Hồi Thứ Sáu Mươi Hai Tế Giang xâm phạm Phù Liệt
Bình Kiều bàn việc xuất quân
Lão tướng Địch Hồng Hà vừa vọt ngựa đi, đã thấy một người đầu tóc bù xù từ trong đám bá tánh đi ra, người lạ áo quần rách rưới chân đi đất, lưng đeo thanh kiếm gỗ, ngang thắt lưng lại treo một túi da nhỏ bằng nắm tay. Lão tướng giục ngựa phóng tới, người lạ hai mắt long lanh sáng, vênh khuôn mặt hốc hác lên đứng im đợi lão tướng chạy tới. Cả vũ trường im lặng, vạn con mắt dồn cả vào người lạ và tướng Địch Hồng Hà, Hồng Hà vẫn thúc ngựa vun vút chạy tới, người lạ vẫn thản nhiên đợi.
Con bạch mã Khải Phong của Hồng Hà đang ngon trớn, bỗng nhiên đứng dừng lại, hai chân trước co lên rồi cất tiếng hí vang ra chiều cấp bách lắm, vừa hí con ngựa vừa như cố cưỡng lại chủ nó để quay đầu chạy trở về. Lão tướng kinh dị, vạn người cũng ngạc nhiên, Hồng Hà vội vận lực kéo ghì dây cương, con Khởi Phong trùn cổ đứng dựng lên hí như sấm sét, rồi nhất định bổ vó toan cắm đầu chạy tránh xa người lạ. Hồng Hà là danh tướng xông pha trăm trận, ngồi trên yên ngựa có khi còn vững hơn ngồi ở ghế trong nhà, thế mà mấy lần suýt bị con bạch mã Khải Phong hất ngã, lão tướng cố kìm ngựa, con ngựa như thêm kinh hoàng cố cưỡng!
Cả vũ trường sửng sốt, Sứ quân đứng ngây người, tức thì Cổ Dục Lạc rút ngọn đao ở thắt lưng ra, phóng mình bay lên lưng ngựa rồi giục cương cho con ngựa sải vó chạy thật mau đến chỗ người lạ. Cổ Dục Lạc rạp người trên lưng ngựa, con ngựa vùn vụt chạy cực nhanh, đến khi chỉ còn cách người lạ chừng mười bước bỗng nhiên con ngựa của họ Cổ cũng vụt hí vang, dựng đứng hai vó trước, nhất định cố cưỡng tìm lối quay đầu bỏ chạy, Cổ Dục Lạc và Địch Hồng Hà loay hoay cố thúc ngực không xong, hai con ngựa càng cố lồng lên. Giây lát, Cổ Dục Lạc đã bị con ngựa hất ngã. Con ngựa của Cổ Dục Lạc được tự do, nó lập tức quay đầu hí vang rồi ra sức chạy miết trở lại.
Tức thì Địch Hồng Hà cũng buông cương bỏ ngựa, tung mình xuống đất, con ngựa của lão tướng cũng vội vã quay đầu chạy về. Bây giờ thì Địch Hồng Hà với Cổ Dục Lạc hai người đã vững thế, cả hai giương mắt nhìn người lạ như nhìn ma quỷ gì ghê gớm lắm!
Địch Hồng Hà khẽ liếc mắt, gật đầu một cái, rồi cất bước thận trọng tiến lên. Cổ Dục Lạc cũng vội bước theo. Người lạ vẫn thản nhiên đứng đợi.
Hai tướng đến còn cách người lạ vài bước, bỗng y ngửa mặt lên trời cười như ma kêu quỷ khóc. Cổ Dục Lạc tay chân bủn rủn, Địch Hồng Hà cố vận tinh thần, trụ bộ quát lớn:
- Loài yêu nghiệt ở đâu đến đây, mi muốn gì, nói mau?
Người lạ vươn tay rút thanh gươm gỗ treo sau lưng ra, năm ngón tay bàn tay trải móng cáu bẩn giơ lên vừa gõ vừa cào vào lưỡi kiếm gỗ, lưỡi kiếm phát ra những tiếng kêu lộp bộp lạ kì, lại xen lẫn những tiếng sột soạt như xé da banh thịt, rồi người lạ chỉ gươm gỗ về phía mặt trời đang lặn mà ca lên:
Tế Giang sông nổi sóng Phù Liệt đẫm máu hồng Người đi không trở lại Bi thảm kẻ chờ trông Đan Phượng thành xương thịt Đồng Lư khói về giời Vạn họ lầm than cả Ngửa cổ đợi vua ra
Người lạ ca xong, toan quay gót bước đi, Địch Hồng Hà và Cổ Dục Lạc vội cùng tiến lên, mau chân đứng chắn trước mặt người lạ. Địch Hồng Hà nghiêm nét mặt hỏi:
- Dám hỏi, ngài là ai mà lại tới đây đúng lúc này tỏ ra ngông nghênh như vậy?
Người lạ dừng bước, hai mắt như hai vì sao long lanh sáng nhìn Địch Hồng Hà mà rằng:
- Ông thân làm tướng, cầm quân ra trận, sao chẳng quyết được hơn thua, mà lại còn hạch hỏi gì người đời thế?
Địch Hồng Hà lấy làm lạ hỏi lại:
- Quả thật tôi cầm quân ra trận, định kế xong cả rồi mới tiến quân, sao ông lại bảo là chẳng biết lẽ hơn thua được?
Người lạ không nói, nhìn Địch Hồng Hà một lát rồi chậm rãi:
- Ông bảo định xong kế, có thắng mới ra trận, vậy liệu ông có đâm nổi tôi vài nhát dao hay không?
Người lạ vừa dứt lời, Địch Hồng Hà chưa biết nói sao, tức thì Cổ Dục Lạc lướt lên cực nhanh, ngọn dao chiếu ra đâm thẳng vào giữa ngựa người lạ. Địch Hồng Hà kinh hãi không kịp cản lại!
Lạ một điều, Cổ Dục Lạc xô tới mạnh tưởng đến đẩy bắn được cả núi, lưỡi dao phóng ra hết sức thần tốc nhưng người lạ thân thể dường như chẳng phải là xương là thịt, mà là khói là mây mới phải, gió mạnh từ bước chân Cổ Dục Lạc ào ra khiến cho thân hình người lạ như cụm bông nhẹ theo gió cuốn đi, dạt ra một bên nhường cho lưỡi dao của họ Cổ sạt ngay bên cạnh. Cổ Dục Lạc như đâm vào khoảng không có gì. Địch Hồng Hà còn đang kinh hãi, Cổ Dục Lạc đâm trượt một nhát trong lòng hoang mang, rõ ràng là ngọn dao chiếu đúng giữa ngực người lạ thế mà tại sao lại dạt ra ngoài, tay dao họ Cổ không cảm thấy có sức nào đẩy lệch đi cả. Cổ Dục Lạc hoành bộ, tay dao mở rộng một vòng tận lực lia ngang người lạ.
Lần này, Địch Hồng Hà lắng hết tinh thần, chú mục nhìn xem lưỡi dao của họ Cổ đi như thế nào, và xem người lạ thoát hiểm ra sao.
Đà dao của Cổ Dục Lạc lượn một vòng lớn, chiếu đúng mạng mỡ người lạ thúc vào cực mạnh. Địch Hồng Hà thấy toàn thân người lạ như một làn khói, nương theo hơi gió từ cánh tay họ Cổ dồn ra bốc lên cực nhẹ nhàng, qua đi thì thân hình người lạ đã trụ bộ đứng im được rồi, trông chẳng khác nào lớp bụi vẩn lên rồi lắng ngay xuống sau khi chiếc lá rụng đã nằm im trên mặt đất.
Địch Hồng Hà kinh hãi, ngẩn người, rồi quát lên:
- Cổ Dục Lạc! Ngừng tay!
Cổ Dục Lạc đâm trượt một dao nữa, trong lòng càng thêm kinh hãi, vừa co chân chực thủ thế để ra đòn, nghe tiếng Địch Hồng Hà quát vội dừng lại.
Người lạ chẳng nói gì, thản nhiên như chưa hề bao giờ có việc Cổ Dục Lạc đâm ra hai dao cả! Địch Hồng Hà bước tới vòng tay kính cẩn mà rằng:
- Chúng tôi có mắt cũng như mù, vô lễ xúc phạm đến bậc thần tiên ở núi Vũ Ninh (nay thuộc huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh), thật là có tội lớn!
Người lạ ngửa mặt cười như than khóc, rồi nói:
- Ta không là bậc thần tiên gì cả! Có điều, người cầm đại quân vượt bờ cõi đi chinh chiến ở xa, ắt cũng thừa hiểu binh đao là việc làm cho trăm dân đau khổ, sao không biết dụng kế để trong bên ngoài vững, lại hăm hở cùng với kẻ ngu phu xông vào đâm chém? Ta cũng tiếc ngươi là kẻ có lòng trung, đởm lược, thế mà ra quân lần này chẳng có đường về! Thiên hạ đại loạn từ đây rồi!
Dứt lời, người lạ cất bước quay đi. Địch Hồng Hà vội kéo Cổ Dục Lạc đuổi theo, người lạ khoan thai đi càng đi càng như khói sương nương gió mà bay, Địch Hồng Hà, Cổ Dục Lạc dù vận lực cố chạy theo mà cũng chẳng đuổi kịp, người lạ càng lúc càng xa dần, rồi mờ mờ biến vào bóng chiều chạng vạng.
Địch Hồng Hà, Cổ Dục Lạc dừng lại, ngó ra bốn bề vắng ngắt, thì ra đã bỏ xa phủ đường đến cả chục dặm, lạc vào đến địa phận Hưng Mai. Hai người tai nghe dế kêu trong cỏ, suối chảy róc rách, thì ngẩn người không ngờ chỉ trong thoáng lát cắm cổ đuổi theo người lạ lại đến tận nơi này, Cổ Dục Lạc như người mất hồn, hỏi Địch Hồng Hà:
- Lão tướng có biết người lạ này là ai không?
Địch Hồng Hà ngồi xuống phiến đá bên suối, thủng thẳng đáp:
- Ta có nghe ở núi Vũ Ninh, bốn mùa sương phủ, chẳng có đường lên, trên đỉnh có am Thần Tiên, nơi ấy có dị nhân người đời thường gọi là Tinh Nguyệt Thái lão quân, có ý nói rằng dị nhân ấy trong người chứa cả vũ trụ chẳng khác nào như ngàn sao trên trời, vừng trăng vằng vặc, thái dương vĩ đại, dị nhân có phép đại độn hiểu mọi việc đời trước, nhìn rõ mọi việc đời sau, lại có tài rút đất một dặm đường thu lại chỉ còn vài trượng. Đặc biệt là Tinh Nguyệt Thái lão quân có phép đề khí làm cho thân thể nặng thì như Tản Viên, Lạn Kha, nhẹ thì đến sương khói cũng chẳng nhẹ bằng. Chính vì thế mà hai ngọn dao của ông phóng ra quyết liệt bao nhiêu càng khiến cho lão quân nhẹ nhàng nương theo gió lưỡi dao mà tránh đi dễ dàng thêm bấy nhiêu. Tôi thấy thế mới chợt nhớ ra nên kêu ông dừng tay đấy!
Cổ Dục Lạc bàng hoàng, hèn gì hai dao phóng ra như xỉa vào chỗ không người, bước chân chạy gấp mà càng chạy càng thấy dị nhân xa cách thêm mãi! Địch Hồng Hà thở dài rồi nói tiếp:
- Tôi không hiểu Tinh Nguyệt Thái lão quân xuất hiện ở đây là có ý gì? Lão quân lại bảo rằng tôi đi chuyến này thì chẳng còn đường về! Trước đây, ông còn nhớ lão quân có ca một bài trong có câu gì không?
Cổ Dục Lạc cùng với Địch Hồng Hà cùng cố nhớ lại bài ca, ghép lại mà bàn bạc, cả hai lo lắng thở dài. Nếu như vậy thì lão quân đã bảo cho biết trước là Phù Liệt ra quân chuyến này sẽ bại ở Đồng Lư và có tướng chết!
Cả hai bàn bạc hồi lâu, rồi thở dài cùng tìm đường trở lại phủ đường. Cùng lúc hai tướng Phù Liệt đuổi theo dị nhân núi Vũ Ninh, thì ở phía Bắc đại quân của Sứ quân Lữ Đường ở Tế Giang đã âm thầm vượt sông Xích Đằng để xâm phạm bờ cõi Phù Liệt.
Đại quân của Tế Giang đánh Tây Phù Liệt do Đại tướng Trình Kế Ngọc thống lĩnh cờ soái, mang theo các tướng Dương Lê Thống xử đoản đao, Nguyễn Hồng Vỹ xử cương đao, Phạm Đăng Tùng giỏi nghề đánh kiếm, Cao Xuân Nhuận có ngọn thiết tiên thật uy mãnh, Lê Doãn Hồ thạo múa đồng côn, lại thêm tướng Thủy chiến Đỗ Hùng Liệt có thanh gươm bạc luyện phép màu lúc múa lên phát ra tiếng ma khóc quỷ gào, sinh ra mây mờ che khuất cả nhật nguyệt. Đại tướng Trình Kế Ngọc bên cạnh còn có phù thủy tự nhận là linh yêu của núi Thất Diệu khi xưa An Dương Vương cùng với Thanh Giang Sứ (tức là con rùa) trừ không hết, ngày nay thu thập linh khí của núi rừng mà lại lên trần thế tung hoành. Phù thủy lấy hiệu An Dương Thanh Sứ Đại Pháp sư, có ý ghép cả tên đức An Dương Vương với tên Thanh Giang sứ lại mà biểu tượng cho phép thuật của mình.
Binh Tế Giang lặng lẽ vượt Xích Đằng, nhưng thật ra thì Sứ quân Lữ Đường đem quân đánh Phù Liệt chỉ là dùng cái kế “khuấy nước bên Tây, để chộp con cá bên Đông” binh xuất chiến xâm phạm bờ cõi của Sứ quân Nguyễn Siêu, nhưng là để phòng hờ đỡ mặt Tây cho đạo quân sắp đánh xuống phía Nam là bờ cõi của Sứ quân Phạm Phòng Át.
Chính vì thế, lúc sắp sai Đại tướng Trình Kế Ngọc cầm quân vượt Xích Đằng, Sứ quân Lữ Đường có hội chúng tướng văn võ lại bàn rằng:
- Kể từ lúc Nam Tấn Vương đem lại binh từ Đằng Châu một mạch chạy về Cổ Loa, thì khắp thiên hạ xem Giao Châu như của chung, ai cũng được quyền cai trị trăm dân, ai mạnh thì người ấy được. Tế Giang ta đất giàu nhưng không rộng, lại ở chung với hai Sứ quân nữa chẳng mấy xa xôi, đây là điều ta lo lắng mai sau. Phải làm sao hạ cho được hai Sứ kia đi ta mới yên lòng. Các tướng có kế gì không?
Tức thì, Quân sư An Dương Thanh Sứ Pháp sư cất giọng the thé mà rằng:
- Bẩm Sứ quân, tôi gặp được thầy ở núi Thất Diệu, học được phép màu nhả khói phun mưa, đọc thần chú sai binh ma tướng quỷ đi lấy đầu tướng địch, nay đến lúc cần thu thiên hạ tôi xin được đi trước giúp Sứ quân tiêu diệt các Sứ khác. Sứ quân sai tôi lấy đầu của Sứ quân nào trước?
An Dương Thanh Sứ Pháp sư vóc vạc nhỏ bé, đầu quấn khăn trắng nhưng lại kéo tóc xõa ra hai bên, pháp sư vận đạo bào màu đen tuyền, lưng treo kiếm gỗ ba la mật (gỗ mít), ngang lưng lại có túi đựng chín cái xác biển bức khô (con dơi), loại biển bức ở núi Sài Sơn được Pháp sư luyện ma thuật có thể trong đêm tối sai khiến đi giết người ở xa trăm dặm. Pháp sư dận giày cỏ khô, ngồi ghế bọc da chồn, hai mắt Pháp sư nhỏ mà tròn xoe, mũi hơi dài như mỏ chim sẻ. Pháp sư miệng rộng nhưng nói giọng the thé như đàn bà, tính tình cực hung ác.
Sứ quân nghe Pháp sư nói, gật gù ra nhiều hài lòng liền quay sang các tướng mà rằng:
- Đại pháp sư sẵn sàng giúp ta rồi. Các tướng tính sao? Đại tướng Trình Kế Ngọc thưa:
- Bẩm Chúa công, Đằng Châu đưa mật thư liên minh với thằng giặc đa dâm Lý Khuê ở Siêu Loại, mấy phen lăm le xâm phạm bờ cõi của ta, nhưng một con mụ dâm đãng với bảy ngọn liễu đao làm sao địch được với binh hùng tướng mạnh của ta, thịnh đức của Chúa công làm cho bọn Đằng Châu muốn giục Siêu Loại đề binh đánh ta mà Siêu Loại không làm được...
An Dương Thanh Sứ Pháp sư the thé hỏi:
- Con mụ dâm đãng ở Siêu Loại nào thế? Tướng Trình Kế Ngọc đáp:
- Ở Mỹ Tự, Siêu Loại, hồi thái thú Bắc phương là Sĩ Nhiếp sang Giao Châu ta cai trị, đóng ở thành Luy Lâu. Hồi ấy, có thầy tăng Kheo Đà La ngụ tại núi xanh ở phía Tây thành Luy Lâu. Một hôm gặp cô gái tu định là A-Man, thầy tăng Kheo Đà La mê mệt, rồi tìm cách xâm phạm cô gái đến có thai, sau cô gái sinh ra một gái, thầy tăng sợ đem giấu trong gốc cây đại thụ trong giữa núi sâu, sau bị đem giấu trong gốc cây đại thụ tận bến sông Luy Lâu, thiên hạ lấy làm lạ kéo lên bờ, khiến thợ đẽo bốn tượng Phật, rồi cất chùa gọi là chùa Thiền Định (tức là chùa Diên Ứng) đặt bốn tượng gỗ để thờ phụng. Bốn bức tượng này rất linh thiêng, cầu gì được nấy, dân địa phương thường làm lễ cầu mưa trong những năm hạn hán. Còn cô gái con của thầy tăng, khi cây đại thụ trốc gốc, bị đè chết. Linh khí của núi rừng, hợp cùng với huyết thống của cha mẹ, biến hồn cô gái thành tảng đá xanh trồi lên ở ngay chỗ gốc đại thụ bị đổ. Tảng đá xanh hấp thụ khí âm dương của trời đất trải từ thời Sĩ Nhiếp đến nay cũng mấy trăm năm, một hôm trời đen tối, mưa gió thật dữ dội, tảng đá xanh bị sét đánh trúng vỡ ra làm đôi, bên trong một người con gái bước ra, tự nhận là thần núi Luy Lâu tu luyện bây giờ đến lúc đắc đạo nhờ Thiên Lôi khai thạch mà ra đời. Cô gái ấy mặt hoa da phấn, có nhiều yêu thuật, có tài phóng bảy ngọn liễu đao, ít người bị nàng ta muốn giết mà lại thoát chết được?...
Cả hội nghị im lặng, Pháp sư cố nén không được bật hỏi:
- Nàng ta tên gì, ông kể mau đi?
Tướng Trình Kế Ngọc đáp:
- Cô gái không biết tên là gì, xưng hiệu là Luy Lâu Thần Nữ...
Pháp sư hỏi dồn:
- Nàng ta đa dâm ra sao?
Trình Kế Ngọt mỉm cười:
- Huyết thống mấy trăm năm của thầy Tăng Kheo Đà La, tạo thành kết quả của mối tình khao khát thì nhiều mà thỏa mãn thì chưa mấy, tất cả đúc thành Luy Lâu Thần Nữ, cho nên nàng ta cực đa tình, một ngày không hợp tình với một người trai tươi đẹp khỏe mạnh thì như người điên cuồng, vì thế nàng thường thúc giục Sứ quân Lý Khuê đem quân chinh phạt khắp nơi, cốt để chọn ý trung nhân một đêm nơi chiến trường...
Pháp sư cười the thé mà rằng:
- Tiếc thay! Mặt mũi ta ắt không làm cho Luy Lâu Thần Nữ mê nổi nhỉ!
Đại tướng Trình Kế Ngọc mỉm cười lần nữa rồi đáp:
- Sứ quân Lý Khuê hao kiệt nguyên khí vì Luy Lâu Thần Nữ, thế mà vẫn không làm sao dứt bỏ được say mê. Thần nữ có phép màu lạ lùng khiến cho người trong cuộc mây mưa cảm khoái đến tuyệt cùng. Rồi Sứ quân Lý Khuê dần dần đuối sức, Luy Lâu Thần Nữ phải đi tìm thú vui ở bên ngoài, Lý Khuê biết nhưng cũng không cản. Nay Đằng Châu liên minh với Siêu Loại là để cự với ta trước, chi bằng ta ra tay trừng trị Đằng Châu trước rồi phá Siêu Loại sau là hay hơn cả.
Sứ quân Lữ Đường trầm ngâm rồi hỏi:
- Ta đánh Đằng Châu, liệu có sợ cái thế mạnh của Đằng Châu đuổi được binh Cổ Loa không?
Trình Kế Ngọc đáp:
- Đằng Châu tự sức không đuổi theo Cổ Loa, ấy là đại kế của Quân sư Lê Thảo. Nay ta đánh Đằng Châu, nếu Siêu Loại cứu ứng tất sứ Nguyễn Thủ Tiệp phải ra tay đánh gấp Siêu Loại, lúc ấy ta hồi binh xem hai sứ ấy đâm chém nhau, liệu thời định thế mà hành động là hay hơn cả!
Sứ quân nghe Đại tướng Trình Kế Ngọc bày mưu lấy làm đẹp lòng lắm. Liền lại hỏi:
- Như vậy thì ta phải tiến binh hành động ra sao?
Trình Kế Ngọc trịnh trọng đáp:
- Trước hết, ta đem quân vượt Xích Đằng, âm thầm vào bờ cõi của Sứ quân Nguyễn Siêu, nhưng ta đánh tiếng để cho Đằng Châu biết là ta đánh Tây Phù Liệt. Đằng Châu lúc ấy sẽ thờ ơ không phòng bị. Ta lại đem quân theo đường bộ chực sẵn, rồi men theo giới địa của Lý Khuê với Bình Kiều xuống đánh Đằng Châu. Hành động như thế, ta tránh được việc đánh nhau với các Sứ khác, đợi các Sứ ấy đánh nhau kiệt sức ta mới ra tay là có lợi.
Sứ quân Lữ Đường lại hỏi:
- Ta một đàng vượt sông sang đất Phù Liệt, một mặt đem quân đi xa len lỏi vất vả như thế, sao không đánh xuống Bình Kiều có được không, lại dềnh dàng như vậy là sao?
Tướng Trình Kế Ngọc lại thưa:
- Thế nào Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp cũng đánh Lý Khuê, vả lại Đằng Châu có ước cùng với Lý Khuê liên minh đánh ta, thư của Đằng Châu nay được tế tác của ta tài giỏi bắt được năm trước có nói rõ cả. Như thế, ta đánh Đằng Châu cũng có ý bảo ngầm cho Thủ Tiệp hay là y phải đánh Lý Khuê ở Siêu Loại mới mong được yên ổn. Còn Bình Kiều, vương thân Ngô Xương Xí trấn giữ, dòng dõi Ngô Vương là điều ta cũng nên kính nể đôi chút. Vả lại Bình Kiều cũng không có ý gì là muốn gây sự với ta, thì ta có đánh Đằng Châu chăng nữa nhất định Bình Kiều cũng không cản trở gì ta.
Sứ quân nghe Trình Kế Ngọc thưa, gật gù suy nghĩ, Quân sư An Dương Thanh Sứ góp lời:
- Bẩm Sứ quân, nếu ta thu được Đằng Châu, thì việc ép Bình Kiều chỉ vài ngày là xong, từ đấy giang sơn ta mở rộng, ta dẹp Lý Khuê, rồi Thủ Tiệp, nào có khó khăn gì?! Ông Trình bàn như thế là phải lắm, xin Chúa công nên nghe theo lời là hơn!
Sứ quân nghe Pháp sư nói như vậy, thì bằng lòng, do đó mới có việc tướng Trình Kế Ngọc đem binh vượt Xích Đằng âm thầm vào bờ cõi Tây Phù Liệt của Sứ quân Nguyễn Siêu mà dồn xuống phía Nam đợi sẵn.
Ở mặt bộ, Sứ quân Lữ Đường bảo:
- Ông Trình Kế Ngọc cùng Quân sư sang sông, ý không cốt đánh Tây Phù Liệt, chỉ cốt mượn đường chực sẵn sát cạnh Đằng Châu, vậy phải kín đáo. Còn đường bộ, tôi nhờ ông Lương Tích Lịch cầm quân đánh thẳng xuống Đằng Châu, đốt lửa làm hiệu để ông Trình Kế Ngọc biết mà đưa quân sang sông trợ chiến, hai mặt cùng phá ắt thu được Đằng Châu đấy.
Tướng Lương Tích Lịch vóc người hùng vĩ, xử cây đoản kiếm có tên là A Hồ Lục Cương Kiếm, vì thanh đoản kiếm này luyện bằng gang ở động A Hồ có màu long lanh lục biếc, thanh đoàn kiếm quý ở chỗ sắc bén vô cùng, lại có huyền thuật là dù có thất lạc cũng tự tìm về được với chủ. Lương Tích Lịch nhờ có thanh đoản kiếm quý báu này nên thường huênh hoang tự thị, hành sự ngông cuồng. Nay được Sứ quân giao cho việc cầm quân đi đánh Đằng Châu thì Lịch trong lòng khoan khoái cao hứng vô cùng, liền đứng dậy bẩm:
- Bẩm Chúa công, Lịch tôi theo hầu dưới trướng, nay mới được cầm binh đi chinh phạt ở xa, thật mừng vô cùng, tôi xin hết lòng thế nào cũng cùng với Quân sư và ông Trình Kế Ngọc lấy cho kì được Đằng Châu!
Hội nghị xôn xao bàn tán, rồi Lương Tích Lịch lại thưa:
- Bẩm Sứ quân, tôi có nghe Đằng Châu đất rộng, người nhiều, của cải thật muôn ức, lại ở vào chỗ đất cũng không lo bị ai dòm ngó. Nếu thu được đất ấy tất Chúa công thêm sức mạnh, bờ cõi thêm vững bền, việc định thiên hạ ắt không còn xa nữa! Tôi chỉ xin Chúa công một điều là: thiên hạ kể là Sứ quân Bạch Hổ có nàng Hồi Chúc sắc đẹp tuyệt vời, nàng ta lại có hòn Hỏa Lựu Ngọc quý báu vô cùng, nếu lấy được Đằng Châu thì xin Chúa công cho tôi được lĩnh nàng Hồi Chúc nhé!
Sứ quân cả cười, Quân sư An Dương Thanh Sứ vội xen lời:
- Sao ông Lịch tham quá thế, muốn lấy ngọc Hỏa Lựu để phổ vào gươm A Hồ thì thôi chứ, sao lại còn muốn chiếm cả người ngọc nữa! Đất Đằng Châu thì hẳn là thuộc quyền của Chúa công rồi, còn người đẹp ta tưởng ông nên nhường ta mới phải chứ!
Cả hội cười ồ, Pháp sư nói xong cười tít, hai mắt thu nhỏ lại trông như cái màng che kín con mắt.
Lương Tích Lịch xin Sứ quân cho các tướng cùng đi đánh Đằng Châu với Lịch, là: Đỗ Bằng Lân xử cây trường kiếm; Phạm Đại Hải quen tung hoành với thanh mã tấu to bản rất nặng; Phạm Hoàng Linh không dùng gươm giáo mà lại sử dụng cây cung lớn thiết đằng vừa làm khí giới để giao chiến, lại tùy lúc bắn tên rất giỏi; Trần Đức Kiệt quen vận dụng cây côn sắt thật hùng mạnh; và Lý Phúc Tảo rất giỏi nghề múa trường giáo.
Sứ quân rất hài lòng, liền truyền quan quân lương Hồ Minh Duy mở kho phân phát khí giới, cung cấp quân nhu cho hai đạo quân đi đánh Đằng Châu. Quân sư An Dương Thanh Sứ lại nói:
- Binh chia hai đạo, một thủy một bộ, nhưng đạo quân chính là đạo theo đường thủy lén sang Phù Liệt, dạo quân của ông Lịch tuy quan trọng nhưng là binh “bồi chiến”, vậy ông Lịch phải đợi khi nào đạo binh của tướng Trình Kế Ngọc vào trận rồi mới tiếp chiến nhé!
Hai đạo quân sửa soạn lên đường. Sứ quân lại truyền mở tiệc lớn tiễn quân, ân cần nhắc nhở các tướng là phải hết sức cố gắng để Sứ quân sớm được nghe tin chiến thắng khải hoàn, Sứ quân trong tiệc có hỏi Quân lương tướng Hồ Minh Duy rằng:
- Nay ta quyết định ra quân, tranh hùng với thiên hạ ắt phải có lương thực lâu dài, khí giới thừa thãi, ông coi việc quân như chiến khí, đã sẵn sàng cả chưa?
Hồ Minh Duy vóc người phục phịch, mặt tròn má xệ, tướng nhu nhược mà lại ngu muội, gian tham. Duy có người vợ thật đanh ác, tham tàn, ngày đêm chỉ nghĩ cách giục chồng ăn cắp của công, bóc lột bá tánh, ăn chặn binh lương, cốt sao cho một nhà mình giàu có, gác bỏ ngoài tai những lời ca thán của dân đen sĩ tốt. Khi Sứ quân động binh, họp chúng tướng nghị bàn việc ra quân, vợ Hồ Minh Duy nghe tin ngày đêm tìm cách thúc chồng nhân cơ hội ra tay vơ vét, ăn cắp. Y thị bày kế cho Duy rằng:
- Tướng công một tay trông nom lương thực, quân nhu, lại là người mách bảo lên Sứ quân cách tìm ra bạc vàng, thu được thóc lúa, đúc giáo rèn gươm, trăm việc đều ở trong tay, một thời hợp số tốt sao lại chẳng nương gió trương cờ, nhân cơ hội lúc nước đục bắt con cá lớn, chứ sao lại chậm chạp như thế!
Hồ Minh Duy nhu nhược, sợ vợ, tuy trong lòng chẳng muốn vơ vét đến như thế, nhưng cũng không biết nói sao, chỉ loanh quanh:
- Ừ thì bà bảo phải kiếm lợi, để thủng thẳng rồi ta kiếm! Vả lại, nhà mình con cái chẳng nhiều thì tham làm gì lắm thế?
Vợ Duy đay nghiến:
- Ông xuất thân từ hạng cùng đinh, may nhờ biết Sứ quân từ đầu đến xin làm tôi tớ, Sứ quân thương cất nhắc cho tức là có ý cho được hưởng lộc, sao ông lại ngu muội như thế! Nhà ông chẳng có người, thế còn họ hàng nhà tôi thì sao? Sao ông ngu muội thế?
Thế là Hồ Minh Duy nín lặng, vợ Duy được thể xui chồng xuất kho một thì bảo hai, gươm đúc ba thì bảo bốn, lại xui Sứ quân truyền trong dân gian mỗi nhà không có người đến tuổi đăng lính ba năm thì mỗi đầu người mỗi năm phải nộp sắt ba cân, gạo mười thúng, ba tháng một lần lại phải thay nhau phục dịch việc công như đắp đường, bắc cầu, trông nom việc cơm nước cho quân. Sứ quân cho là Hồ Minh Duy khéo phép thu quân lương, hỗ trợ đằng sau việc quân ra trận, lấy làm hài lòng lắm.
Thế là trăm dân không có cách gì thoát khổ cực, nhà nào cũng có người phải đăng lính, chưa đến tuổi cũng đút lót để được nhập quân tránh cho cả nhà khỏi phải cái vạ nộp thóc, nộp sắt, chị em cha mẹ khỏi phải phục dịch việc quân. Cả Tế Giang lúc nào cũng như sống trong lò lửa bỏng, có nhà đẻ con ra nghèo quá không dám nuôi phải bóp cho đứa trẻ chết đi, có nơi mở ra cả chợ “bán trẻ con” vì nhiều nhà không còn đủ sức để nuôi con cái. Mới vào xuân mà quang cảnh như giữa thu tiêu điều, lời oán than đi đâu cũng nghe thấy.
Vợ Hồ Minh Duy mê man vơ vét, sai thủ hạ đi điều đình với bên ngoài là ai thiếu sắt, thiếu gạo, hay muốn chạy chọt cho vợ chồng cha mẹ khỏi phải đăng lính, phục dịch trong quân, hãy đem ruộng vườn nhà cửa cầm cố cho thị thì được yên thân!
Vợ Duy lại khôn khéo, vẫn khuyên chồng là “lợi đừng ăn một mình”, do đó y thị đi lại xã giao, mua chuộc các tướng, đút lót các quan, cung phụng gái đẹp cho Quân sư đạo sĩ, tìm lụa đẹp, vàng tươi, bạc sáng, mà dâng biếu Sứ quân, khiến cho ai cũng ăn của đút của thị mà chẳng nói gì. Sứ quân chẳng biết sự thể, cứ tưởng là Tế Giang vẫn an lạc, trăm dân vẫn sung túc, binh ra ngoài ải mà Sứ quân vẫn yên lòng ngủ ngon trong màn gần bên gái đẹp!
Quan quân lương ra tay vơ vét, khiến cho bá tánh lầm than, oán hận đến tận xương tủy. Ở xã Lương Đài có bốn người họ Đặng “sinh tư” vừa đến tuổi phải đăng lính, bèn tìm cách trốn tránh vào rừng, rồi chiêu tập bọn người bất mãn với Sứ quân, lập thành đảng cướp trương cờ trắng đi cướp phá khắp nơi, nhưng chỉ chuyên cướp của nhà giàu, chẹn họng các quan lấy tài sản, rồi đem phân phát cho người nghèo.
Lúc binh của Lương Tích Lịch xuống Nam đánh Đằng Châu thì đám cướp cờ trắng kéo đến xin hàng, rồi xin được theo quân cùng đi Đằng Châu đánh Sứ quân Phạm Phòng Át, Lương Tích Lịch thấy đám cướp hùng dũng, đông hơn một trăm đứa, thì lấy làm mừng rỡ cho theo liền. Thế là cướp trở thành binh của Sứ quân Lữ Đường đi viễn chinh.
Lúc quân của Sứ quân Lữ Đường hai mặt xuống Nam đánh Đằng Châu, thì tại Bình Kiều Sứ quân Ngô Xương Xí cùng hội văn vũ các tướng để bàn việc thiên hạ. Sứ quân là người thận trọng, làm việc theo phong độ của bực quân vương, nên rất trọng nghi thức. Sứ quân tổ chức binh đội chẳng khác nào như ở triều đình, cũng đặt các cấp văn vũ. Mùa hè Bính Thìn (956) Sứ quân được một tướng tài ở tận Phong Châu tới xin phò tá. Sứ quân trong lúc còn đang gây dựng cơ đồ, được người hiền từ xa đến giúp thì mừng lắm. Sứ quân hỏi tên họ thì hiền sĩ nói rằng:
- Bẩm Chúa công, tôi từ Phong Châu tới, dọc đường cùng em chia tay mỗi người một ngả. Tôi trọng cái nền tảng của hoàng gia mà đến với Chúa công, xin được góp phần cứu trăm dân, dựng lại nghiệp lớn.
Thì ra hiền sĩ chính là Lê Hiền, anh ruột của Quân sư Hoa Lư Lê Thảo, Lê Hiền từ lúc chia tay với em, lang thang trong thiên hạ, đợi nghe tin binh của Nam Tấn Vương xuống Nam đánh giặc Bộ Lĩnh, đến khi binh của Vương bại trận rút về, thì danh tiếng Hoa Lư như sấm dậy, khắp cõi Giao Châu lẫy lừng kì công của Quân sư Lê Thảo. Lê Hiền nhiều phen bâng khuâng, trong lòng nghi hoặc về những lời Lê Thảo nói năm xưa, có lẽ nào “tên chăn trâu cắt cỏ mà lại được như vậy, tài Lê Thảo nếu thế thì Giao Châu mai sau ắt sẽ do Hoa Lư đại định thật!”.
Lê Hiền suy nghĩ nhiều lắm, rồi cuối cùng vẫn nhất quyết tìm đến với Sứ quân Vương thân Ngô Xương Xí ở Bình Kiều. Lê Hiền quyết giữ niềm tin với chí hướng của mình, quyết giúp cho Xương Xí khởi đại nghiệp. Lê Hiền tới với Xương Xí, đúng lúc thiên hạ đại loạn, các Sứ quân ra binh đánh nhau ở khắp nơi. Lúc gặp được Sứ quân Xương Xí, thì Lê Hiền kinh hãi lắm, vì Sứ quân thực lực chẳng có gì, Sứ quân cũng chưa tổ chức xong được các mặt, thủ hạ lưa thưa ít người chẳng ra sao cả. Đã thế, Sứ quân lại nặng óc chán nản, nhìn việc triều đình đại binh phải bỏ Hoa Lư, chạy sang Đằng Châu rồi lặng lẽ kéo về Loa thành là sự tận vong của triều Ngô mất rồi. Vì thế Sứ quân nhiều lúc ứa nước mắt nói với đám thủ hạ là muốn bỏ tất cả tìm vào trong núi mà ở ẩn.
Đến khi Lê Hiền tìm đến, ra tài thuyết phục Sứ quân múa lưỡi biện bạch mọi nhẽ, hăng hái dồn vào lòng Sứ quân ý chí tranh hùng dựng lại nghiệp. Trước, Sứ quân vẫn còn khăng khăng chán nản, sau dần dần tỉnh ngộ, rất quý trọng Lê Hiền, lại giao phó cho Lê Hiền việc tổ chức Bình Kiều, chiêu mộ binh tướng xét việc thiên hạ. Nhờ đấy, đất Bình Kiều lên thanh thế, tuy chưa ra binh lần nào nhưng rào giậu cũng đủ kín, binh tướng không đồng nhưng với tài thao lược của Lê Hiền cũng có sức giữ được giang sơn.
Lúc Sứ quân hội văn vũ các tướng bàn việc, Sứ quân bảo:
- Việc thiên hạ hôm nay, là việc chung của anh hào, ai mạnh là được. Nay các Sứ đánh nhau, trăm dân lầm than cùng cực, trước ta không nhìn rõ mọi việc thành ra chán nản muốn bỏ vào rừng ở ẩn, nay được hiền sĩ Lê Hiền từ Phong Châu tới hết lòng giúp rập, tổ chức mọi việc, sức ta nay đã mạch có thể tranh hơn thua với người ngoài được rồi. Vì thế hôm nay ta hội các ngươi, bàn xem nên hành động thế nào?
Lê Hiền đứng dậy thưa:
- Bẩm Chúa công, Bình Kiều ta để uổng mất nhiều ngày, thành ra sức bây giờ tuy cũng đủ nhưng so với thiên hạ lại chẳng phải là vượt lên trên. Tuy thế, ý chí của ta quyết theo thiên hạ ắt giúp ta đủ sức mạnh để làm việc lớn. Muốn ra binh tranh hùng với thiên hạ, Chúa công nhận định tình hình Giao Châu ta như thế nào?
Sứ quân trầm ngâm, rồi nói:
- Cổ Loa tất không đứng được nữa, anh hào trong thiên hạ cũng có người ta phải nể mặt, có người ta không đáng quan tâm. Nể mặt, thì có Đỗ Cảnh Thạc ở sông Đỗ Động. Kiều Công Hãn ở Phong Châu, Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du, ghê gớm hơn cả là Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư. Bên cạnh Bộ Lĩnh lại có kì nhân Lê Thảo là em ruột của ông Lê Hiền đây giữ ghế Quân sư, vì vậy ta có ý sợ Hoa Lư hơn cả đấy!
Các tướng văn vũ nghe Sứ quân nói, lao xao bàn tán không ai lại cho lời Sứ quân nói là sai. Lát sau, Lê Hiền lại hỏi:
- Bẩm Chúa công, như thế, Chúa công định việc xuất chiến ra sao?
Sứ quân đáp luôn:
- Ta trước sau tin rằng họ Ngô đến đời Nam Tấn Vương là dứt rồi. Vì thế, ta thật ra không muốn cưỡng ý trời, chẳng muốn cùng thiên hạ làm khốn thêm cho trăm dân. Nay vì ông Lê Hiền hết sức phù trì, ta mới còn ở lại Bình Kiểu này, nay việc lớn náo nhiệt ý ta cũng chưa biết là nên tiến thoái thế nào. vậy, theo ý ông thì ta nên hành động ra sao?
Cả hội im lặng, Lê Hiền trang trọng đáp:
- Bẩm Chúa công, nếu như ta giải tán Bình Kiều, bỏ Bình Kiều vào rừng ở ẩn cả mà thiên hạ được thái bình, thì ta cũng nên đi ngay chẳng chậm một ngày nào. Còn nếu ta bỏ Bình Kiều, giúp cho một Sứ quân nổi lên hành hạ trăm dân, thiên hạ loạn thêm, Giao Châu nguy thêm trước cái họa Bắc phương, thì sứ mạng của ta hôm nay là phải ra tay chống đỡ mọi mặt, trong dẹp loạn, ngoài ổn định cái thế tự chủ của tiên vương hao tốn xương máu mới dựng thành, chứ sao lại bỏ mà đi được!
Lê Hiền ngừng nói, Sứ quân cúi đầu trầm ngâm, lát sau Sứ quân thở dài nhẹ nhẹ, các tướng im lặng đợi chờ, Sứ quân hỏi thêm:
- Ừ thì ta phải gánh vác trách nhiệm trong lúc này, nhưng theo ý ông thì ta phải làm ra sao?
Lê Hiền hai mắt long lanh, đáp:
- Giả sử năm xưa binh Cổ Loa dẹp xong đám Bộ Lĩnh ở Hoa Lư, thì ngày nay cái thế hứng khởi của Cổ Loa ắt dã đẹp xong các Sứ quân khác ổn định Giao Châu được rồi. Nay, chỉ vì việc Cổ Loa bại trận, khiến cả thiên hạ coi thường triều đình, may mà Hoa Lư chưa tiến quân ra ngoài thiên hạ, nhưng ta cũng lại phải chú trọng đến chỗ Hoa Lư chưa ra tay, là vì đâu? Riêng lúc này, khắp chung quanh ta các Sứ đều cất quân đi trận ở xa cả, chưa ai xâm phạm đến ta, thì một là họ còn nể ta có cái nền tảng chính thống, đây cũng là chỗ để ta được lợi mà tranh thắng với thiên hạ, thu phục nhân tâm đấy; hai là, địa thế của ta lọt vào một nơi nếu ta không đánh ra thì thiên hạ chung quanh đánh vào ta cũng chẳng có cái lợi gì; ba là, có thể thiên hạ chưa hiểu rõ ta, còn e dè rằng ta có cái nền tảng chính thống ắt thừa sức mạnh, nếu đánh ta tất không lợi. Vì thế ta tạm được yên ổn cho đến lúc Hoa Lư đứng dậy...
Sứ quân Ngô Xương Xí vội hỏi:
- Hoa Lư đứng dậy như thế nào?
Lê Hiền đáp:
- Bẩm lúc nào Hoa Lư đứng dậy, ấy là lúc Đằng Châu bị tiêu diệt trước. Sau đấy, Hoa Lư phải tiến lên phía Bắc, thì Bình Kiều ta là ải địa đầu sẽ bị tấn công trước. Giả sử Hoa Lư tránh ta, ra tay đánh phá các Sứ quân ở chung quanh ta, cũng là điều làm cho ta khó lòng thủ thế. Vả lại, Quân sư của Hoa Lư tài trí trùm thiên hạ, dụng kế với dụng binh đều như thần cả, thêm nữa cả Hoa Lư đều quyết một lòng chiến đấu không bao giờ nghĩ đến việc phủi tay ngoảnh mặt để tìm an nhàn, tức là điều ta phải đáng lo đấy!
Lê Hiền ngừng nói, tướng Trương Đức Xuân ngập ngừng rồi hỏi:
- Thống đốc ngài luận như vậy, có phải là: “Ta vẫy vùng ở đây, cũng như là tạm bợ, đợi lúc nào Hoa Lư đứng dậy thì tan rã đấy chăng?”.
Sứ quân nghe tướng họ Trương hỏi, liền nhíu mày chăm chú đợi nghe câu trả lời của Thống đốc thủy bộ Lê Hiền. Hiền ung dung đáp:
- Ông nói như thế, ắt sẽ đúng, mà cũng sẽ sai. Đúng là khi nào ta khoanh tay từ bây giờ, chịu ngồi yên chờ đợi chết, dẹp cái chí anh hùng trong thời loạn để tìm chỗ ẩn dật an nhàn, nhìn thời thế đẩy đưa chứ không thể ra tay dựng thời thế được. Còn sai, ấy là mai đây binh ta ra khỏi bờ cõi, đứng lên chỗ cao tranh hơn với thiên hạ, làm gì có việc hạ mình đối đáp với kẻ lăng nhăng!
Trương Đức Xuân là tướng giỏi, chiến trận lành nghề quen xử cây búa sắt, tính tình rất trung trực, nóng nảy, lúc nào cũng chỉ mong mỏi được thấy Sứ quân xuất binh ra thiên hạ. Nay trong hội nghe Lê Hiền luận việc có nhiều điều tự cho là Bình Kiều yếu thế lắm, thì trong lòng không vui.
Trong đám thủ hạ của Sứ quân Ngô Xương Xí, có văn quan Triệu Hữu người Bảo Chúc, Phong Châu, trước vẫn theo hầu Ngô Xương Xí, được Động chúa yêu vì khéo nói, giỏi đón thế lựa lời phụ họa ý nghĩ của Sứ quân, thấy Sứ quân có lòng chán nản thì hùa vào luận việc cốt để dựa hơi Sứ quân mà thủ lợi riêng tư. Nhờ thế Triệu Hữu che mắt được Sứ quân, vơ vét được nhiều bạc vàng, chiếm giữ được nhiều ruộng đất, trong đám thủ hạ của Sứ quân ai cũng biết Triệu Hữu là đứa gian manh trước sau thế nào cũng hại chủ. Bây giờ trong hội, Triệu Hữu nghe Lê Hiền nói, lại nghe Trương Đức Xuân hỏi, nghe Lê Hiền đáp xong Triệu Hữu liền bồi luôn:
- Bẩm Sứ quân, ông Thống đốc thủy bộ Lê Hiền đã nhận thấy cái thế không hơn của ta, sao lại chẳng thử tìm xem nhân nghĩa ở chỗ nào để mà hành động, trước là tránh cho bá tánh khỏi khổ, sau là không làm mờ mắt cái đức thương người của Chúa công mới phải, mà lại khăng khăng một mực đòi là ta phải xuất quân tranh nhau với thiên hạ, như thế có phải là người không biết nhìn thời, chẳng biết lượng sức hay không?
Triệu Hữu từ lúc có Lê Hiền đến với Bình Kiều thì không còn cơ hội để nịnh bợ được Sứ quân, sau Lê Hiền lại thuyết phục được Sứ quân để gây dựng cơ đồ được Sứ quân tin mà kính trọng coi như Quân sư, thì Triệu Hữu thường căm giận trong lòng, nay trong hội nghe Lê Hiền nói như vậy liền thừa cơ bác lời Lê Hiền.
Lê Hiền ngay thẳng, định việc không quay quắt, hành động thật minh bạch, ít khi để ý đến lòng sâu dạ hiểm, thành ra chỉ biết là Triệu Hữu không ưa mình chứ không ngờ rằng họ Triệu vẫn âm thầm tìm cơ hội để hại mình. Nay nghe Triệu Hữu nói thế, Lê Hiền cũng không cho là Triệu Hữu bài bác mình, mà cho là Triệu Hữu muốn tìm xem có chỗ nào làm khác được để tránh khổ cho dân, trong lòng Lê Hiền cũng băn khoăn chưa biết nói sao, đã thấy có người nói như quát mà rằng:
- Thống đốc thủy bộ là người nhìn việc sâu rộng, xem cơ đồ Bình Kiều còn trọng hơn cả tính mệnh mình, một tay ngài giúp Chúa công hết lòng mới có cái thế ngày nay, bây giờ nhìn thấy thời để xuất hiện, đạt đến cái thế để ra quân, sao lại có những hàng tham tàn ngu dốt ngồi giữa chốn này mà bài bác hỗn láo như vậy được!
Mọi người giật mình nhìn ra, thì mới biết người vừa nói là tướng Hà Bảo Ninh, người ở Tri Phong, lẫy lừng với kì tích “ngự hàm thủy công đê”, tức là tích “bờ đê công ngăn nước mặn” giữ sáu huyện Lục Hải phía Đông Nam (tức tỉnh Nam Định ngày nay), đường đê dài cả thảy mười hai ngàn hai trăm sáu mươi sáu trượng sát thước, mùa nước năm Giáp Thìn (944) nước biển lên cao phá vỡ một khoảng đê, lại sắp sửa cuốn bằng các nơi khác, bá tánh bồng bế nhau bỏ cửa bỏ nhà chạy nạn, dân phu địa phương ra sức gánh đất đắp để cản nước quần quật ngày đêm cũng không lại với sóng biển. Vừa lúc nguy cấp, thì Hà Bảo Ninh vốn là dũng sĩ chuyên nghề săn thú rừng, có sức mạnh vạn người không địch được, nghe nói ở Lục Hải nước biển lên cao đưa thủy quái đến từng bầy. Ninh nghe thích lắm liền tìm đến để định bắt thủy quái, thấy tình cảnh nguy cấp liền ra tay giúp việc bồi để ngăn sóng. Hà Bảo Ninh ra sức, bảo dân lấy hai chiếc thuyền lớn cột dây cho chắc, rồi Ninh cùng dân xúc đất đổ vào hai thuyền ấy để Ninh một mình hai tay hai dây kéo thuyền chạy băng băng trong đồng ruộng đến đổ vào chân đê. Ninh lại bảo lấy dây chão lớn cột vào thân cây to, rồi Ninh vận sức kéo đổ cây lôi đến cặp vào bờ để giữ nước, Ninh ra sức một ngày trời thì suốt cả con đê dài hơn vạn trường đã vững vàng, sóng biển ào ạt cũng không dìm được Lục Hải. Nhân việc ấy, danh tiếng Hà Bảo Ninh lẫy lừng không ai là không nghe biết, sau Ninh đến Bình Kiều đúng vào lúc Lê Hiền mới thuyết phục được Sứ quân Ngô Xương Xí, bắt đầu gây dựng cơ đồ, Lê Hiền yêu sức mạnh của Ninh mà thu phục Ninh lại coi Ninh như em ruột rất thương yêu.
Ninh tính tình bộc trực, ít khi nghe thấy ai nói động đến Lê Hiền mà lại chịu ngồi yên, nay thấy Triệu Hữu có ý bài bác Lê Hiền thì nén giận không dược mới thốt ra những lời như thế.
Sứ quân nghe Hà Bảo Ninh hầm hầm nói lớn như vậy thì cả kinh, Lê Hiền chưa kịp ngăn Ninh, thì Ninh đã đứng bật dậy, cơn giận dường như bốc cao thêm, Ninh gằn giọng:
- Sứ quân vì việc lớn mà phải mệt óc lo nghĩ, quan Thống đốc thủy bộ vì Sứ quân cùng các tướng nỗ lực mong có ngày được ra tay thu thiên hạ, ai cũng quên mình để phò tá Sứ quân, duy có thằng sâu mọt Triệu Hữu là ở không ngồi cao, ngày đêm nghĩ cách hại người, vơ vét cái khố rách của dân cũng chẳng tha, bây giờ hỗn láo với người hiền sao lại có thể để cho nó toàn mạng mà hại người mãi thế được!
Nói dứt lời, Hà Bảo Ninh xô ghế bước ra, tức thì Lê Hiền đứng bật dậy giơ tay cản Ninh lại nghiêm giọng mà rằng:
- Ông Ninh không được hồ đồ như thế! Việc lớn ai cũng được bàn để thấy chỗ thiệt hơn, ông đừng như vậy hỏng cả mọi việc!
Hà Bảo Ninh đừng bước hướng về Sứ quân vòng tay vái một vái mà rằng:
- Bẩm Chúa công, Ninh tôi không đọc sách, tính tình thô lỗ, thấy việc trái tai gai mắt thì không giữ được tay chân, nay được Chúa công cho ngồi cùng nghe bàn việc lớn, thấy đứa ăn cắp chõ mồm nói ra những điều xằng bậy thì không nhịn được, vậy xin Sứ quân thứ lỗi cho!
Triệu Hữu căm gan tím ruột, biết Sứ quân chưa đến nỗi nghe lời bọn võ tướng đối xử tệ ngay với mình, vả lại Lê Hiền cũng còn ôn hòa, nếu bây giờ không chèn ngay đi thì rồi ra mang họa về sau, lập tức Triệu Hữu nói:
- Bẩm Chúa công, tôi nói như thế cốt để mọi người tìm ra được những chỗ lợi hại của việc ra quân, nhà mình yên thì lúc đi xa mới thành công, nhà mình trong lạc vào vài kẻ gian manh, mình đi vắng ắt nó thừa cơ mà trộm cắp! Việc lớn bàn đến nơi rốt ráo sao lại bảo những lời ngay thẳng nói ra là hỗn láo, người như vậy có đáng để được ngồi nghe việc lớn hay không? Chúa công trước không trị được loạn bên trong, ắt mai sau chẳng thể nào dẹp được loạn ở bên ngoài!
Sứ quân Ngô Xương Xí vốn đã chán mọi việc, sau vì có Lê Hiền thúc giục bồi đắp cho mới được như ngày nay, bây giờ mới vào hội đã có bất hòa giữa các quan văn võ thì trong lòng buồn lắm. Sứ quân ngồi thì trong lòng chán nản, cả hội im lặng khó chịu. Lệ Hiền thấy thế đành lại phải nói:
- Bẩm Sứ quân, trong hội hôm nay các tướng văn võ đều một lòng hăng hái cùng lo lắng việc chung, đấy là một điều mừng lắm! Các lời bàn, ắt hẳn phải có thế này thế khác, có thế mới thấy được hết mọi lợi hại để mà lo liệu. Nay, Bình Kiều ta sức vừa đủ, nếu không đánh ra ngoài tức là bảo cho thiên hạ biết ta yếu mà tranh hơn trước, vậy việc tiến binh của ta là điều phải làm gấp, xin Chúa công ra lệnh các mặt!
Sứ quân Ngô Xương Xí đánh khẽ thở dài, rồi nhìn các tướng văn vũ mà rằng:
- Giả sử ta không cùng thiên hạ tranh hùng ắt thiên hạ cũng chưa chắc đã để ta yên, Vả chăng một nước không thể có cảnh một vùng Bình Kiều lại xưng là “một nước” được, do đấy ta phải một là được cả thiên hạ, hai là mất cả thiên hạ, không tiến cũng chết, thoái chẳng có chỗ. Vậy ta quyết ra quân, các tướng bàn nên ra quân thế nào?
Hội nghị lại im lặng, chưa ai nói ra sao đã thấy có người hùng hồn biện giảng:
- Bẩm Chúa công, nếu bảo rằng thiên hạ anh hùng hào kiệt đông mà mạnh, thì tại sao Giao Châu ta loạn lâu như vậy rồi vẫn chẳng có ai làm cho hết loạn được? Mười hai Sứ mỗi người hùng cứ một nơi, đã có ai bị diệt đâu cũng chưa có ai vượt hẳn lên, sao lại bảo là thiên hạ mạnh mà mình chưa đủ mạnh? Hoa Lư có kì nhân giúp rập, đánh binh Triều không còn đường chạy, phải nghe theo lệnh Hoa Lư mà về đúng đường, nếu bảo là Hoa Lư mạnh thì tại sao khi đuổi được binh Triều lại chẳng thừa cơn gió cuốn, nương dòng nước triều lên mạnh, để ra tay thu cả thiên hạ, như thế há chẳng phải là Hoa Lư yếu hay không. Ai cũng yếu cả, ta thì chưa chắc đã yếu, lại còn lợi ở chỗ Chúa công là vương thân, dòng dõi Ngô Vương, chính thống đáng để thu thiên hạ, ắt lúc đứng dậy trăm họ hướng cả về, Chúa công chỉ phất một ngọn cờ, gióng một tiếng trống là có sức lấy cả thiên hạ đấy! Vả chăng…
Cả hội im phăng phắc, ai nghe luận cùng phấn khởi nhiều người gật gù, Sứ quân sắc diện có phần sảng khoái. Người vừa nói, chính là văn sĩ Thẩm Thụy Hùng người ở Hồng Châu, họ Thẩm tinh thông thiên văn, giỏi địa lí, học rộng biết nhiều, theo phò Ngô Xương Xí một dạ trung thành, nhiều lần cùng với Lê Hiền bày mưu giúp rập cho Sứ quân nên được cơ nghiệp. Thẩm Thụy Hùng tính tình ngay thẳng, rất quý trọng Lê Hiền, thường vẫn bàn với Lê Hiền tìm cách nào để giục lòng Sứ quân, cố gây dựng cơ đồ. Một đằng Lê Hiền thì cứ biện giải cái thế mạnh của thiên hạ để cảnh tỉnh Sứ quân, làm cho Sứ quân sợ mà lo bồi quân dưỡng lực, một đằng Thẩm Thụy Hùng lại cứ nói vào rằng Bình Kiều mạnh hơn thiên hạ, cốt để cho Sứ quân vững lòng tin.
Nay trong hội, Thẩm Thụy Hùng nghe Lê Hiền luận cái thế thiên hạ, lại dè dặt không cho rằng Bình Kiều đã đủ mạnh, thì Thẩm Thụy Hùng trong lòng bồn chồn lo lắng lắm, nhiều phen cố đưa mắt ra hiệu để Lê Hiền đừng nói thế nữa, nhưng Lê Hiền cứ giả tảng không thấy khiến cho họ Thẩm chịu không được nữa phải lên tiếng hùng hồn giảng giải.
Thẩm Thụy Hùng nói đến đây thì ngừng lại, đưa mắt nhìn cả hội một lượt, thấy ai cũng có vẻ phấn khởi thì trong lòng mừng lắm, đến khi nhìn tới Lê Hiền thấy Lê Hiền mặt vẫn lạnh như băng ra chiều tư lự không cho những lời họ Thẩm nói là đúng, khiến Thẩm Thụy Hùng kinh hãi, băn khoăn.
Mọi người đưa mắt nhìn Thẩm Thụy Hùng đợi nghe Hùng nói nốt, Thẩm Thụy Hùng lại nhìn Sứ quân, chưa nói Sứ quân đã hỏi:
- Ông nói “vả chăng”, thì vả chăng là thế nào?...
Thẩm Thụy Hùng nhìn sắc diện Lê Hiền trong lòng đang lo lắng suy nghĩ, đã nghe Sứ quân hỏi như vậy, liền ngửng mặt hùng hồn:
- Bẩm Sứ quân, vả chăng Bình Kiều ta dù có chỗ nào yếu, đã có Quân sư Lê Hiền ra sức bồi đắp cho rồi. Nay Chúa công trao quyền Thống quân thủy bộ vào tay ông Lê Hiền rồi, thì còn có gì lo sợ nữa! Bây giờ chỉ còn đợi ông Lê Hiền nói cho nghe kế tiến quân là xong!
Sứ quân nghe nói sắc diện vui vẻ, Hiền tủm tỉm cười, thừa biết Thẩm Thụy Hùng cố ý nói dồn vào mình, Lê Hiền vẫn biết Thẩm Thụy Hùng trung thành với Sứ quân, ngày đêm chỉ sợ Sứ quân nản lòng nên nhiều lần bàn bạc với Lê Hiền tìm cách thúc giục để Sứ quân phấn khởi. Thẩm Thụy Hùng vẫn trách Lê Hiền là hay nói thẳng đến chỗ yếu của Bình Kiều làm cho Sứ quân sợ, họ Thẩm lúc nào cũng năn nỉ Lê Hiền là phải cố che đậy chỗ yếu của mình, đem những chỗ yếu của thiên hạ ra mà bàn cho Sứ quân nghe, nay trong hội nghe Lê Hiên lại sắp cho là Bình Kiều chưa đủ mạnh thì trong lòng Thẩm Thụy Hùng lo lắm, mới tìm cách dồn cả vào cho Lê Hiền phải nói vơ vào.
Lê Hiền tủm tỉm cười nói:
- Bẩm Chúa công, Bình Kiều ta binh được vài nghìn, tướng giỏi cũng đã xuất trận một ngày vài lượt, lương thực đủ để quên đi chinh chiến mà không lo, lực của ta lúc xuất chiến không làm dân khổ, thắng thì mở mang thêm được bờ cõi, có cơ thống nhất lại sơn hà, chưa thắng thì cũng không hao tổn nguyên lực, không thiệt thòi mất đất hại người. Nhưng, binh ra trận không phải là chỉ có một thế, mà phải biết nhìn khắp mặt chung quanh ta đã...
Sứ quân vội hỏi:
- Các mặt ta như thế nào?
Lê Hiền hỏi lại:
- Như Chúa công thấy, thì Cổ Loa bây giờ thế nào?
Sứ quân Ngô Xương Xí nét mặt dàu dàu trầm ngâm rồi đáp:
- Ta e rằng đại nghiệp của tiên vương đến bây giờ là hỏng mất! Một việc triều đình cất quân đi đánh Hoa Lư bị bại phải chạy về, cũng đủ làm cho cả thiên hạ loạn mất rồi!
Lê Hiền lại hỏi:
- Như thế, thì ý Chúa công có cho là ta phải đứng lên, hay là quay về phò trợ Cổ Loa để hưng khởi nghiệp lớn của tiên vương?
Sứ quân lại trầm ngâm, rồi lắc đầu nhẹ nhẹ mà rằng:
- Nếu dựa vào cái thế triều đình mà cứu được tình thế, thì ta đã chẳng phải như thế này! Nếu cứu được, là đứng ở ngoài, chứ không phải là ở trong được nữa rồi!
Lê Hiền thở ra nhẹ nhõm nói:
- Bẩm Chúa công, đúng thế: Cổ Loa không còn gì có thể cứu vãn được tình thế này nữa! Duy có một điều quan trọng hơn cả, ta cần phải biết thật rõ mới mong sứ mạng cứu nước cứu dân của ta xong được!
Sứ quân ngạc nhiên hỏi ngay:
- Ông nói như thế, thì việc quan trọng ấy là việc gì?
- Bẩm, bên trong ta không mấy quan ngại, nhưng bên ngoài cái họa phương Bắc mới là cái ngại lớn lao. Giả sử, Cổ Loa nay suy tàn, vương nghiệp nhất thời không có chủ, thì đây chẳng phải là điều để cho phương Bắc đề binh xuống Giao Châu ta mà quyết định việc cai trị hay sao? Lúc này, Giao Châu ta loạn lớn, những kẻ ngu chỉ biết lợi nhỏ phi nghĩa bất nhân của mình, quên mất họa lớn cho cả dân tộc đất nước, tranh nhau chiếm giữ các nơi, tất cả có khác gì những đảng cướp lớn, có kẻ nào nghĩ tới dân tộc đất nước này đâu!
Ngô Xương Xí hỏi:
- Như thế, thì Bình Kiều ta có là một đảng cướp hay không? Tại sao Bắc phương chưa có hành động gì?
Lê Hiền hùng hồn:
- Bẩm, Binh Kiều ta có căn bản là hoàng tộc, bỏ vàng son để đứng ra chiêu mộ hùng tài cứu dân dẹp loạn nước, đỡ loạn ngoài, sao lại bảo cũng là một đảng cướp được? Bắc phương chưa hành động, ấy bởi Cổ Loa còn có vua. Ta phải nương ngay vào tình thế sắp tàn của Cổ Loa để gấp rút ra tay, trong dẹp sạch các Sứ quân khác, ngoài đủ thì giờ để đón phương Bắc tràn xuống lúc Cổ Loa tàn. Ta hành động chậm, tức là mang tội lớn với đất nước, Giao Châu ta mất vào tay Bắc phương thì ta cũng cùng chung một tội lớn với bọn Sứ quân khác.
Hội nghị nghe Lê Hiền biện giải, ai nấy cũng nô nức muốn ra quân ngay, Sứ quân nghe nói mới đầu cũng phấn khởi, sau lại ngập ngừng:
- Đành rằng ta phải ra tay rồi, nhưng liệu ông thấy Bình Kiều ta đã đủ sức chưa?
Thẩm Thụy Hùng vẻ mặt lo lắng nhìn Lê Hiền như cầu khẩn. Lê Hiền nghiêm nét mặt mà rằng:
- Nếu đợi đến lúc ta có sức mạnh giơ tay là trong nháy mắt quét sạch được loạn Sứ quân ở khắp cõi Giao Châu, phất một ngọn cờ là đủ đánh dội binh Bắc phương trở lại, thì chắc chẳng bao giờ có việc Bình Kiều ta trấn giữ ở một mảnh đất con con này! Ta chưa đủ sức mạnh như thế, mới phải hành động trước tìm lấy sức mạnh chứ không phải là đợi đủ mạnh mới đợi loạn tan mà xuất hiện!
Thẩm Thụy Hùng thở ra nhẹ nhõm, ông ta tiếp luôn:
- Ông Lê Hiền nói như vậy là phải lắm! Ta không yếu, nhưng có sức lấy các nơi khác, dẹp dần dần loạn trong và dựng cái thế đỡ giặc ngoài! Chúa công nên cho lệnh tiến quân ngay mới được!
Sứ quân lúc ấy mới vững lòng, liền bảo:
- Ta vẫn bảo là phải ra quân, nhưng bây giờ ta ra quân như thế nào?
Lê Hiền trịnh trọng:
- Trước khi ra quân, xin được nghe phía các văn quan mưu sĩ định kế cho đã!
Các võ tướng thấy Lê Hiền nói như vậy, thừa biết Lê Hiền nhún nhường, nhưng trong lòng vẫn cứ thấy khó chịu bọn văn quan mưu sĩ. Sứ quân cũng nói:
- Phải đấy, các mưu sĩ của ta có ý kiến thế nào?
Triệu Hữu lại lên tiếng:
- Bình Kiều ta có căn bản là hoàng tộc vương thân, đứng giữa các biến loạn mà vẫn bình yên, há chẳng phải là chính vì nhờ cái căn bản chính thống ấy là gì? Đã như thế, sao lại còn hùa theo với thiên hạ để tranh giành đâm chém, sao không bồi thêm đức, đắp thêm nhân nghĩa mà thu thiên hạ hướng về có phải hơn không?
Triệu Hữu vừa nói dứt, có người rống lên:
- Tức chết đi thôi! Chết đi thôi!
Mọi người còn chưa kịp kinh hãi, đã nghe có tiếng ghế xô người ngã! Lê Hiền vụt đứng dậy nhanh như chớp phóng người đi. Mọi người nhốn nháo rồi kịp nhận ra người vừa rống lên lại chính là Hà Bảo Ninh. Ninh nghe Triệu Hữu xúi Sứ quân thủ thế thi đức bồi ân chờ thiên hạ tụ lại mà được cả nước thì uất khí dâng lên, Ninh kêu lên rồi xô ghế toan xông tới bóp chết Triệu Hữu. Nhưng vừa mới đứng dậy thì uất khí bốc lên mờ cả mắt, đầu nặng như có núi lớn đè xuống, tức thì Hà Bảo Ninh lảo đảo chực ngã xuống mê đi.
Lê Hiền phóng tới thật nhanh kịp đỡ lấy Hà Bảo Ninh, tay phải Lê Hiền vận sức vỗ vào lưng Hà Bảo Ninh để khai giải uất khí ngưng tụ ở huyệt tụ khí. Hà Bảo Ninh người mềm nhũn, mặt nhợt nhạt, khẽ nấc lên vài tiếng rồi thở ra được đều đặn, rồi tỉnh lại. Lê Hiền dìu về chỗ ngồi, mọi người kinh hãi quá chừng. Sứ quân ngẩn người, Triệu Hữu vẻ mặt lạnh như băng, khinh khỉnh không thèm nhìn Hà Bảo Ninh.
Lê Hiền nghiêm giọng:
- Bẩm Chủa công, ta quyết định phải ra quân. Văn sĩ Triệu Hữu khuyên nên thi ân bồi đức, là điều rất nên nhưng việc ấy bây giờ chỉ có thể làm được ở đằng sau vó ngựa xuất chinh mà thôi! Mệnh lệnh từ trên ban xuống các tướng phải tuân hành, không ai được hồ đồ vọng động cả. Việc ông Ninh vừa rồi là không phải, việc lớn trong thiên hạ không nên để cho việc nhỏ làm cho uất khí bốc lên mờ mất cả đầu óc như thế!
Sứ quân ngao ngán, nhìn tình cảnh những muốn bỏ tất cả mà đi. Lê Hiền hiểu rõ tâm tư Sứ quân, cố dịu giọng hòa gi?