Hồi Thứ Sáu Mươi Bốn Tế Giang phá binh Phù Liệt
Bình Kiều thiệt tướng hại quân
Tế sứ vào trình:
- Bẩm Chúa công, quan thủy bộ Thống đốc Lê Hiền sai thuộc hạ gấp rút đem việc lớn ngoài trận địa trình lên Chúa công rõ là: binh ta vào sâu trong địa Phù Liệt không tiến được. Lại thêm, gặp phải binh của Sứ quân Lữ Đường ở Tế Giang cũng âm thầm xâm phạm bờ cõi Phù Liệt, để xuống phía Nam hợp binh với mặt bộ đánh Đằng Châu, khiến cho binh ta cùng một lúc phải đương cự với nhiều mặt, tình hình rất khó khăn. Ngài Thống đốc cũng trình lên Chúa công hay là: binh của Lữ Đường theo đường bộ xuống đánh Đằng Châu, ắt phải đi qua giang sơn Bình Kiều, vậy xin Chúa công cẩn thận canh phòng!
Mọi người nghe tin chết lặng, Sứ quân sững sờ chẳng nói! Hồi lâu, Thẩm Thụy Hùng truyền cho tế sứ lui ra, rồi rụt rè:
- Bẩm Chúa công, như thế quả thật binh ta có điều bất lợi. Mặt ngoài tất ông Lê Hiền thừa sức chủ trì mọi sự, nay còn việc bên trong ta cần phải gấp rút đối phó với Đằng Châu ở mặt Nam, Lữ Đường đem binh theo đường bộ từ các mặt Bắc xuống. Xin Chúa công cho lệnh.
Lúc này, Sứ quân Ngô Xương Xí ruột gan rối bời nhưng đầu óc lại hoang mang trống rỗng như chẳng có gì, Sứ quân không còn nghĩ đến bất cứ việc gì dù lớn hay nhỏ nữa. Khi nghe Thẩm Thụy Hùng nói như vậy, Sứ quân đưa mắt buồn bã nhìn các tướng văn vũ mà rằng:
- Ông Lê Hiền tính việc đường xa, phải vất vả đem quân viễn chiến để mong tạo thế quân bình, lại không ngờ có những biến động khác! Nhưng trước khi ông ấy ra binh, mười phần là tin chắc xoay được tình thế, thì lúc này sao ông ấy không làm như lời nói mà lại trình ta xin cẩn thận là thế nào?
Sứ quân nói xong, hội nghị im phăng phắc, chợt có người vỗ ghế đứng dậy giọng rắn rỏi mạch lạc mà rằng:
- Bẩm Chúa công, lúc quan Thống đốc thủy bộ chưa đem binh ra ngoài, ông ấy có nói rằng: thảng hoặc lúc quân đi chinh chiến ở Phù Liệt mà ở nhà có biến dù là giặc từ hướng nào xâm phạm tới, thì đạo quân ở ngoài của ta cũng vẫn là đạo binh ổn định tình thế. Nay Lữ Đường chia binh hai ngả xuống Nam đánh Đằng Châu nhưng nếu ta sơ hở tất y cũng không nhắm mắt đi qua mà lại chẳng ra tay trộm cướp của ta chút ít! Ông Lê Hiền trình việc quân khó khăn ở ngoài, cũng lại xin Chúa công cẩn thận ở trong, thế là sâu sắc nhìn rõ mọi việc. Nếu cần ra, ta vẫn có thể gấp rút đưa binh ở ngoài về phá cái thế của Lữ Đường trong lúc uy hiếp ta, lại ngăn chặn được Đằng Châu. Như vậy thì mọi việc ông Lê Hiền tính toán đều như đã nhìn thấu tất cả, Chúa Công còn đợi gì nữa mà chẳng cho lệnh ông Lê Hiền đưa binh về đi!
Thẩm Thụy Hùng nghe nói giật nảy mình, hỏi lại ngay:
- Ông nói như thế, có phải là ông bảo rằng: Ông Lê Hiền đem quân viễn chính là lầm lẫn hay không? Vả lại, nếu cần sao ông Lê Hiền không tự đem quân về gấp, mà lại còn đợi lệnh gì nữa?
Người ấy lại khoan thai đáp:
- Tướng đi trận mạc ở xa, có lúc không cần nghe lệnh ở nhà, nhưng nếu việc nhà chưa đến chỗ phải gấp rút triệt binh ngoài để về cứu ứng, thì sao tự nhiên đem binh về? Vả chăng, ông Lê Hiền đem binh ra ngoài cốt vừa lấy cơ hội mở mang bờ cõi, vừa tranh lấy cái thế bảo toàn thắng lợi của mình ở cứ địa Bình Kiều này, vậy nếu không cực kì khẩn cấp tất không nên gọi binh của ông ấy về, mà ta cần phải ngăn chặn đỡ gạt các nơi cần thiết là hơn!
Người biện bạch các lời nói ấy, là Triệu Mai Nhân, người ở Cổ Am (Thái Bình ngày nay). Thuở nhỏ, Triệu Mai Nhân thường vào chơi trong núi An Tử, len lỏi vào những nơi hang động thanh vắng, có khi bỏ nhà đi đến cả nửa năm mới về. Có lần, Triệu Mai Nhân đi lâu ngày mới về, rồi nói rằng: “Một đêm ngủ ở Khe Rồng trên đỉnh núi, nghe tiếng suối đổ như sấm rền, chợt thấy Sơn thần hiện ra bảo rằng: ‘Chốn này là nơi linh thiêng, mai sau chùa chiền dựng nhiều, ngươi hãy bảo cho chúng nhân biết để khỏi làm cho nơi thanh tịnh mất vẻ tôn nghiêm’. (Vì thế sau này các Sứ cứ đến ngày mồng một và ngày rằm đều bỏ chùa xuống núi mà ngủ). Một đêm, Sơn thần lại hiện đến truyền cho họ Triệu nhiều phép lạ, nhưng họ Triệu là người chỉ ưa thích mạo hiểm, nên không mấy thích phép tiên khó học, bèn chỉ xin Sơn thần chỉ dạy cho vũ nghệ. Sơn thần liền truyền cho Triệu Mai Nhân pháp đánh gậy, gọi là “An tử trượng pháp”. Nhờ thế, Triệu Mai Nhân có phép đánh gây cực kì lợi hại, lúc xử đến độ thoát phàm thì trong tiếng gió từ gậy phát ra nghe âm âm như sấm rền trên trời, sức dũng mãnh không biết đến thế nào mà lường được”.
Triệu Mai Nhân sau trở về, nức tiếng về phép đánh gậy của thần núi An Tử, một hôm nhân hội của phường Thủy Cơ (đánh cá) ở Đồ Sơn, dân thường có lệ chọi trâu rất náo nhiệt để tế thần. Chẳng may hôm ấy, bảy mươi con trâu cổ được dân làng cho uống rượu tế để sắp đem ra chọi, bỗng nhiên nổi hung đánh nhau kịch liệt, rồi quay sang phá phách cả tám tổng Đồ Sơn, tình cảnh cực kì nguy ngập. Dân phường Thủy Cơ làm đủ mọi cách, đốt cả lửa mà cũng không làm sao cản được bầy trâu, nhà cửa sắp sửa tan nát cả. Bầy trâu cũng đã đạp chết, húc chết mất ít người, buổi tế thần thế là hỏng cả. Vừa lúc ấy, Triệu Mai Nhân đến xem hội, thấy tình cảnh nguy ngập liền đứng ra xin với trưởng phường được phép dẹp loạn trâu.
Cả phường bằng lòng, Triệu Mai Nhân liền sử dụng một chiếc bơi chèo lớn làm khí giới, rồi một mình xông vào bầy trâu, tụ hết tâm thần múa ra những đường gậy cực kì diễm ảo của phép đánh gậy An Tử. Đường bơi chéo lên xuống vùn vụt, trước còn thấy hình, sau như một làn gió thoảng, phát ra những tiếng kêu mới đầu nghe vù vù, sau âm âm như sấm rền ở xa, càng lúc về sau càng như trời sắp nổi giông bão, sấm rền như đã sát mang tai. Cứ thế, Triệu Mai Nhân xông vào bầy trâu mà tung hoành, bơi chèo đi đến đâu bầy trâu dạt ra đến đấy, tiếng sấm rền làm cho bầy trâu kinh hoàng bỏ chạy cả. Duy có một con trâu trắng, cặp sừng lớn cong vòng sắc hồng cực kì hung dữ, hai mắt con trâu đỏ như hai hòn than, con trâu một mình đứng lại chống cự kịch liệt với họ Triệu. Dân tám tổng Đồ Sơn theo chân Triệu Mai Nhân xem y dẹp loạn trâu chọi, hết sức vui mừng hò reo long trời lở đất, bây giờ đứng thành vòng lớn xem họ Triệu chế ngự con trâu trắng.
Triệu Mai Nhân đem hết tinh hoa múa gậy của thần núi An Tử truyền cho để chống nhau với con trâu. Trận đấu long trời lở đất, con trâu quái dị bốn vó cào đất đến trùng xuống một vùng lớn cả mấy trượng. Triệu Mai Nhấn đấu với con trâu đến nửa ngày trời vẫn không phân thua được, đến lúc mặt trời vừa tắt nắng thì con trâu trắng bỗng lùi ra xa, đứng thẳng hai chân sau rồi mờ mờ hiện hình thành một vị thần tiên râu bạc dài như mây trên đỉnh núi, vị thần vận áo trắng, tay vẫy Triệu Mai Nhân mà rằng: “Ta dạy phép đánh gậy cho con quả là không uổng công, con khá lắm! Tài trai hãy lập nghiệp lớn, con nhớ kĩ: theo người em thì dựng đại nghiệp, theo người anh thì tiếc hận mai sau nhé!”. Vị thần tiên nói xong, mờ mờ tan biến, tới lúc ấy Triệu Mai Nhân vẫn còn chưa hết bàng hoàng. Thì ra Sơn thần An Tử xuống thế để thử tài họ Triệu và chỉ đường cho y biết cách tiến thân.
Triệu Mai Nhân từ đấy băn khoăn về lời dạy của Sơn thần An Tử, bỏ nhà ra đi, có lần đã muốn theo Bộ Lĩnh lúc Bộ Lĩnh còn là thuộc hạ của Sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu (Hải Dương), sau lại chu du lên phía Bắc rồi gặp Lê Hiền cùng theo về phò Sứ quân Ngô Xương Xí. Họ Triệu ngày đêm nhớ lời Sơn thần, nhưng không hiểu lời nói như thế là sao. Sau công việc bề bộn cũng quên lời dặn cũ.
Nay trong hội, Triệu Mai Nhân lòng trung phó chủ thấy việc lớn không chỉ ngồi đợi sai nên mới khẳng khái luận bàn như thế. Sứ quân nghe nói vừa lòng lắm, Thẩm Thụy Hùng cũng chẳng khỏi vui mừng, các tướng thấy hào khí bừng bừng. Thẩm Thụy Hùng nói:
- Bẩm Chúa công, ông Triệu nói rất phải. Lúc ông Lê Hiền trước khi đem binh đi viễn chinh có nói như thế thật. Nay nếu cần thì Chúa công nên cử ông Triệu cầm quân trấn giữ các nơi, chặn đường không cho binh của Tế Giang xuống Nam, phòng giữ không cho thủy quân Đằng Châu xâm phạm bờ cõi ta.
Sứ quân rất vui lòng, thế là sai Triệu Mai Nhân được quyền điều động binh tướng Bình Kiều, tùy tiện cự địch.
Binh của Triệu Mai Nhân chưa ra khỏi trại, đã lại có tin đồn dập các nơi gửi về: mặt Đông Bắc, binh của Sứ quân Lữ Đường đã vào bờ cõi Bình Kiều, mặt Nam thủy tinh Đằng Châu bị tướng Đào Long Vận của Bình Kiểu chặn trên đất Phù Liệt, liền dốc quân vượt sông xâm phạm Bình Kiều. Còn đạo quân viễn chinh của Bình Kiều do ông Lê Hiền thống lĩnh lại chạm phải đạo quân của Sứ quân Lừ Đường, bây giờ đang hai mặt chống cự cả với binh Phù Liệt và binh Tế Giang, tình hình nguy cấp lắm!
- Binh ta tại Phù Liệt gặp khó khăn, ông Lê Hiền tài thao lược thế mà xoay sở không xong, vậy ta phải tính thế nào để binh ngoài không bại, quân trong đủ sức giữ nhà, các tướng nghĩ sao?
Thẩm Thụy Hùng lập tức bẩm:
- Bẩm Chúa công, binh ra trận có thể gặp khó khăn, nhưng tướng tài vẫn có thể xoay trở được tình thế. Tôi nhất định là ông Lê Hiền sẽ dàn xếp được tốt đẹp. Còn ở nhà, binh Lữ Đường đã vào bờ cõi ta, ta phải ra tay ngay mới được! Bây giờ, tôi xin Chúa công cứ để ông Triệu ra binh, còn mặt Bình Kiều thì tôi xin Chúa công cử một người đi xem xét tận nơi xem sao!
Sứ quân tần ngần, rồi cũng đành phải nghe lời Thẩm Thụy Hùng. Thế là tướng Triệu Mai Nhân mới đưa được quân ra khỏi doanh. Thẩm Thụy Hùng lại xin Sứ quân cho tướng Lâm Linh Mẫn gấp rút vượt Xích Đằng xem xét mặt trận Bình Kiều.
Thế là, tướng Lâm Minh Mẫn nhận lệnh, mặc chiến bào nhẹ, cưỡi ngựa Cổ Đồng, lưng đeo nhuyễn tiên bảy đốt bằng sắt, rồi lạy Sứ quân, biệt các tướng lên đường ngay.
Kể đến việc bên Phù Liệt với hai đạo quân của Bình Kiều. Tướng Thống đốc thủy bộ Lê Hiền ngay khi vừa an binh, đã hội các tướng Mạc Đình Loan, Nguyễn Bá Thượng, Châu Đức Nghiệp, Phạm Tuy Nguyên, Lâm Phúc, Nguyễn Hào, Nguyễn Thự, Từ Bội Gấm, tất cả tám tướng mà rằng:
- Binh ta sang Phù Liệt, là bắt đầu tranh hùng với thiên hạ, đánh Phù Liệt không mấy khó, ta chỉ lo các việc ở nhà mà thôi. Về mặt thủy, có tướng Đào Long Vân là ta không sợ gì nữa. Bây giờ, binh ta đóng ở trong địa Nhân Hiên này trống trải, chỉ vượt một dòng sông là vào vùng gan ruột Phù Liệt, Nhưng, binh ta phải tiến lên Ma Linh, dứt được Ma Linh là xong được cả Phù Liệt. Lúc ta tiến quân, tôi có tin là Đỗ Cảnh Thạc đem quân đánh thành Đan Phượng của Đường Lâm, lại thêm binh Phù Liệt toan tính vượt Đồng Lư mà vào trong địa Sài Sơn uy hiếp mặt Nam Ngô Nhật Khánh. Bây giờ ta đưa quân vào Phù Liệt, là được cái lợi Phù Liệt giốc binh tranh giành với Cảnh Thạc. Nếu thủy quân của ta thắng thủy quân của Đằng Châu, ấy là ta có sức hai binh hợp một mà đánh ngược lên Ma Linh đấy.
Tướng tiên phong Mạc Đình Loan liền hỏi:
- Như vậy, thì từ bây giờ đến lúc binh ta thắng xong thủy quân Đằng Châu, quân ta ở đây phải làm những gì?
Thống đốc thủy bộ Lê Hiền đáp:
- Ta chưa cần phải tiến quân vội, lúc này Phù Liệt không thể mang quân ở Đồng Lư về được, ta án binh có lợi là đợi Phù Liệt mệt mỏi là ta ra tay. Quân ta sang Phù Liệt, là dụng cái phép “Sông chảy đem theo cát, đất bồi tiếp sức sông”, nghĩa là: ta trấn ở đây để cho thủy quân của ta phá thủy quân Đằng Châu không sợ bị Phù Liệt đánh úp, xong việc thủy quân, thì lúc ấy hai binh hợp một cùng phá Phù Liệt, có phải là như dòng sông chảy xuống theo cát mà bồi rộng ra không!
Các tướng nghe giảng mừng lắm. Thế là binh Bình Kiều chia ra trấn giữ các mặt, Lê Hiền cho quân đi thăm thú các nơi, nghe ngóng tin tức các mặt, lại cho liên lạc với thủy quân của tướng Đào Long Vân ngày đêm xem xét mọi biến động. Binh trấn như vậy được nửa tháng trời thì tiết sắp sang Thu, một sáng quân vội vã về trình: “Binh Tế Giang xuống Phù Liệt bị lộ, hiện nay Phù Liệt đã ra quân đương cự nhưng bị thua, quân Tế Giang thừa thắng kéo xuống Nam, sớm tối sẽ gặp phải binh ta!”.
Lê Hiền nghe báo giật mình, với hội các tướng lại mà rằng:
- Không phải chỉ có Đằng Châu là muốn xâm phạm các nơi, mà còn có Tế Giang đã xuất quân viễn chinh rồi, Binh Phù Liệt thất bại, quân ta sắp phải giao tranh với quân của Tế Giang, thế là Phù Liệt này là nơi ba Sứ tranh hùng, nếu ta không phá được binh Tế Giang thì Bình Kiều tất bị nguy đấy!
Rồi Lê Hiền sai tướng Mạc Đình Loan mang cờ tiên phong, đem theo các tướng Nguyễn Bá Thượng, Châu Đức Nghiệp, Phạm Tuy Nguyên và Lâm Phúc kéo một nghìn quân lên phía Bắc Nhân Hiên đón chặn binh Tế Giang.
Tướng tiên phong Mạc Đình Loan vừa đem quân xuất doanh, tin đã báo về: “Binh Tế Giang men theo dòng Xích Đằng kéo xuống, gần lắm rồi!”.
Lập tức, Mạc Đình Loan chia binh làm hai, một nửa do các tướng Nguyễn Bá Thượng, Châu Đức Nghiệp, Phạm Tuy Nguyên kéo tới sát bờ sông, nương vào địa thế chặn binh Tế Giang. Còn một nửa, đích thân Mạc Đình Loan cùng tướng Lâm Phúc kéo sang hướng Tây, ẩn vào bờ bụi mà trấn giữ.
Binh Tế Giang do tướng Trình Kế Ngọc cùng với Quân sư An Dương Thanh Sứ thống lĩnh, vượt Xích Đằng âm thầm kéo xuống phía Nam, nhưng dọc đường đã bị lộ hình tích chỉ vì Quân sư An Dương Thanh Sứ vốn tính dâm dục, binh ra ngoài quan ải chẳng khỏi cao hứng muốn hưởng thụ mỹ nhân ngoại vi, nên đêm nào cũng dùng ma thuật nhả khói giấu hình mà đi làm việc đồi bại. Suốt một giải đất rộng Tây Phù Liệt dọc theo Xích Đằng binh Tế Giang kéo đi thật lặng lẽ không ai hay biết, nhưng trong nhân gian lại náo động vì có loài yêu nghiệt đêm đêm đi phá xóm làng, hãm hiếp phụ nữ thật ghê gớm. Việc đến tai Sứ quân Nguyễn Siêu, Sứ quân nghi ngờ cho quân đi dò xét thì mới phát giác ra việc quân Tế Giang đã vào bờ cõi!
Sứ quân vội cử binh chống cự, nhưng quân Tế Giang mạnh quá không làm sao cản được. Quân Tế Giang đắc thắng, lẽ ra đánh phá Phù Liệt, nhưng còn có trọng trách đánh Đằng Châu nên không dám tự tiện trì hoãn. Từ khi bị lộ hình tích, Quân sư An Dương Thanh Sứ không còn cần phải che giấu nữa, công khai ngày đêm đi tìm thú vui nữ sắc, nhiều lần đại tướng Trình Kế Ngọc khuyên can cũng không được, Ngọc có ý bất mãn trong lòng.
Binh Bình Kiều vừa ít, lại vừa kém tướng, nay chia hai đón đỡ binh Tế Giang thế yếu thấy rõ ràng. Tin báo về cho Lê Hiền rõ, Lê Hiền lo lắng lắm, một mình ngồi trong tướng doanh suy tính công việc đến nửa ngày trời không đứng dậy!
Lúc ấy, ở mặt trận ven sông phía Bắc, quân của tướng tiên phong Mạc Đình Loan cũng vừa gặp binh Tế Giang theo lệnh đại tướng Trình Kế Ngọc, một nửa dàn ra đối trận với binh Bình Kiều, một nửa rẽ ra phía Tây làm thế yểm trợ. Thế là, Mạc Đình Loan chia quân hai mặt giằng co mong cản binh Tế Giang, thì lại bị Tế Giang cũng phân binh hai đạo để xung trận! Mạc Đình Loan dàn quân xong, đã có tin: đạo quân ven sông do ba tướng Bá Thượng, Tuy Nguyên, Đức Nghiệp thống lĩnh đã giao chiến với địch, tình thế nguy ngập vì quân ít, tướng ít! Mạc Đình Loan nghe báo, một mặt thúc quân đem theo tướng Lâm Phúc bỏ phục địa gấp đi cứu ứng.
Ở mặt trận ven sông, Tế Giang đưa vào trận các tướng Dương Lệ Thắng, Nguyễn Hồng Vỹ, Phạm Đăng Tùng, ba tướng theo ngựa đại tướng Trình Kế Ngọc dàn ra một hàng thật hùng dũng.
Đại tướng Trình Kế Ngọc gác ngon giáo dài trên đầu ngựa, soái kì phất phới phía sau do tướng Dương Lệ Thắng giữ, Ngọc vóc dáng to lớn, râu quai hàm vểnh ngược thật dữ dội, da mặt Ngọc vàng ủng như người bị bệnh lâu ngày, nhưng hai con mắt thì tròn xoe long lanh sáng. Ngọc đối trận gọi tướng địch ra để hỏi xem binh nào dám cản quận Tế Giang?
Tức thì tướng Nguyễn Bá Thượng thức ngựa vọt ra, lại sát chỗ các tướng Tế Giang đứng mới dừng ngựa mà rằng:
- Đại binh của Vương thân Ngô Xương Xí chinh phạt Phù Liệt ở đây, sao Tế Giang dám toan tính đánh lén?
Trình Kế Ngọc nghe nói giật mình, thì ra quân của Sứ quân Vương thân Ngô Xương Xí đã vào Phù Liệt, Ngọc có phần nào nể vì cái nguồn gốc vương thân của Sứ quân Xương Xí, nên do dự. Nguyễn Bá Thượng lại hỏi:
- Binh Tế Giang sao dám làm điều hỗn loạn, xuất trận có phải là muốn lén dánh Bình Kiều hay không?
Lúc ấy Trình Kế Ngọc mới bảo:
- Tế Giang với Bình Kiều không thù oán, nay gặp nhau trên đất Phù Liệt mỗi người một việc riêng, không ai xâm phạm đến ai, các ông nhường đường cho quân ta xuống Nam đánh Đằng Châu có được không?
Nguyễn Bá Thượng hỏi:
- Thế còn việc Tế Giang liên minh với Đằng Châu, toan tính đánh úp Bình Kiều ta, thì dễ thường cũng là việc riêng của người ta không được dòm ngó chắc?
Trình Kế Ngọc ngạc nhiên hỏi lại:
- Làm gì có việc Tế Giang liên minh với Đằng Châu? Chính Đằng Châu liên minh với Siêu Loại toan tính dánh Tế Giang, phá Bình Kiều thì có, sao lại có việc mơ hồ liên minh Tế Giang - Đằng Châu được?
Nguyễn Bá Thượng vênh mặt, giọng kẻ cả:
- Vương thân Xương Xí đứng một cõi để thu thiên hạ, dòng dõi vị anh hùng Ngô Quyền, cái thế ấy đã đủ để cả thiên hạ hàng phục hay chưa, sao Tế Giang còn không biết mà dám đem binh làm loạn thế này?
Bá Thượng quen tưởng cái thế vương thân họ Ngô tất phải làm cho cả thiên hạ kính nể, nay đối trận cứ tiếp tục cao mãi giọng mà hạch sách khiến cho Trình Kế Ngọc trước còn cố nén, sau chịu không nổi liền quát lớn lên rằng:
- Bớ tướng kia, thiên hạ đại loạn, anh hùng mỗi người hùng cứ một nơi, làm gì còn có vương thân với bá tánh, sao ngươi còn mơ hồ mãi thế! Nay binh Tế Giang ta xuống Nam không việc gì đến Bình Kiều, kẻ nào cản quân ta là phải chết!
Nguyễn Bá Thượng cười ngất, rồi chẳng nói chẳng rằng giục ngựa lướt tới, ngọn thiết tiên quật ra nhằm giữa mặt Trình Kế Ngọc mà giáng xuống. Trình Kế Ngọc liền huy động trường thương lên chống cự, rồi hô các tướng Dương Lệ Thắng, Nguyễn Hồng Vỹ, Phạm Đăng Tùng đem quân vây chặt binh Bình Kiều. Bên này, hai tướng Châu Đức Nghiệp, Phạm Tuy Nguyên cũng xông vào chiến trận. Bảy tướng ráo riết tranh hùng, quân ra sức đâm chém, ngay từ đầu thất thế đã thấy rõ về phía Bình Kiều.
Chiến trận chưa lâu, đã thấy ở phía Tây một đạo quân ào ào đánh thúc vào sườn binh Tế Giang, thì ra đây là đạo quân của tướng tiên phong Mạc Đình Loan cùng với bộ tướng Lâm Phúc được tin quân nhà không thắng thế liền đem quân nhập trận cứu nguy. Bây giờ đôi bên ngang sức nhau, chiến trận thật gay go quyết liệt.
Các tướng hai bên ra sức tranh tài, quân reo ngựa hí vang dậy cả một vùng khiến cho Sứ quân Nguyễn Siêu đáng lo ngại lại càng thêm lo ngại, đến khi biết tin binh Bình Kiều đánh nhau với binh Tế Giang thì Sứ quân rụng rời tay chân, kinh hãi quá chừng vì binh ngoài xâm phạm bờ cõi Phù Liệt đến như vậy mà không ai biết!
Giữa lúc đôi bên còn đang giằng co chiến đấu, thì ở mặt Tây Bắc bỗng lại có một đạo quân nữa ào đến, đánh dốc vào Bình Kiều thật dữ dội. Thì ra, đây là đạo quân thứ hai của Tế Giang do Quân sư An Dương Thanh Sứ thống lĩnh, đem các tướng Cao Xuân Nhuận, Lê Doãn Hồ và Đỗ Hùng Liệt nhập trận. Quân sư cưỡi con trâu trắng, hai sừng trâu vẽ bùa lạ chằng chịt xanh đỏ đủ màu. Quân sư đầu đội pháp cân bảy màu, mình vận đạo bào màu hạt dẻ, lưng đeo kiếm gỗ ba la mật, ngang pháp đai lại treo cái túi đựng chín xác biển bức Sài Sơn. Pháp sư giọng the thé giục các tướng vào trận, rồi ngồi trên lưng trâu mà xem trận đánh.
Quân Bình Kiều vừa ít, lại vừa thiếu tướng, ban đầu thất thế, sau có thêm tướng tiên phong thành ra trận chiến đã ngang nhau, bây giờ lại bị đạo quân của Pháp sư tới uy hiếp dữ dội, thành ra tình thể phút chốc trở thành nguy ngập. Mạc Đình Loan thấy như vậy trong lòng lo lắm, cố phân các tướng gìn giữ trận địa.
Mạc Đình Loan quen xử trường kiếm, lúc học nghệ tại núi Tản Viên với đạo Sĩ họ Đào, thường luyện phép chạy nhảy từ trên sườn núi chạy xuống, lại từ dưới chân núi chạy lên đỉnh núi, vừa chạy vừa múa kiếm, vì thế Mạc Đình Loan học được phép múa kiếm cực kì lợi hại, lúc xử kiếm đến độ xuất thần thì ý với tay kiếm như hợp một, cứ nghĩ thế nào thì tay kiếm tự nhiên biến ra như thế, vượt cả ra ngoài phép tắc thường lệ, biến ảo như mây trên đỉnh núi, mờ mịt như khói sương chiều che khuất ngàn rừng.
Nay trong trận, Mạc Đình Loan lĩnh cờ tiên phong, theo lệnh của tướng Thống đốc thủy bộ Lê Hiền cầm quân lên mặt Bắc chắn binh Tế Giang, chỉ mới một trận đã thấy binh nhà thất thế, ngó ra lại thấy Pháp sư An Dương Thanh Sứ khét tiếng của Tế Giang cưỡi trâu trắng giám trận, thì Mạc Đình Loan kinh hãi, không ngờ lại gặp phải Pháp sư ở chỗ này!
Nghĩ chưa xong đã thấy Đại tướng của Tế Giang là Trình Kế Ngọc vươn cây giáo dài tung hoành dữ dội, một lúc đánh bật các tướng Nguyễn Bá Thượng, Châu Đức Nghiệp, Phạm Tuy Nguyên trở lại, ba tướng lui ngựa đến năm sáu bước mới dừng lại được. Mạc Đình Loan kinh hồn, không ngờ tướng Tế Giang lợi hại đến thế. Mạc Đình Loan vọt ngựa phóng lên, chặn ngựa của Trình Kế Ngọc mà rằng:
- Tướng kia tên họ là chi? Ta thông báo tên tuổi rồi đấu với nhau vài trăm hiệp được chăng?
Trình Kế Ngọc nghe nói dừng ngựa, ngắm nghía Mạc Đình Loan, rồi cười rộ mà rằng:
- Này anh mặt đen! Ta có gì chẳng đủ để đến nỗi phải hẹp hòi không kể tên cho ngươi biết: Trình Kế Ngọc Đại tướng của Tế Giang là ta đây!
Dứt lời, họ Trình ngửa mặt cười thật khoan khoái, Mạc Đình Loan nghe dứt, trong lòng lại càng thêm lo lắng, danh tiếng Trình Kế Ngọc ở Tế Giang trong thiên hạ ai mà chưa hay biết. Họ Trình thường được người đời gán cho ngoại hiệu là “rồng nước, cọp rừng”, có tài vẫy vùng dưới nước, tung hoành trên bộ không phép chiến đấu nào lại không tinh thông. Trình Kế Ngọc lại có sức khỏe còn hơn cả voi, dai dẳng hơn cả bạch tuộc thuồng luồng, xử cây giáo dài biến hóa không biết thế nào là cùng.
Mạc Đình Loan trong lòng lo lắng, cũng cố giữ thản nhiên, cười thật tươi mà rằng:
- “Rồng nước, cọp rừng” của Tế Giang té ra là ông! Danh tiếng ấy quả nhiên thật chẳng có gì là không đúng! Nay tôi vâng lệnh Sứ quân Vương thân Ngô Xương Xí cầm quân tới đây, chẳng có gì là phải tranh đấu với Tế Giang cả, mỗi người một việc, ta chẳng nên sát phạt nhau là hơn. Nhưng gặp người anh hùng ở chốn này, Mạc Đình Loan tôi xin được thử tài trăm hiệp có được không?
Mạc Đình Loan người ở An Định, Đường Lâm thường vẫn phục cái chí lớn của Bố Cái Đại vương và Ngô Quyền là người cùng xứ, Loan vốn dòng dõi tộc Liễu, mới đẻ ra đã có tám chiếc răng, từ lúc ra đời cho đến lúc lớn lên biết chạy, Loan chưa hề khóc một tiếng, tính lần là thích hành động hơn là nói nhiều. Nay đối trận, thấy các tướng nhà thất thế, lại nghe danh Trình Kế Ngọc, trong lòng vừa lo lại vừa nổi hào khí, khuôn mặt họ Mạc đen nhưng không khỏi lộ vẻ băn khoăn, rồi giục ngựa lướt lên.
Trình Kế Ngọc hô các tướng tạm dừng tay, truyền quân mở rộng vòng vây để tranh hùng với tướng mặt đen của Bình Kiều một phen xem sao. Pháp sư An Dương Thanh Sứ cưỡi trâu trắng, trong lòng bực bội về việc tướng tiên phong Trình Kế Ngọc không nhân cơ hội thắng thế mà phá các tướng Bình Kiều, lại nhận đấu tay đôi với tướng mặt đen. Quân sư liền cho gọi các tướng lại, rồi ghé tai dặn nhỏ ít điều, các tướng Tế Giang nghe Pháp sư dặn, vẻ mặt ai cũng gây cấn gật đầu luôn luôn, rồi các tướng mỗi người rẽ ngựa ra một nơi, vây bọc lấy các tướng Bình Kiều.
Trong trận, tướng Mạc Đình Loan vừa thúc ngựa xông lên, lập tức cây giáo dài trong tay Trình Kế Ngọc đã bay lên, ngoằn ngoèo như không có sức lực, tựa như cọng cỏ lay động trước gió nhẹ miên man. Trình Kế Ngọc vào trận đấu với một đường “Cỏ may đón gió”, đưa cây giáo dài chênh chếch vươn ra như muốn đâm vào ngực Mạc Đình Loan. Loan không né tránh, cứ giục ngựa lướt tới, thanh trường kiếm thép Thạch Cương luyện trên đỉnh Tản Viên giơ cao như chực chém xuống đầu tướng địch.
Trình Kế Ngọc thấy Mạc Đình Loan không đón đỡ ngọn giáo, mà lại thúc ngựa lướt thêm tới, liền buột miệng khen:
- Hay!
Thì ra, cây giáo dài nhập trận với một đường “Cỏ may đón gió” chỉ là một hư thức, Mạc Đình Loan không đỡ mà tiếp tục cử kiếm hạ xuống, khiến cho Trình Kế Ngọc phải buột miệng khen tướng địch giỏi. Họ Trình đợi cho lưỡi gươm xuống sát đỉnh đầu, lúc ấy mới hoành giáo quật như sóng xô vào ngang người Mạc Đình Loan. Nhưng, đường gươm của Mạc Đình Loan bổ xuống theo thức “Đại bàng bắt mồi” cũng lại chỉ là hư chiêu, đến lúc cây giáo trong tay họ Trình tạt ngang thì lưỡi gươm cũng biến thế, cổ tay họ Mạc xoay gập lòng bàn tay vào trong, biểu diễn một thức “Mây xuyên đỉnh núi”, lưỡi gươm như chớp giật cướp đường xỉa vào giữa ngực Trình Kế Ngọc.
Cứ tình cảnh này, thì chắc chắn cả hai tướng đều sẽ bị trúng thương mà chết cả. Ngọn trường kiếm xỉa tới thật mau lẹ, cây giáo dài quật tới như gió giật, chưa chắc vũ khí nào đấu chậm hơn thế nào. Hai tướng vừa giao đấu đã ra những đòn chí mạng, trận đấu cực kì mau lẹ, khốc liệt, các tướng đứng ngoài xem trận đấu không ai là không nín thở, ngực cảm thấy nặng nề như có tảng đá lớn đè lên.
Trong trận, cả hai vẫn giục ngựa xô tới, mũi trường kiếm Thạch Cương vẫn chĩa ra phía trước, cây giáo dài vẫn vươi ra, hai chiến mã vọt đi làm cho mọi người đứng ngoài hốt hoảng! Rồi trong chớp mắt, hai chiến mã lướt ngược đường nhau, hai tướng rời xa nhau, mọi người bên ngoài cùng bật kêu lên một tiếng vừa kinh hoàng vừa như trút được tảng đá lớn đè trên ngực, hai tướng vẫn không xuống tay! Hai ngựa quay đầu lại, hai tướng ghìm cương ngựa rồi nhìn nhau cùng bật cười vang hết sức sảng khoái! Thì ra, hai tướng thừa biết thế đánh dã ra không còn cách nào kìm lại được, cả hai chưa đấu đến độ phải cùng nhau đổi mạng, mà mới chỉ thử đởm lược của nhau!
Thế đánh của cả hai tướng lúc nào cũng mới chỉ là “ảo”, hoàn toàn để thử thách thực tài của nhau. Dù lúc này hai tướng có xuống tay thực sự cũng không đạt được kết quả, nhưng cả hai không biến thế mà cũng chẳng hổi chiêu, tức là vừa tỏ ra lão luyện trong nghề chiến trận, lại thừa đảm lược, cả hai thầm phục nhau?
Hai tướng cười vang xong, bốn mắt long lanh định thần, hai tướng lần này vào trận mới là đọ tài thật sự. Thanh trường kiếm của Mạc Đình Loan bay ra một thế “Sơn Ca Lên Cành”, đường gươm đi chếch từ dưới lên trên xem ra như chẳng định chém vào đâu, nhưng lập tức Trình Kế Ngọc huơ ngọn giáo dài tung ra một thế “Ngư Ông Quăng Lưới”. Ngọn giáo quét rộng một vòng ngang ngực, vừa kịp chặn đường gươm chuyển thể bước vào thức “Nữ Vương Phất Cờ” từ trên cao bổ mạnh chếch xuống chiếu giữa ngực Trình Kế Ngọc xỉa tới. Cây giáo chặn lấy lưỡi gươm, hai tướng trụ ngựa sát vào nhau, bốn mắt vận thần sáng rực, hai khí giới xiết chặt vào nhau.
Giả sử lúc Mạc Đình Loan xử thế “Sơn Ca Lên Cành” mà Trình Kế Ngọc ra chiêu đổ dồn ấy, nhất định chẳng thoát thức “Nữ Vương Phất Cờ” từ nửa chừng đà kiếm vụt đâm xuống, ngọn giáo sẽ đỡ hụt lưỡi gươm nhưng ngực Trình Kế Ngọc sẽ đỡ mũi gươm thần tốc ấy. Tình Kế Ngọc tinh thông chiến trận, ra một đường giáo chặn được lưỡi gươm, người đứng ngoài không thể thấy chỗ tinh diệu ấy của phép chiến đấu.
Hai tướng lúc này không rời nhau ra được, tám vó ngựa lồng lên mà vẫn không thể bước đi, hai tướng ghìm cương trụ ngựa thật vững. Lúc này người nào kém tài ắt sẽ nguy đến tính mạng ngay, bởi vì đòn đánh ra còn đợi biến thế đổi chiêu, hai khí giới dính chặt vào nhau là còn đợi để lừa nhau mà ra sức công kích cho mau lẹ mong chiếm phần thắng lợi.
Cùng lúc ấy, có tiếng quát như sấm nổ, rồi một tướng vọt ngựa cực nhanh lướt đi, nhưng tiếng quát còn âm đã thấy Mạc Đình Loan ưỡn người trên lưng ngựa, tay gươm buông xuống. Mọi người sững sờ, đã thấy tướng Lâm Phúc của Bình Kiều vừa thúc ngựa vừa vươn tay tận lực phóng thanh đoản kiểm đi như một lần chớp. Lập tức có tiếng người rú lên thảm thiết. Thì ra, trong lúc hai tướng Trình Kế Ngọc và Mạc Đình Loan còn ghìm nhau đợi thế, thì tướng Dương Lệ Thắng theo lời dặn lúc nãy của pháp sư An Dương Thanh Sứ, thừa cơ hội lớn phóng thanh đoản đao đâm ngập vào lưng Mạc Đình Loan.
Dương Lệ Thắng đánh lén, bị cặp mắt sáng như sao sa của Lâm Phúc nhận thấy, Phúc quát lớn một tiếng nhưng không kịp cản, vó ngựa của Phúc vọt đi, Phúc giận dữ phóng thanh đoản kiếm cắm ngập vào ngực Dương Lệ Thống để rửa thù cho Mạc Đình Loan.
Cả đấu trường bàng hoàng, Lâm Phúc lướt ngựa lên một tay vươn ra đỡ lấy thanh Thạch Cương kiếm trong tay Mạc Đình Loan rồi thúc ngựa chẹn trước ngựa Trình Kế Ngọc. Ngọc ngây người, việc xảy ra cực nhanh. Mạc Đình Loan gục trên lưng ngựa, lưng còn ngập cây đoản đao của Dương Lệ Thắng.
Lâm Phúc nghiến răng:
- Bớ tướng giặc, có bao giờ anh hùng trong thiên hạ giao đấu mà lại hèn mạt cho đứa đánh lén như vậy không? Quân đốn mạt!
Quát dứt, thanh Thạch Cương kiếm đã như một vệt khói đen bốc lên, Lâm Phúc dồn cả giận dữ vào tay kiếm huy động đến các chiêu thức tối diệu của phép “Hải ba kiếm pháp” mà đánh Trình Kế Ngọc cực kỳ dữ dội.
Lâm Phúc người ở Cổ Phí, Bố Hải, lúc nhỏ theo cha mẹ làm nghề quăng lưới vét cá trong sông, vẫn thường nói: “Cá sông nhỏ nhít bắt làm gì, phải ra biển Đông quăng lưới bắt cá Kình cá Ngạc mới thỏa chí làm trai”. Lâm Phúc ngồi trên thuyền nhìn sóng nước, lâu ngày nảy ra cái ý “làm sao luyện được phép đánh gươm lúc nhẹ thì như mặt nước lăn tăn gợn sóng, mạnh thì như sóng cả lúc biển rộng nổi cơn giận dữ”. Rồi Lâm Phúc tìm thầy học kiếm, cốt để biết được cái căn bản của phép cầm gươm, rồi trở về ngày đêm đùa với sóng nước, vẫy vùng trong nước tự tạo cho mình phép đánh gươm gọi là “Hải ba kiểm pháp”, ý muốn nói phép đánh gươm như sóng biển rộng.
Lâm Phúc nhờ thế có tài xử kiếm cực kỳ dũng mãnh, biến ảo lạ kì, lại hợp với phép lên xuống của thủy triều theo cửa biển Bố Hải luyện thành kiếm đạo, khiến cho kiếm đang tung hoành dũng mãnh bất thần có thể lắng xuống cực chậm chạp êm đềm nhưng trong cái chậm chạp êm đềm ấy lại tàng ẩn cả sức mạnh vô địch của biển rộng. Lâm Phúc vẫn thường tìm kiếm một thanh gươm báu để sử dụng mà vẫn không được, thành ra phải dùng thanh đoản kiểm tầm thường.
Bây giờ trong lúc gấp rút, Lâm Phúc xử một thế “Gió đùa mặt biển” phóng thanh đoản kiểm đi, khiến cho Dương Lệ Thắng dù có kịp nhận thấy cũng không tài nào tránh thoát, lưỡi kiếm ngập vào ngực Dương Lệ Thắng sát đến tận đốc mới dừng lại. Lâm Phúc cướp gươm Thạch Cương của Mạc Đình Loan xong thì tay gươm liền tuôn ra những thể đánh cực kỳ hung dữ chẳng khác nào như sóng biển gào thét trong cơn biển động cực mạnh áp đảo Trình Kế Ngọc lui ngựa đến bảy tám bước vẫn không làm sao định thế được.
Chiến trường náo loạn, các tướng Bình Kiều nhất tề xông tới cướp xác Mạc Đình Loan, chiến đấu dữ dội với các tướng Tế Giang, Quang cảnh hốt nhiên sôi nổi cực kì.
Lâm Phúc tay gươm tung hoành, lòng giận sôi sùng sục, uất khí dồn cả vào đường gươm, khiến ngọn Thạch Cương kiếm biến hóa dị thường, có sức mạnh tưởng đến muôn binh cũng phải tan tành. Sức kiếm ấy, làm sao Trình Kế Ngọc đương cự nổi, gió kiếm phát ra mạnh tưởng như giông bão, Lâm Phúc hai mắt trợn tròn Xóc đến ứa máu, giục ngựa công kích Trình Kế Ngọc khiến Ngọc muốn bỏ chạy cũng không xong.
Còn các tướng khác của đôi bên cùng quấn vào nhau mà đâm chém, pháp sư An Dương Thanh Sứ cưỡi bạch ngưu giám trận, thấy tình thế chưa thể chiếm phân thắng lợi cho quân nhà, liền sai quân giục trống thu quân hưu chiến.
Trong trận, các tướng nghe trống thu quân thì đôi bên đều tìm đường hồi trận. Duy có Lâm Phúc như đang mê đi trong cơn giận dữ dội, tay gươm vẫn tung hoành thật ráo riết. Phúc tung ra một thế “Cá kình vượt sóng”, cả thân hình Lâm Phúc từ lưng ngựa bốc vọt lên, ánh thép Thạch Cương như một vệt đen theo với bóng hình Lâm Phúc bay lên rồi dội xuống cực kỳ hung mãnh. Trình Kế Ngọc kinh hồn, không ngờ tướng Bình Kiều lại hung dữ đến như vậy, trống thu quân đoạn chiến giục vang mà Lâm Phúc như chẳng nghe thấy, cứ tiếp tục lăn xả vào tướng địch đâm chém. Bây giờ một kiếm đánh ra, Lâm Phúc bỏ ngựa vọt lên chụp xuống đầu Trình Kế Ngọc, Ngọc kinh hồn vội cử giáo lên đỡ lưỡi gươm.
Lâm Phúc chụp xuống cực nhanh, nửa chừng thấy Trình Kế Ngọc cử giáo đỡ đường gươm, liền quát lớn một tiếng, tay gươm vòng trở lại, lòng bàn tay ngửa ra ngoài, chuôi gươm tì vào ngực, Lâm Phúc dùng sức mạnh của toàn thân đẩy lưỡi gươm đi, Trình Kế Ngọc vỡ mật kinh hoàng cùng cực, trong cơn cấp bách tướng quên chiến đấu dường như có thần linh phụ trợ nên Trình Kế Ngọc cũng rú lên một tiếng ghê rợn, vặn mình tránh đường gươm thuận thế xử một chiêu “Lộc Tục Tuần Du” cây giáo dài đang nằm ngang bật dựng đứng quật như trời giáng vào người Lâm Phúc.
Lâm Phúc thét lên một tiếng, tay gươm bật thành thế “kình ngư rẽ sóng” vòng nửa vời chiếu thẳng vào mạng mỡ Trình Kế Ngọc, rồi cánh tay Phúc vươn ra cực mạnh buồng chuối cho lưỡi Thạch Cương kiếm phóng đi. Tức thì Trình Kế Ngọc rú lên một tiếng thê thảm, đà giáo dài chưa kịp quật vào người Lâm Phúc đã rũ xuống. Trình Kế Ngọc đang vặn người trên lưng ngựa bỗng đổ xuống thật mạnh. Cùng lúc ấy, Lâm Phúc uốn người lộn một vòng trụ bộ đứng vững trên mặt đất, rồi xốc tới một tay rút bật lưỡi Thạch Cương kiếm cắm phập vào sườn bên phải Trình Kế Ngọc ra. Trình Kế Ngọc rũ xuống chiến trường, nằm im không động đậy. Lưỡi Thạch Cương đổ máu, Lâm Phúc thấy máu càng như điên cuồng, thét lớn một tiếng vọt lên lưng chiến mã, rồi giật cương giục ngựa tận lực xông vào đám các tướng Tế Giang chực sát phạt.
Tướng hai bên thấy quang cảnh ấy ai cũng kinh hoàng, không ai ngờ Lâm Phúc lại dữ dội đến như vậy. Phía Bình Kiều thấy Lâm Phúc phóng gươm đoạt mệnh tướng Tiên phong của Tế Giang, các tướng hứng chí, nhất tề lại giục ngựa vào trận cùng với Lâm Phúc ra tay chém giết binh Tế Giang.
Pháp sư An Dương Thanh Sứ thấy tình cảnh gấp rút, liền ngửa mặt lên cười the thé, rồi giục trâu trắng xông vào trận, pháp sư đi đến đâu bỗng có khói đen tỏa ra mờ mịt đến đấy, phút chốc cả chiến địa âm u đen tối, cách nhau vài bước chẳng trông thấy gì. Các tướng Bình Kiều tại chỉ còn nghe thấy tiếng pháp sư the thé cười như ma kêu quỷ khóc, lại thấy có gió lạnh thổi vi vu, các tướng vừa sợ vừa giận chưa biết phải đối phó ra sao, bỗng nghe thấy tiếng Lâm Phúc hô lớn:
- Các anh em hãy nghe tiếng gọi mà theo ta!
Lâm Phúc cứ thế kêu tiếp, thanh Thạch Cương kiếm trong tay múa như hoa lạc mưa rơi che phủ khắp quanh mình rồi thúc ngựa chạy bừa đến nơi có tiếng cười the thé của pháp sư.
Vài tướng Bình Kiều nghe Lâm Phúc gọi, vội huơ khí giới để hộ thân rồi giục ngựa cố đuổi theo hướng có tiếng Lâm Phúc gọi mà chạy tới.
Các tướng Bình Kiều lạc lõng trong trận như vậy hồi lâu, tai dần dần nghe tiếng cười của pháp sư xa dần, rồi khói đen cũng dần dần tan đi, cuối cùng thi trời quang đãng lại như trước, nắng chiếu le lói soi tỏ mọi vật, các tướng có người trụ ngựa đứng chơ vơ một mình bên bờ sông, có người ngập ngừng dò dẫm như vừa trong hang tối bước ra. Các tướng ngơ ngác tìm phương hướng mới biết ra rằng đã chạy xa khỏi chiến trường nhìn quanh thấy binh nhà lác đác, không thấy Lâm Phúc ở đâu.
Các tướng vội bảo nhau thu nhặt quân sĩ, ngược dòng sông tiến lần đến chỗ giao tranh lúc nãy. Các tướng đi được một thôi đường thì tai lại nghe thấy có tiếng quân reo, khí giới chạm vào nhau loảng xoảng, thì vội giục ngựa thúc quân chạy vội tới.
Tới nơi, thì ra Lâm Phúc lại đang hỗn đấu với các tướng Tế Giang. Pháp sư An Dương Thanh Sứ nhả khói gọi gió mê hoặc các tướng Bình Kiều, vây hãm Lâm Phúc vào trong trận, rồi sai các tướng xúm lại quần chiến để giết Phúc. Lúc ấy, Lâm Phúc một mình một ngựa xung đột cực kì dữ dội, đám các tướng Tế giang đông thế cũng không tài nào lại gần Lâm Phúc được.
Nguyễn Bá Thượng từ đằng xa giục ngựa chạy tới, đã thấy binh đôi bên lẫn vào nhau mà đâm chém, lại thấy pháp sư cưỡi con trâu trắng đứng ở một bên giám trận, thì liền nảy sinh ý nghĩ táo bạo là: thừa cơ tập kích giết chết pháp sư, ắt Tế Giang phải vỡ quân. Nghĩ rồi, Nguyễn Bá Thượng vòng ngựa một mình chạy đi ngả khác, giữa khi ấy các tướng tiếp tục giục ngựa vào trận tiếp ứng cho Lâm Phúc.
Nguyễn Bá Thượng vóc vạc thấp nhỏ nhưng cực kì nhanh nhẹn. Từ lúc theo tướng tiên phong Mạc Đình Loan sang sông, Thượng luôn luôn lo lắng sợ binh nhà vào đất lạ có nhiều nguy hiểm, đến lúc vào trận bị đại tướng Tế Giang là Trình Kế Ngọc đánh dội lại, sau tận mắt lại thấy Mạc Đình Loan bị thảm sát, rồi Trình Kế Ngọc bị Lâm Phúc giết chết tại trận rửa thù. Nguyễn Bá Thượng trong lòng vừa buồn tủi vừa uất hận sinh ra hoang mang quên cả phép hành quân chiến trận, chỉ lăm lăm một mình chém giết các tướng địch cho kì được mối hả dạ. Bây giờ thấy pháp sư đứng một mình giám trận, thì trong lòng sôi nổi liền rẽ ngựa chực đánh lén.
Nguyễn Bá Thượng chạy một hồi, rẽ quân đôi bên mà đi, chẳng mấy chốc đã vòng ra phía sau, mắt đã thấy bóng dáng pháp sư với con trâu trắng.
Bá Thương hồi hộp, thúc ngựa chạy tới nữa, càng lại gần Bá Thượng càng sợ pháp sư nghe tiếng vó ngựa đập trên mặt đất thì mưu tập kích ắt bị lộ, nghĩ thế Bá Thượng liền xuống ngựa, chạy bộ lại đằng sau pháp sư. Trong trận quân đôi bên reo hò ầm ầm, các tướng quấn vào nhau đánh vùi, pháp sư dường như chẳng biết đằng sau có kẻ đang lẹ làng xông tới để đánh lén.
Nguyễn Bá Thượng tuy mang nặng hận trong lòng, biết pháp sư là người điều khiển trận chiến của Tế Giang, nếu giết được y tất đạt thắng lợi cho quân nhà, nhưng lúc nãy khi nghe Lâm Phúc lớn tiếng mắng Trình Kế Ngọc là vào trận hèn hạ đốn mạt cho người đánh lén, bây giờ Bá Thượng thấy nếu mình đánh lén pháp sư tất cũng là đốn mạt hèn hạ, nghĩ thế liền nhẹ bước tới sát sau lưng pháp sư, vươn tay cởi roi sắt quấn quanh lưng ra, rồi quát lên:
- Yêu nghiệt...
Tiếng quát vừa nổi lên, pháp sư An Dương Thanh Sứ vốn là kẻ cực kì sắc sảo chưa cần quay đầu lại cũng biết có nguy đánh lén sau lưng, liền giật dây thúc cho trâu trắng vọt lên cực nhanh mà chạy chết. Nguyễn Bá Thượng chỉ vì muốn hành sự quang minh, thành ra để lỡ cơ hội tốt!
Bá Thượng vừa mở mồm chưa nói hết câu, đã thấy pháp sư thúc trâu vọt chạy, liền chuyển bộ đuổi theo: cây roi sắt múa ra vù vù quất tới một ngọn vào giữa lưng pháp sư, nhưng tầm roi không tới khiến pháp sư chỉ bị đầu roi xiết vào lưng đau tưởng xé da banh thịt. Pháp sư mím môi nghiến răng cố nhịn đau, ra sức thúc trâu chạy gấp. Chẳng mấy chốc pháp sư đã bỏ xa Nguyễn Bá Thượng, Bá Thượng để lỡ cơ hội đoạt tính mạng pháp sư, trong lòng vừa tiếc lại vừa giận, ngó ra chẳng biết làm cách nào để có ngựa mà đuổi theo pháp sư. Nghĩ chưa dứt đã thấy pháp sư quay con trâu trắng chạy trở lại. Bá Thượng khấp khởi mừng thầm!
Nào ngờ, pháp sư bị một ngọn roi thật đau đớn, nhưng thoát chết thì trong lòng sôi nổi giận dữ, thúc trâu chạy được xa rồi liền định thần vận lực, một tay sờ xem vết thương ứa máu ở lưng, một tay điều khiển dây trâu cho quay trở lại, hai mắt pháp sư nhỏ tí tròn xoe như hai chấm lửa. Con trâu nhịp bước chạy tới, khi còn cách Nguyễn Bá Thượng khoảng vài chục bước. Pháp sư vươn tay rút thanh kiếm gỗ Ba La mật treo ở lưng xuống, pháp sư tay phải cầm gươm chỉa thẳng ra đằng trước, tay trái bỏ dây trâu mà ấn lên ngực. Bá Thượng trụ bộ, cây roi sắt lăm lăm trong tay đợi chờ đấu với pháp sư!
Con trâu trắng sừng vẽ bùa xanh đỏ chằng chịt, chậm chậm bước, rồi khoan thai đi lại, Bá Thương hồi hộp, hai mắt đăm đăm nhìn vào mặt pháp sư đợi chờ. Nguyễn Bá Thượng không ngờ rằng pháp sư tinh ranh, có yêu thuật nhiếp hồn cực kì lợi hại, nhìn vào mặt pháp sư là tự tìm lấy cái chết: pháp sư trên lưng trâu trắng, tay vẫn vươn thẳng thanh gươm gỗ, mặt pháp sư như đanh hẳn lại, hai mắt lấp lánh như có ánh lửa tự thân nhiếp hồn Bá Thượng. Trâu tiến thêm được vài bước, quả nhiên Nguyễn Bá Thượng tự nhiên tâm thần thấy hoang mang, rồi như người bắt đầu đi vào giấc ngủ. Bá Thượng hai mắt nhắm lại tâm hồn lúc ấy thật thảnh thơi như đang ở nhà mình trong một chiều trời êm ả. Ngọn roi sắt buông thõng. Bá Thượng đứng rũ người ra như gà phải mưa. Tức thì, pháp sư một tay vẫn vươn kiếm gỗ, tay kia từ ngực buông xuống vỗ mạnh lên lưng trâu, tức thì con trâu trắng như nghe hiệu lệnh quen thuộc, cất bốn vó đạp bụi phóng tới cực nhanh, đầu con trâu cúi sát mặt đất.
Nguyễn Bá Thượng vẫn thản nhiên đứng như người đang say ngủ, con trâu trắng xông tới rống lên một tiếng rồi tung cặp sừng cong to lớn chém thẳng vào bụng Nguyễn Bá Thượng. Thảm thay, Nguyễn Bá Thượng lừng danh với tay roi sắt, nay giữa trận đứng thản nhiên chịu chết vì sừng trâu trắng của pháp sư Tế Giang. Con trâu lắc cặp sừng đâm như giáo nhọn xỉa vào người Nguyễn Bá Thượng, rồi ngửng đầu xốc xác Bá Thượng máu tuôn xối xả chạy theo lệnh pháp sư vào trận. Xác Nguyễn Bá Thượng vướng trên sừng trâu, ruột gan tràn cả ra ngoài, pháp sư cất tiếng cười lên the thé át cả tiếng quân reo ngựa hí giữa chiến trường.
Pháp sư An Dương Thanh Sứ thúc trâu vào trong trận, binh Tế Giang thấy pháp sư lại đạt thắng lợi giết một tướng Bình Kiều thì hò reo rầm rầm.
Các tướng Bình Kiều kinh hãi quá chừng, mọi người chết lặng nhìn cái cảnh xác Nguyễn Bá Thượng nát bét mắc trên sừng trâu trắng của pháp sư. Cả chiến trường bỗng nhiên im lặng, tất cả trong một thoáng kinh hoàng đều bất động.
Bỗng có tiếng thét thật thê lương, rồi một tướng thúc ngựa vọt tới. Lúc ấy chiến trường mới chợt xao động lại. Tướng vừa thét rồi xông tới lại chính là Lâm Phúc. Lâm Phúc từ lúc giết Trình Kế Ngọc, lửa giận còn đang bừng bừng, lại thấy pháp sư dụng yêu thuật nhả khói che khuất cả chiến trường khiến cho binh Bình Kiều hỗn loạn, bây giờ ngó ra thấy pháp sư vênh vênh trên lưng trâu trắng. Nguyễn Bá Thượng chết thảm trên sừng trâu thì lúc đầu Lâm Phúc cũng sững sờ đến mất hồn, rồi bừng tỉnh kêu lên một tiếng thảm thiết, uất khí lại bừng bừng, Phúc giục ngựa xô dạt các tướng ra nhào tới pháp sư.
Các tướng Bình Kiều cũng thúc ngựa xông tới, các tướng Tế Giang cũng vội thúc ngựa toan cản Lâm Phúc. Lâm Phúc như mê đi rồi, không cần biết các tướng địch muốn cản đường, Phúc cứ giục ngựa nhào đến chỗ trâu trắng của pháp sư, đến khi trước mặt các tướng Tế Giang chắn mất lối đi thì Phúc vươn thanh Thạch Cương kiếm, tận lực phóng ra một đường “Sóng thần lên địa lục”, thanh gươm từ bên phải Lâm Phúc bay như chớp giật sang bên trái quét một vòng vào giữa đám tướng Tế Giang. Lập tức, các tướng Tế Giang người lui ngựa, người vươn khí giới cản gươm Lâm Phúc, Lâm Phúc dồn cả sức mạnh vào đường gươm, khiến cho thế đánh cực kì hung mãnh tuy chưa sát phạt được ai nhưng cũng đủ khiến các tướng Tế Giang dạt cả ra.
Pháp sư An Dương Thanh Sứ thấy Lâm Phúc xông tới không khỏi kinh hãi, nay lại thấy các tướng phải dạt ra chỉ vì một đường gươm của Phúc, pháp sư càng kinh hãi vội giục trâu quay đầu toan chạy. Lâm Phúc quát lớn:
- Loài yêu nghiệt! Chạy đi đâu?
Quát dứt, Lâm Phúc đã vọt ngựa xông lên, rẽ các tướng Tế Giang ra mà đuổi theo pháp sư. Lâm Phúc vừa vọt đi, các tướng Tế Giang cũng lại ngựa đuổi theo, phía sau các tướng Tế Giang là mấy tướng Bình Kiều cũng thúc ngựa chạy theo nốt. Quân đôi bên hằm hè cuốn theo đám các tướng.
Lâm Phúc đuổi trong nháy mắt là kịp pháp sư. Thạch Cương kiếm lại giơ cao, Lâm Phúc quát như sấm nó:
- Yêu nghiệt? Nộp mạng mau!
Cùng với tiếng quát, Lâm Phúc xử một thế “Đê dài ngăn sóng”, lưỡi gươm từ trên cao bổ xuống một vòng rộng cực đẹp cản trước đầu trâu của pháp sư, pháp sư không còn hồn vía, vội vỗ trâu rẽ sang một bên mà chạy. Lâm Phúc huơ gươm vòng ngựa chẹn trước con trâu, rồi nghiêng người trên lưng ngựa phóng ra một gươm chém xả xuống giữa đầu con trâu, pháp sư hồn vía lên mây trong cơn thảng thốt giật bừa dây kéo đầu trâu quay lại lưỡi gươm vừa chém xuống không chém trúng giữa đầu con trâu, nhưng cũng xả băng ngay chiếc sừng bên trái sát vào sọ, lập tức xác Nguyễn Bá Thượng rớt ngay xuống, con trâu rống lên dữ dội rồi cất vó phóng chạy như điên cuồng. Lâm Phúc vòng ngựa trở lại chực đuổi theo, các tướng Tế Giang tức thì tận lực vây lấy Lâm Phúc mà đâm chém không cho Phúc đuổi theo pháp sư.
Lâm Phúc quần ngựa giữ xác Bá Thượng, tay gươm huơ như chớp giật đánh dạt các tướng Tế Giang ra, cùng lúc ấy các tướng Bình Kiều cũng xông tới trợ chiến. Lâm Phúc rảnh tay lại tìm đường giục ngựa đuổi theo pháp sư.
Trời chiều đã sẩm tối, chiến trường hỗn loạn ghê gớm. Lâm Phúc vừa giục ngựa vọt ra khỏi đám các tướng, nhìn ra phía xa thấy bóng pháp sư và con trâu trắng bây giờ chỉ là một khối đen mờ, Lâm Phúc rít lên một tiếng giật cương cho ngựa tung vó đuổi theo. Phúc vừa cho ngựa chạy được vài bước, thì một mũi tên xé gió bay tới cắm vào giữa lưng Phúc, Lâm Phúc đau đớn rú lên một tiếng, ưỡn người lên lưng ngựa, hai tay chới với, suýt ngã xuống.
Thì ra, Lâm Phúc xông xáo trong trận dữ dội quá, sát phạt kinh hồn khiến cho thế trận của Tế giang thắng mà hóa tan nát, nhưng chính vì thế mãi đến lúc này tướng Cao Xuân Nhuận của Tế Giang mới có cơ hội phóng tên bắn chết Lâm Phúc. Cao Xuân Nhuận là tướng giỏi đánh thiết tiên, lại có tài bắn cung trăm phát không trật một, từ lúc vào trận cùng các tướng cự với Bình Kiều gặp phải Lâm Phúc dữ dội quá, vừa cấp bách chưa có cơ hội để dùng cung tên hạ Phúc.
Nay vừa lúc Lâm Phúc bỏ các tướng một mình chực đuổi theo pháp sư, các tướng khác của Bình Kiều thì còn vướng các tướng Tế Giang cản lại, nhờ đấy mà Cao Xuân Nhuận mới lặng lẽ theo sát Lâm Phúc, đợi đúng lúc Lâm Phúc vừa giục ngựa quay lưng lại liền phát tên giết Phúc.
Lâm Phúc trúng một tên thấu phổi, lảo đảo chực ngã ngựa. Cao Xuân Nhuận thúc ngựa vọt lên, ngọn thiết tiên vươn ra tận lực quật xuống ngang lưng Lâm Phúc, Phúc hứng trọn một roi sắt băng khỏi lưng ngựa ngã xuống chết ngay. Cao Xuân Nhuận cả mừng giục ngựa quay lại hô các tướng Tế Giang đoạn chiến giữ thắng lợi.
Các tướng vào trận từ xế trưa đến lúc này cũng quá mỏi mệt rồi, vả lại đôi bên đều thiệt tướng hại quân, chiến trận hỗn loạn nếu cứ đánh nhau mãi như thế này ắt sẽ chết dần mất cả. Thế là đôi bên tạm dừng tay hưu chiến.
Trời tối hẳn thì đôi bên đã thu xong quân, dàn trận vừa để nghỉ ngơi vừa canh chừng đối phương. Phía Bình Kiều chỉ trong một trận đánh thiệt ba tướng Mạc Đình Loan, Nguyễn Bá Thượng, rồi Lâm Phúc, thảy đều là tướng tài, khiến cho các tướng còn lại chẳng khỏi đau đớn, lo lắng.
Bến Tế Giang thì thiệt hại tướng Dương Lệ Thắng, Trình Kế Ngọc, suýt nữa thì pháp sư An Dương Thanh Sứ cũng nguy đến tính mạng. Như vậy, thì phía Bình Kiều tuy thiệt hơn một tướng, nhưng xét lại chưa chắc đã là thua bởi quân ít, thế cô mà vẫn địch được Tế Giang chưa đến nỗi vỡ trận.
Bây giờ, các tướng Bình Kiều: Châu Đức Nghiệp, Phạm Tuy Nguyên trước tình thế nguy ngập trong lòng cực kì lo sợ, một mặt đưa ba tướng tử trận về Bình Kiều một mặt gấp rút báo tin cho Thống đốc thủy bộ Lê Hiền được rõ để cầu cứu. Hai tướng bàn công việc, Châu Đức Nghiệp bảo:
- Binh ta ra trận, tất cả có năm tướng ở mặt này, thì ba tướng đã tử trận, giả sử bây giờ quân Tế Giang lại đến khiêu chiến thì sức hai ta làm sao cự lại được! Mà lui quân, thì thế nào cũng bị địch đuổi đánh, vả lại còn binh Phù Liệt cũng có thể bất thần đánh ta, tình cảnh thật nguy khốn, ông có kế gì tạm giữ quân để đợi ngài Thống đốc thủy bộ kịp tới cứu hay không?
Phạm Tuy Nguyên đáp:
- Binh ta cự với địch trận vừa rồi, thiệt thì có thiệt, nhưng địch cũng không phải là được nhẹ tay, địch cũng mất hai tướng, như thế thì ta chưa thua, nhưng sức ta yếu. Địch đoạn chiến là có ý sợ ta, ta có thể tạm án binh để lừa địch, đợi ngài Thống đốc đưa binh cứu viện mới xong.
- Ta dụng kì bình thế nào?
- Bây giờ, binh ta còn hơn nghìn rưỡi, ta chia làm hai, ông giữ một nửa đóng ven sông, một nửa tôi giữ trấn ở phía Tây, hai cánh quân yểm trợ cho nhau, ta nên dùng cung tên để đẩy dịch chứ đừng giao chiến hoặc giả bất đắc dĩ phải giao chiến thì ta cũng chỉ nên dàn quân rộng ra mà quấy phá địch ở các nơi, không tụ quân đông cho địch dễ chém giết. Nếu địch đánh binh của ông, tôi cứu ứng, nếu địch đánh binh của tôi thì ông cứu ứng, có thế mới xong.
Hai tướng bàn bạc với nhau đến quá nửa đêm, tế tác hấp tấp vào bẩm:
- Binh của ngài Thống đốc thủy bộ sắp tới nơi rồi!
Hai tướng nghe báo cả mừng, vội bước ra ngoài doanh đón tiếp.
Chưa biết việc sau ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—