Hồi Thứ Sáu Mươi Sáu Địch Hồng Hà vây hãm Đồng Lư
Mạc Cương Hồng xem quân, uống rượu
Kể lại việc đại quân của Tây Phù Liệt do lão tướng uy danh Địch Hồng Hà thống lĩnh đi đánh trấn ải Đồng Lư của Đường Lâm để mong vào Sài Sơn là trong địa.
Lão tướng Địch Hồng Hà vóc dáng hùng vĩ, tuổi già trên sáu mươi mà sức khóe vẫn như hồi còn trẻ, lão tướng có chòm râu bạc thật dài đẹp vô cùng. Địch Hồng Hà cưỡi ngựa Khởi Phong màu xám tro, lưng đeo kiếm báu A Đằng sắt thép nháng đỏ như có lửa hun. Hồng Hà xông pha trăm trận chưa có lần nào thua, lại ngày đêm dọc binh thư, suy nghĩ về chiến pháp đoạt thành chém tướng. Vì thế Địch Hồng Hà rất được các anh hào Tây Phù Liệt kính nể, uy danh vượt ra ngoài ngàn dặm ít nơi là không biết tiếng lão tướng.
Lão tướng không có vợ con, sống một mình làm bạn với kiếm cung, lấy binh thư đồ trận làm người tri kỉ. Lúc Nguyễn Siêu nổi lên xưng là Nguyễn Hữu Công, chiếm cứ Tây Phù Liệt, chiêu mộ văn võ để mong khởi nghiệp, thì Địch Hồng Hà ra khỏi nhà tranh, đem thân đến xin theo phò Sứ quân. Sứ quân thấy Hồng Hà tuổi cao, vóc dáng đẹp đẽ, lại nghe luận bàn về phép mở trận, công thành, phá địch... chỗ nào Địch Hồng Hà cũng thao thao giảng giải rõ là một danh tướng, thì Sứ quân mừng lắm. Sau Địch Hồng Hà nhiều phen cầm quân đi đánh dẹp các đám cướp hàng phục được bảy đảng cường sơn thảo khấu, thì uy danh chói lọi.
Địch Hồng Hà thường nói: “Ta hơn lão tướng Mã Viện nhà Hán một bực, bởi vì ta sẽ không phải chết ở trên giường trong tay đám vợ con! Ta độc thân, sức ta lại đạp thành phá địch, cả thiên hạ phải là nơi cho ta giục ngựa Khải Phong, múa gươm A Đằng mà đi lại mới thỏa được lòng!”.
Các tướng nghe lời lão tướng Địch Hồng Hà, ai cũng khâm phục cho là hùng vī cao xa.
Bây giờ họ Địch cầm quân ra trận tranh hùng với người ngoài cung ngang sức, mới lấy làm thỏa mãn.
Dọc đường quân đi, Địch Hồng Hà hội các tướng lại mà rằng:
- Bọn ta nhiệm mệnh Sứ quân đi đánh Đường Lâm, cốt chiếm lấy cái thế hơn Cảnh Thạc ở Đỗ Động. Cảnh Thạc cũng vào Đường Lâm, phải qua cửa ngõ Đan Phượng: ta đi phía Nam, cũng phải qua trấn ải Đồng Lư, có vượt được Đồng Lư mới mong tới được Sài Sơn. Các ông cho là ta phải tiến quân như thế nào để vượt được Đồng Lư nào?
Bảy tướng Hoàng Tích Lịch, Trần Bảo Quốc, Đặng Hồng Thiên, Phạm Văn Minh, Bạch Khai Thành, Lý Vân Long và Vương Trụ thảy đều là các hảo tướng, người nào cũng tài nghệ cao siêu. Nay theo lão tướng Địch Hồng Hà mang quân đi đánh Đường Lâm, đều chỉ sẵn sàng nghe lệnh chứ thật ra không ai có chủ đích rõ ràng về cách phải tiến quân dàn trận như thế nào. Vì thế, khi nghe Địch Hồng Hà hỏi, Hoàng Tích Lịch liền nói:
- Đại tướng Thống soái lão huynh trước đã trình bày đủ. Sứ quân mới nghe rõ mà giao cho binh quyền ở ngoài, vậy tất lão huynh đã biết phải hành động như thế nào rồi, chúng tôi xin được đợi nghe mệnh lệnh.
Sáu tướng kia nghe Hoàng Tích Lịch nói như vậy, thì tỏ ý tán thành. Đại tướng Địch Hồng Hà mới hỏi thêm:
- Tôi cùng các ông mang quân đi đánh ở xa, thì chúng ta nên cùng nhau bàn mọi việc. Trước hết tôi xin hỏi các ông: các ông có biết trấn ải Đồng Lư của Đường Lâm như thế nào không?
Bảy tướng lại tịt mít, xầm xì mỗi người một lời chẳng ra sao cả. Địch Hồng Hà lúc ấy mới giảng:
- Trấn ải Đồng Lư của Đường Lâm, chẳng khác nào như con mắt thánh thần nhìn suốt được khắp nơi. Trấn ải ấy, xây cất trên rặng núi Đồng Lư, dựa vào địa thế cực kì hiểm trở tạo thành cái thế bên ngoài ngắm gió biển Đông, bên trong như cánh tay vĩ đại che chở cho cả Đường Lâm được an lạc đấy.
Bảy tướng lắng nghe, trong lòng chớm thấy lo ngại, Địch Hồng Hà hỏi:
- Các ông có biết rằng Đồng Lư như thế nào không?
Các tướng làm sao mà biết được, ai nấy im lặng đợi nghe giảng. Địch Hồng Hà nói tiếp:
- Núi Đồng Lư ở huyện An Định, núi đá lẫn đất, so với các núi khác thuộc huyện An Định thì núi này cao hơn, hình thể cong queo như con rồng uốn khúc, cho nên cũng có tên khác gọi là Long Sơn. Ở phía Đông rặng Đồng Lư, có dòng Bạch Hạc ôm ấp, đầm Bông giáp phía Nam, quá về phía Đông chừng nửa dặm là hai ngọn núi Quy Sơn và Phụng Hoàng, núi này cây cối sầm uất, dưới chân núi dân cư đông đúc, núi Phụng Hoàng chạy dài tới Thổ Ngõa Tiên Lữ thì gọi là Mã Sơn. Mã Sơn lại có tên là Trường Sơn hình như con rắn dài mở khúc đến hơn một nghìn trượng, phía Bắc Đồng Lư cách núi Tử Trầm nửa dặm, cách núi Hỏa Tinh một dặm, nơi đây địa thế hết sức hiểm yếu. Bình thường, sức vạn quân, tài trăm tướng cũng khó lòng vượt qua được!
Bảy tướng nghe Địch Hồng Hà nói về núi Đồng Lư ai nấy càng thêm lo lắng, Địch Hồng Hà tiếp:
- Chính ở chỗ nhìn xuống dòng Bạch Hạc, Đường Lâm cho dựng thành trấn thủ. Tuy gọi là thành, nhưng thật ra chỉ là một nơi đóng binh cheo leo trên lưng núi, nhìn xuống cả một vùng bao la...
Bạch Khai Thành ngắt lời:
- Núi Đồng Lư hiểm trở ghê gớm, trấn ải cheo leo khó phá, sao ta không tránh đường, hoặc đem quân lên phía Bắc hoặc xuống hẳn phía Nam, đi vòng ra phía sau rặng núi ấy có được không?
Các tướng nghe Bạch Khai Thành nói, đều cho là phải, Nhưng Địch Hồng Hà đáp ngay:
- Có hai điều để ta không thể làm như vậy. Điều thứ nhất, là ta không thể chậm chân, tuy rằng ta sẽ đợi cho Đỗ Cảnh Thạc ở phía Bắc đánh vào Đan Phượng, nhưng nếu ta chậm bước giả sử Đỗ Cảnh Thạc đoạt được Đan Phượng, tiến sâu vào trọng địa Đường Lâm, thì lúc ấy binh ta mới từ đường xa chậm trễ tới nơi, làm sao còn tranh thủ được yếu địa, giành được lợi thế nữa. Vả lại, đi vòng như thế đường xa gấp bội, đáng lẽ quân ta mất một tháng trời thì phải mất đến gần bốn tháng mới xong. Điều thứ hai, là giả sử ta đi đường vòng như vậy, cốt để tránh trấn ải Đồng Lư mà lẻn vào phía sau được, nhưng đằng sau trấn ải Đồng Lư còn có trấn thành Sài Sơn. Lúc ấy, binh ta một mặt phải đối đầu với Sài Sơn đằng sau lưng lại bị Đồng Lư đánh tới, làm sao thoát hiểm cho được! Đường Lâm phía Bắc có thành Đan Phượng, phía Nam có Đồng Lư - Sài Sơn, hai cửa ngõ ấy không vượt qua được thì không hi vọng gì lấy được Đường Lâm!
Lần này thì các tướng ngẩn người, không ai biết nói sao. Lát sau, tướng Lý Vân Long mới lại hỏi:
- Như vậy, thì đại tướng chịu bó tay chăng?
Địch Hồng Hà mỉm cười:
- Chưa! Chưa phải là hết! Trấn ải Đồng Lư như vậy rồi, các ông có biết người giữ trấn ải Đồng Lư là ai không?
Các tướng vẻ mặt gay cấn, nhíu mày đợi nghe. Địch Hồng Hà nói:
- Đường Lâm nhiều người tài. Ngô Tiên Đế, Bố Cái Đại vương Phùng Hưng đều là người ở Đường Lâm. Xưa đã thế, nay cũng vậy. Đường Lâm bây giờ có nhiều tướng tài nhưng tài hơn cả, giỏi hơn cả, chính là tướng Mạc Cương Hồng. Tướng Mạc Cương Hồng nay đã già hơn tôi nhiều lắm, nhưng tay lão tướng ấy vẫn còn đó uy phong để khiến cho tất cả các tướng khác phải kính phục. Thậm chí, đến như Đạo sĩ Quân sư của Sứ quân Ngô Nhật Khánh, là Phùng Chuyết Tỉnh thường vẫn tự nhận là Rồng Đất ở núi Đồng Lư, mà cũng không dám đụng chạm đến Mạc Cương Hồng. Lão tướng Mạc Cương Hồng là người giữ ải Đồng Lư. Sứ quân Ngô Nhật Khánh rất kính trọng tướng họ Mạc, lâu lâu lại sai người ra tận ải quan biếu tặng Mạc Cương Hồng của ngon vật lạ, hỏi thăm sức khỏe, tôn kính như đối xử với bậc bề trên. Mạc Cương Hồng thường nhận các đồ tặng của Sứ quân mà chẳng bao giờ cảm ơn, cũng chẳng bao giờ về hầu chuyện Sứ quân lấy một lần!
Các tướng lấy làm lạ, Đặng Hồng Thiên liền hỏi:
- Chắc là Mạc Cương Hồng có điều bất hòa với Sứ quân, nên mới không chịu về hầu chuyện chứ gì?
Địch Hồng Hà đáp:
- Không phải thế: Mạc Cương Hồng tài cao, tinh thần lại kì dị khác thường, ông ta người Châu Vũ Nga (đến đời Lý gọi là Châu Thái Nguyên và là tỉnh Thái Nguyên ngày nay). Mạc Cương Hồng đi chu du thiên hạ, lấy vợ người Đường Lâm, rồi lập nghiệp ở đất này. Đến khi Sứ quân Ngô Nhật Khánh xưng hùng, đem danh nghĩa dòng dõi Ngô Vương để dựng nghiệp, thì Mạc Cương Hồng tuổi đã hơn sáu mươi. Sứ quân nghe danh Mạc Cương Hồng tinh thông binh pháp, giỏi khoa thiên văn, thao lược gồm cả trong tay, kim cổ đều hiểu thấu tất cả. Liền cho người đến mời Mạc Cương Hồng ra giúp sức. Mạc Cương Hồng tỏ ý không bằng lòng nói rằng: “Sứ quân muốn dựng nghiệp, thiên hạ thiếu gì người mà phải đến cầu cạnh tôi”. Rồi Mạc Cương Hồng không nhận lời...
Tướng Trần Bảo Quốc ngắt lời hỏi:
- Thế rồi tại sao Mạc Cương Hồng về sau lại ra giúp Sứ quân Ngô Nhật Khánh?
Địch Hồng Hà đáp:
- Họ Mạc sống phiêu diêu, cho nên gia đình thanh bạch, bình thường thì có cơn ăn, nếu xảy việc ắt túng thiếu. Vì thế vợ con họ Mạc mới năn nỉ họ Mạc nhận lời Sứ quân để trong nhà được sung túc. Mạc Cương Hồng không nghe, bảo rằng: “Như thế là đem thân bán cho thiên hạ để đổi lấy cơm áo cho vợ con, là một điều nhục!”. Một năm vào giữa mùa Đông, cảnh nhà nghèo khó không đủ áo ẩm mà mặc, đứa cháu nội của Mạc Cương Hồng được họ Mạc cưng quý còn hơn cả châu báu, vì đói cơm thiếu áo sinh bệnh, không chịu nổi với cái rét sinh bệnh mà chết. Vợ con họ Mạc lại được một phen nữa vật nài Mạc Cương Hồng nhận lời Sứ quân để khỏi phải nhìn cái cảnh con cháu chết dần vì túng thiếu.
Địch Hồng Hà ngừng lại một lát, rồi chậm rãi tiếp:
- Mạc Cương Hồng sau vì buồn quá đỗi, lại thấy lời vợ con nói cũng chẳng phải là không đúng, đành phải nhận lời Sứ quân Ngô Nhật Khánh, nhưng họ Mạc xin một điều là: đi trấn giữ nơi nào hiểm yếu nhất, xa xôi nhất, nơi ấy phải là nơi yết hầu tim phổi của Đường Lâm, mất nơi ấy là Đường Lâm coi như bị mất cả, có như thế Mạc Cương Hồng mới chịu giúp. Sứ quân tuy có lòng kính trọng họ Mạc, muốn họ Mạc luôn luôn ở bên mình để chỉ vẽ cho mọi việc, nhưng Mạc Cương Hồng cương quyết đòi như vậy, thành ra Sứ quân phải để Mạc Cương Hồng ra trấn ở ải Đồng Lư.
Bạch Khai Thành lại hỏi:
- Thế trước đã có trấn ải Đồng Lư rồi, hay sau mới do Mạc Cương Hồng dựng lên?
Địch Hồng Hà đáp:
- Hồi khoảng hai mươi năm về trước, lúc còn trẻ tôi có lần đi qua Đồng Lư, thì chưa thấy có gì. Sau này khi Sứ quân Ngô Nhật Khánh xưng hùng thì Đồng Lư vẫn chỉ là rặng núi bí hiểm mà thôi. Đến khi Mạc Cương Hồng Lĩnh mệnh trọng trấn Đồng Lư, thì Mạc Cương Hồng mới theo địa thế tạo Đồng Lư thành cửa ải cực kì quan trọng.
Tướng Vương Trụ hỏi:
- Đại tướng có biết Mạc Cương Hồng bài trí trấn ải Đồng Lư như thế nào không?
Địch Hồng Hà lắc đầu:
- Tôi không biết Mạc Cương Hồng bài trí như thế nào. Nhưng tôi xin kể thêm một việc nữa để ông nghe. Mùa thu năm Kỷ Dậu (949) có giặc phương Bắc ở tận Châu Vũ Nga (tức Thái Nguyên ngày nay) nghe nói rằng ở rặng Đồng Lư Cao Biền xưa có yểm trấn trụ đá Kình Thiên, một là để án mạch không cho dân tộc ta ở phương Nam này ngóc đầu lên nổi, hai là đánh dấu chôn cất kho tàng châu báu vơ vét được của dân Giao Chỉ ta rất nhiều, giặc phương bắc Châu Vũ Nga liền kéo tới Đồng Lư toàn đi tìm nơi Cao Biền giấu của.
Nhưng tới lúc ấy thì tướng của Đường Lâm là Mạc Cương Hồng đã dựng xong trấn ải, lại bài trí phong thủy chung quanh thành một nơi thiên hạ nói rằng: “Chỉ có lối vào, chẳng có đường ra” thành thử vì vậy mà giặc phương Bắc đến Châu Vũ Nga gần bốn trăm đứa vào Đồng Lư rồi chẳng có lấy một đứa thoát chết trở ra được. Từ đấy, Đồng Lư trở thành hiểm địa, người cầm quân nào nghe thấy mà chẳng ghê sợ trong lòng!
Bảy tướng nghe Địch Hồng Hà lão tướng kể chuyện cũ bỗng thấy hoang mang trong lòng, không người nào lại không thấy trận đi đánh Đồng Lư này sẽ rất khó khăn, Địch Hồng Hà ngẩng mặt nói tiếp:
- Từ ngày dựng xong trấn ải, lão tướng Mạc Cương Hồng trấn trên lưng chừng núi, nhìn ra quang cảnh tịch liêu trong lòng cũng buồn. Lại thêm Mạc Cương Hồng là người từng trải, đi nhiều nơi khắp cõi Giao Châu ta, bước chân từng dẫn tới không biết bao nhiêu kinh thành của phương Bắc, nay về già ngồi trên lưng núi, lấy thú uống rượu giải sầu. Mạc Cương Hồng tự hào là tay “tửu thánh” ở thế gian này, khắp các kinh thành Bắc phương cho đến cả Giao Châu ta cũng không có lấy một người biết phép uống rượu như họ Mạc. Họ Mạc coi “tửu đạo” dễ thường còn quý hơn cả tính mạng mình nữa, vẫn thường than có một điều rằng: Cao thì có vua ở Cổ Loa, gần thì có Sứ quân ở Đường Lâm, thấp thì có cả trăm dân Giao Chỉ, rộng lớn thì có người Trung Nguyên, ta đi mòn cả trăm đôi giày da trâu, rượu uống cả vạn vò, mà chưa từng gặp được tri kỉ, chỉ thấy toàn một phường sâu rượu lúc nhúc, uống rượu như nước chảy ra khơi, chẳng biết ngọn nguồn dòng nước thế nào, cũng lại chẳng biết giữa dòng nước đục trong ra sao, rõ ra là rặt những phường tục tử!
Mạc Cương Hồng ngồi trên lưng chừng núi uống rượu, quên cả việc đời, suốt bảy năm trời ròng rã họ Mạc không hề xuống núi, chỉ ngồi trên cao uống rượu sai các thuộc tướng lâu lâu lại đi tuần canh các nơi trong địa. Họ Mạc dựng trên sườn núi hướng ra phía Đông một căn nhà bốn giống trúc: thích trúc, sa trúc, thạch trúc và thanh bì trúc, căn nhà ấy được họ Mạc án hướng định phương theo với thiên văn, ứng với vận hành của bốn mùa thời tiết, thành ra khí hậu ôn nhu như buổi đầu xuân cũng có, gay gắt như giữa mùa hè cũng có, man mác hại thu sắp tàn cũng có, mà lạnh ngắt như lúc trong đông cũng có. Mạc Cương Hồng chứa trong căn nhà tứ trúc ấy cả một kho rượu quý, trong thiên hạ chưa ai được họ Mạc mời đến một giọt rượu ấy bao giờ!
Các trọng địa của rặng Đồng Lư, Mạc Cương Hồng dàn xếp như thế nào, thì không ai được biết. Chỉ biết rằng dàn xếp của Mạc Cương Hồng hết sức bí hiểm, cực kì vững chắc, vì thế họ Mạc mới yên lòng ngất ngưởng trên núi cao mà thưởng thức mùi rượu thần tiên!
Bảy tướng nghe Địch Hồng Hà kể về Mạc Cương Hồng, ai cũng thấy lo lắng lắm, tướng Phạm Văn Minh nói:
- Lão huynh là người lịch duyệt từng trải, việc thiên hạ biết nhiều như vậy mà còn không biết rằng Đồng Lư Mạc Cương Hồng dàn xếp như thế nào, thì cuộc tiến quân của ta ắt gặp nhiều khó khăn! Nhưng tôi thiết nghĩ trên thế gian này làm gì có sự vẹn toàn, nhất định không còn có chỗ sơ hở sai lạc, như vậy thì nhất định trong chỗ dàn xếp của Mạc Cương Hồng thế nào cũng phải có chỗ đầu dây mối nhợ, nếu ta tìm được chỗ ấy là ta phá được Đồng Lư!
Bạch Khai Thành tiếp:
- Đã đành là như vậy rồi, nhưng cho đến lúc này ta vẫn chưa tìm ra được cái mối của đầu dây, thì làm sao mà mở cho hết các cửa bí hiểm cho được!
Các tướng bàn luận riết cũng chẳng tìm ra được phương kế gì, Địch Hồng Hà lão tướng vẻ mặt ưu tư vô cùng. Chung cuộc, Địch Hồng Hà thở dài mà rằng:
- Hiện nay ta chưa hiểu rõ chỗ mạnh chỗ yếu của Đồng Lư đành chỉ còn một cách là hãy cứ để xem sao đã!
Thế là đại quân Tây Phù Liệt tiếp tục lên đường, các tướng ra trận mà không biết đối phương như thế nào?
Cuối hạ, binh của Địch Hồng Hà ra đến giới địa sông Bạch Hạc. Nơi này phong cảnh u tịch, núi phảng phất như trong tranh vẽ, cây rừng âm u như vết mực loang trong nước, chỗ sông nước mà dân cư chẳng có, ấy cũng vì sông nơi đây chảy xiết, núi bên này thấp, núi bên kia chập chùng, không phải là nơi thị tứ được.
Địch Hồng Hà truyền tướng giữ cờ lệnh là Bạch Khai Thành dừng quân ha trại, rồi sai tế tác đi thăm dò tình hình nghe ngóng tin tức xem sao.
Tế tác về trình: các nơi yên lặng, sông Bạch Hạc không có dấu vết gì tỏ ra là có dàn xếp việc quân. Bên kia sông đi sâu vào rặng Đồng Lư cũng không thấy có gì. Còn trấn ải nhìn xuống phía Đông, là nơi có dòng sông uốn khúc dưới chân núi, núi cao trùng điệp không thể thấy được gì. Đường đi vòng sâu vào trong núi cũng không thấy có gì lạ.
Tể tác trình xong mọi mặt, Địch Hồng Hà lặng lẽ cúi đầu suy nghĩ, cuối cùng ngẩng đầu phát lệnh:
- Tướng Bạch Khai Thành mang một nghìn quân, lĩnh cờ tiên phong vượt sông trước, chọn nơi nào thuận tiện dưới chân núi Đồng Lư mà hạ trại, phải cho quân đi xem xét tình hình các nơi, có tin là phải báo về hậu quân biết ngay.
Địch Hồng Hà lại sai các tướng Hoàng Tích Lịch, Trần Bảo Quốc, Đặng Hồng Thiên cùng đi với tướng tiên phong Bạch Khai Thành.
Quân của tướng tiên phong xế trưa hôm ấy sang sông, hậu quân còn đóng lại ở bên này. Đến sẩm tối tin từ tiền quân gấp rút trình về nói rằng: “Tướng tiên phong Bạch Khai Thành mang quân đóng ở dưới chân rặng Đồng Lư, cho tế tác đi do thám các nơi không thấy gì. Tướng tiên phong cùng với các tướng đang bàn việc quân, bỗng thấy trời thay đổi thời tiết, trông ra cả một vùng rộng rãi khoảng khoát bỗng nhiên như có núi lớn chập chùng, rừng âm u mù mịt, quân như đóng giữa một nơi hoang dã khủng khiếp. Các tướng kinh hãi, nhìn lên vách núi cao, chẳng thấy có núi đâu cả, chỉ thấy phảng phất như mây treo ngay trên đỉnh đầu! Vì thế tướng tiên phong đi xem xét mọi mặt, xem tại sao có sự lạ như vậy? Việc lạ ấy có từ cuối giờ Thân đến gần giữa giờ Dậu mới hết, nhờ đấy tế tác mới lại thấy đường mà gấp rút trình về hậu quân mọi việc.
Địch Hồng Hà nghe báo cả kinh, vội gọi tướng Phạm Văn Minh, Lý Vân Long và Vương Trụ đến bàn bạc. Địch Hồng Hà thuật lại tin tế tác vừa trình về, rồi nói:
- Như vậy, đích thị là Mạc Cương Hồng ở trên trấn ải đã thấy rõ mọi hành động của ta, chắc y biết phép bày kì trận huyền ảo, lấy cái hư để làm thực thể hoặc quân ta, giả sử trong lúc ấy Mạc Cương Hồng cho quân đánh úp tiền quân của ta, ắt ta lâm nguy rồi. Các ông nghĩ thế nào?
Phạm Văn Minh đáp:
- Tôi nghe có người biết phép bày kì trận, nhưng kì trận ấy chẳng qua chỉ là trò yêu ma giả dối chứ không có thực. Giả sử gặp núi chắn trước mặt ta cứ đi, sẽ chẳng thấy có núi ấy, gặp sông rộng nhưng thật ra chỉ là bãi cát. Như thế, kì trận chỉ là trò yêu ma, ta cứ lấy những vật ô uế mà chống tất được!
Tướng Vương Trụ nói:
- Trong kì trận, cảnh hư ảo đầy rẫy, làm cho ta bị mê loạn lạc đường, nhân đó địch mới đặt phục binh mà phá ta, nếu ta cử án binh, lập thành thế bốn mặt tám hướng yểm trợ được cho nhau, thì nhất định không lo bị phục binh của địch hãm hại, đợi đến lúc kì trận tan đi thì ta lại tiến như thường!
Đến lượt Lý Vân Long nói:
- Hai ông nói cũng có lí cả, về việc án binh đợi chờ thì nhỡ kì trận của địch kéo dài lâu quá, ta đợi như thế nào? Giả sử các đồ ô uế không phá được kì trận thì lúc ấy ra sao? Tôi thấy không ổn!
Các tướng bàn bạc thật lâu vẫn không làm sao giải quyết được. Mãi sau, Địch Hồng Hà mới nói:
- Trong kì trận, điều làm ta nguy hại nhất là loạn mất cả phương hướng, không còn biết trước sau phải trái như thế nào nữa, binh ta vì thế có thể đi cả ngày trời rốt cuộc hóa ra vẫn đứng im một chỗ, loanh quanh qua các ngõ ngách, núi rừng mà hóa ra là đi trong tưởng tượng cả đấy.
Các tướng lúc ấy mới chợt nhớ ra điều ấy. Địch Hồng Hà tiếp:
- Vậy, việc cần thiết là: ta phải làm thế nào để dù ngay giữa kì trận, bị cái loạn phương hướng vây hãm, chung quanh đầy ảo cảnh hiện ra mà vẫn không lạc hướng, có thế mới mong ra khỏi kì trận, tiếp tục đánh địch được!
Bây giờ thì các tướng lại quay sang bàn cách tìm phương hướng. Bàn hồi lâu vẫn lại chẳng thấy có cách nào cả. Mãi về sau, Địch Hồng Hà mới chợt có ý nghĩ: “Làm thế nào để dù xoay sở thế nào cũng mặc, vẫn có một cái đích để định được phương hướng”. Địch Hồng Hà nói:
- Bây giờ ta phải dùng mẹo này mới được: trong quân ta lập ra một cái đài thấp, trên đài đặt một cái trụ gỗ hình vuông khắc rõ dấu để biết bốn hướng Đông, Tây Nam, Bắc, quanh trụ gỗ ấy ta dặt bốn tên quân đứng bốn mặt, mỗi tên phải nhớ tên hướng của mình, bốn tên lính ấy lại không được tự ý di chuyển, Lúc trận thế của ta chuyển động giữa kì trận, tất cả cái dài ấy cũng phải đi chuyển theo, tướng của ta cứ theo phương hướng khắc trên trụ gỗ mà định phương hướng, bốn tên quân chân buộc dây ràng đứa nọ vào với đứa kia, nếu cần phải bước đi thì chỉ được phép bước trong phạm vi rộng nhất của dây ràng, đi mấy bước sang phải hay trái thế nào đều phải nhớ cả để trình cho tướng rõ. Như thế, dài xem hướng của ta dù có chuyển động nhưng thước tấc so với phương hướng thật vẫn tìm ra được dễ dàng. Các ông thấy thế nào?
Các tướng nghe mẹo của Địch Hồng Hà mừng quá, bàn đi bàn lại, tìm đủ mọi cách hạch hỏi cho thật gay go để không còn chỗ nào vấp váp nữa, rồi Địch Hồng Hà giao cho Vương Trụ gấp rút làm cả thảy tám đài xem hướng, lại sai chọn ba mươi hai tên quân lanh lợi, có trí nhớ dai sai giữ việc trấn định hướng. Vương Trụ ngay trong đêm hôm ấy gấp rút làm đài, việc làm cũng chẳng có gì là khó khăn, ba mươi hai tên quân cũng đã thuộc làu phép giữ đài, lúc ấy Địch Hồng Hà mới đem ra thử.
Địch Hồng Hà sai lấy vải đen bịt kín mắt ba mươi hai tên quân giữ đài định hướng, rồi cùng lại tự bịt mắt mình cùng ba tướng Lý Vân Long, Phạm Văn Minh, Vương Trụ, để thử lại phép định hướng xem có được hay không. Bốn tướng thử thật lâu, trăm lần không sai trệch một, quân giữ đài mỗi lần tự ý bước đi như thế nào, đều ghi nhớ trình cả lại, các tướng cứ theo đấy tính ra quả nhiên định được phương hướng ngay
Gần sáng hôm sau, Địch Hồng Hà hân hoan bảo ba tướng:
- Thế là ta có được cách để đi lại trong kì trận rồi! Bây giờ, phải sang sông tiếp ứng cho các ông ấy mới được.
Rồi Địch Hồng Hà truyền nhổ trại, vượt sông gặp đạo quân của tướng tiên phong Bạch Khai Thành. Họ Bạch cùng các tướng khi nghe việc Địch Hồng Hà đã nghĩ ra mẹo đi lại được trong kì trận mà không bị lạc hướng, ai cũng mừng rỡ vô cùng.
Thế là, các tướng mỗi người được một đài xem hướng, mỗi lần tiến quân hay đóng binh đều ghi nhớ rõ ràng: phía Đông có núi non rừng rậm ra sao, phía Tây địa thế như thế nào, hai mặt Bắc Nam có những nơi nào nhất nhất đều ghi rõ cả.
Đến xế trưa hôm ấy kì trận lại xuất hiện. Địch Hồng Hà vội chú hết tinh thần xem biến ảo ra sao. Địch Hồng Hà nhận thấy: “Mới đầu thời tiết như đổi thay, sương mù đùn ra khắp cả núi rừng mờ mịt, đến lúc trời quang đãng lại thì phong cảnh như đổi mới, núi non rừng rú sông ngòi như ở một nơi xa lạ nào, lại luôn luôn có gió thổi lúc vi vu, lúc ào ào mãnh liệt”.
Lập tức Địch Hồng Hà truyền tất cả bảy tướng nhất tề cho quân vào hàng ngũ, quân phải chỉnh tề để chiến đấu, lại phải đi sát vào nhau đừng để lạc đường, bảy tướng cứ theo đài định hướng, nghe lệnh tiến thoái của lão tướng Địch Hồng Hà mà vào trận.
Trong trận, luôn luôn nghe có lệnh truyền của Đại tướng Địch Hồng Hà “ba bước sang trái, một bước sang phải... hai bước tiến lên... trở lại sau bước sang phải...”. Lệnh từ Địch Hồng Hà phát ra, lần lượt các tướng hô lớn truyền lại cho nhau trong quân, khiến cho binh của Tây Phù Liệt chuyển động thật lặng lẽ trong kì trận, đi lại quanh co thật lạ lùng.
Địch Hồng Hà cưỡi chiến mã Khải Phong màu xám tro, lão tướng mình bận chiến bào sắc đỏ như ráng mặt trời lúc đang lên, lưng treo gươm báu A Đằng, chòm râu dài bạc trắng phơ phất theo gió trong kì trận trông đẹp như thần tiên. Địch Hồng Hà lắng hết tinh thần, luôn luôn xét định lại phương hướng trên đài xem hướng, rồi nhíu mày lẩm nhẩm tính toán phương hướng thật của núi Đồng Lư mà ra lệnh tiến quân.
Đại quân của Địch Hồng Hà dàn thành trận thế “Núi dài chắn gió”, cùng tiến lên, hai cánh tả hữu yểm trợ cho trung quân ở giữa, binh tiến lên lại có thể dễ dàng mau lẹ đổi tiền quân thành hậu quân, hai tả hữu lực trong lúc khẩn cấp có thể đang ở thế yểm trợ biến thành xung kích, tiền quân cùng một lúc có sức chống đỡ cho hai mặt tả hữu. Thế trận của Địch Hồng Hà khít khao mà hùng dũng, binh tiến nhưng vẫn sẵn đường thoái. Tất cả di chuyển trong kì trận của Đại tướng ải Đồng Lư là Mạc Cương Hồng thật vững chắc, không hề bị sai hướng lạc đường. Binh tiến như vậy thật đều, vẫn chưa gặp phải binh của trấn ải đón đánh.
Địch Hồng Hà một mặt truyền lệnh định hướng tiến quân, một mặt luôn luôn sại liên lạc nhắc nhở các tướng: “Binh ta tiến ung dung như thế này, tất nhiên Mạc Cương Hồng ở một nơi nào đấy đang nhìn thấy ta rất rõ. Ta ra được kì trận của y, tức là khiêu chiến ghê gớm với y đấy!”.
Các tướng thận trọng nghe lệnh, lắng hết tinh thần để định lối đi bằng đài xem hướng, luôn luôn liên lạc với nhau để quả quyết về hướng đi là đúng.
Giữa lúc binh của Địch Hồng Hà ào ạt tiến như cả tòa thành rộng giăng dài, lại sát chân núi Đồng Lư phía Đông, vượt kì trận mà đi, thì trên lưng chừnng núi cao, tướng Đường Lâm là Hồng Bảo Ty trông coi mặt trận phía dưới ngồi giám trận, thấy rõ tất cả, lại thấy binh lạ ung dung tiến đi trong kì trận không hề sai lạc phương hướng như thể kì trận đã phát động mà binh lạ không bị ảnh hưởng gì, hoặc giả kì trận không chuyển động, thì kinh hãi quá. Một mặt truyền quân sẵn sàng nghinh chiến, một mặt gấp thông báo lên đại doanh cho Đại tướng Mạc Cương Hồng rõ.
Đại tướng Mạc Cương Hồng đã được tin có binh lạ từ hướng Đông vượt sông xâm phạm giới địa kì trận ở dưới chân núi Đồng Lư, liền truyền lệnh cho các mặt cứ đúng theo phương hướng bộ vị của mỗi nơi mà hành động. Lệnh truyền đi mới được một ngày trời, đã lại có tin khẩn báo lên đại doanh là “Binh lạ vượt kì trận không ra hàng lối gì cả, nhưng không bị vây hãm trong trận địa!”.
Mạc Cương Hồng nghe bảo lấy làm lạ. Lập tức đem các thuộc tướng cùng lên ải xem xét tình hình.
Mạc Cương Hồng bước ra vọng đài mà quan sát. Trấn ải của Mạc Cương Hồng xây dựng thật lạ, cả tòa ải lớn hình khum khum như cái mai rùa, có một nơi nhô hẳn ra ngoài gọi là “vọng đài”. Đứng từ vọng đài, có thể nhìn thấu một vùng bao la dưới chân núi, thấy rõ cả dòng Bạch Hạc, những buổi trời quang mây tạnh có thể nhìn thấy cả giang sơn của Tây Phù Liệt; ngước mắt lên hướng Đông Bắc thấy cả nơi tung hoành của Đỗ Cảnh Thạc ở sông Đỗ Động.
Vọng đài trấn ải Đồng Lư, không phải là tự nhiên thế núi được như vậy, mà chính là Mạc Cương Hồng sai quân thiết trí theo tính toán riêng.
Đứng trên vọng đài, Mạc Cương Hồng chăm chú nhìn xuống phía dưới, thấy rõ binh Phù Liệt chậm chậm di chuyển về hướng Tây, tức là lại sát chân rặng Đồng Lư. Mạc Cương Hồng quan sát hồi lâu, chợt thở dài quay lại bảo các tướng:
- Binh của Phù Liệt, do ai cầm?
Tướng Ngô Cảnh Thụy thưa:
- Thưa, chính lão tướng Địch Hồng Hà!
Mạc Cương Hồng nói:
- Địch Hồng Hà là danh tướng thời nay. Không biết y làm cách nào mà tìm được phương hướng đi trong kì trận như vậy? Nhưng có điều rõ ràng là: Địch Hồng Hà vẫn chỉ là một hổ tướng mà thôi, chứ không thể là một “thần tướng” được! Kì trận của ta, có đường vào, đường ra, có nơi nghỉ có nơi tung hoành, có nơi cứng có nơi mềm, biến hóa dị ảo nói ba ngày không hết được, thế mà y dám ngang nhiên đem đại quân đi như vậy. Giả sử ta xuất chiến lấy cái dị ảo của trận thế mà đánh giết, liệu một trận thôi, Địch Hồng Hà còn gì là tên tuổi nữa!
Mạc Cương Hồng nói xong, đứng nhìn binh của Địch Hồng Hà từ từ di chuyển. Lát sau, Mạc Cương Hồng nói tiếp:
- Địch Hồng Hà phá kì trận của ta, tưởng như vậy là được! Ta không biết y làm thế nào khiến quân không loạn hướng, đây là điều đáng khen, đáng để cho y khỏi phải chết ngay!
Rồi quay sang tướng Văn Thượng Chính, Mạc Cương Hồng bảo:
- Này ông Văn, ông có người con gái việc trong nhà không thích, chỉ thích tránh việc kiếm cung của bọn làm trai, nó theo ra đây cũng lâu ngày rồi, bây giờ tôi cho phép nó xuống núi đánh nhau với Địch Hồng Hà đấy! Ông về bảo nó ra trận xem sao!
Văn Thượng Chính nghe lão tướng Mạc Cương Hồng nói vậy, giật mình kinh hãi đáp:
- Thưa ngài, cháu nó tuổi còn bé quá, tôi dạy bảo không được, nay việc lớn như thế này tôi xin được trái lệnh ngài xin cho cháu nhỏ khỏi phải đắc tội!
Mạc Cương Hồng cười ha hả mả rằng:
- Không! Ông đừng lo! Trận pháp của ta dàn khắp núi, thiên hạ này làm gì có kẻ nào lọt được! Nay Địch Hồng Hà không biết trời cao đất rộng là gì, lại dám đem cái ngu dốt của y ra mà xông xáo như vậy, thì ta cho y biết là: đến Đồng Lư này, một đứa con gái chỉ đáng tuổi con cháu y thôi, cũng thừa sức lấy tính mệnh y được rồi! Ông không phải lo, cứ tuân lệnh ta là đủ!
Dứt lời, Mạc Cương Hồng quay lại tướng Thôi Bích Trác mà rằng:
- Ông cho quân bày tiệc tại vọng đài, để chúng ta vừa uống rượu vừa xem con bé họ Văn xuất trận một phen xem sao!
Nói xong, quay lại vẫn thấy tướng Văn Thượng Chính đứng tần ngần, Mạc Cương Hồng mỉm cười hỏi:
- Này ông Văn, có phải ông không tin lời tôi nói không? Văn Thượng Chính vội kính cẩn đáp:
- Thưa ngài, có bao giờ tôi lại dám không tin lệnh ngài! Nhưng... nhưng quả thật...
- Quả thật làm sao?
- Thưa ngài, tôi còn thấy điều chưa tỏ, xin ngài chỉ bảo cho có được không ạ?
- Ông khéo vẽ! Ông chưa tỏ điều gì nào?
- Thưa ngài, việc thứ nhất: tướng Phù Liệt là Địch Hồng Hà so với ngài chẳng qua chỉ như đom đóm bay dưới ánh trăng, nhưng đối với chúng tôi thì y là tay khó nói chuyện. Địch Hồng Hà tuy không hiểu được kì trận của ngài, nhưng y lại không biết vì đâu vẫn đi được...
Mạc Cương Hồng ngắt lời:
- Tôi nói vắn tắt để ông khỏi thắc mắc nhé: Địch Hồng Hà lúc này cũng có khác gì người khác lạc vào kì trận của ta, y đi như vậy có khác nào kiến vẫn bò quanh miệng chén lại cứ tưởng là mình đi theo đường thẳng, Trận pháp của ta huyền diệu, nói ba năm không hết, ông cứ biết thế là đủ.
Văn Thượng Chính vội đáp:
- Tôi xin nghe lệnh ngài, Điều tôi chưa tỏ thứ hai, là Địch Hồng Hà vào kì trận của ngài chẳng khác gì kẻ mù đi trong rừng, nhưng giả sử đối mặt tranh hùng so giỏi với y thì ít ra cũng phải là tướng quen chiến trận, lành nghề kiếm, thạo phép chiến đấu tay không, bắn cung không cần nhắm mà vẫn trúng đích, chứ như con bé nhà tôi học nghề không tinh, làm sao đối địch với tướng Phù Liệt được? Tôi thắc mắc lắm!
Mạc Cương Hồng đáp:
- Ai bảo ông là con chim Hồng chưa từng lên đỉnh núi Tản Viên, lại không đủ sức vượt biển rộng? Ông có dám chắc là con quạ đen bắt được cả gà lớn, quắp được cả chuột đồng to, lại đủ sức để vượt rặng Đồng Lư này không? Đã thế, thì con bé nhà ông tuổi mới chỉ bằng một phần ba tuổi của Địch Hồng Hà, đã chắc gì Địch Hồng Hà thắng được nó! Ông cứ yên lòng!
Rồi Mạc Cương Hồng dặn Văn Thượng Chính:
- Bây giờ ông về sửa soạn cho con bé ra trận ngay. Ông bảo nó lúc nào sửa soạn xong rồi thì tới đây nghe lệnh tôi đã rồi mới ra trận, nghe không!
Văn Thượng Chính không dám cãi lệnh, đành vòng tay nhận lệnh rồi đi ngay.
Chưa biết việc ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—