Hồi Thứ Sáu Mươi Lăm Lê Hiền ra tài thao lược
Tướng Hoa Lư đánh tráo mật thư
Nhắc lại, tướng Bình Kiều Lâm Linh Mẫn cưỡi ngựa Cổ Đồng, lưng quấn thiết tiên bảy đốt, một mình một ngựa tuân lệnh Sứ quân Ngô Xương Xí tìm đường vượt Xích Đằng sang Phù Liệt để tận mắt quan sát tình thế. Họ Lâm vừa vượt được Xích Đằng, đã gặp đám quân Bình Kiều sắp sửa vượt sông đưa xác ba tướng tử trận về. Lâm Linh Mẫn thấy sự thể rụng rời tay chân, kinh hoàng quá độ, Lâm hỏi quân sĩ mọi việc, rồi bảo quân cứ đưa xác ba tướng về. Lâm lại một mình theo Sứ quân dặn gấp rút vượt đường tới gặp Thống đốc thủy bộ Lê Hiền.
Lúc ấy, Lê Hiền đã nhận đủ tin chiến trận mặt Bắc, binh Tế Giang lẫn binh Bình Kiều đều thiệt hại, bây giờ binh Bình Kiều phải chia đôi làm thế giằng co tạm chống đỡ. Được tin Lê Hiền buồn rầu không cùng, liền hội ba tướng Nguyễn Hào, Nguyễn Thự, Từ Bội Gấm lại mà rằng:
- Hung tin vừa cho biết mặt trận của ta ở phía Bắc thiệt ba tướng Mạc Đĩnh Loan, Nguyễn Bá Thượng, Lâm Phúc, xác ba ông ấy đang đưa về Bình Kiều; phía Tế Giang cũng thiệt hại hai tướng, quân đôi bên cùng bị chết ít nhiều, như thế là chưa bên nào thắng bại nhưng sức quân đi đánh ở xa đã bị hao mòn. Nay, quân ta trấn ở đây để trợ chiến cho thủy quân của tướng Đào Long Vân, quả nhiên Đào Long Vân đã đẩy lui được thủy quân Đằng Châu, tuy rằng trận chiến không dữ dội nhưng cũng là thắng rồi. Ta tin rằng: tình hình mặt trận Phù Liệt gặp khó khăn, ta trình về Sứ quân tất đã tới nơi rồi, lúc này Bình Kiều thế nào cũng đã phòng bị các mặt, vậy ta không còn phải ngại gì thủy quân Đằng Châu quấy phá Bình Kiều, ở mặt Bắc ta cũng không phải lo đạo quân Tế Giang theo đường bộ xuống đánh Đằng Châu đi ngang giang sơn ta nữa. Đạo quân Tế Giang vượt Phù Liệt toan xuống phía Nam rồi vượt sông đánh sang Đằng Châu, hai mặt quân Tế Giang như vòng tay lớn uy hiếp Đằng Châu thì mặt Phù Liệt bị ta cản lại, khiến cho mặt binh Tế Giang ở Bình Kiều cũng không dám nhúc nhích. Nay quân ta ở mặt Bắc yếu thế, ta phải gấp rút đưa quân lên dàn trận, ra mưu, khiến cho bên trong Bình Kiều ta được yên ổn, bên ngoài phá tan binh Tế Giang, đánh bại Phù Liệt. Có thế ta mới ổn định được mặt Nam Bình Kiều, không cần đánh mà đuổi được đạo quân của Tế Giang ẩn núp ở phía Nam giang sơn đợi đánh Đằng Châu. Sau đấy, ta mới có thể vững vàng để mở rộng thêm giang sơn, chinh phục các Sứ quân khác.
Lê Hiền ngừng nói, đưa mắt nhìn ba tướng, người nào cũng băn khoăn, vẻ mặt lo lắng. Lê Hiền trầm ngâm rồi tiếp:
- Quân ta ra ngoài quan ải, khó khăn ắt hẳn là điều thường rồi, nhưng dàn xếp cũng xong xuôi được. Điều ta lo ngại nhất, là tinh thần của Sứ quân ta ở nhà. Sứ quân nhìn việc lớn thiên hạ, thấy Cổ Loa suy đồi đổ nát thì buồn bã, ngó ra thấy thiên hạ tranh hùng náo loạn thì lại ngại ngùng chán nản, ta chỉ sợ Sứ quân ta không vững niềm tin thì việc lớn khó thành mất!
Các tướng nghe nói cũng lo lắng, im lặng, Lê Hiền tiếp:
- Việc gấp rút bây giờ là ta di quân lên mặt Bắc ngay mới được, vậy ba ông chuẩn bị cho quân lên đường ngay nhé!
Rồi binh Bình Kiều do Lê Hiền cai quản rời vị trí lên mạn Bắc. Lê Hiền lại cho người báo cho tướng thủy quân Đào Long Vân, bảo Vân đem cả thủy quân lên phía Bắc vào địa phận châu Gia Lâm lập trại yểm trợ cho đạo quân của Lê Hiền, đồng thời phải hết sức cẩn thận canh chừng các động tĩnh của Tế Giang ở ngay phía sau thủy trại của Đào Long Vân.
Phân phối các nơi xong, Lê Hiền lập tức mang quân đi ngay, quá nửa đêm hôm ấy hai quân gặp được nhau, Lê Hiền một mặt truyền quân hạ trại, một mặt cùng các tướng vào doanh bàn bạc.
Lê Hiền nhìn hai tướng Châu Đức Nghiệp, Phạm Tuy Nguyên rồi nói:
- Binh ta chỉ mới một trận đã tan nát cả, không phải là tướng của ta kém tài, cũng không phải quân ta không biết chiến đấu, mà là vì có sự bất ngờ trong tình thế, người cầm quân phải liệu trước bất ngờ, ta không liệu được chỗ ấy là lỗi ở ta.
Phạm Tuy Nguyên cắt lời:
- Đành rằng ta phải liệu đến chỗ bất ngờ, nhưng bất ngờ trong tình thế này nhất định không phải là lỗi ở ngài được...
Lê Hiền hỏi lại ngay:
- Ông nói như vậy là thế nào?
- Quân ta vào Phù Liệt là đất lạ, bất ngờ trong đất lạ, dù ta có liệu trước cũng không thể hết được. Đến ngay như Phù Liệt đây, giang sơn của họ mà họ còn không biết trước được bất ngờ, chẳng biết binh Tế Giang đã vượt sông xâm phạm bờ cõi của họ nữa là ta! Như thế, thì sao có thể nói được rằng ngài có lỗi không tiên liệu trước bất ngờ!
Lê Hiền tự nhận lỗi, là hành động quang minh, chính đại, Phạm Tuy Nguyên hăng hái biện bạch mới thật là quang minh chính đại hơn nữa. Lê Hiền trầm ngâm chưa nói gì, Phạm Tuy Nguyên hỏi:
- Bây giờ, ngài định liệu như thế nào? Tôi nghĩ ta chẳng nên nói đến việc thua được trong lúc này nữa, chúng tôi xin đợi để được nghe định liệu của ngài chống đỡ mọi mặt:
Lúc ấy Lê Hiền mới nói:
- Thật ra thua một trận chưa phải là thua, được một trận cũng chưa thể bảo là đã được cả, vững được tình thế, tranh được cái thế chủ động, đây mới là thắng. Nay, quân ta vào đất lạ, không phải chỉ phải đương đầu với một Sứ quân Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt này, mà cùng một lúc phải đương đầu với cả Đằng Châu, Tế Giang, cũng lại có thể có cả Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động, rồi có thể Lý Khuê ở Siêu Loại cũng phải nhảy vào cuộc tranh hùng nếu không thì có thể bị Lữ Đường hay Nguyễn Thủ Tiệp tiêu diệt. Xa nữa là Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư, Cổ Loa cũng có thể xuất binh lấy tiếng là dẹp các Sứ quân, ngần ấy khó khăn ta phải đương đầu mà không sợ, chỉ sợ có một điều.
Lê Hiền ngừng nói, nhìn năm tướng một lượt, năm tướng nghiêm trang đợi nghe, ai cũng có vẻ gay cấn. Lê Hiền chậm rãi:
Tranh hùng với thiên hạ có người yếu có người mạnh, có người được lợi thế có người không lợi, nhưng cái tinh thần quyết chiến gồm thâu thiên hạ mới là cần thiết. Bình Kiều ta sức không yếu, nhưng Sứ quân Ngô Xương Xí dòng dõi Ngô Vương là điều để cho chúng ta hi vọng dựa vào đấy mà tranh hùng với thiên hạ thì lại không vững tinh thần. Sứ quân chán nản là điều đáng lo nhất của ta, lại thêm tình thế khó khăn hiện giờ là điều dễ làm cho Sứ quân thật sự chán nản. Ta cũng lại không thể không trình Sứ quân biết tình thế, sự khó khăn phải làm thế nào thay bằng phấn khởi rành rành mới mong thuyết phục được Sứ quân. Vì thế, trong tình hình này các ông cho là ta phải hành động ra sao?
Năm tướng nghe Lê Hiền nói, ai cũng thở dài, Tướng Từ Bội Gấm nói:
- Quả thật Sứ quân không mấy vững tinh thần, nhưng cái danh nghĩa dòng dõi Ngô Vương chúng tôi rất đồng ý với ngài là cần phải dựa vào đấy mới dựng được nghiệp lớn, cứu được dân được nước. Tôi cho rằng: Ngài nên hội bình thủy bộ của ta ở ngoài, quyết liệt mở trận lớn, đánh thắng vài trận lớn là tự nhiên Sứ quân vững tinh thần ngay, từ dây ta mới có đà mà lo mọi việc được!
Bốn tướng kia nghe nói đều rất đồng ý, ai cũng cho là phải, duy có Lê Hiền thì vẫn trầm ngâm, các tướng thấy vậy thì e ngại, băn khoăn đợi xem ý Lê Hiền thế nào. Hồi lâu, Lê Hiền mới ngửng đầu lên chậm rãi mà rằng:
- Nếu chỉ cần tranh thắng một vài trận lớn, thì cũng chẳng có gì là khó! Ta không đánh binh của Tế Giang, ắt cũng có chỗ nào đấy của Phù Liệt ta có thể đánh để tìm thắng được. Nhưng hành động như thế là hỏng cả, sức ta thắng được một vài nơi, chứ không thắng được cả thiên hạ, nếu thắng một nơi mà được cả thiên hạ thì ta nhất định tìm cái thắng ấy! Bây giờ cái thế của ta là phải làm sao để cho các nơi sụp đổ cả, mình ta đứng vững, đến lúc chung quanh ta tan nát ta mới ra tay cho nhanh, thu lấy cả thiên hạ. Còn bây giờ…
Từ Bội Gấm nóng ruột, hỏi vội:
- Còn bây giờ thì ngài thấy phải thế nào?
- Cùng một lúc ta phải đương cự với nhiều mặt, ta phải tạo ra cho kì được cái thế “ở ngoài mà vững được, bên trong an nhàn đợi xem thiên hạ tự loạn”.
Từ Bội Gấm hỏi thêm:
- Cái thế ấy như thế nào?
Lê Hiền bất thần hỏi lại các tướng:
- Các ông thấy điều gì ta đáng lo ngại nhất trong lúc này?
Tướng Châu Đức Nghiệp đáp:
- Lúc này, ngài có nói rõ và chúng tôi cũng thấy điều đáng lo ngại nhất của ta là tinh thần của Sứ quân!
Lê Hiền gật đầu:
- Đúng! Nhưng đây là cái lo xa, nếu cái lo trước mắt phá tan được thì cái lo ấy sẽ không còn nữa!...
Phạm Tuy Nguyên nói luôn:
- Như thế, ắt là tình hình mặt trận của ta ở đây?
Lê Hiền đáp:
- Đúng! Binh ta chưa thua đến nỗi phải tan, nhưng nếu không làm cho cả thiên hạ rối loạn tự tan nát thì ta không thể nào thoát khỏi bị tan quân ở đất Phù Liệt này được! Mà tan quân như thế, tức là làm cho Sứ quân nhất định phải từ bỏ cả, tới lúc ấy thì không còn hi vọng gì xoay trở được nữa! Thành ra như vậy, ta gặp phải khó khăn là: không được tìm chiến thắng nhất thời ở mặt trận này, mà phải tạo ra hoàn cảnh làm sao để cho chung quanh ta địch tự chém giết lẫn nhau, đến lúc thuận lợi nhất ta mới ra tay mà thu phục cả!
Lê Hiền ngừng nói, năm tướng im lặng suy nghĩ, Rồi Lê Hiền tiếp:
- Ta không thể vì cái thù ba tướng bị giết mà hồ đồ ra quân được. Ta phải nán lòng nhường binh Tế Giang một bước, lại cũng phải tránh mặt binh Phù Liệt. Như thế, không phải là ta cứ án binh ở đây khoanh tay nhìn thiên hạ, thiên hạ ắt không để cho ta ngồi yên như thế, ta tuy không vào trận giao chiến, nhưng còn khó khăn gấp trăm lần mở trận mà chiến với địch. Trong việc dàn xếp này ta gặp một điều khi chưa tìm ra cách để xong được, là: làm thế nào cho Tế Giang bị nguy ngập, khiến cho đạo binh của Tây Phù Liệt nhân đấy đuổi binh Tế Giang. Nếu Phù Liệt phá được Tế Giang, thì Đỗ Cảnh Thạc tất phải cố gắng phá Đường Lâm của Sứ quân Ngô Nhật Khánh để lấy căn bản đón đỡ với binh Phù Liệt sau này. Các nơi ra sức đâm chém nhau, nếu cần ta phải bảo cho Nguyễn Siêu ở Phù Liệt này rằng: quân Tế Giang chia hai ngả, một đánh Bình Kiều và Đằng Châu, một đánh Phù Liệt, do đó quân Bình Kiều mới phải vượt sông vào Phù Liệt mà chặn binh Tế Giang, phá cái thế giằng co của binh Tế Giang. Phù Liệt nên cố phá cho tan binh Tế Giang, còn Bình Kiều ta cam kết không bao giờ dám tơ hào chút gì của Phù Liệt, chỉ xin đến khi nào Tế Giang bị phá thì đem quân về.
Các tướng nghe Lễ Hiền định kế, gật gù tán thành, rồi tướng Nguyễn Thự hỏi thêm:
- Ta dàn xếp như thế cũng được, nhưng làm thế nào để tránh không phải giao tranh với các mặt?
- Đường trường tranh đua với thiên hạ lúc này không phải là điều hay, tránh mặt ẩn quân được mới là khó. Trước hết, Phù Liệt thế nào cũng phái ra binh đánh cả quân ta lẫn quân Tế Giang, sở dĩ đến lúc này Phù Liệt chưa xuất đại quân cũng chỉ vì chót đem quân đánh Đường Lâm mất rồi. Thế nào đạo quân đi xa của Phù Liệt cũng phải gấp trở về cứu việc trong nhà. Nếu đạo quân ấy bại ở Đường Lâm, thì ta có thể giúp Phù Liệt cùng đánh Tế Giang, nếu đạo quân ấy thắng thì ta chỉ cần lùi quân là được an nhàn ngồi xem Phù Liệt tranh hùng với Tế Giang. Khi nào Tế Giang bại quân bỏ chạy, cũng là lúc Phù Liệt có thể rảnh tay dòm ngó đến mặt ta. Nhưng lúc ấy đã chắc gì Đỗ Cảnh Thạc lại chịu ngồi im, không nhận cái cơ hội Phù Liệt mệt mỏi vì đánh nhau với Tế Giang lại chẳng ra tay đánh xuống Phù Liệt? Nếu đúng như thế, ta lại an nhàn đợi thêm chút nữa: thế nào cũng có lợi!
Nguyễn Hào hỏi vội:
- Như vậy, ngài liệu quân ta phải đóng ở đây đợi đến bao lâu nữa mới thấy hết mọi việc? Chả lẽ lại đợi hoài mãi hay sao?
Lê Hiền nghiêm trang:
- Cùng lắm là chớm Đông năm nay mọi việc xong xuôi cả. Sang xuân là ta đã có thể thấy rõ được cái thắng lợi mọi mặt của ta rồi. Từ giờ tới đấy có lâu la gì.
Nguyễn Hào lại cắt lời:
- Nếu đúng như vậy, sao ta không đưa quân về Bình Kiều, trước là để an tinh thần Sứ quân, sau là thật sự khỏi lo bị các mặt chèn ép có hơn không?
- Đưa binh về, càng làm Sứ quân loạn tinh thần hơn nữa! Ta xuất quân không thắng, hại tướng, rồi về, có khác nào là đại bại rồi không? Vả lại, ta cần phải có binh ở ngoài mới tạo được cái thế trận mong muốn của ta chứ!
Từ Bội Gấm hỏi thêm:
- Thưa ngài, như vậy thì cái thế của ta trong cuộc tranh hùng này là thế nào?
Lê Hiền chậm rãi:
- Cái thể của ta, như tôi nói lúc nãy là: làm cho mọi mặt rối loạn không thể ngồi yên được, trong khi ấy thì cùng lắm ta cũng chỉ cần điều động quân ta đi lại gọi là để cho kế của ta thành tựu mà thôi, chứ không cần phải thực sự giao chiến. Vả chăng quân ta cần phải tránh giao chiến. Đấy là cái kế gọi là: “Khua chó trong đêm, để đánh thức cả xóm” đấy!
Các tướng gật gù ra ý tán thành, Lê Hiền tiếp:
- Bây giờ, ở mặt Bắc ta có binh thủy của tướng Đào Long Vân trấn giữ, chẳng khác nào như cái lá chắn đỡ mặt Nam cho ta, lại cũng là con đê chắn sóng không cho Tế Giang vây khốn mặt Bắc Bình Kiều ta trong lúc ta đóng quân ở ngoài. Đến lúc cần ra, đạo quân của tướng Đào Long Vân có thể theo đường nước mà xuống Nam, cũng lại có thể bỏ thuyền lên bộ đánh vào phía sau binh Tế Giang vừa mới giao tranh với ta. Binh của tướng Đào Long Vân cũng lại có thể biến thành tiền quân chống đỡ với Cảnh Thạc ở Đỗ Động tràn xuống, hoặc cản Đường Lâm không cho vượt Đan Phượng gây khó dễ cho binh ta ở đây. Giả sử, binh ta ở đây mở trận đánh ép binh Tế Giang vào giữa, ắt thu thắng lợi, nhưng nhất định quân phải mệt. Vả lại như vậy là ta giúp Phù Liệt trừ một mối lo. Sao bằng, cứ để cho Tế Giang phải chiến với Phù Liệt, quân ta trấn một nơi đợi hưởng lợi các mặt có hơn không?
Lần này thì các tướng nghe Lê Hiền định kế ai cũng hài lòng. Tướng Phạm Tuy Nguyên nói tiếp:
- Cải kế “Khua chó trong đêm, để đánh thức cả xóm” của ngài quả thật là hay lắm, như thế liệu còn có khó khăn nào nữa không ạ?
Lê Hiền đáp ngay:
- Ta còn hai điều khó. Một là, ta phải đóng quân ở đây như thế nào, để cho Phù Liệt thấy không cần phải đối phó với ta, mà chỉ cần đánh binh Tế Giang trước đã. Cái khó thứ hai là làm thế nào, để cho Tế Giang có loạn, lúc ấy binh ngoài của Tế Giang tất phải vội vàng rút về. Khi binh Tế Giang chạy về, thế nào Phù Liệt cũng đuổi theo đánh giết để trả cái nợ bại quân lúc đầu. Cùng lúc ấy, binh của tướng Đào Long Vân cũng có thể ra mặt đòi lại cái nợ Tế Giang hại của ta ba tướng mà cũng là góp phần làm cho một Sứ quân thêm hao kiệt sức lực?
Phạm Tuy Nguyên hăng hái:
- Nếu đến lúc binh của tướng Đào Long Vân ra tay đòi món nợ ba tướng của ta bị hại, ngài dàn xếp thế nào để tôi được góp một phần đòi món nợ ấy mới hả được cái hận này đấy!
Lê Hiền mỉm cười:
- Việc lớn là trọng, món nợ của người nợ ta có chỗ đòi được thì hà tất phải bỏ việc lớn mà đi đòi nợ như thế! Ông hãy bình tĩnh giúp cho kế của ta thành tựu, thì lúc ấy mọi hận lớn đều sẽ trả hết được cả mà!
Thế là, Thống đốc thủy bộ Lê Hiền đem quân lui sát xông Xích Đằng tận phía Nam mà đóng; một mặt lại cho quân gấp đem lệnh lên phía Bắc cho tướng Đào Long Vân, dặn dò mọi việc. Rồi Lê Hiền lại cho tế sứ vượt đường gấp rút về Bình Kiều trình bày lên Sứ quân Ngô Xương Xí mọi việc, lại dặn tế sứ thưa với Sứ quân rằng: “Sang xuân là cùng, binh ngoài của Bình Kiều sẽ thừa cái thế dựng xong ra tay phá các mặt, việc lớn nhất định sẽ xong, xin Sứ quân yên lòng!”.
Vừa định liệu xong, đã có tin từ mặt tướng Đào Long Vân gấp gửi về cho hay: “Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du bất thần đề binh đánh thẳng vào Tế Giang, lúc này Tế Giang nguy ngập lắm. Lại thêm Lý Khuê ở Siêu Loại cũng lăm le thừa cơ đánh úp Tế Giang!”.
Lê Hiền được tin tỉnh cả người, mừng quá nói với các tướng rằng:
- Ta chưa biết làm cách nào để cho Tế Giang có loạn, nay tự nhiên trời giúp ta xui Nguyễn Thủ Tiệp cất quân xuống đánh Tế Giang. Vậy thì thế nào binh Tế Giang cũng phải bỏ Phù Liệt này mà chạy đến nơi rồi! Có điều ta không được rõ là: nguyên nhân vì đâu Thủ Tiệp lại bất thần đánh Tế Giang?
Các tướng cũng vui vẻ lắm, xúm nhau bàn bạc vẫn không hiểu duyên cớ Nguyễn Thủ Tiệp đề binh đánh Sứ quân Lữ Đường ở Tế Giang?
Lê Hiền liền lại cho người gấp rút đi gặp tướng Đào Long Vân, bảo Vân hết sức dò la tin tức xem tại sao Thủ Tiệp đánh Tế Giang.
Người đưa lệnh đi khuất, đã lại có tin trình vào: “Sứ quân Ngô Xương Xí nóng lòng việc binh ở ngoài, cho tướng đến hỏi tình thế!”.
Lê Hiền nghe trình, liền ra tận ngoài doanh đón tướng sứ giả của Sứ quân. Thì ra đây là tướng Lâm Linh Mẫn.
Mẫn vào trong quân và nói ngay:
- Bẩm ngài, tôi được lệnh Sứ quân tới đây để xem xét tình hình rồi về thưa lại với Sứ quân rõ. Dọc đường, tôi đã được biết việc ba tướng của ta tử trận, xác đang đưa về, Sứ quân…
Lê Hiền cắt ngang:
- Trước khi Sứ quân cử ông tới đây, tất ngài có hội nghị bàn việc trong ngoài, Sứ quân tất lo lắng việc binh ngoài lâu ngày chưa có tin, nên mới sai ông một mình một ngựa tới chỗ này. Tôi xin hỏi: Sứ quân có được mạnh khỏe không?
Lâm Linh Mẫn buồn rầu đáp:
- Sứ quân đau yếu liên miên chán nản mọi việc, ông Thẩm Thụy Hùng phải cùng các tướng hết sức trình bày Sứ quân mới tạm yên lòng đôi chút.
Lê Hiền nghe nói mặt lộ vẻ buồn phiền, các tướng ai cũng ưu tư. Lát sau, Lê Hiền mới bảo:
- Thôi được, ông nghỉ lại ở đây một ngày, mai gấp rút trở về trình với Sứ quân rằng: Binh ta hai mặt thủy bộ hợp một, đã đánh đuổi binh Tế Giang, lại sắp tiến quân phá Phù Liệt, lấy Đường Lâm, diệt Hồi Hổ, rồi chấn chỉnh Cổ Loa, sau đấy dẹp nốt các mặt khác, xin Sứ quân cứ vững lòng đợi tin thắng lợi sớm gửi về. Ông cũng nhớ trình lên Sứ quân là: thủy quân của ta đại thắng thủy quân Đằng Châu, ta không còn phải lo ngại Đằng Châu quấy phá nữa, cũng không phải lo binh Tế Giang ở mặt bộ.
Rồi Lê Hiền dặn Lâm Linh Mẫn là thuật riêng các dàn xếp của binh ngoài lại cho Thẩm Thụy Hùng nghe. Khuyên họ Thẩm hãy cố giữ tinh thần của Sứ quân được vững chắc thế nào việc lớn cũng xong.
Sáng hôm sau, Lâm Linh Mẫn nhận thư của Lê Hiền trình gửi Sứ quân rồi từ giã Lê Hiền cùng các tướng, lên đường trở về Bình Kiều. Tướng họ Lâm vừa đi khuất đã lại có tin thưa vào: “Có người lạ xin gặp ngài Thống đốc thủy bộ Lê Hiền về việc gấp!”.
Lê Hiền ngạc nhiên, người lạ nào lại đến tận chỗ này mà xin gặp như thế? Nghĩ mãi không ra, Lê Hiền dành cho mời người lạ vào.
Người lạ là một kị sĩ không mang khí giới, nét mặt đẹp trang nghiêm, cưỡi con ngựa thật lạ. Kị sĩ vừa gặp Lê Hiền thì kính cẩn chấp tay với chào mà rằng:
- Tiểu tướng được lệnh xin trình việc riêng cơ mật lên ngài!
Lê Hiền biết ý, truyền mọi người lui ra. Kị sĩ lúc ấy mới nói:
- Thưa ngài, tôi vâng lệnh trình lên ngài một phong thư!
Nói xong, kị sĩ luồn tay vào ngực áo lấy ra một phong thư hai tay kính cẩn trình lên. Lê Hiền đỡ lấy phong thư, vẻ mặt băn khoăn, rồi hai mắt rực rỡ hỏi:
- Có phải tướng quân nhiệm mệnh Quân sư Hoa Lư Lê Thảo đến đây đấy không?
Kị sĩ nghiêm trang:
- Bẩm, đúng như thế!
Lê Hiền nét mặt rắn rỏi hỏi:
- Bây giờ Quân sư của Hoa Lư ở đâu?
- Bẩm. Quân sư chúng tôi lúc này ở Hoa Lư.
- Quân sư của ông có dặn lấy trả lời của tôi không?
- Bẩm không.
- Vậy tôi cảm ơn ông. Quên, ông cao danh là chi nhỉ?
- Bẫm, tôi tên gọi Lưu Cơ, cầm gươm theo hầu dưới trướng Đinh Động chúa.
Lê Hiền gật gù. Lưu Cơ xin cáo biệt:
Lưu Cơ vừa ra, Lê Hiền cũng vội mở phong thư. Thư viết:
“Lê Thảo kính cẩn thư đến anh,
Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du trúng kế của em, đem binh đánh Tế Giang, thế là giúp anh xong được mặt Phù Liệt? Lý Khuê ở Siêu Loại cũng vướng trọng mưu của em sắp xuất chinh. Đằng Châu bị quân thủy của anh đánh bại sắp sửa xuất bộ binh xâm phạm Bình Kiều rửa hận. Đến lúc nào anh thấy quân Phù Liệt đại bại ở Đồng Lư, Cảnh Thạc hao tướng thiệt quân ở Đan Phượng, đây là lúc Hoa Lư sắp tiến quân cứu dân giữ nước, Ngô Xương Xí sức tàn không xứng đáng để anh phò trợ, chỉ nay mai thế nào y cũng bỏ cả. Vì tình cốt nhục, lại tiếc tài lớn của anh, em tha thiết mong anh nghĩ lại. Hoặc giả, đến khi Ngô Xương Xí chết rồi, lúc ấy anh chẳng còn gì phải vướng bận, em mong anh vì đại nghĩa chẳng quản hai chữ “trung thành” mà cho em được tiếp rước anh ở Hoa Lư! Thư này đến anh vội vã, tình thế gấp rút lắm rồi! Em mong đợi tin anh.
Lê Thảo kính”.
Lê Hiền đọc xong thư, trán lấm tấm mồ hôi hột! Thì ra, các Sứ ra quân đánh giết nhau, là trúng phải kế của Lê Thảo cả. Lê Hiền nghĩ lại mọi việc, chẳng khỏi kinh hãi! Như vậy, thì việc binh Bình Kiều vào Tây Phù Liệt, giao chiến với binh Tế Giang, có phải là cũng trúng kế Lê Thảo hay không? Tại sao binh Tây Phù Liệt chưa đón đánh binh Bình Kiều? Hay là Tây Phù Liệt cũng lại đang trúng kế gì của Quân sư Hoa Lư? Việc thủy quân Đằng Châu ngược Xích Đằng là thế nào?
Sao thủy quân Đằng Châu như chẳng có mục đích gì trong việc lên mạn Bắc thế? Còn bây giờ, Đằng Châu đưa quân sắp đánh vào Bình Kiều, có phải là lại trúng kế của Hoa Lư không?
Lê Hiền càng nghĩ càng thấy nghi ngờ quá, tất cả là do một tay Hoa Lư xếp đặt! Nếu quả như thế thì anh hùng trong thiên hạ này khó lòng còn đứng vững được. Lê Hiền bâng khuâng, bồi hồi xúc động với những kì công của người em, người em tài hoa đầy chí lớn trùm cả thiên hạ! Lê Hiền từ đây bắt đầu nghi ngờ việc mình lựa chọn Sứ quân Ngô Xương Xí!...
Lê Hiền chẳng biết: Lúc tướng Lâm Linh Mân giã từ gấp rút giục ngựa tìm đường trở về Bình Kiều, rồi chỉ một khoảng cách ngắn tiếp theo là tướng Lưu Cơ của Hoa Lư cũng rời doanh cưỡi con ngựa kì lạ gấp rút sải vó. Tướng Lâm Linh Mẫn cưỡi ngựa Cổ Đồng, lưng quấn thiết tiên, ra sức giục ngựa đi như gió hướng chếch xuống phía Đông Nam tới bờ Xích Đằng. Còn tướng Lưu Cơ cưỡi con ngựa kì dị chính là con Á Lôi của Quân sư Hoa Lư cướp đường rời doanh Lê Hiền trực chỉ phương Nam. Lưu Cơ rạp mình trên lưng ngựa, con Á Lôi bốn vó như sắt nguội, cổ chân thật nhỏ có chùm lông trắng thật dài, có sức ngày đi ngàn dặm gió theo cũng không kịp. Nay được tay kị sĩ lẫy lừng về phép khiển ngựa là Lưu Cơ cầm cương thì ra chiều khoan khoái, nó sải bốn vó như đo chiều dài mặt đất, bụng chạm ngọn cỏ cao, cổ vươn thật thẳng cuốn bụi bằng đi cực kì dũng mãnh.
Lưu Cơ chạy như vậy một thôi đường, liền theo lời dặn của Quân sư quay ngựa hướng mạn Đông Bắc tiên phát. Lưu Cơ thuở nhỏ cưỡi trâu khét tiếng là giỏi trong đám mục đồng, có khi Cơ giục cho trâu lồng thật dữ rồi bỏ lưng trâu tụt xuống cưỡi cổ trâu, hai tay nắm cặp sừng trâu điều khiển cho con trâu chạy. Lúc lớn lên, theo Bộ Lĩnh cùng các bằng hữu hùng cứ ở Hoa Lư, Cơ đem tài cưỡi trâu thuở nhỏ mà ứng vào phép cưỡi ngựa.
Lưu Cơ có thể cưỡi ngựa không cần đến yên cương ngồi quay lưng lại sai khiển ngựa chạy theo ý muốn. Lưu Cơ lại có tài riêng là những lúc gấp rút trong chiến trận, ngựa chạy nếu chưa đủ mau thì từ trên lưng ngựa tung mình xuống đất dùng mười đầu ngón chân phóng người đi, lúc ẩn lúc hiện hai bên mình ngựa mà giao chiến. Lưu Cơ thường bảo: “Ta cưỡi ngựa vào trận, cũng có lúc lại phải dùng đến ngựa mà thay tướng đánh giặc mới được!”.
Lưu Cơ tay chân khéo léo, lúc vận sức thì tay cứng như sắt, lúc buông lơi thì hai cánh tay còn mềm mại hơn cả tay đàn bà con gái, vì thế Lưu Cơ có tài riêng: trước mắt người đoạt vật mà không ai biết!
Nay theo lệnh Quân sư đi gặp Lê Hiền, lại hết sức chú ý xem dọc đường có thật có người từ doanh Lê Hiền ra hay không. Lúc Lưu Cơ tới gần doanh Lê Hiền, quả nhiên thấy một tướng cưỡi ngựa sắc vàng như nghệ, tướng ấy bận võ phục, lưng quấn thiết tiên thẳng đường tới doanh, Lưu Cơ liền dừng ngựa kín đáo đợi chờ.
Lưu Cơ đợi qua một đêm, đến sáng hôm sau mới thấy tướng ấy rời doanh ra đi, liền lập tức vào doanh trình thư của Lê Thảo, rồi lại gấp rút ra đi.
Lưu Cơ trong lòng hồi hộp, quả nhiên Quân sư tính việc không sai mảy may, ngồi tận Hoa Lư mà mắt như nhìn thấy ngàn dặm xa, một ngọn cỏ non mới mọc cũng không qua mắt Quân sư được! Lưu Cơ hứng chí, giục con Á Lôi ra sức cướp đường chạy lên hướng Bắc. Xa xa trong nắng ban mai, Lưu Cơ đã thấy một con thuyền vượt sông gần hết, trên thuyền rõ ràng có bóng một con ngựa, lố nhố vài bình người. Hai bên bờ sông vắng ngắt lau lách bạt ngàn.
Lưu Cơ dừng ngựa nhìn con thuyền, một thoáng nữa con thuyền cặp bờ lau mất hút. Lưu Cơ tần ngần không biết làm cách nào để vượt sông được, con thuyền bên kia sông không thấy trở lại, rõ ràng không phải là thuyền đưa khách. Lưu Cơ lo lắng, con Á Lôi vươn cổ trong gió ban mai hí thật lớn, tiếng hí rung rinh cả lau sậy. Tức thì, Lưu Cơ như người bật tỉnh, giật cương thúc Con Á Lôi băng ngang lau sậy, ra sức vút đi, rồi cất bốn vó rời bờ sông bay xuống nước. Trên lưng ngựa, Lưu Cơ khẽ nhún hai chân trên bàn đạp, nhấc mình tượng đà bốc người lên đỡ sức nặng cho con ngựa. Con Á Lôi phóng mình xuống nước đẹp như giao long vượt sóng. Lưu Cơ bay người đi đẹp như phượng hoàng từ trên đỉnh núi đáp xuống.
Nước dòng Xích Đằng tung lên, Lưu Cơ đã vững trên lưng ngựa, lập tức con Á Lôi vươn cổ, hai mũi phì phì phun nước, bốn vó khua như đang gấp sải trên mặt đất vượt dòng sông rộng.
Chẳng bao lâu, Lưu Cơ đã vượt được dòng sông, cả người lẫn ngựa ướt lướt thướt. Lưu Cơ trụ ngựa định phương hướng, nhìn ra chỉ thấy lau sậy bạt ngàn, không thấy bóng dáng tướng lúc nãy, tìm cũng không thấy con thuyền cất giấu vào bụi bờ nào.
Lưu Cơ nhớ lời Quân sư dặn “.. người ấy sẽ phải vào Chu Diên, rồi mới có đường về Bình Kiều được... thế là Lưu Cơ thúc ngựa nhằm hướng Đông, vượt đường tắt mà đi.
Nắng lên cao, áo quần Lưu Cơ cũng đã khô hết nước, bây giờ Lưu Cơ đã vào nơi có người ở, Lưu Cơ dần dần lẫn vào với người địa phương, kẻ qua người lại mỗi người một việc không ai để ý đến ai.
Lưu Cơ thẳng đường vào Chu Diên, vùng này rất trù mật, bảy mươi sáu xã thôn sống bằng nghề nông, nếp sống thật thanh nhàn. Lưu Cơ nghĩ bụng: “Đất rộng người đông thế này, làm sao biết tướng Bình Kiều đi về đâu? Chi bằng cứ tới nơi quán xá của huyện lạ Chu Diên ắt có hi vọng, vả lại chính Quân sư cũng bảo là “người ấy sẽ phải vào Chu Diên!...”. Nghĩ rồi, liền hỏi người qua kẻ lại rồi ung dung giong ngựa tới hướng huyện lị.
Xế trưa, Lưu Cơ vượt cầu Đạo Khê, vào vùng kẻ chợ An Vỹ. Nơi đây dân cư sầm uất, cửa ngõ đi xuống Bình Kiều. Lưu Cơ đang giong ngựa lững thững tìm nơi quán xá để nghỉ chân, chợt từ đằng xa có chiếc xe trâu đi lại, trên xe một người mình trần trùng trục cầm dây trâu điều khiển chiếc xe, trên xe chất đầy những bồ lớn không biết trong đựng gì nhưng xem có vẻ nặng lắm. Người vừa đánh xe, vừa thỉnh thoảng lại ngửa cổ dốc bầu mà tu rượu. Người này hai mắt ti hí, men rượu ngâm làm cho đỏ lừ, khi Lưu Cơ giong ngựa tới đúng vào nơi đường hẹp, nếu chiếc xe trâu tránh vào một bên thì cả hai đường cũng vẫn đi được, nhưng người nọ lại cứ nghênh ngang chắn lối, đến khi vướng chỗ đi thì thúc bừa trâu vào ngựa Lưu Cơ.
Lưu Cơ trong lòng đang nặng lo nghĩ, vả lại tính tình Lưu Cơ rất thuần hậu, nên bất thần gặp chuyện rắc rối thì cũng không nổi nóng, chỉ vội dạt ngựa sát vào hàng quán bên đường tránh. Người nọ thấy vậy chẳng nói chẳng rằng, lại thúc trâu cứ Lưu Cơ đâm tới. Lưu Cơ kinh hãi biết là người này cố ý gây sự, liền giục ngựa chạy trở lại chực chạy đi. Tới lúc ấy người đánh xe trâu mới quát lên:
- Bớ thằng nhãi ranh! Ngựa mi chạy nhanh hơn ta chắc!
Quát dứt, người nọ từ trên xe trâu phóng xuống, ra sức đuổi theo ngựa Lưu Cơ, y chạy cực nhanh, thân hình to lớn trùng trục như vậy mà xem ra nhẹ nhàng lắm. Lưu Cơ vừa giận vừa lo nhỡ sinh chuyện lớn làm hỏng việc Quân sư sai bảo, cố nén làm ngơ giục ngựa chạy miết. Người lạ dù chạy nhanh thật, nhưng làm sao đuổi theo ngựa Á Lôi của Quân sư được, chẳng bao lâu Lưu Cơ đã bỏ xa người lạ. Lưu Cơ chán ngán, vào đất lạ không muốn gây chuyện chẳng êm, nay chỉ vì bị đuổi phải cố nén chạy đến đây, trong lòng buồn bực, loanh quanh một lát lại hỏi thăm đường trở lại An Vỹ. Lần này Lưu Cơ theo đường khe Tùng Hải, lần vào phía Nam An Vỹ.
Lưu Cơ vừa giong ngựa đi, quanh qua rặng tre già bỗng giật mình: ngay trước mặt, tướng cưỡi con ngựa sắc vàng như nghệ lưng quấn thiết tiên đang hầm hè lại với gã đánh xe trâu ban nãy. Lưu Cơ mừng quá vội giục ngựa chạy tới. Dân kẻ chợ hiếu kì xúm quanh xem người gây sự với người lạ mặt, người đánh xe trâu gườm gườm quát mắng:
- Ta không biết mi là ai cả, nhưng đứa nào dám chắn trước trâu của ta là ta phải đánh đủ một trăm roi mới được!
Tướng cưỡi ngựa sắc vàng giận dữ:
- Thằng nghiệt súc này, mi dám trêu vào tay ta làm chậm trễ việc Sứ quân, là tự mi tìm cái chết đấy nhé!
Dứt lời, tướng ấy rút cây roi sắt giục ngựa xông tới. Người nọ bật cười lên ha hả, cười rung cả cái bụng phệ, rồi từ trên xe trâu phóng xuống, tay cầm bầu rượu làm khí giới chống cự với tướng xử thiết tiên. Lưu Cơ dừng ngựa đợi xem sự thể, dân kẻ chợ dạt ra mà xem trận đấu.
Lưu Cơ nhận thấy: ngọn thiết tiên trong tay tướng cưỡi ngựa sắc vàng nghệ cực kì lợi hại, uyển chuyển tưởng nhẹ như mây giăng đỉnh núi, hóa ra nặng có đến cả ngàn cân. Đường roi lên xuống có lúc hững hờ chậm chạp, có lúc lại như chớp giật cực nhanh, đánh ra những đòn thật ác liệt.
Cây roi sắt biến hóa thật tinh kì, nhưng lạ một điều là người mình trần vóc dáng phục phịch có vẻ nặng nề, lại dường như cái thân xác to lớn ấy nhẹ lắm thì phải! Toàn thân người ung dung đi lại giữa rừng thiết tiên, nương theo đà roi đẩy đưa lúc dạt ra xa, lúc cuốn lại gần, thành ra tướng cưỡi ngựa sắc vàng nghệ công một dòn lại hóa ra giúp đối phương đánh mình một đòn, tướng cử thiết tiên càng công kích dữ dội bao nhiêu thì người nọ lại càng chiếm lợi thế công kích lại bấy nhiêu.
Bên ngoài, dân kẻ chợ đứng xem trận đấu, reo hò rầm rầm cổ vũ đôi bên. Trong trận đấu, tướng cưỡi ngựa sắc vàng nghệ bấy giờ lúng túng trông thấy, đường roi đánh ra đã xử đến hết tinh hoa của phép đánh mà vẫn không chạm được vào mình người đánh xe trâu lần nào, ngược lại, còn ung dung như đùa như cợt, trước sau vẫn chưa lần nào thực sự công kích đối phương. Lưu Cơ đứng xem trận đấu, cố vận hết tinh thần tìm cách khám phá xem người nọ sử dụng đến thứ vũ thuật nào mà lại kì dị như thế. Nhìn thêm lát nữa Lưu Cơ nhận thấy hai chân người lúc tiến lúc thoái, không bao giờ cùng một bộ vị, một hướng sang Đông thì một quay về Tây, một chuyển sang Bắc thì một trấn ở Nam, thế thủ lúc nào cũng bảo toàn được một nửa hùng lực, thế công bao giờ cũng nương theo đòn của dịch mà ào ạt phản kích. Lưu Cơ dần dần sực tỉnh: thì ra người này tinh thông phép “Lạc Âu phân tử” của bậc thần tiên ở núi Vũ Ninh là Tinh Nguyệt Thái Lão Quân.
Người nọ là người thế nào, mà lại học được phép thần diệu ấy của Lão Quân? Lưu Cơ cố nghĩ mà không ra, lại giương mắt ngây người xem trận đấu. Lưu Cơ nhận thấy: người đấu với tướng cưỡi ngựa sắc vàng nghệ, khiến cho tướng ấy tuy có có ngọn roi thật tuyệt vời vẫn không làm thế nào xâm phạm được đến thân thể tay không vào trận. Tuy vậy, Lưu Cơ nhận thấy trong bước đi, thế đánh của người này tuy mau lẹ thật nhưng lại hàm chứa cái ô trọc nặng nề, chứ không khinh khoái lung linh của thần tiên, rõ ràng không phải là người có tâm hồn thoát tục, học nghệ có thành mà không tới được chỗ huyền diệu của quyền pháp.
Lưu Cơ còn đang suy nghĩ, đã thấy tướng cưỡi ngựa sắc vàng nghệ uốn cổ tay, vòng ngọn thiết tiên theo thức “Ngư ông quăng lưới” quét một đường rộng quật ngang ngực người nọ. Người không tránh, chân trái bước lên một bước, chân phải choãi ra phía sau, toàn thân trầm xuống đón ngọn thiết tiên ào tới rồi nương theo đà cuốn của thiết tiên vọt người lên, vươn tay trái xỉa vào ngực đối phương, đồng thời tay phải chém mạnh gan bàn tay xuống cổ tướng cưỡi ngựa sắc vàng nghệ.
Đòn đánh ra của người cưỡi trâu cực nhanh, hết sức nhịp nhàng, hai tay ra đòn, tựa như của hai người chứ không phải của một người, vừa ác liệt vừa đẹp như biểu diễn vũ thuật chứ không phải là công kích toan đoạt mạng đối phương.
Tướng cưỡi ngựa sắc vàng nghệ kinh hãi giật ngựa tránh đòn, vó ngựa liên tiếp lui lại đến sáu bảy bước, người cưỡi trâu như cái màn nhện quyện lấy ngọn thiết tiên bám theo chứ không rời ra. Tướng Bình Kiều kinh hãi lúng túng, ngọn thiết tiên lằng nhằng không biết phải huy động như thế nào để gỡ nguy, đã thấy người cưỡi trâu quát lớn một tiếng năm ngón tay vươn ra toan chộp vào mặt đối phương mà móc hai con mắt ra.
Trong cơn cấp bách, Lưu Cơ vừa định lui ngựa để tránh cho hai người rộng chỗ giao đấu, bây giờ thấy tướng Bình Kiều lâm nguy không có lối thoát, liền chẳng kịp suy nghĩ vọt ngựa băng lên nương theo đà ngựa bỏ yên bốc hẳn người lên bay đi cực nhanh, tay phải Lưu Cơ vòng từ dưới đưa lên theo thế “Sâu vàng lên ngọn lúa” chặn lấy tay người cưỡi trâu, tay trái Lưu Cơ xuất chiêu “Mỹ nhân mở cửa xem hoa” vỗ vào ngực tướng xử thiết tiên mà đẩy ra xa.
Hai tay Lưu Cơ ra đòn cực chuẩn đích, vừa chặn được người cưỡi trâu lại vừa đẩy được tướng Bình Kiều ra xa thoát chết. Lưu Cơ gỡ đòn của người cưỡi trâu cho tướng Bình Kiều xong, thừa đà mặc cho thân hình xô tới rồi rơi xuống đất. Lưu Cơ giả bộ hết sức khéo léo làm y như người cưỡi trâu chẳng hiểu biết gì về võ nghệ, nay ngã xuống thì lóp ngóp có vẻ đau đớn không đứng dậy được! Lưu Cơ ra tay nhanh không thể tưởng được, người đứng ngoài không ai nhận biết được ai cũng tưởng là Lưu Cơ đứng xem bị hai người giao đấu chèn nhau hết chỗ khiến ngựa lồng lên mà bị hất ngã. Mọi người bật cười vang, Lưu Cơ vẫn cứ lóp ngóp chưa đứng dậy được.
Trong trận đấu, tướng Bình Kiều vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ vì đang trong lúc mười phần nguy cả mười tự nhiên lại có người lạ mặt ở đâu nhảy vào cứu cho mình thoát chết, rồi người lạ còn giả bộ để che giấu sự việc. Còn phần người cưỡi trâu đã tưởng là hạ được tướng địch, nào ngờ bị người lạ nhanh hơn phá hư mất hi vọng của mình thì giận lắm, người cưỡi trâu gầm lên chực quay sang vồ lấy Lưu Cơ.
Tướng Bình Kiều thấy thế, liền vươn ngọn thiết tiên quật vào lưng người cưỡi trâu. Người cưỡi trâu không dám chụp bắt Lưu Cơ nữa, vội quay trở lại chống trả với ngọn thiết tiên.
Tới lúc ấy, Lưu Cơ mới đứng hẳn dậy được, lảo đảo như người gân cốt bị giãn hết, đi vòng ra xa gọi con Á Lôi tới rồi leo lên lưng ngựa.
Hành động của Lưu Cơ vừa nhanh vừa hết sức kín đáo, không một ai biết là trong lúc Lưu Cơ xử thế “Mỹ nhân mở cửa xem hoa” chỉ trong chưa đến một cái nháy mắt vừa cứu được người khỏi bị móc mắt, lại vừa kịp ra tay lục soát trong ngực tướng Bình Kiều, và quả nhiên đã đoạt được phong thư của ngài Thống đốc thủy bộ Lê Hiền gửi về Sứ quân Ngô Xương Xí.
Lúc Lưu Cơ còn lóp ngóp ôm ngực chúi mũi, chúi tai sau khi ngã, lồm cồm mãi không dậy được, cũng là lúc Lưu Cơ đánh tráo phong thư, lấy phong thư của Lê Hiền ra khỏi bao rồi lẹ tay bỏ vào bao thư khác của Quân sư Lê Thảo viết sẵn. Xong rồi Lưu Cơ mới đứng dậy, lại lên ngựa xem trận đấu.
Tướng Lâm Linh Mẫn bây giờ đã biết sức lợi hại của phép chiến trận bằng quyền cước của kẻ cưỡi trâu, ngọn thiết tiên hết sức thận trọng ra đòn không cho người cưỡi trâu có cơ hội vào gần. Người cưỡi trâu giận như điên lên, lồng lộn chỉ chực cơ hội là phóng lên bắt sống tướng địch.
Càng đấu, người cưỡi trâu càng dần dần vào sát được người Lâm Linh Mẫn. Lưu Cơ đứng ngoài nhận thấy: “Người tay không, chỉ nương vào sức mạnh của đòn địch mà phản công địch, nếu càng vận sức mong lấy mạnh lấn át thì thế nào cũng bị người lợi dụng sức mạnh ấy làm sức mạnh của mình để phản công”. Lưu Cơ vừa nhận thấy như vậy, thì tướng Lâm Linh Mẫn vừa ra một đòn chí tử, ngọn thiết tiên quật thẳng xuống giữa đỉnh đầu người cưỡi trâu, người cưỡi trâu trụ bộ, hai chân một trước một sau hạ thấp xuống như để sẵn sàng đón lấy cây roi sắt quật xuống. Đà roi đang xuống lưng chừng Lâm Linh Mẫn vòng tay uốn thiết tiên nhằm ngang ngực người cưỡi trâu quạt tới.
Người cưỡi trâu chân sau khuỵu hẳn xuống, người ngả hẳn ra phía sau, ngọn thiết tiên lướt sát trên ngực trần của người cưỡi trâu. Người cưỡi trâu đợi cho ngọn thiết tiên lướt qua, liền lập tức vọt người lên tay trái ra thế “Đê dài ngăn sóng” chắn không cho ngọn thiết tiên hồi thế quật ngược trở lại phá đòn, tay phải như lưỡi búa phạt ngang sườn Lâm Linh Mẫn.
Người cưỡi trâu ra đòn vừa nhanh vừa chuẩn đích, cây thiết tiên đã bị chặn lại không có chỗ thoát để tiếp đòn, bàn tay phải người cưỡi trâu đánh ra cực chắc chắn.
Lưu Cơ vừa lên lưng ngựa, là đúng lúc Lâm Linh Mẫn ra đòn và người cưỡi trâu trụ bộ ưỡn người đợi đòn. Lưu Cơ biết Lâm Linh Mẫn lại sắp lâm nguy, liền giật cương thúc con Á Lôi hết sức phóng lên. Lưu Cơ quát lớn một tiếng hoàn toàn xô vào tay trái chặn bàn tay người cưỡi trâu, tay phải co lại dùng cả người hất tướng Lâm Linh Mẫn ra, cùng lúc ấy lẹ tay trả lại phong thư vào trong ngực áo tướng Bình Kiều!
Lưu Cơ can thiệp cực nhanh, miệng vừa nói khẽ vào tai Lâm Linh Mẫn:
- Chạy đi!
Lâm Linh Mẫn mình đẫm mồ hôi, phần kinh hãi vì đòn của người cưỡi trâu, vừa ngạc nhiên không biết Lưu Cơ là ai mà hai lần ra sức cứu mình thoát chết. Người cưỡi trâu bị Lưu Cơ chặn lại tức giận tưởng điên lên được. Ba người vừa rời nhau, người cưỡi trâu chưa kịp trụ bộ, Lâm Linh Mẫn lui ngựa đến bốn năm bước, Lưu Cơ đã lập tức giật cương cho con Á Lôi xốc tới. Cơ từ trên lưng ngựa vặn người nằm ngang, tay trái vươn thẳng ra một đòn dữ dội bổ chếch vào cổ người cưỡi trâu. Thế đánh đã nhanh lại mạnh, người cưỡi trâu với tung cả hai tay lên gạt, tức thì con Á Lôi thừa đà vượt lên hất người cưỡi trâu bắn tung ra xa.
Lưu Cơ gọi to: “Tướng kia mau chạy đi!”. Gọi xong, Lưu Cơ vòng ngựa thật nhanh đến bên chiếc xe trâu. Lưu Cơ lại nghiêng người, vận lực lật chiếc xe đổ nghiêng, con trâu bị ngã vùng ngay dậy khiến cho chiếc xe bị kéo lê, các bồ lớn trên xe đổ ra. Trong bồ, mật vàng quyện chảy ra từng dòng lớn. Người cưỡi trâu rống lên một tiếng, Lưu Cơ giục ngựa chạy miết. Đám đông dân kẻ chợ hiếu kì cũng vội lảng đi chỗ khác. Người cưỡi trâu vội chạy lại đỡ chiếc xe lên, rồi lo xếp lại bồ để giữ mật thành ra không còn thì giờ để đuổi theo Lưu Cơ.
Tướng Bình Kiều Lâm Linh Mẫn cũng đã giục ngựa bỏ chạy xa rồi. Lưu Cơ hướng về phía Tây Nam mà chạy, chẳng bao lâu đã ra khỏi vùng thị tứ, chung quanh bây giờ lại chỉ còn rừng rú lau sậy. Thế là việc Quân sư sai bảo Lưu Cơ đã làm xong cả. Lưu Cơ vừa cho ngựa chạy, vừa ngẫm nghĩ đến tính toán của Quân sư mà khiếp sợ, quả thật có bức thư, và ruột phong thư đã bị Lưu Cơ đánh tráo bằng lá thư khác do chính Quân sư thảo sẵn.
Lưu Cơ trong lòng vui mừng, ra sức giục ngựa chạy miết. Chạy đến sẩm tối thì đã xuống sâu phía Nam Bình Kiều, bây giờ chỉ còn vượt sông nữa là xong. Lưu Cơ đang sắp sửa cho ngựa vượt sông, bỗng đã thấy phía Nam có tiếng vó ngựa dồn dập, rõ ràng là có quân đông lắm không biết là binh nào đi đâu. Lưu Cơ vội tìm nơi ẩn nấp đợi xem.
—ooOoo—