Hồi Thứ Bảy Mươi Hai Ân Phú tiến đánh Đan Phượng
Đinh lão khiển kế Quân sư
Thế là, chỉ một trận tranh hùng, đại binh Phù Liệt tan tành ở núi Đồng Lư, lão tướng Địch Hồng Hà chết trận trên vách núi cao, chỉ còn có các tướng Hoàng Tích Lịch, Trần Bảo Quốc, Đặng Hồng Thiên là sống sót cùng với vài trăm quân, ai cũng bị thương khắp người mãi đến cả tháng trời sau mới lần về được Phù Liệt!
Sứ quân Nguyễn Siêu được tin bại binh, các tướng Địch Hồng Hà, Bạch Khai Thành, Vương Trụ, Lý Vân Long đã tử trận, quân chết gần hết, thì lặng người tưởng như sét đánh giật ngang tai. Sứ quân trước được tin của Địch Hồng Hà nói rằng trận chiến tuy khó khăn, nhưng hi vọng vẫn còn nguyên, nay bất thần được tin đại bại, thì người như mất hồn, kịp đến khi quân vào trình là: “Ba tướng sống sót đã đem tàn quân về, còn đang đợi lệnh”, thì Sứ quân liền ra lệnh triệu các tướng để bàn việc.
Ba tướng Hoàng Tích Lịch, Trần Bảo Quốc, Đặng Hồng Thiên bước vào nghị sảnh, đến lạy trước Sứ quân, cả ba người chiến bào tơi tả, khắp người đầy vết thương. Cả ba sụp xuống lạy mà khóc, cả nghị sảnh lặng đi...
Đây nhắc lại cuối xuân Nhâm tuất (926) Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc chia quân hai đường thủy bộ tiến đánh Đường Lâm, cốt để dụ cho Phù Liệt phải ra binh, quả nhiên Phù Liệt cử lão tướng Địch Hồng Hà đi đánh ải Đồng Lư. Việc Phù Liệt bại binh, lão tướng Địch Hồng Hà tử trận ta đã biết rồi.
Binh Đỗ Động do Đại tướng Kim Ân Phú đem ba nghìn quân chọn thêm sáu tướng đi đánh thành Đan Phượng. Binh của Kim lão tướng đợi cho thủy quân của tướng Chung Tam Sở lên đường được nửa ngày, mới làm lễ xuất doanh viễn chinh.
Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc đợi binh của Kim Ân Phú đi rồi, liền một mặt cử tướng canh giữ các nơi, đề phòng các Sứ quân khác từ ngoài nhòm ngó vào. Sứ quân lại cho sửa sang việc nội thị, soát xét lại dân đinh, đóng thêm thuyền chiến, bồi thêm thành cho cao, vét hào cho rộng. Mọi việc Sứ quân đều chuẩn bị thật đầy đủ, lương thực dồi dào, bờ cõi thật vững vàng. Sứ quân đợi cho binh hai mặt thủy bộ đánh thắng Đường Lâm là sẽ đưa đại quân ra ngoài thiên hạ.
Binh Đỗ Động lên đường ra biên ải, tin bay về Đường Lâm. Sứ quân Ngô Nhật Khánh liền truyền lệnh triệu tập văn sĩ, các tướng, để bàn định việc đối phó. Vừa vào hội, Quân sư Phùng Chuyết Tỉnh đã đứng dậy:
- Bẩm Sứ quân, ngày Giáp Thân năm nay, sao Khuê không có mây che mà bỗng mờ, là điềm có can qua nhưng không thiệt hại. Vì thế, tôi đã gieo quẻ Thái Ất, biết là phương Đông đem binh họa dến cho ta. Quả khiến ta đã có tin là Phù Liệt ra binh đánh ải Đồng Lư. Tôi lại xem quẻ Bất Tương đoán biết rõ ràng là binh ngoài đến Đồng Lư ắt tan, tướng giữ Đồng Lư là Mạc Cương Hồng ngồi ở đấy uống rượu, thì làm gì có binh nào bên ngoài đi qua được nữa! Mới đêm hôm qua, ngày Mậu Tí, sao tất được hành Hỏa đốt nóng, ứng vào điềm cũng phía Đông đất Đường Lâm ta có họa binh đao, nhưng đất ta gặp phần dã tốt, binh ngoài tới không hề gây sứt mẻ gì cho thành quách của ta…
Sứ quân Ngô Nhật Khánh vẻ mặt hân hoan, nghe Quân sư Đạo sĩ Phùng Chuyết Tỉnh luận việc thì thấy làm hài lòng lắm, tướng Tổng quản Bùi Nhật Hướng liền nói:
- Bẩm Chúa công, quẻ bói của Đạo sĩ Quân sư có chỗ không sai nhưng cũng lại không thể cứ khoanh tay ngồi đợi quẻ ứng được, mà phải đối phó với việc bên ngoài đem binh xâm phạm bờ cõi của ta...
Sứ quân chưa kịp nói, Đạo sĩ Phùng Chuyết Tỉnh đã cướp lời, giọng gay gắt:
- Năm xưa, Phong Châu - Tam Đái gây sự với nhau, chiến thuyền Phong Châu xuống tận Hát Môn, tôi đã bảo không có chiến binh. Ông không tin, sau quả nhiên đúng! Bây giờ binh ngoài nhòm ngó đất đai ta, tôi xét thiên văn, thấy rõ huyền cơ, binh tuy đến nhưng lửa không đốt cháy được ta, thì có gì mà phải lo!
Tướng Bùi Nhật Hướng đáp ngay:
- Hồi đó nếu tôi chẳng kịp dàn binh, giả sử hàng tướng Cao Duy Hưng làm phản, thủy quân Phong Châu hợp lực phá Đường Lâm làm thế đánh Tam Đái, thì liệu trận thủy chiến đêm hôm ấy có được suôn sẻ không, hay là binh đao đã tràn lên bờ cõi ta rồi!
Sứ quân thấy vừa vào hội, tướng Tổng quản đã có điều cãi cọ với Đạo sĩ Quân sư, liền cười xòa giảng hòa:
- Các người hãy nghe ta nói, việc xem thiên văn thì Đạo sĩ Quân sư của ta vốn là Rồng Đất ở núi Đồng Lư, thông đạt mọi việc huyền bí chẳng sai lầm. Còn phép dụng binh của các tướng của ta, cũng chưa có chỗ nào sơ hở. Như thế, thì còn gì phải tranh biện với nhau nữa! Đạo sĩ cứ xem thiên văn giúp ta, các tướng cứ dàn xếp việc binh phòng vệ giúp ta, như vậy có phải là tốt đẹp hơn không?
Rồi Sứ quân kể lại cho hội nghị nghe việc ải Đồng Lư báo trình binh Phù Liệt tiến đánh, tướng Mạc Cương Hồng quả quyết: “Không có binh nào vượt được ải Đồng Lư, vậy Sứ quân không cần lưu tâm...”.
Rồi Sứ quân nói:
- Mới đây, thành Đan Phượng tin về gấp là binh Đỗ Động chia làm hai ngả thủy bộ xâm phạm bờ cõi của ta. Thành Đan Phượng đã có tướng Mộc Đường trấn giữ thì ta chẳng sợ gì, nhưng cũng nên tính xem nên làm gì chứ không nên khoanh tay ngồi im.
Tướng Vũ Mạnh Đạt trấn giữ thủy trại của Đường Lâm nói:
- Bẩm Chúa công, Đại tướng Mộc Đường giỏi cả thủy bộ, thì ta không lo gì nữa. Nhưng nay địch hai mặt cùng giáp công thì tôi tưởng cũng nên giúp ông ấy một tay mà chống với binh ngoài thì hơn.
Sứ quân gật gù:
- Ông Vũ nói rất phải, Đường Lâm ta là đất khởi nghiệp của Tiên vương Ngô Quyền, giỏi cả thủy chiến lẫn bộ chiến. Ta nay tuổi chưa gọi là già được, nhưng nhớ những kì công của Tiên Đế nên cũng hiểu biết được nhiều điều hay. Bây giờ lại có văn vũ phù trợ, thì lẽ nào lại để lỡ việc lớn được! Ông Bùi Nhật Hướng là người Tổng quản thủy bộ của Đường Lâm, ông tính ta nên hành động ra sao?
Bùi Nhật Hướng đáp:
- Bẩm Chúa công, thiên văn giúp ta yên lòng, nhưng việc binh ta vẫn phải dàn xếp. Nay tôi thấy: Đỗ Động có Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc vốn là tướng giỏi của triều đình, y lại rất chú trọng đến mặt sông nước, lập trại thủy quân lớn lắm. Thủy quân của y tiến đánh ta, hợp sức cùng mặt bộ. Nếu ta phá vỡ được đạo thủy quân y, tức là làm gãy mất một cánh của y trong trận này. Như thế là ta nhẹ được một nửa gánh, từ đấy phá đạo quân thứ hai của y rất dễ dàng.
Sứ quân nghe Bùi Nhật Hướng nối rất hài lòng, liền hỏi:
- Như vậy, ta nên chọn đánh thủy quân của Đỗ Cảnh Thạc như thế nào?
- Bẩm, dòng Bạch Hạc rộng rãi, hai bên bờ phong thổ kín đáo, nếu ta đặt binh ắt có thể làm nên việc. Nhưng ta cũng lại đừng quên là: Đỗ Cảnh Thạc giỏi thủy chiến, tất y không sơ hở, tướng chỉ huy thủy quân của y giúp cho bộ quân của y đánh thành Đan Phượng, ắt cũng không tệ. Nhưng giang sơn ta thì ta phải tìm được lợi thế, sao bằng cứ bắt chước mẹo của Tiên đế năm xưa phá địch trên sông, có phải là hay không? Chỉ cần sửa lại mẹo ấy một chút cho hợp với con nước mùa này là được đấy!
Ca hội nghị ngạc nhiên, Sứ quân Ngô Nhật Khánh nhíu mày vội hỏi:
- Ông bảo bắt chước mẹo của Tiên đế, chỉ sửa đổi một chút là thế nào?
- Bẩm, xưa kia khi Tiên đế đuổi quân Nam Hán, cắm cọc ở lòng sông mà phá thủy quân của giặc. Nay ta cũng dùng đến kế cọc gỗ. Nhưng mùa này nước lớn tuy không chảy xiết, cũng khó thực hiện được kế của Tiên đế. Vì thế phải sửa đổi đôi chút là: ta cũng dùng gỗ nhọn kết lại thành bè lớn, thả bè trên sông đợi đến lúc nước xuống thì theo dòng mà phá thuyền địch. Trên bờ ta lại cho quân cung thủ chực sẵn, khi nào bè của ta đụng thuyền địch, địch đang nguy khốn thì ta xạ tiễn giết địch. Ta cũng cho quân bộ chiến sử dụng dao ngắn chờ lúc thuyền giặc tan vỡ thì áp lại mà làm cỏ cả bọn!
Sứ quân và các tướng nghe Bùi Nhật Hướng định kế phá thủy quân của Đỗ Cảnh Thạc, ai cũng phấn khởi. Sứ quân liền bảo:
- Kế ấy của ông hay lắm, ta cho thi hành ngay. Thế còn mặt bộ thì ông định đối địch với Đỗ Cảnh Thạc ra sao?
Bùi Nhật Hướng đáp ngay:
- Bẩm Chúa công, giang sơn ta núi trong sông ngoài, địa thế hiểm trở, thành Đan Phượng lập thế ở trên cao ngó xuống dòng Bạch Hạc, trừ phi ta mở cửa dâng thành cho địch thì không kể, còn tôi dám chắc không có quân nào có thể lấy được thành Đan Phượng của ta! Tuy thế, địch đã rắp tâm đánh thành, thì ắt chúng nó cũng phải biết lợi hại của thành ta, dù chẳng biết hết mười cũng biết được năm ba, vậy ta cũng phải đề phòng.
Sứ quân gật gù:
- Tướng Mộc Đường của ta giữ thành Đan Phượng ta có cần phải thêm trợ giúp gì cho ông ấy không?
Bùi Nhật Hướng nói:
- Bẩm, tôi tuy được Chúa công yêu mà trao cho chức Tổng quản thật, nhưng trong lòng vẫn kính trọng lão tướng Mộc Đường là bậc bề trên. Một mình lão tướng trấn giữ Đan Phượng là đủ rồi. Tuy nhiên chinh chiến kéo dài không lợi, nếu ta có thể dứt được địch càng sớm càng hay, nếu có trợ giúp thêm cho Mộc lão tướng thì càng tốt.
- Nếu trợ giúp thêm cho ông ấy, thì ta nên trợ giúp thế nào?
Bùi Nhật Hướng suy nghĩ rồi đáp:
- Bẩm, thành Đan Phượng chu vi một trăm tám mươi tư trượng, là thành lớn, quân hai nghìn trấn giữ, thành ở vào vùng sầm uất dân cư, cũng là một điều có lợi lúc huy động sức người để bồi đắp chống giữ. Sông trấn một mặt, núi bọc một bên, thành Đan Phượng nếu có cần trợ giúp thì cũng chỉ thêm quân đem trấn trên các núi bọc ngoài thành mà thôi.
Sứ quân nghe Đại tướng Tổng quản trình bày rất lấy làm vừa lòng, liền trao cho Bùi Nhật Hướng quyền điều động các đạo quân để cự lại Đỗ Cảnh Thạc.
Bùi Nhật Hướng lại nói:
- Bẩm Chúa Công, cùng một lúc Phù Liệt lẫn Đỗ Động khởi binh đánh ta, ta phải cho rằng có thể không chỉ có hai nơi ấy muốn xâm phạm ta, mà còn những nơi khác nữa...
Sứ quân nhíu mày hỏi:
- Ông cho là còn những nơi địch nhòm ngó ta?
- Bẩm, xưa đã có việc Phong Châu cho chiến thuyền xuống làm phiền ta, việc ấy tất có ngày bên kia sông làm cho ta bị náo động thật đấy. Lại thêm Kiều Thuận giữ Hồi Hồ ở ngay sát giang sơn ta, ta uy hiếp y chiếm đất đến tận Mộng Sơn nhất định làm y phải nuôi hận trong lòng. Bây giờ ta cử quân đương cự một mặt, nếu không phòng bị có thể bị Kiều Thuận đánh úp ở phía Tây Nam có phải là nguy không!
Sứ quân cho là rất phải, lại bảo các tướng bàn luận xem nên hành động ra sao. Sứ quân cùng các tướng văn võ đang bàn luận, chợt có quân vào bẩm:
- Có phu nhân tới!
Sứ quân nghe báo, vội đứng dậy sửa sang tà áo, cùng các tướng ra ngoài nghị sảnh để rước mẹ ngài vào.
Sứ quân Ngô Nhật Khánh xưng là Ngô Lãm Công trấn giữ Đường Lâm, tự cho dòng dõi Ngô Quyền. Lúc nào cũng làm ra vẻ nghi vệ danh gia. Tuổi tuy còn trẻ nhưng cũng để râu, đi đứng có biểu lộ bề thế của bậc vương giả, làm việc không lấy chủ kiến làm đích, ai khuyên thế nào cũng cho là phải. Ngô Sứ quân cha mất sớm, mẹ ngài còn trẻ nhan sắc lại rất mặn mà. Mẹ Sứ quân lấy chồng rất sớm, năm mười lăm tuổi thì đẻ Ngô Nhật Khánh, sau sinh thêm được người con gái mới được bốn tuổi thì chồng chết. Lúc các Sứ quân nổi lên tranh giành nhau làm náo loạn cả Giao Châu, thì Ngô Nhật Khánh mới có hai mươi ba tuổi, vì thế mẹ Sứ quân thường hay giúp Sứ quân mọi việc lớn.
Mẹ Sứ quân hồi ấy chưa đến bốn mươi tuổi, sắc đẹp còn lộng lẫy trông như người vừa hết ba mươi, sắc đẹp ấy còn đủ sức làm nhiều người điên đảo. Nhưng vì là mẹ của Sứ quân thành ra không ai dám có ý nghĩ sàm sỡ. Đám thủ hạ của Sứ quân nhiều người cao tuổi nhưng không ai là không kính trọng mẹ Sứ quân. Tiếng đồn mẹ Sứ quân Ngô Nhật Khánh chủ trì mọi việc lớn để giúp con dựng nghiệp được khắp Giao Châu biết đến. Hồi tướng Cao Duy Hưng của Tam Đái đưa gia quyến lánh nạn xuống Đường Lâm, mẹ Sứ quân mấy lần khuyên Sứ quân phải cẩn thận, đề phòng bên ngoài dùng kế “khổ nhục” để hại Đường Lâm.
Sứ quân tuổi trẻ, ưa cung cách vương giả, lại ham thích gái đẹp, thường bị mẹ khiển trách. Lần nào bà cũng nghiêm nét mặt mà răn dạy, bảo là phải quên vui thú, lo lắng đến việc lớn mới mong thành công được. Sứ quân hết lòng nghe mẹ dạy dỗ, nhưng tuổi trẻ ở ngôi uy quyền làm sao tránh được những mê say, cho nên lỗi lầm không phải là ít, việc tai hại giấu giếm mẹ cũng chẳng thiếu gì. Mẹ Sứ quân vẫn tưởng con mình một lòng nghe theo các lời dạy dỗ, việc lớn ắt không có chỗ nào phải ân hận. Nào ngờ Ngô Nhật Khánh là kẻ nhu nhược, không có khả năng, may được một số các tướng giỏi giúp rập, nhưng sau cũng không đủ lực để đứng vững trong cuộc tranh hùng. Vì thế sau này Đinh Bộ Lĩnh ra tay thu thiên hạ, thần phục được Ngô Nhật Khánh, thấy mẹ Sứ quân Nhật Khánh tuổi tuy nhiều nhưng sắc đẹp vẫn mặn mà liền lập làm hoàng hậu trong năm bà hoàng hậu, khiến Nhật Khánh phải nuốt hận rồi tìm cơ hội lẻn trốn đi gọi quân Chiêm Thành về rửa hận. Kì tình hận sử này sẽ được thuật đầy đủ trong bộ “Má đào loạn nước”, và đây là việc về sau.
Lúc quân vào báo, Sứ quân vội đưa các tướng ra đón phu nhân vào. Mẹ Ngô Nhật Khánh lúc bàn việc với Sứ quân trước mặt các tướng, thường vẫn xưng là “Ai Mẫu”, lúc nhắc đến chồng thường dùng hai tiếng “Tiên Quân” chứ không bao giờ dám nói đến tên.
Mẹ Sứ quân là người quyền thế như vậy, nhưng bà chỉ giản dị đi xe một ngựa, xe chỉ che rèm bằng lụa màu mỡ gà thanh tao chứ không bọc gấm dát vàng, quân theo hầu không quá bốn người, nghi vệ bình thường chứ không xa hoa ồn ào tự thị, vì thế ai cũng kính nể là bậc hiền mẫu.
Lúc Sứ quân cùng các tướng ra ngoài nghị sảnh, thì thấy mẹ đã vào đến cửa đại hội. Sứ quân kính cẩn trước mẹ vào trong, các tướng đồng loạt cúi đầu làm lễ.
Mẹ Nhật Khánh quả thật sắc đẹp còn lộng lẫy, gương mặt thanh tao trang điểm giản dị, cặp mắt đen láy, nước da trắng mịn, tướng đi như mây vương đỉnh núi nhẹ mà uyển chuyển. Bà đáp lễ mọi người rồi vào thẳng nghị sảnh. Mọi người chia nhau chỗ ngồi, Sứ quân ngồi bên trái mẹ vẻ kính cẩn. Vừa vào hội, phu nhân đã nói ngay, giọng bà trong mà ấm lắm:
- Sứ quân đã được tin các nơi chưa?
Sứ quân vội đáp:
- Bẩm, Lãm Công con đã được tin các nơi rồi!
- Sứ quân được tin như thế nào?
Sứ quân bị hỏi bất ngờ lúng túng, tướng Bùi Nhật Hướng đã đứng dậy kính cẩn:
- Bẩm phu nhân, hạ tướng xin được mạn phép trình phu nhân mọi việc...
Phu nhân hơi nhíu mày, tướng Bùi Nhật Hướng run trong lòng, phu nhân hỏi:
- Ông là tướng trông nom mọi mặt, sao lại không biết dàn xếp để đến nỗi Đồng Lư náo động? Ông Mạc Cương Hồng may mà giữ được như thế! Bây giờ Đỗ Cảnh Thạc đưa hai đạo quân muốn lấy Đan Phượng, sao ông để cho binh ngoài sắp vào đến bờ cõi của ta mới họp bàn như thế?
Bùi Nhật Hướng lặng người, không ngờ lại bị phu nhân quở trách như vậy, rõ ràng là có lỗi không biết nhìn trước mọi việc. Bùi Nhật Hướng cố trấn tĩnh, giữ cho giọng khỏi run mà rằng:
- Bẩm phu nhân, hạ tướng cũng đã trộm phép phu nhân xếp đặt các mặt, bây giờ binh ngoài sắp xâm phạm Đường Lâm ta ở Bạch Hạc, đã có tướng trấn thành Đan Phượng đón đỡ rồi...
Phu nhân giọng vẫn trong và ấm mà rằng:
- Ông phó mặc cho tướng giữ Đan Phượng chống đỡ ở ngoài, nếu thắng thì không sao, nhỡ bại thì thế nào? Vả chăng, còn Kiều Thuận ở mặt Nam ta. Tam Đái ở bên kia sông, việc thuyền chiến Phong Châu dạo nọ thì thế nào? Việc lớn không phải chỉ đợi địch đánh đâu ta chống đỡ đấy, mà phải làm sao để cho ngoài không dám xâm phạm, trong vững thế lâu dài, tìm lấy cơ hội để tiến ra, chứ không phải chôn chân mà cố thủ!
Bùi Nhật Hướng chưa kịp đáp, Đạo sĩ Quân sư Phùng Chuyết Tỉnh đã nói:
- Bẩm phu nhân, tôi hằng đêm vẫn xem thiên văn, thấy Đường Lâm ta khí số vượng lắm, giặc ngoài xâm phạm sẽ chỉ có bại, bên trong nhờ thế mà ta được vững vàng...
Nghe Đạo sĩ tán nịnh, phu nhân mỉm cười, nụ cười vừa khoan hồng vừa diễm lệ mà rằng:
- Đạo sĩ là người hiểu việc thần tiên, rõ việc huyền bí, tất nói là đúng.
Đạo sĩ khoan khoái:
- Dạ! Đa tạ phu nhân!...
Phu nhân nét mặt tươi như hoa mà rằng:
- Trong việc hôm nay ta có nghe chẳng phải binh ngoài tự nhiên xâm phạm Đường Lâm, mà chỉ vì bàn tay người giúp đỡ cho Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư đánh bại binh Nam Tấn Vương, lại xúi bẩy làm cho cả thiên hạ tranh giành với nhau. Đạo Sĩ có thể giúp ta một quẻ xem người ấy là kẻ thế nào không?
Đạo sĩ học phép tiên như thế nào thì không ai biết nhưng lẻo mép thì không mấy người bằng, gieo quẻ để biết người ắt chẳng thông, bây giờ nghe phu nhân hỏi như vậy thì lúng túng chưa kịp đáp, đã thấy Hồ Kính Trung nhanh nhảu:
- Bẩm phu nhân, tại hạ có được biết một ít về con người ấy!
Hồ Kính Trung mặt trắng, sắc sảo, tuổi trẻ nhưng được tiếng là kẻ “vạn tri”, việc thiên hạ chất đầy trong lòng. Ở đâu có việc lạ Trung cũng biết. Phu nhân nghe Trung nói như vậy, bà mỉm cười mà rằng:
- Ông “vạn tri” biết người ấy, thế đã giúp cho Sứ quân được kế đối địch chưa, hay chỉ kể chuyện mua vui cho Sứ quân thôi?
Hồ Kính Trung tiu nghỉu, toan tính kể chuyện mua vui để lấy lòng phu nhân, nào ngờ lại bị phu nhân mỉa mai cho như vậy thì đỏ mặt ngồi im, phu nhân tiếp:
- Không phải là ta không biết người ấy, ta hỏi để nhắc ông Bùi hãy để ý đến mọi việc đấy thôi!
Rồi quay sang Sứ quân, phu nhân bảo:
- Binh ngoài xâm phạm bờ cõi ta, việc đem binh tướng ra chống đỡ là việc đúng. Nhưng, có người ta tất phải có thánh thần, dàn xếp việc người mà quên việc thánh thần là điều sai lạc: Giao Châu ta nhiều rừng nhiều núi, tất nhiều thánh nhiều thần. Lại thêm Giao Châu ta một lòng sùng bái Đức Phật, ngài là ngôi cao cả che chở cho muôn vạn sinh linh, phù trợ cho người biết thờ phụng. Nay Đường Lâm ta có việc, Sứ quân được các tướng giúp đem binh chống đỡ các mặt, thì cũng phải đừng quên việc tố cáo thánh thần, hương hoa lễ bái cầu nguyện Đức Phật tổ!
Sứ quân Ngô Nhật Khánh rất vâng lời mẹ, nay nghe phu nhân dạy như vậy thì trong lòng mừng lắm, mới đầu tưởng phu nhân trách mắng nào ngờ phu nhân chỉ khuyên bảo như vậy thì nét mặt Sứ quân tươi tỉnh mà rằng:
- Thưa mẹ, các tướng hết lòng giúp đỡ các nơi, việc Phật thánh con có bao giờ quên đâu!
Phu nhân rất hài lòng, quay sang Đạo sĩ Phùng Chuyết Tỉnh mà rằng:
- Đạo sĩ là người tu tiên, tiên thánh cũng là đệ tử của Đức Phật mà ra cả, vậy ngài giúp hết cho mọi mặt thờ phụng Phật Thánh nhé!
Quân sư mừng quýnh chưa kịp nói, phu nhân đã nghiêm trang tiếp:
- Mới đây, có thuật sĩ người từ Bộ Vũ Định (Thái Nguyên ngày nay đến Đường Lâm ta. Thuật sĩ tuổi già lắm mà phong độ sắc mặt vẫn như người thanh niên, tên tuổi thuật sĩ quên mất rồi, nhưng ngài lại rất thông hiểu Phật pháp, quán đạt các phép thành tiên. Ngài đi qua Đường Lâm ta thấy khí thế lạ lùng thì dừng bước xem xét. May có người mách cho ta biết, ta đã đón được thuật sĩ ấy về. Ngài đã nói cho ta nhiều điều lạ lắm, nay Đường Lâm ta được ngài chỉ bảo cho thì không còn lo ngại gì về việc không đủ lễ với Phật, thất thế với thánh thần nữa!
Cả hội nghị nghe phu nhân nói, ai cũng lạ, riêng có Đạo sĩ Phùng Chuyết Tỉnh thì trong lòng không được vui, chỉ sợ thuật sĩ từ đâu lại cướp địa vị của mình. Đạo sĩ liền khúm núm hỏi phu nhân:
- Bẩm phu nhân, thế vị thuật sĩ ấy có nói là ngài sẽ giúp đỡ Đường Lâm ta ra sao không ạ?
Phu nhân nét mặt vui vẻ mà rằng:
- Mới đầu ngài không chịu ở lại, ta nói mãi ngài mới chịu nhưng đòi là: chỉ vẽ cho Sứ quân xong là ngài đi ngay, nhất định không nhận một lễ tạ nào! Rõ ràng ngài là bậc chân tu dắc đạo!
Đạo sĩ nghe phu nhân nói, tỉnh cả người, liền cười nịnh:
- Bẩm phu nhân, quả thật ngài là người tu hành đắc đạo, bóng dáng như mây như gió, khó lòng giữ lại ở đâu được lâu đâu ạ!
Phu nhân tiếp:
- Việc lớn ta khuyên Sứ quân phải nghe lời khuyên can giúp rập của mọi người, lại cũng đừng quên cầu nguyện Phật thánh. Cô ai mẫu có lúc bàn giúp được việc, có lúc bận việc này việc khác thành thử không xem xét được việc. Nay có ngài thuật sĩ mới tới, con nên đối xử tốt đẹp để được nghe lời chỉ bảo hay. Đừng quên những lời ta dặn nhé!
Dứt lời, phu nhân ra về, sau cho người đưa thuật sĩ tới. Thuật sĩ tuổi cao, nhưng râu tóc vẫn còn đen biếc, hai mắt long lanh sáng, bước đi êm nhẹ như mèo rình mồi, tiếng nói sang sảng oai nghiêm. Không ai khác hơn là Đinh Công Dự chú của Hoa Lư Động chúa là Đinh Bộ Lĩnh!
Tại sao lại có việc lạ như vậy?
Quân sư Hoa Lư dàn xếp việc các nơi, khiến các mặt đem binh đánh nhau. Hoa Lư nhàn hạ một mặt lo gây dựng quốc kế dân sinh, một mặt Quân sư cho người đi những nơi cần thiết để thi hành mật kế khuấy động thiên hạ. Lưu Cơ lấy mật thư của tướng Bình Kiều. Trịnh Tú thu hồi gươm báu A Đằng của lão tướng họ Địch nhưng không lấy được bộ Xích Đằng Quái quyền pháp của họ Bạch ở Đồng Lư. Nay lại thấy Đinh lão xuất hiện tận Đường Lâm để mê hoặc Sứ quân Ngô Nhật Khánh! Không biết các nơi khác Quân sư dàn xếp như thế nào?
Đinh lão xuất hiện, từ Sứ quân Ngô Nhật Khánh xuống đến các tướng văn vũ, không ai là không chăm chú theo dõi từng cử chỉ. Vào hội, Đinh lão ung dung:
- Bẩm Sứ quân, tôi từ Vũ Định vượt đường lên phía Bắc, chu du khắp nước Tàu, sau quá nửa đời người quay bước trở lại Giao Châu ta, đem các dị cảnh ở các nơi mà so sánh. Ngẫm nghĩ đến phong thủy mới thấy được là Giao Châu ta hùng khí ngất trời, nghiệp vương vạn đời chẳng hết. Đến khi vào xứ Đường Lâm giật mình vì địa thế chẳng khác nào “Hoàng Long ẩn phục, Bạch Hổ bí tàng”, rõ ra là nơi đắc địa…
Tướng Tổng quản Bùi Nhật Hướng là người rất thực tế, không ưa việc mê tín thánh thần, lại ghét những kẻ miệng lưỡi ba hoa, nay ngồi nghe Đinh lão nói năng trên trời dưới đất thì không nhịn được, liền nghiêm trang:
- Bẩm Chúa công, phu nhân dạy là thuật sĩ giỏi việc Phật Thánh, là người tu đạo vĩ đại. Nay việc Quân sư là việc hung dữ hạ tướng tưởng chẳng nên để lọt vào tai thuật sĩ, e làm bận lòng đấng thần tiên. Xin để một mình Quân sư đạo sĩ Phùng tiên sinh thì tiếp thay cả Đường Lâm mà nghe cao kiến thờ phụng thánh thần. Chúa công nghĩ có nên chăng?
Ngô Nhật Khánh tuổi trẻ, cũng chẳng ưa gì việc Phật thánh, miễn cưỡng nghe lời mẹ đón tiếp thuật sĩ, chứ thật ra trong lòng cũng chẳng thích thú gì, nay nghe Bùi Nhật Hướng nói như vậy thì đáp:
- Lời này quả hợp ý ta! Phiền Quân sư thay ta tiếp rước thuật sĩ cho thật đầy đủ được không?
Đạo sĩ Phùng Chuyết Tỉnh lại càng không ưa thuật sĩ hơn cả, chỉ lo thuật sĩ được Sứ quân trọng vọng khiến mình bị giảm uy tín. Nay nghe Sứ quân nói như vậy thì mừng quá, vừa toan mở lời thì Đinh lão đã nói:
- Bẩm ngài, Đường Lâm là đất khởi nghiệp, tôi chẳng dám bàn gì thêm. Chỉ xin Sứ quân ngài để ý đến phía Bắc có Phong Châu - Tam Đái là địa thế đất cụt, để thì không lợi, hợp với vùng đất ấy tất không còn mạng. Phía Nam là Hồi Hồ, Cẩm Khê chính là đất “sát tướng diệt dân”, Sứ quân cũng đừng bao giờ đi lại với nơi ấy. Ngài Đạo sĩ đây là bậc quang kiến nhìn rõ việc nhiệm màu huyền bí, ắt cũng thấy hai vùng đất ấy là như vậy, chắc ngài Đạo sĩ thế nào cũng giúp Sứ quân ngăn chặn hai vùng ấy. Còn các tướng, ai cũng có khí độ hiên ngang, rõ ràng là những phúc tướng...
Bùi Nhật Hướng thì không muốn nghe thuật sĩ nói năng dông dài, nay nghe Đinh lão nói về hai vùng Nam Bắc Đường Lâm, thì tự nhiên người làm tướng có thực tài học hỏi động tâm, liền hỏi:
- Ngài vừa nói đến các nơi Phong Châu, Tam Đái, Hồi Hồ các nơi ấy là thế nào?
Đinh lão nghĩ thầm: “Ông tướng này nóng ruột rồi!”. Liền đáp:
- Cứ xem khí độ phong thủy, có phải là sát khí có hồi từ bên kia sông phía Bắc tràn vào Đường Lâm hay không?
Việc Phong Châu cho thuyền xuống khuấy sóng nước Bạch Hạc năm xưa tuy rầm rộ, nhưng không phải là việc cả Giao Châu ai cũng biết, bây giờ thuật sĩ hỏi khiến cho Sứ quân cùng các tướng đều động lòng, có ý ngạc nhiên lắm. Bùi Nhật Hướng đáp:
- Xin tiên sinh cho nghe!
Bùi Nhật Hướng nói ỡm ờ không ra sao cả, Đinh lão vẫn ung dung.
- Sát khí từ phương Bắc xuống náo động diễn ra, nhưng nắng ban ngày không có việc ắt mặt trăng nửa đêm. Thành thử Đường Lâm có loạn mà vẫn yên ấy cũng bởi biết ngồi im mà được vững!
Quả có việc như thế, Phùng Chuyết Tỉnh hớn hở hướng về Sứ quân:
- Bẩm Chúa công, hồi ấy tôi đã chả nói là không có việc binh đao, cứ ngồi yên là được, quả nhiên đúng mà!
Cả hội lao xao, Bùi Nhật Hướng nói:
- Hồi ấy không có binh đao thật, nhưng thuật sĩ bảo là mai sau sẽ thế nào?
Lập tức Đinh lão nói ngay:
- Phong Châu, Tam Đái là đất cụt, khí số ngắn ngủi trước sau cũng phải tìm cách khơi thông xuống vượng địa Đường Lâm, hoặc xin liên minh để thoát chết. Tới lúc ấy Đường Lâm mà nghe theo tức là cùng với Phong Châu Tam Đái cùng vào cái thế “Nước đục thông ao, cá tôm đều chết sặc” đấy!
Sứ quân gật gù:
- Chính phải, Phong Châu, Tam Đái ở sát Cổ Loa, thế nào cũng bị nguy. Ta dính líu với họ ắt vạ lây, các tướng phải nhớ điều ấy, mai sau nhất định xua đuổi không cho họ xúi giục ta nhé!
Rồi quay sang Đinh lão, Sứ quân trịnh trọng hỏi:
- Thế còn ở phương Nam ta thì sao?
- Bẩm, Hồi Hồ địa thế là “đáy vực” cùng đường núp náu thì là loài chồn cáo, tự dưng đi vào là tìm lấy chỗ chết. Chồn cáo từ vực mà ra ắt chỉ có hại cho ta chứ không có lợi, hang vực ấy có vào cũng là tự tìm lấy chỗ khốn cùng. Người ở đấy như cỏ cây không thấy bóng mặt trời ắt tàn lụi dần mà thôi!
Sứ quân lại gật gù:
- Phải lắm! Kiều Thuận ở đây tăm tối làm sao có thể thành việc lớn được, mai sau khi nào y sắp chết có đến cầu cứu ta, các tướng cũng đừng phí sức làm gì cứ để cho y chết nhé!
Bùi Nhật Hướng lại hỏi:
- Thưa ngài, ngài xem phong thủy, xét thế của đất mà biết mọi việc, thế việc phương Đông ta thì ra sao?
Đinh lão đã được Quân sư nói cả cho biết trước rồi, liền ung dung:
- Đạo huyền nhiệm của Phật pháp nói rằng “Người hiền thì họa đến tự phải tan”, phép Quân sư nói rằng: “đất hiểm trở có dàn xếp thêm thì địch ngoài vào tất bại”. Đồng Lư là cửa ngõ để vào Sài Sơn, trọng địa ấy Đường Lâm đi ra thì lấy được thiên hạ, ngồi im thì vững được Đường Lâm này. Phía trên, sông nước bao quanh chính là cái thế “Nước bạc cuốn núi vàng”, phép phong thủy gọi đây là “Ngân thủy kim sơn, tả hữu phù trợ, minh vương quang xuất”. Như thế thì thành Đan Phượng là cửa trong thành để vào nội cung, Đường Lâm là nơi vua hiền ra đời, trước thì có Ngô Quyền, mai sau ắt cũng thế, làm sao binh ngoài có thể xâm phạm Đường Lâm được!
Sứ quân nghe nói cả mừng, quả thật có việc binh ngoài của Đồng Lư đều bị tan bại cả. Còn mặt trận thành Đan Phượng thì đang sắp sửa xảy ra, nếu đúng lời thuật sĩ nói thì binh ngoài trước sau cũng bị bại như ở mặt Đồng Lư mà thôi. Nghĩ rồi, liền hỏi:
- Ngài nói rất đúng, vậy Đường Lâm ta nên đối phó với binh của họ Đỗ như thế nào?
- Bẩm Sứ quân, việc Quân sư tôi không được rành, việc ấy xin để các đại tướng dây dàn xếp. Tôi chỉ khuyên một điều là: Đường Lâm là đất linh thiêng. Phật Thánh phải nên được thờ phụng cho chu đáo, ba hộ một Chùa, năm nhà một miếu, khói hương đừng dứt. Thế là Phật Thánh biết tới mà gia hộ cho!
Tướng Bùi Nhật Hướng cười nhạt một tiếng mà rằng:
- Ngài luận về địa thế phong thủy, tôi nghe không chỗ sai, duy có điều thắp hương thờ phụng Phật Thánh thì tôi thắc mắc!
- Đại tướng ngài thắc mắc cũng phải, việc Phật Thánh linh thiêng người trần chúng ta làm sao mà biết cho hết được!
Bùi Nhật Hướng mỉa mai:
- Giả sử giặc bên ngoài sắp đánh vào Đan Phượng, cả cõi Đường Lâm này ngày đêm đốt hương thờ cúng Phật Thánh, khói hương mờ mịt cả đất trời. Lại dốc lực phá nhà ba họ xây một kiểu chùa, năm nhà xây một miếu, ra sức thờ phụng Phật Thánh thì liệu giặc họ Đỗ có bị chết ngạt vì khói hương thờ Phật Thánh được chăng?
Quân sư Phùng Chuyết Tỉnh thấy hội gay go, nếu hùa theo thuật sĩ thì được lòng phu nhân, nhưng mình sẽ mất uy thế, đứng về phe tướng họ Bùi thì nhỡ mai sau xảy việc làm sao biện bác cho được, liền khôn khéo:
- Thờ phụng Phật Thánh là việc không thể sao lãng, đem binh dàn trận, đắp thành vét hào là việc không thể thờ ơ được. Người đi biển trấn cứ việc đi, người làm việc thờ phụng Phật Thánh cứ việc thờ phụng, chứ làm gì có việc bỏ thành để đi cúng Phật cả, làm gì có việc quên Phật Thánh để dốc cả vào việc đời chứ!
Chợt có người cười nhạt một tiếng, tiếng cười nghe lạnh như băng, thê lương như than khóc bi ai. Cả hội nhíu mày, Sứ quân lạ lùng hỏi:
- Trường Kỳ cười gì thế?
Người vừa cười nhạt giọng lạnh như băng, chính là mưu sĩ Cao Xuân Minh Phúc, người ở Nguyên Kinh (Thái Bình ngày nay), có tài chiêm tinh luận việc, suy luận hơn người. Họ Cao có người con gái cực đẹp là Cao Xuân Ngọc Lệ được Sứ quân rất yêu lấy làm vợ, lại hẹn đến khi nào nên nghiệp lớn sẽ phong làm Hoàng hậu. Cao Xuân Minh Phúc là người tri kỉ của Bùi Nhật Hướng, giúp tướng họ Bùi nhiều điều khuyên bảo tốt, họ Cao được Sứ quân nể vì mọi mặt, nhưng lúc nào Cao cũng giữ lẽ chúa tôi, chứ không vì việc con gái được sủng ái mà làm điều sằng bậy. Bây giờ ngồi trong hội, nghe thuật sĩ lạ mặt xúi giục việc thờ phụng Phật Thánh quá đáng, lại nghe đạo sĩ Phùng Chuyết Tỉnh nói ra nước đôi, thì trong lòng bực bội chịu chẳng được thốt ra tiếng cười nhạt.
Cao Xuân Minh Phúc thuở thiếu thời ưa đi chu du khắp nơi, có lần nghe nói núi An Đĩnh, bộ Vũ Định (Thái Nguyên ngày nay) có nhiều việc lạ tiên thánh. Họ Cao liền tìm đến nơi để khám phá việc lạ. Ở núi An Đĩnh được ba tháng thì họ Cao một hôm được kẻ mục đồng dẫn vào chơi trong một cái động ở phía Bắc núi, động lạ quanh co, càng đi như càng vào sâu trong lòng, âm u lạnh lẽo lạ lùng. Cuối cùng đến một chỗ khoảng khoát trông ra vách núi vây quanh, phong cảnh hữu tình. Họ Cao quay lại chẳng thấy kẻ mục đồng đâu cả, tìm cũng không thấy, sau loanh quanh thấy có đầm nước trong veo liền cởi quần áo xuống tắm. Nào ngờ vừa nhảy xuống, nước lạnh buốt tựa băng giá, mặt nước rung rinh phát ra tiếng thì thầm như có hàng trăm nghìn người lao xao nói chuyện. Họ Cao sợ quá, cố loi ngoi leo lên đến bờ, mặt nước im lặng thì cũng không nghe thấy có tiếng lao xao thì thầm nói chuyện.
Cao Xuân Minh Phúc là kẻ gan dạ, thấy việc lạ lại nhảy xuống nước lần nữa xem sao, thì lại thấy có tiếng nói như trước, Cao định thần cứ ngâm mình trong nước lạnh lạ lùng, lắng hết thần lại để dò xét việc huyền bí nhưng không được. Nhưng có điều nước lạnh ngấm vào đến tận xương tủy lại làm cho họ Cao đầu óc minh mẫn. Từ đấy, Cao Xuân Minh Phúc tự nhiên tính tình trầm lắng, ít nói. Mỗi khi cười mỉm, tiếng cười phát ra lạnh như băng giá, làm cho người nghe phải ghê sợ rờn rợn.
Người trong thiên hạ bảo rằng: thần núi An Đĩnh linh thiêng, đưa họ Cao tới đấy để rửa óc, có người hỏi thì họ Cao chỉ lắc đầu, không nói. Núi An Đĩnh vách cao xanh ngất trông xống sông Đồng Mỗ, sau này đến đời Lê Trung Hưng, nhà Mạc phải chạy. Họ Mạc đóng quân ở An Đĩnh quân sĩ nhiều người đem quýt ăn vứt hột ra đó, sau quýt mọc thành rừng. Quýt núi An Đĩnh rất ngon. Đêm khuya thanh vắng thường nghe như có tiếng người ngựa chiêng trống huyên náo ở trong núi, trong rừng quýt, rất là linh dị.
Việc họ Cao vào núi An Đĩnh như thế nào, Cao không kể cho ai nghe, đến khi trở về tính tình đổi khác, tự lấy hiệu là Trường Kỳ để tỏ ý là “việc đời mãi mãi chẳng hết”. Khi con gái họ Cao được Sứ quân thương yêu thì tự nhiên Cao trở thành mưu sĩ, nhưng không bao giờ Cao lấy thế làm điều vênh váo sằng bậy.
Bây giờ nghe Sứ quân hỏi, liền đáp, giọng Cao cũng lạnh như băng tuyết mà rằng:
- Dạo nọ, ông Bùi không đề phòng trước thì có khi Đường Lâm ta nguy vì Phong Châu - Tam Đái, lại có thể bị họa Kiều Thuận ở phương Nam nữa cũng không biết chừng. Bây giờ lại có binh ngoài thực sự muốn xâm phạm bờ cõi của ta, sao Chúa công chẳng nhớ việc cũ, lại quá chú trọng vào việc thần thánh đâu đâu như vậy?
Sứ quân chưa kịp đáp, các tướng mặt mày hân hoan, thì Đinh lão đã mừng rỡ hỏi:
- Có phải đây là người tắm nước lạnh trong động núi An Đĩnh đấy không?
Cao Xuân Minh Phúc thản nhiên:
- Việc tắm nước lạnh, khắp thiên hạ ai chẳng biết tắm, có gì mà ngài phải lấy làm lạ!
Đinh lão nhớ lời Quân sư nói về các nhân vật Đường Lâm, liền ung dung:
- Hồi tôi từ Vũ Định lên phía Bắc, chu du khắp nước Tàu, đến rặng Thập Vạn Đại Sơn, lên đỉnh Cửu Huyền thấy có tấm bia đá. Chữ khắc sắc như mũi kiếm dấu vết còn lờ mờ nhưng cũng đủ đọc rõ. Bia đá do Lã Vọng thời Tây Chu lúc hàn vi đi chu du tới Thập Vạn Đại Sơn thì dựng lên viết trước việc vài nghìn năm sau. Trong bia đá có luận về phong thủy Trung Nguyên núi cao chọc thủng mây, vươn dài xuống mãi tận phương Nam, phía Nam núi như vẩy rồng, lại có dòng sông quanh co uốn khúc như cánh hạc trắng tung bay. Chính là nơi có dị nhân nằm giữa núi lư đồng, hạnh ngộ Phật Thánh tắm hồ Thạch Bằng, bia đã nói rằng “Lúc kì nhân xuống hồ, có vạn lời thần thánh ngợi ca…”.
Trường Kỳ Cao Xuân Minh Phúc mới đầu nghe thuật sĩ nói thì thản nhiên, sau càng ngày mặt càng lộ vẻ bàng hoàng. Sứ quân và các tướng lắng nghe mỗi người một tâm sự lạ lùng. Sứ quân không nén được liền hỏi:
- Thuật sĩ nói mau đi, dị nhân tắm hồ Thạch Băng có thánh thần ngợi ca, rồi ra sao?
Đinh lão ung dung vuốt chòm râu đen biếc, vẻ mặt như mơ màng:
- Bẩm, bia đá kể rằng: hơn hai nghìn năm sau, dị nhân ra đời ở phương Nam, nếu dị nhân khởi nghiệp ắt công thành đại định, nếu dị nhân phù trợ cho ai thì người ấy chỉ cần ngồi yên một chỗ cũng thu được cả thiên hạ...
Cả hội không nén được nữa, đều cùng “ồ” một tiếng, Trường Kỳ họ Cao cũng hân hoan, Sứ quân cũng mừng rỡ. Một thoáng Sứ quân có vẻ băn khoăn hỏi thêm:
- Thế bia đá Lã Vọng còn nói thế nào?
- Bẩm, bia dặn người Trung Quốc rằng: Khi nào biết được dị nhấn ấy ra đời thì cũng là lúc Trung Nguyên thái bình an lạc, thần thánh phù trợ, cố mà tìm cho kì được dị nhân ấy về tôn lên ngôi cửu ngũ để cho thiên hạ Trung Nguyên đều được thấm nhuần ơn đức!
Sứ quân nghe nói, trong lòng mừng chưa được bao nhiêu nhưng lo lại nhiều gấp bội! Trường Kỳ họ Cao tâm hồn như băng giá bây giờ cũng tự nhiên cảm thấy sôi nổi. Các tướng thì lộ vui mừng hân hoan, không ai nghĩ đến chỗ lo của Sứ quân.
Chợt đạo sĩ Phùng Chuyết Tỉnh cười lớn mà rằng:
- Thuật sĩ ngài đưa chuyện hay thật! Việc hai nghìn năm trước trên đỉnh Thập Vạn Đại Sơn làm sao lại biết rõ từng li từng tí một của thiên hạ ngày nay, mà ngài biết đích Đường Lâm có dị nhân ra đời mà tìm đến chứ!
Cả hội đang hân hoan, mỗi người một tâm trạng, nay nghe Đạo sĩ nói như vậy thì như sực tỉnh cơn mê, ai cũng chăm chú đợi xem thuật sĩ nói thế nào. Đinh Công Dự chẳng khỏi khen thầm Đạo sĩ rồi ung dung đáp:
- Tôi không đi tìm dị nhân, nhưng chu du thiên hạ mà thôi. Còn việc Đạo sĩ hỏi tôi không dám bảo là tôi quyết chắc nơi đây, giữa hội chợt nghe giọng nói của dị nhân lạnh như băng giá, có sức lãnh truyền kì dị, mới sực nhớ đến việc ngày trước đấy chứ...
Đạo sĩ cố hỏi nữa:
- Người có giọng băng giá thì có thể có được, còn bằng vào đâu mà ngài dám nói là Đường Lâm có người ấy?
Đinh lão đáp:
- Bia đá Lã Vọng chẳng nói rõ về địa thế nơi có dị nhân ra đời là gì? Nào là: nơi có núi như vẩy rồng, chẳng phải là rặng Đồng Lư có rồng hiện ra là gì? Lại thêm bia đá viết: nơi có dòng sông quanh co uốn khúc như cánh hạc trắng tung bay, chẳng phải là dòng Bạch Hạc thì là gì nữa? Vả lại, thiên hạ muôn triệu người ai cũng biết tắm nước lạnh, hỏi có được người thứ hai tắm nước băng giá của hồ Thạch Băng không? Cả thiên hạ đều có nghe nói đến hồ Thạch Băng, nhưng đây là chiếc hồ linh thiêng nghìn năm chưa có được một người hạnh ngộ, chỉ mới có người ở Đường Lâm thấy lần đầu mà thôi, như thế thì bia đá Lã Vọng có nói sai đâu?
Bây giờ thì không còn người nào của Đường Lâm lại chẳng tin lời thuật sĩ nữa. Sứ quân băn khoăn lắm, các tướng văn vũ mỗi người mang một ý nghĩ, riêng Trường Kỳ họ Cao thì bây giờ mặt lại lạnh lùng, tưởng như không còn có một việc gì ở đời này còn làm cho họ Cao mê say xúc động được nữa. Cái vẻ mặt băng giá của họ Cao bây giờ, lại cũng làm cho Sứ quân e ngại.
Thuật sĩ Đinh Công Dự tính toán thầm trong bụng: “Mưu sâu của Quân sư đã có kết quả, ta phải bồi nốt đoạn kết thúc cho xong mới được!”. Nghĩ rồi, liền trịnh trọng đứng dậy, hướng về Sứ quân chắp tay vái một vái mà rằng:
- Bẩm Sứ quân, tôi mừng Sứ quân được dị nhân ngồi dưới trướng, việc đại định thiên hạ tất phải xong. Chỉ xin được phép khuyên một lời: huyền cơ của tạo hóa không nên để sai lạc. Sứ quân cứ ngồi yên chớ có giao tiếp với nơi nào khiến cho vương đức bị phân tán, thịnh thế bị chia li, chính mệnh ắt có phù trợ ở chung quanh. Các tướng ở đây thảy đều có vượng tướng thế nào cũng giúp Sứ quân được mọi việc! Sứ quân cũng đừng quên việc Phật Thánh để bồi đức. Tôi mừng Giao Châu ta được dị nhận ra đời vào lúc này, loạn nước tất yên. Tôi xin cáo từ để đến lạy mừng phu nhân rồi lại ra đi!
Lời nói này của thuật sĩ Đinh Công Dự, làm cho mọi người đều yên lặng. Đinh Công Dự lúc gặp lại phu nhân mẹ Ngô Nhật Khánh, có dặn dò:
- Bẩm Phu nhân, dị nhân ở dưới trướng của Sứ quân là điều mừng rỡ, nhưng Phu nhân phải hết sức trông nom dừng để cho dị nhân đi đâu cả, e người ấy bỏ trốn đi dựng nghiệp lớn. Ta phải lấy đức lớn của người ấy mà bồi đắp cho mình. Phu nhân cũng phải nhớ là: đừng để Sứ quân liên minh với bên ngoài, khiến cho ân đức bị tiêu tan chia sẻ cho người ngoài, việc lớn tất bị hại. Sứ quân tuổi còn trẻ, may lại chọn được con gái của dị nhân để hầu trong trướng. Phu nhân nên nhân cơ hội ấy mà giữ dị nhân, dùng để cho y bỏ đi. Phu nhân cũng lại phải trông nom người con gái của dị nhân đừng để cho thị nhỡ có gian ý...
Phu nhân hết lời cung kính nghe thuật sĩ dặn dò, luôn mồm xuýt xoa mừng được Phật Thánh độ, xui khiến cho thuật sĩ đến nơi Đường Lâm. Rồi phu nhân và Sứ quân cùng các tướng làm lễ tiễn đưa thuật sĩ lên đường đi chu du thiên hạ. Lúc thuật sĩ lên đường, phu nhân còn ân cần cảm tạ, rồi ngỏ ý tiếc là vì mừng quá quên mất không kịp tìm báu vật để tặng làm vật tạ ơn thuật sĩ. Phu nhân liền tháo ngay chiếc vòng ngọc bích ở cổ tay trao cho thuật sĩ gọi là để ghi nhớ cuộc hạnh ngộ này. Thuật sĩ nhận vòng ngọc vẻ mặt thản nhiên, rồi cúi chào mọi người, lặng lẽ cất bước, phiêu phiêu như bực thần tiên chẳng vướng bận việc đời.
Nào ngờ, cùng với bước chân thuật sĩ Đinh Công Dự bước đi, Đường Lâm bắt đầu chuyển động vào đúng tính toán dàn xếp của Quân sư Hoa Lư Lê Thảo. Đến nỗi sau này khi Hoa Lư hưng binh thu thiên hạ, việc nguy ngập đến cùng rồi mà Đường Lâm vẫn cứ khư khư nhớ lời thuật sĩ nhất định không chịu liên minh với các Sứ quân chung quanh cùng chống lại Hoa Lư. Khiến cho Ngô Nhật Khánh cùng đường phải đầu hàng, mẹ thì bị Bộ Lĩnh đem chiếc vòng ngọc bích ra mà ép làm hoàng hậu, dị nhân tắm hồ Thạch Băng cùng con gái gây náo động ghê gớm, các tướng tan nát cả, đây là việc mai sau.
Sứ quân vừa tiễn đưa thuật sĩ đi xong chưa kịp quay vào, đã có ngựa lưu tinh từ xa cuốn bụi chạy đến báo tin khẩn cấp...
Chưa biết có việc khẩn cấp gì, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—