← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Bảy Mươi Mốt Phù Liệt bại binh thiệt tướng
Địch Hồng Hà tử trận Đồng Lư

Trên trấn ải, Mạc Cương Hồng nhận được tin các mặt trong lòng chẳng khỏi vừa giận vừa kinh hãi! Như vậy là cha con Văn Thượng Chính đã làm hỏng đại sự. Địch Hồng Hà quả thật lợi hại! Mạc Cương Hồng bàng hoàng giây lát rồi lập tức truyền cho Thôi Bích Trác lĩnh mệnh tổng quản các mặt trận tề phá binh Phù Liệt. Mạc Cương Hồng giận cực điểm, càng giận càng muốn thẳng tay tàn sát binh Phù Liệt, liền bảo:

- Địch muốn thừa cơ đánh lén An Cận, bị ta biết được thành ra không làm gì được, bây giờ nó tất chết trong trận mưa đá ở mặt phía Nam. Còn mặt trận chính diện Đồng Lư, Văn Thượng Chính cũng lại làm lỡ việc. Địch Hồng Hà xua quân ào ào toan vượt ải, kì trận của ta phát lệnh không có tướng tổng quản, thành ra trận chưa hoạt động được. Chậm chút nào, binh Phù Liệt tiến thêm chút nấy, Địch Hồng Hà tưởng là thừa cơ hội ấy uy hiếp được ta, nay binh của y đã bắt đầu vượt vách núi rồi. Người đem quân ra trận, cứ sử dụng cung tên giết cho hết binh Đồng Lư, lại phải nhớ cho quân trấn ở các nơi có hiệu cờ vàng thì được an toàn, cùng một lúc ta vừa dùng trận đá vừa dùng trận tên mà phá Phù Liệt đấy!

Thôi Bích Trác là tướng khá do Sứ quân Ngô Nhật Khánh cử ra Đồng Lư để giúp cho Mạc Cương Hồng, phòng khi Mạc Cương Hồng tuổi già không muốn giúp Sứ quân nữa thì cũng có người biết việc Đồng Lư. Thôi Bích Trác là người chín chắn, lại hết sức để ý đến công việc dựng ải Đồng Lư, luôn luôn học hỏi mọi việc, vì thế cách dàn xếp của Mạc Cương Hồng cho ải Đồng Lư họ Thôi đều biết cả, có thể một mình chỉ huy các mặt được, duy có cách dàn xếp kì trận thì họ Thôi không làm sao biết được, trong lòng vẫn lấy làm áy náy, nhiều phen muốn ngỏ lời xin Mạc Cương Hồng chỉ bảo cho nhưng lại không dám.

Bây giờ, nhận lệnh của Mạc Cương Hồng tổng quản các mặt, nhất tề phá binh Phù Liệt, Thôi Bích Trác vừa thấy hào hứng lại vừa cho rằng đây là cơ hội để biết được rất nhiều thêm nữa, phải hết sức mở mắt cho to, vểnh tai nghe cho rõ ắt biết được nhiều điều hay.

Nhận lệnh xong, Thôi Bích Trác liền từ biệt Mạc Cương Hồng, điểm ba trăm quân, kéo đến trước doanh nghe lệnh lần chót. Mạc Cương Hồng từ trong nhà trúc bước ra, nhìn đám quân cùng tướng Thôi Bích Trác, rồi lại thản nhiên nhìn cả một vùng rộng lớn phía dưới ải. Lúc ấy nắng đã lên cao, núi rừng còn bốc hơi sương mờ mờ, binh Phù Liệt như những mảng rêu đang chậm chậm bám vào vách núi tiến lên.

Mạc Cương Hồng quan sát một lát, quay lại bảo họ Thôi:

- Toàn quân của ngươi không bằng một cánh quân nhỏ của Địch Hồng Hà, nhưng lúc vào trận lại có sức mạnh gấp trăm lần địch. Bởi vậy, ta cũng chẳng cần phải gấp rút tìm địch mà đánh, ngươi cứ ung dung cho quân vào vị trí cờ vàng, rồi phải luôn luôn theo lệnh cờ trên ải cho quân tiến thoái, bắn tên hay xung trận. Trong trận, ngươi cứ tùy tiện gặp lúc nào có lợi thì cứ hạ tướng địch. Cung tên trong cơn hỗn loạn là điều lợi, chỉ nên xuất hiện khi nào địch tan nát thì đâm chém mới đạt cả thắng lợi mười phần!

Thôi Bích Trác nhận lệnh, kéo quân đi ngay. Trên vọng ải, Mạc Cương Hồng truyền quân hầu kéo cao sáu lá cờ đỏ ở hướng Đông, ba lá cờ xanh ở hướng Nam, một lá cờ vàng ở hướng Bắc. Truyền xong lệnh, Mạc Cương Hồng lại vào nhà trúc uống rượu đợi tin.

Ở phía Nam Đồng Lư, tiếng ầm ì núi đổ đã hết, Mạc Cương Hồng vừa nâng chén rượu đã có tin quân trình vào:

- Tướng tổng quản trận đá mặt Nam xin trình tin về Thống soái!

Mạc Cương Hồng vẫn khoan thai, truyền cho người đưa tin vào hầu. Người mang tin vào lạy rồi trình:

- Trận đá mặt Nam, ngay lúc đầu giết chết một tướng địch, nhưng cũng lại làm cho tướng Ngô Cảnh Thụy thiệt mạng...

Mạc Cương Hồng giật mình:

- Ngô Cảnh Thụy chết rồi?

- Bẩm Đại soái đúng thế!

- Thế là thế nào?

- Bẩm, từ trên cao chúng tôi thấy tướng Thụy bước ra, trận đá không kịp ngưng nên tướng Thụy thiệt mạng...

- Trước đây, ông ta làm gì?

- Bẩm, Ngô tướng quân cho lệnh tăng trận lên “trận bốn”...

- Tại sao lên trận bốn?

- Bẩm, vì lúc ấy ở dưới sâu có hai người chạy trốn. Ngô tướng quân cho lệnh trận đá là để giết hai người ấy. Nhưng, có một người lúc đầu dùng kiếm chống đỡ trận đá của ta, khi Ngô tướng quân từ trong sơn đạo bước ra thấy vậy thì ra lệnh cho trận lên bốn.

- Hai đứa đó chết chưa?

- Bẩm, người múa kiếm lúc ấy lại dùng đến hai tay hai tảng đá múa may chống đỡ đến khi trên cao chúng tôi thấy tướng Thụy thiệt mạng thì vội cho ngưng trận. Vừa lúc ấy có người cưỡi ngựa chạy đến ven núi nhìn ra thì là Văn Thượng Chính tướng quân...

Mạc Cương Hồng nhíu mày:

- Sao Văn Thượng Chính tới đấy? Y làm gì?

- Bẩm. Văn Tướng quân vì vướng trận đá nên dừng ngựa, trên cao hai người chạy trốn nhân lúc trận đã ngừng liền chạy vội xuống. Tướng giữ trận cho hai người ấy là tướng địch, cho nên vội phát lệnh cho trận đá hoạt động lại, chính trong lần này đã giết được hai người ấy...

Mạc Cương Hồng thở dài, thốt:

- Tiếc thay! Tiếc thay! Bạch Khai Thành lẫy lừng tên tuổi thế là gửi thân trong trận đá Đồng Lư! Xác y có lấy được không?

- Bẩm cũng đúng lúc ấy, có người mang lệnh cho ngưng trận...

Mạc Cương Hồng giật mình:

- Lệnh gì?

Quân đưa tin lo lắng:

- Bẩm, có một người cưỡi con ngựa đen bóng cao lớn từ đâu chạy tới, người ấy giơ cao ba cờ hai trắng một đỏ, rõ ràng là lệnh của đại soái...

Mạc Cương Hồng đứng phắt dậy, hỏi dồn:

- Tướng nào? Ta có sai tướng nào mang lệnh gì đâu?

Lúc ấy tại mặt trận phía Nam Đồng Lư, Văn Thượng Chính đứng lại ven rừng thấy bụi cát mù mịt trong tiếng đá đổ ầm ầm, quang cảnh như đang giữa trận mưa cực lớn không làm sao trông rõ được cảnh vật. Văn Thượng Chính không trông thấy Văn Bích Kiều vừa nghe tiếng gọi của Bạch Khai Thành vội đứng dừng lại, thì cũng là lúc đó trút xuống như mưa.

Bạch Khai Thành kinh hoàng, hai tay huy động hai tảng đá vận dụng hết tinh hoa của quái quyền dòng họ Bạch, tay trái xử đến cương dương quyền, tay phải xử huyền âm quyền, một cương một nhu cùng lúc phá trận đá. Sức uy mãnh của “Xích Đằng quái quyền” bây giờ mới thật là cùng cực, cả một vùng rộng chung quanh Bạch Khai Thành như có khoảng trống trong suốt bao bọc, gió bốc ra từ tay quyền cương mãnh hợp với hấp lực huyền diệu của tay quyền âm nhu, khiến cho đá vừa tan vỡ vì sức mạnh va chạm lại vừa quyện vào nhau, tảng trước cản tảng sau dạt cả ra.

Nói thì lâu, nhưng việc xảy ra cực nhanh, Bạch Khai Thành khắc chế được mưa đá trút xuống, nhưng không vượt được số mệnh thảm khốc cứu được Văn Bích Kiều!

Lúc Văn Bích Kiều nghe tiếng kêu của Bạch Khai Thành vội dừng bước, cùng lúc ấy họ Bạch vội băng mình lướt tới, cũng chỉ kịp chống đỡ để cho đá từ trên cao khỏi ập xuống vùi kín Văn Bích Kiều. Bạch Khai Thành vừa huy động tay quyền, vừa nhận thấy Văn Bích Kiều bị một tảng đá lớn đè trúng nửa người phía dưới, Văn Bích Kiều chẳng kịp kêu một tiếng, nửa người nát đi chết liền tại chỗ.

Cương phong từ cương dương quyền của Bạch Khai Thành bốc ra cuốn bụi đá đi khiến trông rõ cảnh Văn Bích Kiều chết thảm dưới tảng đá lớn. Bạch Khai Thành lòng đau đớn, nhưng không biết làm cách nào khác hơn. Đành cứ múa quyền chống đỡ được thêm lát nữa thì Bạch Khai Thành nóng ruột, liền lên tiếng gọi Văn Bích Kiều nhưng thấy nàng chẳng có dấu hiệu gì là còn sống cả thì Bạch Khai Thành tự nhiên nước mắt tuôn rơi lã chã.

Bạch Khai Thành vừa múa quyền vừa lại sát chỗ Văn Bích Kiều nằm, rồi một thoáng suy tính, Bạch Khai Thành vươn cao tay quyền cương dương, tay quyền âm nhu mở rộng, cả hai hợp tung kích một thế “Thập linh âm dương quyền”.

Đây là đường quyền thứ tám mươi sáu trong Xích Đằng quái quyền của dòng họ Bạch. Bắt đầu đi vào âm quyền với bảy mươi hai thế đánh thuần âm, nhưng Bạch Khai Thành cùng một lúc lại sử dụng cương dương quyền ở một tay. Một tay vận dụng âm quyền, thành ra quyền pháp xử ra có điểm giao tiếp giữa âm với dương, một bên trì trọng một bên lả lướt, cả hai hợp một vừa mau lẹ vừa dũng mãnh bổ xuyết cho nhau, tay quyền thấp thoáng lên xuống cực nhanh, chớp mắt đã biểu diễn xong mười thế “thập linh”. Thế quyền đã đi qua, sức dũng mãnh như vẫn còn nguyên vẹn, gió bốc ra vẫn quyện chặt tiếp tục cuốn đá dạt ra ngoài. Đúng trong lúc ấy, Bạch Khai Thành trụ bộ, chân phải co cao trong thế “Phượng hoàng đội sen”, mình hơi nghiêng về bên trái, tay quyền cương dương ở bên trái vận dụng toàn lực tung ra một đường “Rồng thiêng lìa đầm” bốc ngược từ dưới chênh chếch đưa lên. Lập tức tảng đá lớn đè trên người Văn Bích Kiều bật dựng lên. Cùng lúc ấy, Bạch Khai Thành phóng ra ngọn “Phá thạch hoạt cước” chân phải tung ra như chớp giật đá vào tảng đá chát một tiếng dữ dội.

Võ hài của Bạch Khai Thành bên trong bằng thiết mộc, bên ngoài bọc một lớp gang đen hết sức cứng rắn, nay đá vào tảng đá chẳng khác nào một lưỡi đại phủ quật hết lực, tức thì tảng đá bật hẳn lên. Nương theo đà ngọn cước, Bạch Khai Thành vươn mình tay quyền huyền âm bồi thêm một đường “Gió cuốn lá vàng” phất ngược từ dưới chếch lên phía trái tiếp lực với ngọn cước bốc bật hẳn tảng đá đi. Thế là, chỉ trong hai quyền một cước thần tốc âm dương hỗ trợ cho nhau. Bạch Khai Thành đã nhấc bỏ được tảng đá lớn đè lên người Văn Bích Kiều mà không đụng chạm gì đến các nàng.

Dư lực của hai đường quyền và thế cước; cuốn theo bụi đá để lộ rõ hình hài Văn Bích Kiều tan ngọc nát vàng khiến cho Bạch Khai Thành tự nhiên thấy thẫn thờ, tay quyền chậm lại, tinh thần phân tán, nội lực dồn cả vào hai đường quyền và ngọn cước khốc liệt để nâng tảng đá bây giờ hốt nhiên ào ạt tuôn ra, khoảnh khắc Bạch Khai Thành hai mắt mờ đi, bộ quyền không vững thế, tay quyền thi thố như chẳng còn khí lực, quái quyền dòng họ Bạch phút chốc tan hẳn sức uy mãnh, không chống đỡ nổi đá đổ xuống!...

Cũng vừa lúc ấy, một người cưỡi con ngựa đen cao lớn từ phương Nam và vụt phi tới. Con ngựa sải bốn vó cực mạnh tưởng không chạm đến mặt đất, chớp mắt đã tới sát ven rừng. Kị sĩ đang rạp mình trên lưng Ô Truy bỗng ngồi phát dậy, tay trái vẫn cầm cương ngựa, tay phải vụt giơ cao ba lá cờ hai trắng một đỏ, cố phất phất ra hiệu.

Trên vách núi, tướng giữ trận đá đang chăm chú theo dõi quang cảnh phía dưới, mắt để ý ngay người lạ mới tới, đến khi thấy hiệu cờ giơ ra thì vội vã ra lệnh ngưng trận.

Trong trận, Bạch Khai Thành tâm thần tan nát, khiến cho nội lực tan biến mất cả, ngoại cảnh quá xúc động ảnh hưởng mãnh liệt đến chân nội lực, khiến trong chớp mắt họ Bạch tay chân rã rời, người như mê đi giữa lúc đá tiếp tục đổ xuống. Vừa lúc họ Bạch chậm chậm thẫn thờ dừng tay, bước đi, cũng là lúc người lạ mới tới giơ cao ba lá cờ ngưng trận.

Trận đá ngưng, nhưng không phải chớp mắt là hết được, đá không trút thêm nhưng còn tiếp tục lăn xuống. Chính trong thời gian tối chung này, đệ nhất quyền gia cõi Giao Châu Bạch Khai Thành gục xuống bên cạnh xác Văn Bích Kiều. Đá từ trên cao lăn xuống tuy không nhiều bằng lúc giữa trận nhưng cũng đủ mau lẹ lấp kín xác Văn Bích Kiểu lẫn Bạch Khai Thành.

Thế là hai kẻ yêu nhau chưa trọn, đã cùng chết trong trận đá khốc liệt ở Nam ải Đồng Lư. Đá núi đổ xuống làm thay đổi quang cảnh, không còn cách gì tìm lại được xác hai người mới yêu nhau đã hóa thành vạn cổ vắng bóng.

Ở ven rừng, người lạ cưỡi Ô Truy giơ cao ba lá cờ ra hiệu ngưng trận, vẫn cho ngựa sải vỏ. Trên vách núi, tướng giữ trận nhận thấy rõ ràng cờ hiệu.

Người lạ cho ngựa chạy như vậy từ Nam lên phía Bắc, rồi lại quay trở lại, cho ngựa đến gần ven núi. Tới lúc này thì gặp Văn Thượng Chính trụ ngựa chết lặng nhìn lên vách núi nơi ông mới đây còn nghe tiếng Văn Bích Kiều gọi và thoáng thấy bóng nàng. Người lạ dừng ngựa nhíu mày nhìn họ Văn rồi ngập ngừng:

- Ông là ai? Đến đây có việc gì?

Văn Thượng Chính thẫn thờ:

- Ta là tướng Đường Lâm, vừa mất đứa con duy nhất trên sườn núi rồi!

Người lạ ngạc nhiên:

- Ông là tướng của Đường Lâm, thế thì tại sao lại bị vướng trong trận đá của Đường Lâm?

Văn Thượng Chính vẫn chẳng buồn xem khách lạ là ai, vẫn thẫn thờ đáp:

- Con ta theo tướng Phù Liệt, bị chết trong trận đá rồi!

- Ông có biết tướng Phù Liệt chết ở đây là tướng nào không?

- Ta nghe nói y tên Bạch Khai Thành!

Người lạ sửng sốt:

- Giao Châu đệ nhất quyền gia Bạch Khai Thành, hèn gì tôi thấy lúc nãy còn có bóng người trên núi! Thế bây giờ ông định đợi gì nữa đấy?

Văn Thượng Chính ngước mắt nhìn lên vách núi, rồi lẳng lặng giục ngựa chạy về phía Nam, phút chốc khuất bóng. Người lạ cưỡi con Ô Truy lẩm bẩm:

- Quả như lời quân sư nói, ta không kịp gặp họ Bạch mất rồi! Không biết một trăm tám mươi tám mảnh da yếm bò khắc toàn bộ quyền pháp họ Bạch thất lạc về đâu?

Thì ra, người lạ là Trịnh Tú, Tú lĩnh mệnh Quân sư Hoa Lư đến xem Phù Liệt tranh hùng với Đường Lâm, Quân sư biết quân Phù Liệt gặp phải Mạc Cương Hồng thế nào cũng bị nguy, nên sai Tú đến dò tìm xem may ra đã lấy được bộ Quái quyền Xích Đằng của họ Bạch, nhưng Tú đến không kịp!

Bộ Quái quyền Xích Đằng của dòng họ Bạch đến đời Bạch Khai Thành là hết người thừa tự, đến khi Bạch Khai Thành cùng với Văn Bích Kiều chết trên sườn núi thì Giao Châu không còn người biết sử dụng quyền pháp có một không hai ấy nữa. Sau vợ Bạch Khai Thành ở nhà sinh con gái, thành ra Xích Đằng quái quyền hoàn toàn bị mất tích. Về sau, đến đời nhà Lý sùng bái đạo Phật, năm Mậu Ngọ niên hiệu Thuận Thiên hai quan Nguyễn Đạo Thành và Phạm Hạc vâng lệnh Lý Thái Tổ đem Kinh Tam Tạng từ bên Tàu về. Nhân chuyến đi này có nhà sư Trung Quốc theo sang thành Thăng Long. Nhà sư Trung Quốc từng nghe cõi Giao Châu có nhiều bảo vật có ý nhân cơ hội tìm kiếm bộ Quái quyền Xích Đằng của họ Bạch ở Phù Liệt thời xưa. Không biết nhà sư Trung Quốc có lấy được bộ quyền pháp chí bảo ấy hay không, nhưng đến khi quân Mông Cổ sang đánh nước ta vào đời nhà Trần, thì các danh tướng của nhà Trần xuất trận đương cự với tướng Mông Cổ đều nhận thấy trong phép võ nghệ của họ có nhiều lối phảng phất như quyền thuật của họ Bạch thời xưa còn được truyền tụng lại. Có người còn nói rằng: quả thật nhà sư sang Giao Châu thời nhà Lý đã lấy được bộ Quái quyền đem về phương Bắc, rồi chính vì bộ Quái quyền này mà các phái võ Trung Quốc tranh giành nhau có xảy chia ly: phái Thiếu Lâm vì nhờ đông đảo mạnh hơn cả nên tranh đoạt được hết phần cương dương quyền, vì vậy trong quyền pháp của phái Thiếu Lâm mới tàng ẩn cái sức bên trong hùng hậu. Còn phái Côn Luân tranh đoạt được gần hết phần huyền âm quyền, vì thế võ thuật phái Côn Luân vừa mượn được ý nghĩa sức mạnh uyển chuyển dai dẳng của biển cả, lại vừa pha phần nhu thuần của huyền âm quyền của họ Bạch ở Giao Châu. Quân sư Lê Thảo định kế dàn mưu khuấy động Giao Châu, sai Trịnh Tú đi thu báu vật của giống nòi nhưng chậm một bước, để đến nỗi quốc bảo lọt vào tay người, việc này sẽ nói trong Bộ “Sứ mạng Lê Thảo”...

Bây giờ kể lại mặt trận ải Đồng Lư. Đại soái Mạc Cương Hồng nghe quân đưa tin thuật rõ trận đá mặt Nam thì hiểu rằng cả Văn Bích Kiều lẫn Bạch Khai Thành đều thiệt mạng rồi, lại thêm tướng Văn Thượng Chính mất hồn bỏ đi rồi! Mạc Cương Hồng chẳng khỏi bàng hoàng, ông chưa kịp có lệnh đã thấy bên ngoài trình vào: “Địch Hồng Hà nhất tề xua quân công hãm trấn ải, mặt trận của Đường Lâm không có tướng tổng quản nên không khai trận được, nay tướng Thôi Bích Trác ra trận thay cho tướng họ Văn đang ra sức sát phạt binh địch”.

Mạc Cương Hồng nghe trình chỉ lặng lẽ nghe, rồi giơ tay cho lệnh quân ra ngoài. Mạc Cương Hồng lại trước văn án, chậm chậm nâng chén rượu “Tuế Minh” cực nóng mà uống. Men rượu như chứa toàn độc dược, mạnh vô cùng làm cho Mạc Cương Hồng bừng bừng trong tinh thần, ông liền gọi quân hầu vào truyền lệnh:

- Bảo tướng giữ cờ lệnh đợi cho gió tan đi thì dẹp hết cờ, trương một lá “Hồng tâm kì!”.

Lệnh của Đại soái ban ra cực nghiêm, giọng nói của Mạc Cương Hồng thật quyết liệt. Quân nhận lệnh xong cúi rạp người lạy mà lui ra. Đây là lần đầu tiên trong đời Mạc Cương Hồng cho lệnh đến độ như vậy. Trận pháp của Mạc Cương Hồng phân thành từng cấp, dần dần tăng mãi mức độ khủng khiếp, đến độ chót thì tiêu biểu bằng một lá cờ vuông màu vàng tượng trưng cho màu đất, đất dung dưỡng tất cả, giữa lá cờ lại có một vòng tròn đỏ, tượng trưng cho mặt trời đang lúc nóng nhất, cờ ấy gọi là cờ “Hồng tâm”.

Cờ Hồng tâm của kì trận chưa bao giờ Mạc Cương Hồng sử dụng tới, các tướng sĩ ở ải Đồng Lư trong đời cũng chưa bao giờ được thấy bóng “Hồng tâm kì” xuất hiện, chưa ai hiểu kì trận sẽ biến hóa lợi hại đến mức độ nào.

Tại mặt trận, quân Phù Liệt ở chính giữa do tướng Hoàng Tích Lịch cầm cờ tiên phong, lại có thêm lão tướng Địch Hồng Hà và tùy tướng Vương Trụ bồi chiến. Phía Bắc có Trần Bảo Quốc, phía Nam có Lý Vân Long: ba mặt cùng nhất tề ào ào vượt vách núi tiến lên. Đằng sau, lại thêm đạo tiếp trợ của Đặng Hồng Thiên kéo theo, thế mạnh tưởng có thể đạp bay được ải Đồng Lư.

Địch Hồng Hà vừa xông xáo các mặt trông nom các tướng thúc quân, trong lòng vừa băn khoăn về tính mạng của Bạch Khai Thành. Đến khi đại quân tiến lên được nửa chừng vách núi, thì không còn nghe thấy tiếng ầm ầm ở phương Nam nữa. Lúc ấy là lúc Trịnh Tú của Hoa Lư lĩnh mệnh Quân sư Lê Thảo đã tới được trận địa trương cao ba lá cờ ra hiệu ngưng trận, làm cho trận đá của Mạc Cương Hồng tự nhiên dừng lại, nhưng cũng không cứu kịp Bạch Khai Thành và Văn Bích Kiều!

Địch Hồng Hà hoang mang không hiểu trận đá bây giờ ra sao mà không nghe tiếng ầm ầm nữa, như thế thì Bạch Khai Thành đã vượt được trận đá rồi chăng? Hồng Hà biết họ Bạch có nhiều tài, vũ nghệ vào hàng thượng đẳng lại có quái quyền truyền gia thì hi vọng là thoát chết.

Bây giờ, trong trận quân đang ra sức vượt núi, gió lại thổi miên man hiển nhiên là kì trận phát động lâu rồi, nhưng binh Phù Liệt đã bám được vào núi Đồng Lư, thì cứ theo triền dốc ra sức vượt lên. Quả thật lúc ấy kì trận đã phát động, các hiệu lệnh trên trấn ải lần lượt trương ra nhưng ở dưới lại chẳng có tướng quản trận. Vì Văn Thượng Chính đã bỏ đi sang mặt trận phía Nam lâu rồi, thành ra kì trận chỉ phát động được một nửa ngoại cảnh, còn phần sát phạt thực sự thì không có quân tướng đảm nhiệm, nhờ thế binh Phù Liệt mới an toàn vượt núi như vậy được.

Địch Hồng Hà thấy quân nhà vượt núi tuy vất vả, nhưng sao có điều lạ là: có những hiện tượng rõ ràng là kì trận phát động, sao chẳng thấy có gì nguy hiểm, cũng chẳng thấy có quân Đường Lâm xuất trận, Địch Hồng Hà lo nghĩ lắm liền hội các tướng lại mà rằng:

- Ta nghi ngờ lắm, bây giờ quân ta vượt cũng được nửa vách núi rồi, sao vẫn chẳng thấy có bóng quân nào của ải Đồng Lư xuất hiện? Ta sợ rằng sa vào mưu kế gì của Mạc Cương Hồng mất!

Vương Trụ là người nóng nảy, liền bàn:

- Quân ta tiến mấy lần có gặp binh Đường Lâm, như thế là quân Đường Lâm có ra trận. Bây giờ ta vượt núi đánh ải, không thấy chúng ra mặt, thì một là chúng thất thế, hai là nó chắc ta ở đâu đấy để đánh trộm. Tôi cho là ta cứ tiến thật nhanh thì thế nào cũng được lợi đấy!

Địch Hồng Hà bảo:

- Mạc Cương Hồng là danh tướng. Giao Châu ta ít có người địch được y, chẳng qua y vì chán nản việc đời nên mới ngồi ở đây, bây giờ không thấy y động tĩnh ta không tin là y lại chịu tha ta. Mạc Cương Hồng là con người kiêu ngạo, đời nào y lại chịu mang cái tiếng là thua trận được! Vả chăng, mặt phía Nam ta không còn nghe thấy tiếng đá đổ ầm ầm nữa, thì không hiểu ông Bạch ra sao, mặt ấy thế nào, có liên quan gì tới mặt này không dây?

Lý Văn Long đáp:

- Ta cứ cho quân tiến lên, nếu đến sát ải mà không gặp kháng cự ấy là ải Đồng Lư bị ông Bạch uy hiếp ở mặt sau...

Địch Hồng Hà cắt ngang:

- Không đúng! Nếu ông Bạch thành công ở mặt Nam, thì đã không có trận đá. Chính vì ông ấy bỏ trốn nên mới có trận đá vây hãm ông ấy, nguy lắm!

Đến lượt Hoàng Tích Lịch góp lời:

- Bây giờ ta chỉ còn có đường cuối cùng là cho tiến quân, nếu đến được sát ải là có thể hi vọng được!

Trần Bảo Quốc tiếp:

- Đằng nào ta cũng phải tiến lên. Nguy hiểm không phải là cái điểm mà ta nghĩ tới để chạy trốn! Binh ta đến được nơi này là đã thắng nhiều rồi. Bây giờ tôi thấy mình cần làm thế nào để đề phòng nếu họ Mạc phát động kì trận đánh úp ta, thì ta bị ít thiệt hại nhất mới được!

Địch Hồng Hà gật đầu:

- Ông nói rất đúng! Bây giờ quân ta dàn hàng ngang tiến lên như thế này, trận mở ra thật rộng có lợi ở chỗ mở lớn được vòng tay vây hãm địch, nhưng nếu gặp phải trận đá ắt lâm nguy cả. Vả lại, ta trải quân rộng lớn nên mất sức công thành, nay phải dàn trận lại mà ứng phó mới được!

Tướng Đặng Hồng Thiên góp lời:

- Giả sử kì trận phát động lại có cả trận đá, binh ta thu lại càng nhỏ càng có lợi ở chỗ chống đỡ, làm giảm thiệt hại, nhưng nếu trận đá dày đặc thì ta vẫn nguy như thường. Tôi thấy ta nên làm…

Vương Trụ hỏi dồn:

- Ta nên làm thế nào?

- Ta mang quân ra trận, thế nào lại chẳng bị thiệt thòi đôi chút! Ta nhận phần thiệt thòi ấy, nhưng đổi lại phải đem cái thiệt thòi ấy đánh đổi lấy cái thắng cuối cùng! Tôi nghĩ: Đá từ trên cao đổ xuống, chẳng phải từ lưng chừng trời trút xuống đầu ta, nó tất theo triền núi lăn xuống, ta phải có vách chặn đá ấy không cho nó phóng vào giữa quân ta mới được! Như thế, thì ta có chết cũng bớt đi được rất nhiều đấy!

Thế là sáu tướng Phù Liệt vừa cho quân tiến, vừa bàn cãi sôi nổi về cách chống trận đá. Cuối cùng Hoàng Tích Lịch ra kế:

- Ta đỡ được đá lăn từ trên núi cao xuống, cũng làm cho quân thiệt mạng giảm được đến bảy tám phần cũng nên; còn đá rơi từ trên cao thẳng xuống dù không đỡ được nhưng cũng không đến nỗi cùng lúc chịu chết cả ở hai mặt. Bây giờ ta cho quân mau mau đẵn cây, ghép thành vách lớn, kéo theo hình cánh chim mở rộng ở đằng trước, rồi quân đi sau vừa tiếp sức đẩy vách vừa tiếp tục tiến lên, là hay hơn cả.

Kể của Hoàng Tích Lịch tuy hay, nhưng quân sĩ phải vất vả, rút cục các tướng cũng phải đồng ý cho quân chặt cây rừng, vừa tiến vừa lôi theo các thân cây để phòng trận đá. Binh Phù Liệt công hãm ải Đồng Lư tiến lên già lưng chừng núi vẫn chưa có binh địch xuất hiện.

Giữa lúc ấy, gió lạ ngừng thổi, trời như đổi màu sắc, quang cảnh rõ ràng ra. Các tướng Phù Liệt lo lắng nhìn quanh ngước mắt trông lên thấy rõ ràng trấn ải Đồng Lư chẳng còn bao xa, một lá cờ màu vàng đất giữa có vòng tròn màu đỏ son đang bay phất phới.

Các tướng Phù Liệt nhìn nhau chẳng hiểu ra sao, ngập ngừng không biết tiến thoái như thế nào. Địch Hồng Hà lúc ấy giục ngựa Khải Phong vượt lên, lão tướng dừng ngựa trên vách núi cao, tà chiến bào đỏ chói phần phật theo gió núi, gươm A Đằng treo ở chiến đai. Trông lão tướng đẹp như thần núi! Lão tướng quân sát quang cảnh, thấy bốn bể vắng lặng, một lá cờ trơ trọi trên vọng ải Đồng Lư. Xem ra chẳng có dấu hiệu gì là địch có dàn quân ứng chiến, trong lòng hoang mang lắm!

Quan sát hồi lâu vẫn chẳng thấy gì, Địch Hồng Hà cho quan thận trọng tiếp tục tiến lên.

Binh Phù Liệt vừa cất bước, xúm nhau lại kéo vách thân cây đi, thì cũng là lúc bốn bề quân reo hớn hở! Binh Phù Liệt kinh hãi, nghe tiếng quân địch reo hò vẫn chẳng thấy binh địch ở đâu, tiếng reo hò trước sau trên dưới đều có cả. Địch Hồng Hà biết là quân mình trúng vòng vây hãm của địch, liền lớn tiếng hô các tướng dừng quân nghênh chiến.

Địch Hồng Hà vừa phát lệnh xong, cũng là lúc mưa tên ở khắp nơi vãi tới dày đặc. Binh Phù Liệt trúng tên la thét vang dội, các tướng kinh hoàng cố phát giác xem địch ở đâu nhưng chẳng thấy. Mưa tên của địch bắn ra trong chớp mắt có hàng nghìn mũi, rồi bỗng lại im lặng địch vẫn không xuất hiện.

Địch Hồng Hà thấy nguy, liền giơ gươm A Đằng vẫy Vương Trụ. Cả hai vọt ngựa lên trước, lại truyền quân tiếp tục tiến theo. Chiến mã Khải Phong vừa cất vó, đã lại thấy núi rừng rung chuyển, có tiếng ầm ì như sấm dậy từ xa. Địch Hồng Hà giật mình kinh hãi, biết là trận đã bắt đầu, liền sai Vương Trụ gọi lớn lên báo hiệu cho quan nhà biết mà chuẩn bị. Binh Phù Liệt nghe thấy thế thì sợ hãi lắm, các tướng cũng hồi hộp đợi chờ.

Địch Hồng Hà vẫy tay gọi Vương Trụ gấp rút thúc ngựa vượt lên. Chiến mã Khởi Phong quả thật không hổ là loài chiến mã quý, bốn vó đạp vách núi vùn vụt bốc lên nhẹ nhàng như chạy trên mặt đất bằng phẳng, Vương Trụ cũng giục con ngựa sắc vàng cao lớn đuổi theo. Đằng sau binh Phù Liệt nghe lệnh các tướng từ từ kéo lên.

Vó chiến mã Khải Phong bay lên vách núi chưa được mấy bước, đã thấy đá núi trút xuống. Vách núi giốc, đá lăn ầm ầm trông thấy rõ ràng. Địch Hồng Hà mím môi, một tay giữ vững dây cương, một tay ghìm chặt gươm A Đằng cứ giục ngựa vượt lên, lướt trên đá, chỉ chạm nhẹ vào những tảng đá đang trút xuống mà tiếp tục vượt núi. Đằng sau, Vương Trụ thấy quang cảnh ấy thì vã mồ hôi ướt cả lưng, Trụ vừa sợ vừa kinh khiếp tay lão tướng lẫy lừng danh tiếng. Trụ muốn cho ngựa đuổi theo Địch Hồng Hà nhưng không làm sao đuổi được. Đá núi trút xuống không nhiều, nhờ thế Vương Trụ loanh quanh cho ngựa né tránh, nhưng nhìn ra đã thấy Địch Hồng Hà một mình một ngựa càng lúc càng xa thêm mãi. Tà áo đỏ với bóng con ngựa trắng vượt núi trông thấy rõ ràng. Các tướng và binh Phù Liệt trong lòng đang sợ hãi trận đá, đến lúc nhìn thấy bóng dáng Địch Hồng Hà thì tự nhiên hào khí bốc lên, sợ hãi bay đâu mất cả. Tức thì binh Phù Liệt hăng hái tiến lên, vác thân cây quả nhiên che chở được cho quân khỏi bị đá núi đè chết. Đá núi đụng vào vách thân cây, thì theo đà giốc trôi dạt ra cả hai bên mà lăn xuống dưới núi.

Trên vọng ải, tướng giữ cờ lệnh xem quang cảnh phía dưới nhận thấy một tướng Phù Liệt cưỡi ngựa trắng, khoác chiến bào màu đỏ chói vượt vách núi tiến lên khí thế cực kì hùng dũng, đằng sau tướng ấy quân Phù Liệt như nước lũ cuốn ngược ào ạt tiến theo, đá núi đổ xuống không cầm được bước tiến của địch. Lập tức tin trình vào Mạc Đại soái.

Mạc Cương Hồng nghe trình mỉm cười đứng dậy, ung dung tiến ra vọng ải để tận mắt quan sát cảnh hùng vĩ Địch Hồng Hà vượt ải Đồng Lư. Trong nắng buổi sớm, bóng Địch Hồng Hà tung hoành trên vách núi đẹp như thiên thần, đằng sau lão tướng binh Phù Liệt như những mảng rêu lớn kéo lên theo. Mạc Cương Hồng chẳng khỏi ngợi khen trong lòng, ông đứng lặng ngắm cảnh tuyệt vời ấy, rồi lặng lẽ quay vào nhà trúc. Tướng giữ cờ trận rón rén đi theo.

Mạc Cương Hồng vào nhà trúc, tự tay rót một chén “Huyết tửu” vào chiếc chén đá trắng núi Tản Viên. Ông ngửa cổ chậm chậm uống chất men màu đỏ như son, sánh đặc tưởng như không phải là chất rượu. Đây là rượu Giá Mật, tức là thứ rượu cất bằng nước mía gióng đỏ, mọc ở các vùng đất bồi ven sông Bạch Hạc. Chất men cất đặc biệt cực mạnh. Rượu nóng như lửa, rót vào chén đá trắng núi Tản Viên lúc nào cũng lạnh như băng, khiến cho âm dương hòa hợp có sức dẫn vừa mạnh lại vừa thâm trầm. Người tửu lượng vào hạng giỏi lắm chỉ một chén là thế nào cũng ngả. Mạc Cương Hồng uống đến Huyết tửu Giá Mật, khiến cho tướng giữ cờ lệnh hồi hộp, bởi vì chỉ những lúc nào họ Mạc sắp có quyết định ghê gớm cùng cực mới uống đến thứ rượu màu đỏ màu cực mạnh ấy!

Trong đời Mạc Cương Hồng, chưa lần nào ông phải uống đến thứ rượu màu đỏ này trong những lúc quyết định, binh bị đối chọi với địch. Chén rượu cạn, họ Mạc chậm chậm đặt chén đá trắng xuống mặt bàn trúc, chén không đóng một lớp rượu đỏ nào, lòng chén vẫn trắng lạnh, ông quay sang tướng giữ cờ lệnh giọng nghiêm nghị:

- Địch Hồng Hà đáng khen! Ta cho y được vinh dự để xác lại trên vách núi Đồng Lư này ngàn năm! Trương cao “Tửu kì” mà đón binh Phù Liệt!

Truyền lệnh xong, Mạc Cương Hồng thẫn thờ ngồi im lặng, tướng giữ cờ lệnh không đáp một lời lui gót ngay.

Mạc Cương Hồng là tay sành rượu dưới gầm trời dễ thường không có đến hai người, khinh cả thiên hạ uống rượu như trâu uống nước không hiểu thế nào là rượu. Tính mệnh họ Mạc dễ thường cũng không trọng bằng “tửu đạo” lạ lùng của họ Mạc. Vì thế Mạc Cương Hồng giữ ải Đồng Lư đã dàn trận pháp huyền diệu độc đáo theo chữ “Tửu” lại đem các loại rượu không hề có ở gầm trời này do chính họ Mạc cất thành mà đặt tên cho trận pháp. Nay cho lệnh trương “Tửu kì” là có ý cho cả trận pháp chuyển động. Trận pháp huyền diệu theo “tửu đạo” mà dựng thành này, sau này khi Quân sư Lê Thảo đưa binh Hoa Lư vượt ra ngoài rộng để thu thiên hạ sẽ ra tài đối địch với Mạc Cương Hồng thật tuyệt diệu khiến cho họ Mạc phải dâng thành chịu chết thật lạ lùng, nhưng đấy là việc sau này!

Kể lại lúc Địch Hồng Hà giục ngựa vượt vách núi xông lên: Địch Hồng Hà thừa biết là nguy hiểm, nhưng nếu không tiến lên thì chẳng còn đường nào khác. Nếu tiến được nhanh bao nhiêu càng có hi vọng ít chết bấy nhiêu. Tuy thế, Địch Hồng Hà lại lấy làm băn khoăn trong lòng tự hỏi: “Nếu kì trận của Mạc Cương Hồng chỉ có như thế này, thì danh tiếng của họ Mạc từ trước đến nay phải xem là giả dối cả!”. Nhưng Địch Hồng Hà không tin như vậy, cho là chắc có điều gì lạ!

Nghĩ thì nghĩ, Địch Hồng Hà vẫn phải thúc ngựa băng lên, phía sau binh Phù Liệt cũng theo gót các tướng mà tràn lên, khí thế tưởng chừng đạp nát cả Đồng Lư dễ như bỡn!

Nào ngờ, vó ngựa Khải Phong của Địch Hồng Hà càng đi nhanh bao nhiêu, càng đưa họ Địch đến chỗ chết càng chắc chắn bấy nhiêu. Binh Phù Liệt càng hăm hở vượt núi bao nhiêu càng chết thảm bấy nhiêu!

Lúc ấy, trên ải Đồng Lư vẫn chỉ một ngọn cờ vuông màu vàng có vòng tròn đỏ bay phất phới, nay tướng giữ cờ lệnh vừa dựng thêm ba lá cờ nhỏ màu đỏ ở bên trái lá cờ vuông lớn, bốn lá cờ một lớn ba nhỏ phất phới trong gió sớm dìu dịu. Cờ vừa trương lên, tức thì đá núi trút xuống cuốn theo bụi mờ mịt, gió thổi rít như có bão giật không biết từ hướng nào thổi tới, trong bụi cát lại như có muôn vạn mũi nhọn đâm vào da thịt nhức nhối vô cùng. Kì trận hốt nhiên thay đổi, đá cuốn cát bay mờ mịt trong tiếng động ầm ầm tưởng đến sụp cả núi.

Địch Hồng Hà thấy nguy rồi, ngựa Khải Phong chưa kịp dừng vó, đã thấy như có cả tòa núi từ trên cao ập xuống. Địch Hồng Hà vươn thanh gươm báu A Đằng ra sức đỡ gạt chống lại trận đá. Nhưng cát lại theo gió cuốn tới cực mạnh đập vào mặt mũi tay chân chẳng khác nào như muôn vạn mũi nhọn đâm chích, Địch Hồng Hà huy động thanh gươm A Đằng cố chống đỡ, nhưng lưỡi gươm cũng chỉ đủ sức để dạt cát, chứ không đủ sức đỡ đá trút xuống mãnh liệt.

Địch Hồng Hà biết khó tránh được nguy, tiến lên thì đường còn xa, mà lùi xuống thì dù vó ngựa có ghê gớm đến đâu cũng không nhanh hơn đá trên cao rớt xuống được. Gió mạnh càng mạnh, đá trút càng nhiều, bụi cát tưởng như lấp cả khoảng trời khiến Địch Hồng Hà thấy muốn nghẹt thở.

Trong cơn quẫn bách ấy, Địch Hồng Hà một thoáng nghĩ tới cả đạo quân ở đằng sau, chắc là mấy ngàn mạng người cũng đang bị chôn vùi trong đá với cát cả. Địch Hồng Hà uất hận, giữa những tiếng động long trời chuyển đất, cả một vùng tối sầm lại vì cát bụi, Địch Hồng Hà không còn kịp thở dài một tiếng nữa thì bạch mã Khải Phong đã trúng một tảng đá lớn vào mông. Con chiến mã thét lên một tiếng rùng rợn rồi cất vó như bay khỏi vách núi mà vào khoảng trống. Địch Hồng Hà thân hình như cành lá bị gió cuốn bứt băng khỏi cành vụt bay đi, tà chiến bào màu đỏ như một tảng lửa bung ra, đá trên cao ập xuống dũng mãnh, thanh gươm A Đằng trong tay Địch Hồng Hà vuột mất, vạch một đường như làn chớp mà phóng xuống núi.

Chớp mắt, danh tướng Phù Liệt Địch Hồng Hà không còn thấy bóng dáng đâu nữa. Thanh gươm báu A Đằng bay vọt đi cực mạnh, vạch một lần sáng như ánh chớp vùn vụt lao xuống chân núi, vượt đi xa. Vừa đúng lúc ấy một người cưỡi con ngựa đen từ phía Nam vùn vụt phóng tới, vó ngựa khua hết sức mau lẹ tưởng như không chạm mặt đất, kị sĩ rạp người tưởng như nằm dài trên lưng ngựa, ra sức giục con chiến mã lạ lùng sải vó lên hướng Bắc. Bóng dáng con ngựa như một vệt khói đen lướt đi, bên tai kị sĩ nghe tiếng động long trời chuyển đất vì đá trên núi Đồng Lư trút xuống. Kị sĩ ruột nóng như lửa đốt, vừa ngẩng đầu quan sát chợt thấy có vệt sáng như lằn chớp từ trên cao lao xuống khu rừng trước mặt.

Kị sĩ, chính là Trịnh Tú, lấy làm lạ với hướng ngựa về chỗ lằn sáng vừa bay xuống. Chạy thêm một hồi nữa, Trịnh Tú tại tưởng vỡ màng nhĩ vì tiếng núi đổ, ngước mắt trông lên thấy cả một vùng trời mờ mịt khói bụi, thì biết là quân Phù Liệt ắt chết cả trong trận ải Đồng Lư mất rồi.

Trịnh Tú than thầm trong bụng: “Thế là lại chậm bước nữa, Quân sư không kịp cứu Địch Hồng Hà mất rồi!”. Trịnh Tú vừa nghĩ vừa cho ngựa chạy đến nơi có vệt sáng phóng từ trên núi xuống, Trịnh Tú cho là tất có điều gì lạ lùng lắm.

Loanh quanh một hồi, vừa vào khoảng rừng thưa, Trịnh Tú ước chừng vật sáng lạ lao xuống nơi này thì tầm mắt vừa gặp ngay trên một thân cây cao ảnh nắng chiếu vào vật gì nháng lên nhang lửa. Trịnh Tú vội cho ngựa chạy lại ngẩng mặt nhìn lên. Nhìn kĩ, Tú phát giác ra một thanh gươm cắm ngập vào thân cây. Tú lấy làm lạ, liền bỏ ngựa leo lên ráng sức rút thanh gươm ra.

Thanh gươm dài, lưỡi cong, mũi nhọn, ánh thép xanh đen long lanh như lúc nào cũng nháng lửa, chuôi gươm bằng sừng tê giác khắc rõ một chữ “Địch”. Trịnh Tú bàng hoàng, thì ra đây là gươm báu của Địch Hồng Hà, như vậy thì ắt họ Địch mạng vong mất rồi!

Trịnh Tú tần ngần một lát, rồi lên ngựa nhắm hướng núi Đồng Lư xem xét tình hình. Khoảng xế trưa hôm ấy cũng khoảng chỗ Trịnh Tú buổi sáng được gươm của họ Địch, có người khách lạ vận bộ áo màu xám nhạt, đầu đội nón rộng vành, ngang lưng lại giắt ngọn dao ngắn, người lạ cưỡi con ngựa lông xám loanh quanh khắp nơi như để tìm kiếm vật gì, cứ như vậy sang đến ngày hôm sau khách lạ mới bỏ đi.

Phía núi Đồng Lư, tiếng đá núi đổ đến gần giữa trưa thì ngừng bặt, nhưng núi rừng vẫn còn vẩn bụi mờ, đến giữa sáng hôm sau mới lắng hết bụi, ánh nắng ban mai soi tỏ một vùng, quang cảnh chiến trường lúc ấy mới hiện rõ.

—ooOoo—