hạ náo động, suốt cõi Giao Châu lừng danh binh Hoa Lư, không đâu là không biết tiếng Quân sư Lê Thảo. Việc Nam Tấn Vương thất bại phải chạy về khiến cho các Sứ quân bàng hoàng, ở đâu cũng hội các tướng sĩ mưu thần bàn việc lớn. Các Sứ quân từ đấy khinh thường Cổ Loa, ai cũng tưởng mình có sức đánh ra khắp nơi, việc binh đao làm cho cả Giao Châu mờ mịt khói lửa, trăm dân không còn chỗ ẩn thân, tình cảnh thật hết sức khốn cùng.
Rồi lúc thủy quân Đằng Châu ngược Xích Đằng dụng kế “đem bả độc mà dử cọp dữ” của Quân sư Hoa Lư, lại thêm mấy lá thư đi, vài lần khuấy động, Hoa Lư đã làm cho cả Giao Châu quả nhiên hỗn loạn, các Sứ quân lục đục ra binh đánh lẫn nhau suốt mấy năm trời, mà vẫn không ai làm gì được ai.
Mùa xuân năm Nhâm Tuất (962), Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Mộng Giang truyền gióng trống triệu tập thủ hạ, giữa mùa xuân bàn việc lớn.
Đỗ Cảnh Thạc vốn là tướng của triều đình, Thạc là tướng giỏi thủy chiến, nhìn cảnh triều đình sa sút thì chán nản, liền bỏ đi chiêu mộ thủ hạ, hùng cứ một cõi, nương vào sông rộng làm thế đương cự với thiên hạ. Vì việc thủy quân Đằng Châu ngược Xích Đằng toan đánh Tây Phù Liệt, khiến Cảnh Thạc lo lắng phải xuất quân thủy bộ hai mặt đánh Phù Liệt trước. Nào ngờ đấy là quỷ kế của Quân sư Hoa Lư, Đằng Châu không tiến quân nữa mà lui về, Cảnh Thạc Vội phải đem quân hai mặt về Đỗ Động, suýt tí nữa thì giao tranh lớn với Nguyễn Siêu, từ đây gây thù với Nguyễn Siêu không ít. Nguyễn Siêu mắc kế Hoa Lư, quyết định ra quân đánh Đường Lâm, làm cho Cảnh Thạc càng lo hơn nữa phải tính việc đánh Đường Lâm trước để giữ giang sơn mình.
Cảnh Thạc là tướng quen cầm quân, nên chiêu mộ được những tay có tài ở dưới trướng, tất cả đông đến vài chục người, đích thân Đỗ Cảnh Thạc chỉ xử mọi việc, ban phát lệnh không cần mưu sĩ, Thạc thường tự hào rằng: “Triều đình Cổ Loa một tay ta chống đỡ, công thần danh tướng chẳng được biết đến, thì ta việc gì phải phù trợ cho ai, tài ta thiên hạ mấy người đương được!”. Vì thế lúc chiếm vùng sông Đỗ Động, Cảnh Thạc ra sức đắp ải ở các nơi trọng yếu, lập thủy trại lớn phân binh ra thành đội ngũ rất chỉnh tề, lại luôn luyện quân tập tướng đợi ngày thu thiên hạ. Thạc chưa kịp ra tay, thì biến động đã xảy tới, vì thế có hội nghị giữa xuân bàn việc.
Đỗ Cảnh Thạc vóc người nhỏ nhắn, chỉ có hai mắt là đặc biệt, mắt Cảnh Thạc nhỏ mà long lanh sáng, lúc ngủ hai mắt không khép, có thể nhìn trong đêm tối được. Thiên hạ nói rằng Cảnh Thạc lúc nhỏ nuốt được mật chuột núi Tản Viên, nên mới được cái tài như vậy. Dưới trướng Cảnh Thạc, có hai mươi sáu vị tướng, người nào cũng quen chiến trận, giỏi nghề đánh nhau dưới nước, mỗi người có một tài riêng.
Vào hội, các tướng chỉnh tề, Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc nói, giọng Thạc chậm rãi ôn tồn, nghe chẳng có vẻ gì là võ tướng quen xông pha trận mạc cả, Thạc bảo:
- Này các tướng, ta bị trúng kế Hoa Lư, mắc lừa thủy quân Đằng Châu, khiến xuất binh gây thù chuốc oán với Nguyễn Siêu, đôi bên hầm hè nhau. Cũng từ đây bốn Sứ bên kia sông đem binh đánh nhau, Lữ Đường ở Tế Giang dòm ngó giang sơn ta, Lữ Đường có ý muốn tìm cửa ngõ phòng khi thất thế. Phía Bắc ta, Cổ Loa tuy suy đồi chẳng ra gì, nhưng cũng phải phòng lúc binh biến. Mặt Nam, Nguyễn Siêu đã chuẩn bị xuất quân đánh Đường Lâm. Ý ta, cũng muốn chiếm Đường Lâm để có cửa ngõ đi lại, có chỗ bày quân đỡ các mặt phía Đông. Vậy các tướng khuyên ta nên ra quân như thế nào?
Lập tức, một người đứng dậy nói ngay:
- Bẩm Sứ quân, ta không nên xuất binh vội, cứ phòng thủ cho vững là hơn!
Mọi người vừa đưa mắt nhìn chưa kịp có ý gì thì đã giật mình vì lời nói của người này. Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc hai máy hơi nhíu lại, cặp mắt đã nhỏ này chỉ còn như một vạch ngang. Thạc nheo nheo mắt nhìn người vừa nói. Người vừa nói, chính là Bản Phụng Đào, người gốc Thổ ở núi Tử Trầm. Bản Phụng Đào là người hung hiểm, hành sự bao giờ cũng lén lút, thường vẫn khoe là: “Trên đỉnh núi Tử Trầm có đá âm dương, đá dương kêu vang thì trời lạnh, đá âm kêu vang thì trời mưa; Phụng Đào lừa được cả đá âm dương khiến cho cả hai bên cùng một lúc thành ra nửa núi trời mưa, nửi núi trời nắng”. Đào lấy việc ấy làm thú vị lắm cho nên lúc nào cũng tưởng là mình lắm mẹo nhiều mưu, thích lừa bịp cả thiên hạ. Bản Phụng Đào vẫn thường ôm mộng làm vua các bộ lạc, nhưng sức không có nên theo về Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc để chờ thời. Sứ quân thừa biết Đào là đứa có tính phản phúc, nhưng lại tiếc tài trăm bước phóng dao không bao giờ sai trệch của y nên vẫn cho theo dưới trướng, nhưng Thạc là người đa nghi nên không lúc nào là không ngầm để ý đến Phụng Đào. Nay trong hội, Sứ quân vừa mới tỏ ý muốn đánh Đường Lâm, trong lòng Thạc còn đang hăm hở đã bị Bản Phụng Đào làm cho mất cả hứng. Cảnh Thạc giận lắm nhưng cố nén, hỏi lại:
- Tại sao lại có phòng thủ là hơn?
Các tướng nghe Bản Phụng Đào nói cũng ngạc nhiên kinh dị, nay thấy Sứ quân hỏi như thế ai cũng thấy Sứ quân có phần giận cố nén mà hỏi, liền chăm chú đợi nghe. Phụng Đào đáp:
- Bẩm Sứ quân, đánh Đường Lâm tuy không khó, nhưng ta nên đợi cho Tây Phù Liệt ra binh trước, vào sâu Đường Lâm, rồi hãy tiến binh thì có nhiều lợi...
Sứ quân hỏi luôn:
- Lợi như thế nào?
- Bẩm, Đường Lâm có nhiều tướng tài, thủy bộ đều giỏi có tướng Bùi Nhật Hướng, thủy chiến có vài chục tướng giỏi, bộ tướng có Bích Thừa Vu. Bên cạnh Ngô Nhật Khánh lại có quân sư Đạo sĩ Phùng Chuyết Tinh, Hồ Kính Trung là tay lọc lõi ở đời, việc gì cũng nghe biết. Địch với Nhật Khánh, ta nhường cho Nguyễn Siêu gánh vác phần nặng nhọc trước, đợi hai cọp sắp đứt hơi thở lúc ấy ta ra tay có phải là dễ vét được lợi hay không?
Hội nghị im lặng. Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc bỗng nhiên gay gắt:
- Tướng Đường Lâm nào giỏi thủy chiến mà ta phải sợ? Bộ tướng nào của Nhật Khánh các tướng của ta nghe danh phải khiếp hãi? Thành quách của Đường Lâm kín đến độ nào mà binh ta không vượt qua được? Hai thành Bạch Hạc, Cẩm Khê tuy có hiểm trở hùng vĩ, nhưng làm sao chống trả nồi thủy quân ta? Hay là ông sợ binh ta xuất trận vạ lây cho vài chục bộ lạc của ông ở huyện An Định đấy?
Bản Phụng Đào nghe Sứ quân gay gắt nói, vừa sợ vừa giận. Quả thật ở An Định có quê hương bản lập của Bản Phụng Đào. Đào muốn trì hoãn binh Đỗ Động Giang là để có thì giờ sửa soạn người trong các bộ lạc, đợi khi binh lửa khắp nơi thì nổi dậy đánh khắp mặt mà tuyên bố tự chủ, nay bị Sứ quân nói như vậy thì tự nhiên hung tính nổi lên, Phụng Đào nhếch mép cười mà rằng:
- Người các bộ lạc chúng tôi tuy mọi rợ, nhưng cũng biết lễ nghĩa, làm gì có sự cúi đầu hầu hạ mãi thiên hạ, thế nào mà chẳng có lúc tự chủ được! Nay tôi nói ra điều phải, Sứ quân không nghe, tôi xin được ngồi im đợi lệnh, không có lời bàn nữa!
Sứ quân cười nhạt, quay lại các tướng:
- Nếu ta ra tay trước Nguyễn Siêu, tuy có hơi vất vả một chút, nhưng Siêu thấy ta động binh thế nào nó cũng vội tranh giành với ta, như thế là ta vất vả lúc dầu, lúc sau lại hóa ra ung dung. Đường Lâm đang cự với ta, lúc bị Nguyễn Siêu đánh úp tất phải chia sức chống lại, lúc đầu ta chỉ xuất lực chút ít để Đường Lâm không nghi ngờ, lúc sau ta mới dồn sức đánh cho mạnh là được.
Các tướng nghe Sứ quân, rất vui lòng, Sứ quân cắt đặt:
- Binh ta phải chia làm hai ngả tiến đánh Đường Lâm. Một theo dòng Bạch Hạc ngược lên Hát môn, một vượt sông vào Đan Phượng ở ngay phía Nam Đường Lâm. Ta nhường cho Nguyễn Siêu theo ngả Thụy Khuê, Thiên Phước mà tới núi Sài Sơn; như thế Siêu vừa phải đỡ với mặt Bắc là ta và Đường Lâm, lại vừa lo mặt Nam có rặng Đồng Lư huyền bí. Thành thử như vậy ta cho Nguyễn Siêu được tiến, mà hóa không tiến được xa!
Bỗng có người lại hỏi:
- Bẩm Sứ quân, thế nhỡ Nguyễn Siêu không vào Sài Sơn thì sao ạ?
Mọi người nhìn ra, tướng vừa nói là Quốc Hồi Uy, bộ tướng quen dùng giáo dài tự cho là thiên hạ vô địch, Uy có sức địch muốn người nhưng lại có tật mê gái đẹp, nhiều phen Sứ quân bảo phải chừa tật ấy nhưng Uy không làm sao chừa được!
Sứ quân nhìn Quốc Hồi Uy rồi thủng thẳng đáp:
- Cơm ăn vào tất phải nuốt qua cổ họng, Nguyễn Siêu muốn đánh Đường Lâm không vào ngả Sài Sơn thì còn đi đường nào nữa? Việc binh ta kéo vào Đan Phượng, gặp phải trấn thành của Đường Lâm, nhưng hạ thành Đan Phượng không khó, cái khó là sau đây phải gấp rút đưa binh lên Đường Lâm, tức là đánh thẳng vào nơi gan ruột của địch đấy.
Lại có người hỏi:
- Bẩm Sứ quân, ta cố đi đánh Đường Lâm, thì tại sao lại còn sợ khi đánh vào gan ruột địch là thế nào?
Sứ quân Cảnh Thạc nhìn ra, té ra là tướng Chung Tam Sở. Chung Tam Sở người ở núi Miên Sơn huyện Mỹ Lương, lúc mẹ Sở mang thai thì cha chết đuối ở xã Trọc Khế chỗ sông Thanh Hà hợp với sông Hát. Sau đến lúc gần ngày khai hoa nở nhụy, mẹ Sở xuống tắm ở sông Thanh Hà, bỗng có con rắn đen to lớn dị thường đến quấn chặt mẹ Sở, mẹ Sở sợ quá đến xuất thai ngay trong nước sông Thanh Hà. Thiên hạ bảo rằng con rắn đen ấy là cha của Sở hiện lên, Sở đẻ ra ở dưới nước. Lớn lên, Sở có sức bền bỉ lạ lùng, bơi lội trong sông dễ thường còn dễ dàng hơn người đi lại trên bộ. Sở có ba điều sở nguyện, một là biết được tên cha, hai là phụng dưỡng được mẹ cho chu đáo, ba là lập được đại nghiệp để cho cha mẹ được vui lòng. Hai điều mong ước trước, thì Sở không làm được, không ai biết cha Sở tên gì, mẹ Sở lén đi lại với người đàn ông ấy nên giấu không cho ai biết chồng là ai; điều thứ hai lúc Sở được bảy tuổi thì mẹ chết. Người trong làng chỉ biết mẹ Sở họ Chung, lớn lên Sở thường nói về ba điều sở nguyện của mình, nên dân làng gọi ngay là Chung Tam Sở có ý nói gã họ Chung có ba điều sở nguyện.
Chung Tam Sở tính tình thất thường, buồn vui không chừng, có khi ngồi nhìn nước sông trôi rồi khóc, có khi lại vẫy vùng trên sóng nước hò hét như điên cuồng. Chung Tam Sở thường bảo: “Cha chết trong sông, mẹ vất vả chết khổ nhục, mai sau xin được cũng chết trong sông nước như cha!”. Vì thế, Tam Sở là tướng thủy chiến của Cảnh Thạc, trong các tướng không ai liều lĩnh dữ dội bằng Sở, Cảnh Thạc yêu mà thương Sở lắm. Nay nghe Chung Tam Sở nói, thì Sứ quân đáp:
- Tướng quân chưa hiểu, nếu đánh chiếm thành Đan Phượng rồi án binh, có khác nào tự chuốc lấy họa. Mất Đan Phượng thì Đường Lâm phải ra binh thủy bộ để lấy lại, binh viễn chinh tất không đủ mạnh bằng binh phòng thủ, ta cầu bất ngờ đánh chiếm được Đan Phượng, chứ không mong tình cờ lấy được hơn Đường Lâm, vả lại còn các nơi khác thấy ta xuất chiến ắt cũng động binh, sau lưng ta, hai bên sườn ta, đâu cũng có chỗ để cho bên ngoài nhòm ngó được cả. Binh ta chậm một bước là họa mười bước, thế yếu một tức là nguy đến mười đấy!
Chung Tan Sở hăng hái:
- Hạ tướng xin cầm thủy quân lên Hát Môn không cho thủy quân Đường Lâm xuống, còn một bộ thì chúa công cứ việc tiến quân, thế nào cũng thành công!
Sứ quân lại hỏi:
- Thế còn Lữ Đường ở Tế Giang nhờ nhân lúc ta xuất binh đánh úp thì sao?
Chung Tam Sở hăng hái:
- Muốn đánh ta, Lữ Đường phải sang sông, lúc ấy hạ tưởng xin cứ án binh ở Hát Môn, rồi lên một thuyền xuôi dòng về gấp mà giết Lữ Đường!
Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc mỉm cười:
- Tướng Chung Tam Sở đem ba trăm chiến thuyền ngược sông Bạch Hạc đến giữ Hát Môn. Thời tiết đang giữa mùa xuân không có sương mù, khó lòng ẩn nấp, vậy phải tùy địa thế thủy bộ mà dàn quân, được tùy tiện trông nom binh làm sao cho đắc lực.
Chung Tam Sở nghe lệnh cả mừng, xốc lại Nhuyễn Tiên da trăn có móc sắt, hăm hở toan đi ngay. Sứ quân giơ tay ngăn lại mà rằng:
- Khoan khoan đã, ông cứ đợi nghe phân việc các nơi xong xuôi rồi đi cũng chưa muộn mà!
Rồi Sứ quân quay sang Đại tướng Kim Ân Phú mà rằng:
- Một bộ, tôi phải nhờ đến ông mới được!
Tướng Kim Ân Phú vội vòng tay, kính cẩn:
- Tôi xin được nghe lệnh chúa công!
Sứ quân ôn tồn:
- Đại tướng nay đã gần bảy mươi tuổi, lẽ ra nên ở nhà trông nom các việc mới phải...
Kim Ân Phú khẳng khái cắt lời Sứ quân:
- Bẩm chúa công, tôi tuy già nhưng còn mạnh lắm, cây đại đao của tôi còn chưa muốn nghỉ mà, được cầm quân ra trận là tôi mừng lắm!
Sứ quân vui vẻ:
- Tuổi già của ông thì sức trẻ nào mong địch được! Tôi phải nhờ ông vất vả dem binh đánh lấy thành Đan Phượng tất không phải là việc thường rồi! Tôi để tùy ông điều động các tướng, muốn đem theo bao nhiêu binh cũng được!
Kim An Phú tạ ơn Sứ quân, rồi thưa:
- Bẩm Sứ quân, thành Đan Phượng chu vi một trăm tám mươi tư trượng, lũy đất, địa thế lọt vào nơi sầm uất, đánh thành Đan Phượng tất phải hại lớn đến dân. Việc binh đành rằng khó tránh cho dân khỏi hại, nhưng chúa công quyết định là việc lớn ta phải xong, hay là còn phải nương tay tránh hại cho dân?
Sứ quan trầm ngâm, các tướng lao xao bàn tán. Hồi sau Sứ quân mới nói:
- Nếu cứ lo hại dân nhỏ nhặt, ắt hỏng việc lớn; nếu chẳng coi dân ra gì, cũng hỏng việc lớn. Vậy Đại tướng cứ tùy tiện mà làm, sao cho tốt việc nhưng đừng hại quá đến dân là được.
Kim Ân Phú đáp:
- Bẩm Chúa công, như vậy tôi xin lĩnh một đạo quân đánh thẳng vào thành Đan Phượng, quân không cần chia làm nhiều mặt, mặt sông thì đã có tướng Chung Tam Sở đỡ cho rồi. Còn mọi việc khác, xin Chúa công định liệu sau.
Sứ quân bằng lòng, Đại tướng Kim Ân Phú xin ba nghìn quân, chọn thêm sáu tướng đi đánh thành Đan Phượng. Sứ quân lại sai các tướng khác chia nhau đem quân trấn giữ các nơi, phòng quân đi đánh xa ở nhà bị bên ngoài dòm ngó đánh úp.
Thủy quân của Chung Tam Sở lên đường đi trước. Lúc ra quân, Sở làm lễ tế cha ở trên sông, rồi khóc lớn mà rằng: “Sở này có ba điều mong ước, thì hai đã chẳng làm tròn, còn một điều nữa thì mãn nguyện nhưng cha mẹ lại chẳng còn!”. Rồi Tam Sở truyền quân đổ ba thùng gạo xuống sông để tế cha mẹ, đoạn giục trống kèo thuyền ngược Xích Đằng mà tiến.
Binh Sở đi được nửa ngày, quân mã bộ của tướng Kim Ân Phú cũng làm lễ ra quân, đích thân Sứ quân ra tiễn binh viễn chinh. Tướng Kim Ân Phú vác đại đao, cưỡi chiến mã sắc đỏ đi đầu, Phú tuổi già râu tóc bạc phơ đẹp mà oai phong lẫm liệt. Sáu tướng đi theo Phú là Lâm Bạch Tường, người ở Vân Giang, sức khỏe lại quen xử ngọn giáo sắt, lúc xung trận có ngón nghề đặc biệt là giả thua bỏ chạy rồi bất thần phóng cây giáo sắt trở lại đánh kẻ đuổi theo, trăm lần không sai một, lần nào tướng địch cũng bị ngọn giáo sắt xuyên suốt ngực chết không kịp kêu một tiếng.
Tướng thứ hai là Phùng Ngoại Địch, họ Phùng quê ở Hạ Lôi, huyện Câu Lậu (sau đổi thành Thạch Thất), ngoại hiệu là Thiên Thạch tướng quân vì thuở nhỏ vào chơi núi Câu Lậu gặp được vị thần cầm cây chày kim cương nhận là Thần núi dạy cho Phùng phép ném đá cực thần diệu, có thể hai cánh tay ném liên tiếp các hòn đá lớn bằng cái chén uống nước vừa xa vừa mạnh, lại trúng đích vô cùng, có thể ném hòn đá sang hướng Đông để cho hòn đá đi vòng trở sang phía Tây mà vẫn trúng đích, lúc họ Phùng ra trận thường đem theo bên mình một cái túi lớn đựng đá bằng nắm tay, lúc sử dụng tới thì họ Phùng muốn ném vào nơi nào trên người tướng địch cũng đều trúng cả, vì thế mới có ngoại hiệu là Thiên Thạch tướng quân. Phùng Ngoại Địch tuổi còn trẻ, mặt vàng như nghệ, hai mắt đồng tử đảo lộn như mắt khỉ, quen xử cây đoản đao sống có gai, tướng địch gặp phải họ Phùng thì mười người có đến tám người không thoát chết.
Người thứ ba là Phụng Trì Cung, người ở Cổ Nha đất Phong Khê, ngoại hiệu Tiểu Thần Tiên, mặt trắng đẹp, có tài xem lá cây mà biết mọi việc tương lai hung cát, họ Phụng quen xử trường kiếm lúc xung trận hay tung mê được để làm cho tướng địch mê man mà giết. Họ Phụng có tật mê gái đẹp vô cùng.
Người thứ tư là Lương Quế Đố, người ở Đồng Văn, đất Câu Lậu, tính nóng như lửa, xử cây thiết bản lúc vào trận bao giờ cũng phải giết cho kì được tướng địch mới chịu đem quân về.
Người thứ năm là Dịch Tụy Đồng người ở Phụng Kỳ, đất Mê Linh, họ Dịch quen xử cây búa sắt, tính tình vô cùng hung dữ, hiếu sát, mỗi lần vào trận là một lần phải gây thành tích kinh hoàng mới lấy làm thỏa chí.
Người thứ sáu là lão tướng Võ Phương Đạc, người ở Sơn Đình đất Phong Châu, trước là tướng cướp lẫy lừng tên tuổi suốt tám mươi xã địa phương, lấy căn cứ ở núi Tam Đảo, chém giết dể thường có đến cả nghìn mạng, sau chán nghề đại đạo cường tặc đến với Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc xin làm thủ hạ. Sứ quân trong lúc tranh hùng cần thủ hạ quen việc binh đao nên nhận Võ Phương Đạc nhưng vẫn để ý đến tính phản phúc, giặc cướp của Đạc. Họ Võ quen sử dụng ngọn roi sắt giết tướng địch không bao giờ để cho toàn thây, phải quật cho nát mới chịu ngưng tay.
Lão tướng Kim Ân Phú xuất lĩnh ba nghìn quân, mang sáu tướng lạy Sứ quân, rồi truyền nổ pháo hiệu, trương cờ họ Đỗ của Sứ quân, sai tướng Phụng Trì Cung đi tiên phong mở đường, gặp rừng chặt cây, vướng núi mở đường, đụng sông bắc cầu nhắm trấn thành Đan Phượng vượt sông mà tiến tới.
Lúc Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc mở doanh cho hai quân thủy bộ sửa soạn để lên đường xuất chiến đánh Đường Lâm, tế tác ở biên giới đã vội chạy về báo cho Sứ quân Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt biết. Nguyễn Siêu cũng vội hội chúng tướng lại bàn việc.
Nguyễn Siêu là phú hào ở địa phương Diễn Châu, nhân lúc Giao Châu có loạn thì chiêu tập thủ hạ hùng cứ một nơi, chứ thật ra chẳng có chí lớn gì. Siêu vóc người thanh tú, lúc nào cũng chỉ mơ màng đến những triều đại Trung Quốc, nói ra một lời là phải viện lời cổ nhân Trung Quốc, hành sự bao giờ cũng phải lục tìm xem danh nhân Trung Quốc có người nào đã làm ra sao để cố bắt chước. Trong phủ của Siêu, lại sai thủ hạ xây dựng trần thiết sao cho giống cung cách đại quan Trung Quốc. Nào là đèn lồng treo cửa, trúc đài hồng lạp treo giữa sảnh đường, ăn mặc thì phải theo cung cách Giang Tô, yến tiệc phải trần thiết theo lề lối đại quan triều Bắc Hán. Mỗi lúc có hội nghị phải đốt trầm hương, có sênh đàn ca nhạc vũ múa may rồi mới vào hội. Lúc khai hội, bao giờ Sứ quân cũng lại phải lục tìm trong đầu óc xem có lời nói nào của danh nhân Trung Quốc không, rồi đem lời nói ấy ra chỉ thị trước, sau mới trịnh trọng mà bàn việc.
Nguyễn Siêu là người như thế, cho nên bọn thủ hạ cũng đua nhau mà làm cho Siêu đẹp lòng, nào là mở ra Hiền Lương Văn Đình, có ý bắt chước đời Hán bên Tàu lấy danh hiệu hiền lương để chỉ người học vấn uyên thâm. Nguyễn Siêu thường cùng đám thủ hạ mặc áo lụa trắng, chân đi ủng văn quan đầu đội mũ thái học mà vào Hiền Lương Văn Đình bàn bạc ca ngợi các lời nói hay ho của cổ nhân nước Tàu, nhưng lại không hiểu giang sơn mình chiếm cứ xưng hùng có những gì hay lạ. Đám thủ hạ lại xúi Nguyễn Siêu lập ra Cử Đỉnh Đài, tức là một vũ trường về phía Nam có tòa nhà lớn hướng về phía Bắc, trong tòa nhà bày đủ thứ vũ khí, giữa tòa nhà có bày chiếc đỉnh đồng đen cao bằng đầu người. Nguyễn Siêu cùng các văn võ tướng sĩ lấy các ngày trăng tốt nhất trong tháng làm kì duyệt võ ở Cử Đỉnh Đài, có ý lấy tích Hạng Võ cử đỉnh làm đầu đề để thao luyện việc quân.
Thủ hạ của Sứ quân Nguyễn Siêu bắt chước chủ, thi nhau bới tìm thành tích của cổ nhân Trung Quốc mà tranh luận bàn bạc, thậm chí còn phổ biến ra ngoài dân gian những lề lối sinh hoạt của cổ nhân nước Tàu. Biến cả Diễn Châu thành một vùng tưởng như là một cõi giang sơn Trung Quốc lẫn lộn cả các nghị vệ nhiều triều đại, đủ thứ lố lăng góp nhặt của người Trung Quốc. Sứ quân Nguyễn Siêu mê man Trung Quốc như vậy, khiến cho người Tàu thời ấy hân hoan kéo đến Diễn Châu lập nghiệp thật sầm uất, ra đường gặp người Tàu là dân Diễn Châu thời ấy phải kính trọng, ai nói được một câu tiếng Trung Quốc, thuộc được một lời của cổ nhân Trung Quốc, thì tự cho là điều vinh hạnh lớn!
Buổi vào hội, Sứ quân Nguyễn Siêu trịnh trọng sai quân hầu trang hoàng nghị sảnh đường cho thật uy vệ, nào là treo đèn sáu mặt vẽ tích Quan Công nhà Hán, nào là diễn viết chữ lớn đời Đức Thánh Khổng: “Kì thân chính, bất lệnh nhi hành; kì thân bất chính, tuy lệnh bất tòng”. (Có nghĩa: mình ngay chính thì chẳng cần ra lệnh dân cũng theo); lại có nơi trương cao năm chữ của Mạnh Tử: “Đắc đạo giả đa trợ”. (Có nghĩa là làm theo đạo thì được nhiều người giúp), vv... Nghị sảnh đường vàng son lòe loẹt rõ ra là phong khí của bực trưởng giả thời bình yên no ấm, chứ không phải là giữa lúc thiên hạ có việc binh đao: khí độ thì uy nghi biểu lộ tinh thần Trung Quốc tốt đẹp!
Các văn thần võ tướng ai nấy vào ngồi yên chỗ rồi, Sứ quân Nguyễn Siêu mới trịnh trọng nhìn mọi người một lượt, để cho uy khí tăng thêm nữa, rồi mới cất giọng khoan thai cẩn trọng mà rằng:
- Này các tướng! Đức Mạnh Tử thời xưa có nói “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong!”. Người nào thuận lẽ trời thì còn, người nào trái lẽ trời thì mất! Hôm nay ta nghe lời thánh nhân dạy mà luận việc lớn, định kế bình thiên hạ đấy! Vậy trước hết, Kim Đồng Ngọc Nữ đâu, hãy đốt trầm lên để cho ta kính cẩn xưng tụng lời thánh nhân nào!
Tức thì, đằng sau Sứ quân vẫn có hai đứa bé một nam một nữ đứng hầu, nam bưng bình sứ, nữ bưng hộp gỗ trầm, cả hai nghe Sứ quân truyền liền bước lên mở bình bỏ trầm vào châm lửa đốt. Nghị sảnh mờ mờ hương trầm dày đặc, Sứ quân đợi cho Kim Đồng Ngọc Nữ lui về đứng hầu sau lưng, mới trịnh trọng đứng lên, các tướng văn võ cũng đứng lên theo. Sứ quân hai tay chắp lại, dầu hơi cúi xuống kính cẩn. Sau lưng Sứ quân chiếc ghế lớn khổ luyện mộc (gỗ soan, sầu đông) có nệm cỏ “ngu mĩ nhân” bọc lụa bạch quyến, lưng tựa thêu hình chữ Thọ chỉ đỏ phảng phất trong khói trầm trông như cảnh ở chốn thiên thần, hay nơi thâm cung đại đế uy nghiêm mà khoáng đạt!
Sứ quân đứng chắp tay một lát, rồi ung dung ngồi xuống, các tướng cũng lục tục ngồi xuống ghế của mình. Sứ quân trang trọng nói:
- Thánh nhân đã dạy như vậy, sao người đời chẳng biết lẽ thuận nghịch, có kẻ dám bỏ cả tôn ti trật tự thánh nhân đã khổ công định ra cho thiên hạ lấy đấy mà theo, dể đua nhau quên phận mình, ganh nhau làm động cả đến mối giềng thánh nhân mất bao công lao mới định được cho xã hội! Giao Châu ta có loạn lớn, các Sứ quân bỏ cả thánh hiền, bưng tai không biết thánh hiền dạy dỗ những gì, đem quân đi đánh lẫn nhau, há chẳng phải là không biết lẽ trời hay sao?!.
Sứ quân ngừng nói, khuôn mặt thanh tú có phần đau khổ, Sứ quân nhìn các tướng lượt nữa rồi nói tiếp:
- Ấy vì thế mà hồi xưa Đằng Châu khởi thủy quân toan làm điều trái lẽ xâm phạm bờ cõi của ta, khiến cho Đổ Động của Cảnh Thạc muốn nhân cơ hội làm trái lẽ trời. Nay, Cảnh Thạc lại đã xua quân sang Đường Lâm, thủy bộ hai mặt uy hiếp Đan Phượng. Nếu Cảnh Thạc lấy được Đường Lâm, tức là đè tảng đá lớn lên đầu ta đấy. Trái lẽ trời như vậy, sao ta là người tuân lời cổ nhân, biết trọng giềng mối, lại có thể ngồi nhìn cho đứa làm bậy mặc sức tung hoành được! Các tướng bảo ta phải làm sao đây?
Các tướng lao xao bàn cãi, nghị sảnh đường ồn ào, Hồi lâu Sứ quân nói tiếp:
- Này các tướng, ý ta là: phải tuân theo ý trời, điều binh trước là ngăn chặn kẻ làm xằng, sau là phạt kẻ xưa kia có phen dám xâm phạm bờ cõi của ta! Ta muốn xuất quân, quân ta là quân nhân nghĩa, vì thiên hạ mà ra tay, tuân theo lời khôn ngoan của thánh sư chỉ bảo, đành phải quên an nhàn của mình mà vất vả với việc thiên hạ. Các tướng khuyên ta nên xuất quân như thế nào?
Tức thì có người lên tiếng:
- Bẩm Sứ quân, việc lớn trong thiên hạ, đúng thời phải thế thì ta cứ hành động, không cần phải vì lời dạy của cổ nhân ta mới làm! Vì thế, tôi nghĩ rằng: nếu Cảnh Thạc đánh Đường Lâm làm cho ta nguy ngập, thì ta phải ra binh chẹn trước không cho Cảnh Thạc nếu được Đường Lâm lại có đường mà đánh ta!
Các tướng giật mình nhìn xem ai là người dám khuyên Sứ quân cứ việc mình mà làm, chẳng cần biết đến lời cổ nhân như thế? Sứ quân cũng nhíu mày có phần khó chịu. Người vừa nói là một người trung niên, vóc người thấp mà lớn ngang, mặt vuông, hai mắt tròn xoe hàm râu quai nón vểnh ngược lởm chởm. Người này ở An Lỗ can tội giết người trốn tránh đến nương náu nơi Sứ quân, y tên Cổ Dục Lạc. Họ Cổ tính tình hết sức hung tàn, nhưng lại rất trung thành với Sứ quân. Sứ quân muốn giết ai bao giờ họ Cổ cũng xin đi thi hành ngay, việc nguy hiểm đến đâu y cũng không sợ. Cổ Dục Lạc không dùng kiếm dài đao lớn gì cả, chỉ có ngọn dao ngắn sắc như nước giắt ở thắt lưng, lúc đánh nhau bao giờ cũng tay không lăn xả vào địch, đến lúc nhập nội mới rút dao mà đâm rồi rạch bụng địch lôi ruột, gan ra ngoài. Y thường bảo: giết người mà không móc ruột gan ra ngoài, về ăn cơm thấy nhạt nhẽo!
Cổ Dục Lạc lỗ mãng, nhưng rất trung thành, vì thế Sứ quân nhiều phen bẽ mặt vì những lời nói của y, nhưng vẫn không giận, nay nghe y nói như vậy thì Sứ quân cười mà rằng:
- Ừ thì làm việc ta, nhưng lời thánh nhân dạy cũng nên nhớ để mà làm nên việc lớn đấy!
Cổ Dục Lạc ngu dốt không biết ý Sứ quân, lại bi bô:
- Bẩm Sứ quân, ta làm theo việc ta mới phải! Lời thánh nhân có được việc gì, nếu hay ra thì sao thánh nhân không lấy lời nói ấy mà dựng nước làm vua xem sao!?
Sứ quân nghe nói thì cười xòa, không đáp lại, hướng về các tướng mà rằng:
- Năm xưa, Quân sư Hoa Lư dụng kế, làm cho thiên hạ rung động, chỗ nào cũng như bị Hoa Lư xâm phạm tới, thế mới thật là đại tài kì nhân, nay cũng chỉ vì các việc năm xưa mà Cảnh Thạc đánh Đường Lâm, nếu ta chậm chân ắt mang họa lớn. Cảnh Thạc ra binh, tất đã biết phòng giữ ở nhà rồi, ta đánh y không lợi, phải cùng theo y cũng đánh Đường Lâm mới đúng. Vậy các tướng có ai nghĩ được mưu mẹo gì hay như Khổng Minh đời Hán, Ngô Khởi của Ngụy không nào?
Bên hàng văn tướng có người đứng dậy thưa:
- Bẩm Sứ quân, người xưa có nói: “Vào việc lớn, ta biết trước mới là khôn”, vậy Sứ quân định liệu sức của ta như thế nào với thiên hạ trước đã, rồi mới xuất chiến tranh hùng với mọi nơi thì hơn?
Sứ quân gật gù:
- Mạnh Khanh nói đúng ý ta, không rõ sức mình sao dám đánh người! Vậy ông cho sức của ta thế nào?
Mạnh Khanh họ Đốc, người gốc Vũ Định (phủ Phú Bình bây giờ, tỉnh Thái Nguyên) trước vốn tu tiên sau lại xuống núi ngao du thiên hạ, rồi tới giúp Nguyễn Siêu. Đốc Mạnh Khanh là người đọc sách, nói ra một lời còn viện đến lời cổ nhân nhiều hơn cả Sứ quân, cho nên Sứ quân thích lắm, dùng làm văn sĩ cho đi theo bên cạnh để cùng luận bàn việc thời xưa. Đốc Mạnh Khanh rất nệ việc cổ, vì thế nhiều phen ngăn trở việc lớn, đám thủ hạ của Sứ quân Nguyễn Siêu không mấy người ưa họ Đốc. Nay Đốc Mạnh Khanh ngồi bàn việc nghe Cổ Dục Lạc bài bác lời thánh nhân, trong lòng ghét lắm, họ Đốc vẫn thường khinh đám võ tướng là bầy ngu dốt, chẳng hiểu được ý tốt của cổ nhân, nay nghe Sứ quân hỏi liền vênh mặt thừa cơ hội mà rằng:
- Bẩm Sứ quân, thánh nhân có nói: “Làm việc gì trước cũng phải hỏi thánh thần xem đã”, ấy là để cho rõ cái nghĩa thần linh sáng suốt chỉ bảo cho mọi việc, sau nữa là nghe lời dạy của cổ nhân sao lại là vô ích! Lúc nãy ông Cổ bảo việc ta ta cứ làm, can gì phải nghe lời hiền thánh tiên sư, ấy là không đúng! Tây Phù Liệt ta một cõi mênh mang, giả sử không có chư hiền liệt thánh che chở cho sao đứng vững được trong thiên hạ, ra binh sức ta cần xét một, lời cổ nhân dạy phải nhớ đến mười.
Đốc Mạnh Khanh huênh hoang giảng lý thánh nhân, các tướng chán ngán chẳng để vào tai, Cổ Dục Lạc đỏ mặt tía tai. Sứ quân thì ra chiều khoan khoái lắm. Sứ quân bảo:
- Mạnh Khanh nói tiếp đi!
Đốc Mạnh Khanh lên giọng:
- Năm xưa, Đằng Châu xuất thủy quân rồi cũng phải rút về, Cảnh Thạc xua binh rồi cũng phải co lại, như thế há chẳng phải Diễn Châu ta nhân nghĩa vẹn toàn binh ngoài loạn tặc sao dám xâm phạm đất thánh hiền ở được. Nay chúa công muốn tranh hùng thiên hạ thì đánh Đường Lâm là phải, nhưng ta cứ để cho Cảnh Thạc đánh trước, làm cho Đường Lâm phải chia sức cự địch, lúc ấy ta mới đánh sau tất thu được lợi. Sức quân ta thừa đánh Đường Lâm với Đỗ Động cùng một lúc, lại thêm ta hiểu lời thánh hiền, có khác nào có chính thánh hiền giúp rập bên mình không, làm gì mà chẳng thắng!
Sứ quân khoan khoái lắm, chợt có tiếng cười nhạt. Sứ quân đang vui vẻ thoắt sầm nét mặt, Đốc Mạnh Khanh cũng sửng sốt, các tướng im lặng. Người vừa cười nhạt là bộ tướng Địch Hồng Hà, người ở Thượng Tầm, hạt Thái Ninh (nay là đất thuộc Thái Bình). Địch Hồng Hà đứng ngay dậy, chòm râu dài bạc phơ, gương mặt rắn rỏi hồng hào, hai mắt long lanh quắc thước, lão tướng rút gươm A Đằng, lưỡi gươm như nhàng lửa đỏ đặt lên bàn, rối vòng tay kính cẩn:
- Bẩm Sứ quân, Sứ quân đem đức mà nuôi các tướng hết lòng hết sức phù trợ Sứ quân, vì thế Diễn Châu ta yên ổn, binh ngoài đến mà không dám đánh. Sứ quân sáng suốt biết nhìn công việc, khiển xử các tướng, làm sao cho mọi người phấn khởi, nay bảo rằng nhờ có lời của thánh hiền mà giang sơn ta yên, có khác nào bảo công lao của các tướng chẳng có gì! Nay đến lúc thiên hạ đại loạn, nếu ta cứ nhớ mãi đến lời dạy của cổ nhân khư khư ôm lấy những Khổng Tử, Mạnh Tử mà bỏ quên mất cả khí lực của chính ta, ắt có phen đỡ không kịp. Vì thế, tôi nghe ông Đốc nói ra những lời bạc bẽo với các tướng, không nén được giận thốt thành tiếng cười, xin Sứ quân tha thứ!
Sứ quân kinh hãi, như thế là trong đám thủ hạ đã có sự bất hòa, các tướng ghen ghét văn sĩ học rộng biết nhiều lời cổ nhân, loạn tất sinh từ trong mà ra. Còn các tướng nghe Địch Hồng Hà nói, ai cũng hởi dạ, vẻ mặt các tướng lạnh như băng. Địch Hồng Hà nói xong, vòng tay cúi đầu với Sứ quân một vái rồi nói tiếp:
- Bẩm Chúa công, nay phải gác bỏ những lời xưng tụng thánh nhân, hãy xem ngay việc trước mặt. Chúa công biết rõ thủy quân Đằng Châu tiến mà lại lui. Cảnh Thạc xua quân rồi phải co lại, ba Sứ quân bên kia sông đánh nhau rối mù, có phải là tình cờ mà sinh ra cả! Nay Cảnh Thạc phải đánh Đường Lâm, tức là lúc y thấy cái nguy bên kia sông đổ tới, cái nguy ấy đất Phù Liệt ta còn nguy hơn nữa vì còn có Đằng Châu - Hoa Lư ở phương Nam dòm ngó. Cảnh Thạc biết tìm lối thoát giữ mình mai sau, sao ta lại ngồi yên để ca ngợi thánh nhân đời trước mãi như thế được?!
Địch Hồng Hà càng nói, hai mắt càng long lanh sáng rực, Đốc Mạnh Khanh căm tức trong lòng mà cũng chẳng dám ngước mặt nhìn Hồng Hà. Sứ quân cũng thấy sợ hãi về những lời nói của tay lão tướng cương trực này, quả thật có việc thiên hạ như thế. Sứ quân lặng lẽ cúi đầu, rồi hỏi lại:
- Địch lão tướng nói rất phải, lời hay của thánh nhân ta theo để làm chỗ sáng suốt, việc trước mắt ta phải làm là đúng. Vậy lão tướng thấy ta cần phải làm thế nào bây giờ?
Các tướng sắc mặt hân hoan, thế là Địch Hồng Hà đã nói được cho Sứ quân phải nể, bọn văn quan thì vẻ mặt lạnh lùng, tuy ngồi nghị việc mà xem ra vẫn khinh khỉnh, Địch Hồng Hà thưa:
- Bẩm Chúa công, Cảnh Thạc đưa thủy quân lên Hát Môn, sai bộ tướng vượt sông, tức là có ý đánh thành Đan Phượng. Y đánh thành Đan Phượng chắc không thắng được, vì Đường Lâm không bao giờ để mất Đan Phượng, mất Đan Phượng tức là Đường Lâm tự đưa cổ cho người đâm chém. Nay ta cứ chậm chậm ra quân, ta theo phía Nam, vượt trấn ải Đồng Lư tới Sài Sơn tức là vào trong địa của Đường Lâm, từ đấy nghỉ quân, cũng phải đến đầu thu mới lại tiếp tục cho quân tiến đánh các nơi khác được.
Các tướng gật gù có vẻ tán thành ý kiến của lão tướng Địch Hồng Hà. Sứ quân hỏi:
- Được, kế tiến binh của lão tướng hay lắm, ta cứ chậm chậm để cho Cảnh Thạc đánh Đan Phượng bị thua, bấy giờ sức Đường Lâm cũng mệt mỏi, lúc ấy ta mới thúc đại quân tiến tới thì hay lắm, thế còn các tướng ai có ý kiến gì không?
Địch Hồng Hà vừa ngồi xuống, đã lại có Thủy tướng Bạc Cẩm Nhung đứng dậy mà rằng:
- Bản Chúa công, đường bộ thì lão tướng Địch Hồng Hà xin đánh qua Đồng Lư, thủy quân của ta không có việc, vậy tôi xin đem một chiến thuyền ngược Xích Đằng lên đón phía Nam giang sơn của Cảnh Thạc, đợi khi nào Thạc thua ở Đan Phượng lúc ấy tôi xua quân đánh vào hậu cứ của y. Thế là, ta vừa đòi được nợ cũ, lại vừa giữ được cái thế an toàn của binh ta ở đường bộ, khiến cho Cảnh Thạc không còn dám có ý nhìn xuống phía Nam Đan Phượng để tìm đến làm phiền binh ta ở Sài Sơn nữa!
Sứ quân vui quá, liền bảo:
- Thế mới biết, cổ nhân dạy: “Nuôi tướng ba năm dụng một giờ, ta được các tướng hết lòng giúp đỡ, thế là đúng lời dạy của cổ nhân, ta còn có chỗ nào băn khoăn chưa thấy thánh nhân là không biết tới nữa đâu!
Sứ quân lại viện đến thánh nhân để mừng việc, quên mất chính các tướng nạo óc nghĩ kế ra quân, khiến cho các tướng mất phần vui vẻ, Sứ quân lại bảo:
- Vậy là ta ra quân hai mặt, đường bộ vượt Đồng Lư đường thủy ngược Xích Đằng. Đường bộ lão tướng Địch Hồng Hà lĩnh cờ Thống soái, đường thủy ta trao cờ lệnh cho tướng Bạc Cẩm Nhung, có ai cho là không phải không nào?
Hội nghị lao xao, phía các võ tướng rất bằng lòng, phía các văn sĩ mưu thần thì lạnh nhạt. Sứ quân đợi một lát rồi tiếp:
- Không ai có chỗ nào chê bai bài bác, tức là việc cầm quân trao vào tay hai tướng Hồng Hà, Cẩm Nhung là đúng rồi. Vậy hai tướng tùy tiện muốn đem theo các tướng nào, dùng bao nhiêu quân cứ việc nói ra!
Địch Hồng Hà thưa:
- Bẩm Chúa công, quân ta vượt Đồng Lư, trách nhiệm muôn vàn khó khăn. Đường Lâm phía Nam có trấn ải Đồng Lư cực kì lợi hại, lại biết phòng bị trước là nếu mất Đồng Lư, còn có Sài Sơn, hai trong địa ấy địa thế như đầu rồng hang cọp, binh ngoài khó vào lọt, Cảnh Thạc nhường cho ta là có ý muốn hại ta...
Địch Hồng Hà thưa:
- Bẩm, binh ta ra trận, nhưng còn phải đợi khi nào Cảnh Thạc đánh nhau với Đường Lâm, đến lúc cả đôi bên đều bải hoải rồi, lúc ấy ta mới đánh ải Đồng Lư, thành ra binh ta gặp khó mà vẫn là được phần dễ!
Sứ quân vui lắm, quay sang hỏi các văn quan:
- Còn ý các ông thế nào, có tìm thêm được chỗ nào dạy bảo quý hóa của các hiền tiên thánh hay không thì nói ra giúp ta nào?
Các tướng im lặng, Đốc Mạnh Khanh vừa ngửng mặt lên toan nói, đã thấy có người tranh lời mà rằng:
- Nếu như những lời hiền thánh mà không cần nghe đến trong việc dàn quân, thì tôi tưởng phép dụng binh của các tướng là đủ rồi, chúa công cứ việc nghe các tướng là xong, không cần phải nghe hiền tiên thánh gì cả nữa!
Lời nói có vẻ hằn học, mỉa mai, các tướng giận lắm. Sứ quân hơi nhíu mày, văn sĩ mưu thần vẻ mặt lạnh như băng. Thì ra kẻ vừa nói chính là văn sĩ Đồng Vũ người ở Bình Hà, trấn Hải Môn (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Đồng Vũ mình cao mà gầy, tuổi chưa già tóc đã bạc. Vũ là kẻ đọc sách chưa thông nhưng lại hay nói sách, ưa rình mò đợi người khác sơ hở thì liền viện lời cổ nhân, nào là Khổng Tử dạy, Mạnh Tử khuyên, nào là danh tướng Mã Viện nói, Ngô Phù Sai làm thế này, Việt Vương Câu Tiễn hành động thế nọ, Vũ viện tích kể điển cốt để mà hoặc người ngu, rồi nhân đấy bài bác người khác đề cao mình, tự nhận mình là thông kinh quán sử, dưới gầm trời chẳng có đến hai người, thường kéo bè với Đốc Mạnh Khanh huênh hoang tự đắc rằng: “Một mai Sứ quân Nguyễn Hữu Công (tức Nguyễn Siêu) thành đại nghiệp, thì khai quốc công thần chẳng là bọn ta thì còn ai nữa”. Nay trong hội, Đồng Vũ nói như vậy có ý khiêu khích các tướng, đợi cho Sứ quân nói rồi sẽ tiếp lời.
Quả nhiên, Sứ quân nghe Đồng Vũ nói thế thì vội nói:
- Không phải! Các tướng dốc lực cầm quân, xông pha ngoài mặt trận, văn sĩ ở nhà định mưu dụng việc lớn, ai cũng vất vả như nhau cả, sao ông lại nói như thế?
Đồng Vũ nghiêm trang đáp:
- Bẩm Chúa công, sức mạnh ai bằng Hạng Vũ, thế mà chỉ một tiếng sáo đủ giết được Hạng Vũ; hùng dũng thì ai bằng các tướng Quan Công, Trương Phi, thế mà lúc nào cũng răm rắp đợi lệnh văn nhược Khổng Minh! Trong kinh sử, biết bao gương sáng, sao lúc này lại có thể bảo rằng tướng ra trận chỉ cần sức khỏe mà không lí gì tới mưu sĩ được!
Sứ quân chưa kịp giảng hòa, các tướng chưa kịp lên lời, đã có người cất giọng rắn rỏi như hóa thạch, sắc như gươm báu, lời nói thật rõ ràng, âm thanh vang mà trì trọng:
- Bẩm Chúa công, binh ta sắp phải vượt Đồng Lư đánh tới Sài Sơn. Đồng Lư, Đường Lâm sai danh tướng Mạc Cương Hồng trấn giữ, tướng họ Mạc có tài xử song kiếm trong thiên hạ dễ không có đến hai người, lại giỏi binh pháp dàn xếp khiến cho thành Đồng Lư là hiểm địa khó lòng vượt qua được. Vậy, các văn si có cách nào viện lời Hoàng đế, hay trích dẫn các tiền liệt nước Trung Quốc ra để phá được trấn ải Đồng Lư không thì xin giúp cho bọn chúng tôi ít lời?!
Sứ quân bàng hoàng, các văn sĩ mím môi, dám võ tướng thản nhiên. Người vừa nói chính là tướng Phạm Trường Sơn. Họ Phạm là người điềm tĩnh, gan dạ, xử ngọn giáo dài xông pha trận mạc chưa bao giờ thua, được mọi người đều yêu kính. Cả hội nghe Phạm Trường Sơn nói, không ai đáp một lời, Phạm Trường Sơn lại tiếp:
- Bẩm Chúa công, nếu kể lời người xưa mà định được thiên hạ, thì bọn cầm gươm cưỡi ngựa chúng tôi xin quăng gươm thả ngựa, để đi tìm nghe lời cổ nhân đi rao khắp thiên hạ cho được nhàn hạ, còn hơn là xông pha làm gì cho vất vả có khi uổng mạng! Việc cầm quân phá thành đoạt đất, xin nhường lại cho các vị giải kể lời cổ nhân!
Sứ quân lặng thinh, Trường Sơn tiếp:
- Sau Đồng Lư, là trọng thành Sài Sơn, thành này giao cho danh tướng Đường Cao Hoan trấn giữ, binh năm nghìn, lương thực đủ dùng một năm, vũ khí đủ để lấp kín một khoảng sông Bạch Hạc, liệu có cách nào chỉ lấy những lời lẽ lí sự của Lục Gia bên Tàu mà đoạt được thành hay không? Đại tướng Địch Hồng Hà đã nhìn thấy phép tiến binh, đoạt thành chém tướng, sao lại còn có việc gièm pha để cho mất cả hòa khí, hư mất cả đại sự thế này?
Sứ quân lúc ấy mới như người tỉnh ra, vội vàng nói:
- Ông nói như vậy đúng lắm, việc thiên hạ không phải chỉ ngồi kể lời thánh nhân là được, lời thánh nhân để làm khuôn vàng thước ngọc trị nước, phép đoạt thành chém tướng không dùng lời thánh nhân mà xong được!
Dứt lời, Sứ quân truyền gióng trống, sai tướng Mai Đại Thưởng triệu tập ba quân để nghe lệnh. Sứ quân lại sai lập đài giám quân, trên đài bày đủ thứ theo nghi vệ vương giả để Sứ quân xem Đại tướng Địch Hồng Hà điểm binh duyệt mà ra trận.
Xế chiều hôm ấy, lão tướng Địch Hồng Hà mình vận chiến bào sắc đỏ, đầu đội võ cân cùng lụa đỏ, lưng treo trường kiếm A Đằng, lão tướng cưỡi bạch mã Khởi Phong nguyên giống ở tận Doãn Thượng gần biên giới Trung Hoa. Loài ngựa quý chạy trên đường núi như đi trên đường cái quan, lão tướng mang cờ thống soái, lĩnh ba nghìn quân bộ chiến và thiết bị chia làm hai đạo tiên phong và trợ chiến, sai các tướng Hoàng Tích Lịch sử trường kiếm, Trần Bảo Quốc cũng xử trường kiếm, Đặng Hồng Thiên xử búa sắt, Phạm Văn Minh xử trường côn, cùng với lão tướng dẫn binh tiên phong. Lão tướng lại cử Bạch Khai Thành, giữ cờ lệnh cho đạo binh trợ chiến. Tướng Bạch là tay thần tiễn, lại giỏi pháp đánh huyền đao, người tính tình chín chắn. Cùng đi với tướng Bạch Khai Thành còn thêm hai bộ tướng Lý Vân Long xử hoạch kích và Vương Trụ xử đơn đao.
Sứ quân giải quân, nhìn bảy tướng cầm quân theo đường bộ đánh Đường Lâm, Sứ quân rất đẹp lòng. Quân hàng ngũ chỉnh tề, gươm giáo sáng choang. Sứ quân truyền mở kho cấp lương, lại dặn lão tướng rằng: “Quân đi chinh chiến lâu ngày, Sứ quân sẽ cho tướng đều đều vận tải lương thực ra trận tuyến để nuôi quân, lão tướng cứ yên lòng lo việc phá thành địch”.
Lão tướng Địch Hồng Hà cảm tạ, Sứ quân truyền đốt đuốc, thắp hương để Sứ quân cáo tế trời đất, lại sai gióng trống đập chiêng, truyền ba quân tướng sĩ hãy im lặng, bên ngoài bá tánh vây quanh giáo trường xem binh ra trận. Sứ quân chỉnh tề y phục, có đám văn sĩ phò tá vào làm lễ tế. Sứ quân quỳ trước hương án khấn vái, viện dẫn các lời cổ nhân để cầu mong được thắng trận. Rồi Sứ quân đứng lên, nghiêm trang cao giọng mà rằng:
- Nay ta xuất quân, trước là chinh phạt Đường Lâm sau cùng thiên hạ tranh hùng đựng nghiệp lớn, bá tánh phải dốc một lòng cung phụng việc quân, quân vào trận phải hết lòng chiến đấu. Ta mong được sớm nghe tin thắng trận từ Đồng Lư gửi về!
Sứ quân vừa dứt lời, trong đám bá tánh có tiếng cười vang thật ngạo nghễ thê lương. Vạn người đều sửng sốt kinh dị, Sứ quân ngẩn người nhíu mày, tướng Địch Hồng Hà đã vọt ngựa đi, chiến bào sắc đỏ giăng dài một vệt như dòng máu lớn nhằm hướng có tiếng cười lớn mà bay tới.
Chưa biết ai cười, có việc gì, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—