Hồi Thứ Bảy Mươi Ba Mộc Đường dàn trận thủy quân
Hoa Lư trói thuyền Đỗ Động
Ngựa lưu tinh đưa tin khẩn cấp vừa dừng vó, kị sĩ trên lưng ngựa nhảy xuống rạp mình trước Sứ quân mà rằng:
- Bẩm Chúa công, tin từ Bạch Hạc Đan Phượng gửi về cho biết là thủy quân Đỗ Động đã bị Đại tướng Mộc Đường phá tan, tướng Đỗ Động đã chết trong trận thủy chiến ấy!...
Sứ quân, các tướng nghe tin sửng sốt, không hiểu lão tướng Mộc Đường dàn binh phá địch như thế nào mà tin mới cho biết thủy quân của địch sắp tới vừa trình về, Sứ quân và các tướng chưa kịp bàn xong mưu đương cự đã có tin quân nhà cả thắng như vậy! Sứ quân qua cơn sửng sốt, nét mặt tươi vô cùng bảo các tướng:
- Quả nhiên quân ta lại thắng trận! Các tướng vào bàn việc với ta xem sao nào!
Vào hội, các tướng đua nhau bàn bạc, mỗi người góp một lời, nhưng vẫn không ai hiểu tướng Mộc Đường làm cách nào để phá thủy quân của Đỗ Cảnh Thạc mau lẹ đến như vậy! Đến đạo quân đi đường bộ tiến đánh thành Đan Phượng, thì chưa được tin gì.
Hội nghị bàn bạc đến sâm sẩm tối, thì lại có tin từ Đan Phượng trình về nói rằng: “Sau khi thủy quân của Đỗ Cảnh Thạc đại bại, quân đường bộ của Thạc không dám tiến lên nữa, cũng vội rút về rồi!”. Thế là mặt trận thành Đan Phượng cũng yên nốt. Sứ quân mừng vui quá đỗi, ngay trong chiều hôm ấy truyền mở đại tiệc, chúa tôi vui chơi liền trong ba ngày.
Sứ quân lại cùng các tướng kéo đến phủ phu nhân vào trình công việc, rồi đua nhau tâng bốc Phật Thánh quả nhiên gia hộ cho Đường Lâm. Phu nhân sắc diện lộng lẫy truyền cho các chùa chiền gióng trống thắp hương mở lễ ba ngày liền để tạ ơn Phật tổ, lại sai mở kho cấp cho mỗi chùa hai trăm hộc gạo, năm mươi súc vải. Cả Đường Lâm say sưa trong vui chơi hội hè. Sứ quân quên đứt việc tưởng thưởng cho các tướng sĩ ngoài mặt trận, chẳng cho người đem đồ thưởng đến Đồng Lư, cũng không thấy có sứ giả tới Đan Phượng để khen lao ban thưởng!
Tại thành Đan Phượng, lão tướng Mộc Đường hội các thuộc tướng lại bàn:
- Thủy quân của Đỗ Động bị ta phá nát thật mau lẹ. Việc hiển nhiên nhưng ta vẫn thấy còn có chỗ thắc mắc...
Thuộc tướng Đỗ Trường Tồn hỏi:
- Đại tướng dàn binh hai mặt cả, phá thủy quân của Cảnh Thạc. Việc rành rành như thế sao lại còn có chỗ thắc mắc, thì chúng tôi chẳng hiểu thế nào cả?!
Các tướng quả thật cũng không thấy có chỗ nào đáng xem là nghi ngờ trong trận cả thắng thủy quân Đỗ Động Giang. Tướng Vi Hiển Đức nói:
- Bẩm Đại tướng, cứ theo con mắt thủy chiến của tôi, thì quả thật binh ta toàn thắng binh Đỗ Động, không có chỗ nào xem là thắc mắc cả. Nếu có chỗ nào khác lạ, xin Đại tướng chỉ bảo cho!
Đại tướng Mộc Đường nhìn sáu tướng thuộc hạ là Đỗ Trường Tồn, Vi Hiển Đức, Khúc Bắc Hải, Đinh Phục Thường, Quan Đại Thắng và Lâm Hồng Mỹ một lượt mà rằng:
- Thủy quân của Đỗ Động Giang thật hùng hậu, kéo lên chẹn ở Hát Môn. Tướng địch lại phân thủy quân làm ba đạo, bày thành thủy trận “Rồng vàng rẽ sóng”, sóng lớp sau đè lên lớp trước, liên miên chẳng hết. Lại có con rồng vẫy vùng trong sáng chập chùng, có khác nào khắp mặt khắp hướng binh địch đều tiếp ứng được cho nhau, đánh vào chỗ nào ta cũng bị khắp mặt địch cuốn lại mà tiêu diệt ta. Vậy mà ta mới chỉ tiến thủy quân tiên phong, xung trận có một lần là đã đủ để phá tan binh địch, giết tướng chỉ huy thủy quân Đỗ Động. Các mặt binh địch không làm sao tiếp ứng được nhau, khiến cho các đạo tiếp chiến hồi chiến, phòng chiến, tử công chiến của ta chẳng cần nhập trận cũng thành đại công là thế nào?
Quả thật nhận xét của Mộc Đường rất đúng! Nếu Mộc Đường biết rõ sự thế ắt chẳng thể nào ngồi yên mà tưởng nhớ đến việc cả thắng để tìm xem chỗ nghi ngờ là đâu, và các tướng cũng không còn ai là lại bảo rằng binh mình đại thắng được cả!
Lúc Chung Tam Sở đưa ba trăm chiến thuyền lên Hát Môn, dựa vào thể sông quanh co chảy vòng theo đảo mà trấn ở chỗ hai dòng hợp một, thủy quân của Sở bày trận thành thế “Trường Sơn” dài một dải, mũi thuyền hướng về phía Tây Nam lăm le uy hiếp thành Đan Phượng cách xa đôi ba dặm đường.
Chung Tam Sở là tướng thủy chiến vừa biết chiến lược lại vừa rất dữ dội, thành ra Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc giao cho thủy quân để trợ chiến cho quân bộ của Kim Ân Phú thì lấy làm yên lòng lắm. Nhưng, Chung Tam Sở ỷ tài, lại thêm Sứ quân Cảnh Thạc quá tự phụ, thành ra Sở kéo quân đi cực kì quyết liệt. Binh Sở từ đại trại kéo đi, tiến ngược dòng sông binh đi như gió cuốn dù ngược dòng vẫn hết sức mạnh. Vì vậy bỏ xa bộ quân của Kim Ân Phú.
Thủy quân của Chung Tam Sở theo dàn xếp của Sứ quân Cảnh Thạc, chỉ là binh bồi chiến, đợi binh công thành của Kim Ân Phú phá Đan Phượng thì mới ra mặt. Nhưng Chung Tam Sở đi trước, đường sông lại chẳng gặp vướng bận gì, thành ra binh Sở đến trước binh của Kim Ân Phú rất lâu.
Binh Sở ngược sông, chiến kì phấp phới, bao nhiêu ngư phu sinh sống hai bên sông đều thấy rõ cả, thủy quân của Sứ quân Cảnh Thạc cứ giữa dòng sông mà tiến. Khinh thuyền (thuyền nhẹ) thám sát đi như bay ở phía trước, tin đưa về đều báo cho Sở hay là Đường Lâm không hay biết gì cả. Sở rất hài lòng!
Thủy quân của Chung Tam Sở đóng ở Hát Môn được một ngày, thì tướng Mộc Đường của Đường Lâm ở thành Đan Phượng đã hay biết hết tin tức. Cũng trong lúc ấy, tế tác tại biên giới chạy tin về cho hay: quân bộ của Cảnh Thạc chuẩn bị vượt sông Hát xâm phạm Đường Lâm, có ý vây hãm thành Đan Phượng.
Tức thì tướng Mộc Đường hội sáu tướng lại, nói rằng:
- Quả nhiên, đúng như ta nghĩ là binh ngoài không chỉ có một mặt theo đường thủy mà đánh, một quân thủy thì không thể nào làm nên chuyện được. Các ông cho là binh của Cảnh Thạc sẽ đánh ta như thế nào?
Tướng thủy chiến Đỗ Trường Tồn nói ngay:
- Cái trò mặt bộ đánh thật, mặt thủy rình cơ hội để cắn trộm ta, Cảnh Thạc làm sao che mắt thành Đan Phượng ta được!
Mộc Đường gật gù:
- Ông nói rất đúng! Tôi thấy là: thủy quân của địch chỉ là quân bồi chiến, bộ binh của dịch mới là quân công thành. Thủy quân tới trước, thì một là địch toan tính dùng cái lợi bất thần để ăn thịt ta, hai là địch không liên lạc được chặt chẽ với nhau. Đường thủy dễ đi hơn đường bộ, thủy quân tới trước. Đây là lỗi lầm của địch, giả sử bây giờ ta dốc lực phá nát đạo thủy quân ấy, thì đạo công thành của địch còn được ích lợi gì nữa?
Tướng Khúc Bắc Hải bàn thêm:
- Phá thủy quân của Cảnh Thạc, tôi không dám lạm bàn, còn mặt quân bộ thì xin lão huynh cho tôi được mang quân chực sẵn bên này sông Hát. Đợi khi nào địch tới chưa kịp lên bờ là tôi phá trước. Như vậy ắt thành công!
Tướng Mộc Đường bảo:
- Quân bộ của Cảnh Thạc, nếu bình thường mà đi thì cũng phải mất năm ngày là nhanh lắm mới tới được thành Đan Phượng này. Vả chăng, binh địch đi trên đất ta tất phải dè dặt, vậy còn phải lâu mới tới được. Trong khoảng thời gian này, ta làm cách nào gấp rút phá tan thủy quân của địch, là làm cho bộ binh của họ phải dừng bước. Thành Đan Phượng này có đủ cách phòng thủ, dễ gì binh ngoài xâm phạm được. Vậy ta chưa cần ra quân chống đỡ vội. Bây giờ, trong vòng hai ngày ta phải phá cho kì được thủy quân của địch, các ông có cách gì không?
Các tướng góp lời bàn tán, cuối cùng tướng trấn thành Đan Phượng quyết định:
- Đỗ Cảnh Thạc là tướng giỏi thủy chiến, nay cho thuộc hạ kéo đường sông lên làm thế trợ chiến cho quân đường bộ của y. Tuy rằng mặt thủy y dặt nhẹ hơn mặt bộ, nhưng không có mặt thủy trợ giúp thì chẳng hi vọng gì làm nên chuyện. Vậy, trong lúc đợi binh đường bộ của y, ta dốc lực tận phá thủy quân của y trước...
Tướng Mộc Đường ngừng lại, các tướng đợi chờ. Mộc Đường tiếp:
- Bây giờ đang giữa mùa xuân, thời tiết trong sáng, thủy quân của Đỗ Cảnh Thạc không lợi dụng được các cái lợi về thời tiết khó ẩn nấp, binh của y lại đóng dài một dải. Lối đóng quân dàn trận như thế có cái lợi, mà cũng có cái hại, Lợi ở chỗ tránh được bị thiệt hại nếu địch tấn công, nhưng hại ở chỗ nếu không mau điều động liên lạc cứu ứng được nhau thì hóa ra bị phân lực, mạnh mà hóa yếu. Vậy, tướng Vi Hiển Đức lĩnh mệnh ngay hôm nay cho quân ra sức chặt cây lớn, ghép thành bè theo hình “cánh én bay”, mỗi bè rộng chừng hai mươi sải tay, làm khoảng ba hay bốn mươi bè. Bà ghép xong rồi, đóng ở đầu rặng Tam Sơn, lại phải chuẩn bị một nghìn quân cùng cung tên dài cho thật nhiều. Quân cung thủ lúc mới vào trận lợi thuyền địch bị bè gỗ phá vỡ thì từ xa dùng cung tên mà đánh, lúc xáp chiến thì dùng dao ngắn cho khỏi vướng víu về việc bơi lội. Binh của ta đứng ở dưới bè gỗ giao chiến với thủy quân địch, chỉ xung sát khi nào thuyền địch bị vỡ nát mà thôi. Ông đợi lệnh của ta vào sẩm tối hôm nay lúc con nước đang rút mạnh thì tuân lệnh cho bè xuôi Nam phá thủy quân địch.
Tướng Vi Hiển Đức nghe lệnh thật chú ý, các tướng ai cũng có vẻ gay cấn, Mộc Đường lại tiếp:
- Ông Vi Hiển Đức lĩnh mệnh cầm quân tiên phong tử công chiến, ông giỏi đánh nhuyễn tiên bện bằng mây, lúc cứng thì thật cứng, lúc mềm lại thật mềm. Như vậy ông dễ dàng tiếp địch, tướng địch ắt phải là tay đáo để thì Cảnh Thạc mới cho cầm quân tiếp trợ như vậy. Ông hãy cẩn thận thi hành lệnh ngay nhé!
Vi Hiển Đức lĩnh mệnh đứng dậy đi ngay. Mộc Đường lại bảo:
- Ông Đỗ Trường Tồn giỏi về phép phục binh chiến thì mang một trăm quân vượt sông đến chỗ núi đuôi rồng rặng Tam Sơn, rồi cho quân theo Đông ngạn dòng Bạch Hạc xuống phía Nam phục ở sườn thủy quân của Đỗ Cảnh Thạc. Đợi khi nào bè gỗ của ông Vi phá vỡ thuyền địch rồi thì ông cho quân ra tài lấy ít đánh nhiều của ông mà phá địch nhé!
Đỗ Trường Tồn vâng mệnh ra đi, Mộc Đường lại nói:
- Bây giờ đến lượt ông Khúc Bắc Hải, ông giỏi bộ chiến thì dùng thuyền nhẹ phục ở bên này bờ Bạch Hạc của ta, ông phải phục cho thật kín đừng để địch trông thấy. Nếu thủy binh của địch tan vỡ tìm cách chạy lên bờ bên này ông cứ việc đâm chém. Nếu địch chạy lên bờ bên kia thì ông dùng thuyền nhẹ cho quân đuổi theo hợp sức với ông Đỗ mà thanh toán đám tàn quân ấy. Ông chỉ cần mang ba trăm quân là đủ, nhớ phải hết sức cẩn thận đừng để thất thế lỡ cả thế trận của ta.
Khúc Bắc Hải tuân lệnh, xốc lại đoản đao, đi điểm quân sửa soạn thuyền nhẹ để đợi chờ xung trận.
Tướng Mộc Đường nhìn ba tướng còn lại mà rằng:
- Còn ba ông, thì ông Đinh Phục Thường ở lại giữ thành, hai ông Quan Đại Thắng và Lâm Hồng Mỹ mang một nghìn quân đến trấn ở bên này sông Hát, đề phòng có đột biến ở mặt quân bộ của Cảnh Thạc. Ấy là tôi phòng xa như vậy, chứ chắc chắn hai ông chẳng phải giao chiến gì đâu.
Hai tướng lĩnh mệnh ra đi. Mộc Đường sai Đinh Phục Thường cầm cờ lệnh đôn đốc các mặt, đem bảy trăm quân còn lại đặt canh gác khắp nơi, lại cho tế tác đi về luôn luôn để liên lạc với các mặt. Cắt đặt mọi việc xong xuôi, lúc ấy mặt trời đã lên cao, tiết xuân trong sáng, nắng ấm thật đẹp. Đứng trên thành Đan Phượng nhìn ra khoảng xa mờ mịt rừng thưa, lau sậy, dòng Bạch Hạc đẹp như một dải bạc trắng, phong cảnh thật êm đềm.
Đến chiều, tế tác tin về cho hay: các nơi đã chuẩn bị xong cả rồi: thủy quân của Cảnh Thạc đóng ở Hát Môn vẫn im lìm. Mộc Đường được tin ngồi suy nghĩ: “Đỗ Cảnh Thạc là tướngquen chiến trận, tại sao y lại khinh xuất như vậy được, cho thủy quân tiến đến sát thành địch mà lại không có binh tiếp trợ, một mình chơ vơ như thế thì chống đỡ ra sao?” Mộc Đường thắc mắc như vậy rất phải. Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc là người sâu sắc, có bao giờ lại dại dột hồ đồ như vậy. Tất cả chỉ vì Chung Tan Sở kiêu ngạo, lúc tiến quân Sứ quân đã dặn là cứ từ từ mà đi, thì Chung Tam Sở lại hăm hở tiến quân nhanh quá. Thành ra bây giờ bỏ xa quân bộ, đóng trơ trọi một mình ở Hát Môn. Chung Tam Sở cho rằng thành Đan Phượng không dám xuất chiến, cả Đường Lâm chẳng có tướng giỏi làm sao dán đương cự với thủy quân nức tiếng của Đỗ Động!
Mộc Đường ngồi suy nghĩ, rồi cũng chẳng tìm ra được tại sao sự thể lại như vậy, thôi đành chờ đợi tin tức. Nhưng, nếu Mộc Đường biết hết các sự thật, ắt Mộc Đường cũng không còn đủ bình tĩnh để ngồi mà nghĩ ngợi được nữa!
Chung Tam Sở đưa thủy quân ngược dòng Bạch Hạc tiến lên, tin lập tức trình về Quân sư Hoa Lư. Quân sư nhận tin tủm tỉm cười nói với Động chúa và các tướng:
- Như vậy là cái kế “nước loang cát lở” của Hoa Lư ta quả nhiên tốt đẹp! Bây giờ là lúc giúp Đường Lâm phá thủy quân của Cảnh Thạc đây!
Động chúa vui vẻ:
- Quân sư định kế, sai các tướng đi các mặt mỗi người một việc, mật thư của Thống đốc Lê Hiền đánh tráo được rồi, Ngô Xương Xí đang hấp hối ở Bình Kiều. Nguyễn Siêu bại binh thiệt tướng, ta cũng đã thu được gươm A Đằng, tiếc rằng Xích Đằng Quái Quyền bị mất tích. Ba sứ ở phía Bắc Bình Kiều bắt đầu đâm chém nhau, đúng vào lúc thủy quân của Cảnh Thạc lên đường đi đánh Đường Lâm! Hoa Lư ta ngồi một chỗ mà khuấy động cả thiên hạ, lẽ ra chỉ có dẹp thiên hạ thôi, thì nay Quân sư lại bảo là đến lúc giúp cho Đường Lâm phá binh Cảnh Thạc, rõ là lạ!
Các tướng cũng hân hoan, Quân sư bảo:
- Bẩm Động chúa, một thủy quân của Cảnh Thạc sẽ chẳng bao giờ làm nên việc được, thế nào Thạc cũng phải có đạo bộ chiến làm sức công thành. Nay thủy quân đi trước, tất quân bộ cũng đã lên đường rồi, hoặc cùng lắm là lên đường sau quân bộ một tí là cùng. Tuy nhiên đến nay ta chưa được tin gì thêm cũng là điều lạ!
Động chúa hỏi:
- Như vậy, Quân sư định liệu thế nào?
- Bẩm, Đường Lâm tuy địa thế rất quý, lại có nhiều tướng giỏi, nhưng Sứ quân Nhật Khánh không phải là người theo được nghiệp lớn. Đinh lão gia đi chơi về thế nào Đường Lâm cũng mê tít bưng tai ngủ kĩ. Đường Lâm ngủ thì chẳng sao, nhưng để Đường Lâm mất vào tay Nguyễn Siêu hay Cảnh Thạc đều là mối nguy lớn cho ta. Nay, dù chưa có tin gì thêm, ta cũng vẫn phải giúp Đường Lâm phá thủy quân của Thạc, lúc ấy ta sẽ giúp Đường Lâm sau.
Rồi Quân sư nhìn các tướng, ai cũng hồi hộp đợi chờ. Quân sư tươi cười mà rằng:
- Ông Lưu Cơ xong kì công đánh tráo mật thư, ông Trịnh Tú lấy được gươm A Đằng, bây giờ đến lượt ông Lê Hoàn mới xong!
Các tướng tiu nghỉu, thế là thêm một tướng nữa ở ngoài được Quân sư trao phó việc lớn. Trước, Trịnh Tú ở bên Đàng Châu đã được Quân sư cho lệnh đi lấy gươm báu với bộ quái quyền, nay lại đến lượt Lê hoàn cũng ở Đằng Châu mà lại được sai công việc! Quân sư nói:
- Bây giờ tôi nhờ ông Phạm Hạp sang Đằng Châu giúp ông Lê Hoàn đi việc Đường Lâm nhé!
Phạm Hạp đang cùng với các tướng khác buồn thiu, nay nghe Quân sư nói thì mừng rỡ vô cùng, lật đật hỏi:
- Bẩm, tôi... tôi cũng được đi?
Quân sư mỉm cười:
- Ông đi ngay bây giờ đấy, ông về sửa soạn, rồi đến nhận lệnh ngay đi!
Phạm Hạp vội tạm biệt Động chúa và các tướng ra về ngay.
Quân sư liền truyền lấy giấy bút, thảo ngay một phong thư gửi Lê Hoàn. Quân sư vừa thảo xong, thì Phạm Hạp cũng vừa trở lại. Quân sư niêm phong bức thự trao cho Hạp rồi dặn:
- Ông gấp rút bí mật sang Đằng Châu, rồi cùng ông Lê Hoàn mở thư này, đây là lệnh của Hoa Lư, hai ông phải hết sức thi hành cho thật đúng, đừng để sơ xuất chỗ nào mà hư việc lớn đấy!
Phạm Hạp kính cẩn đỡ lấy phong thư, cất vào ngực áo, rồi vái lạy Động chúa, tạm chia tay với các tướng, lại vái Quân sư một vái, đoạn xốc đoản đao ra đi ngay.
Phạm Hạp đi được nửa ngày thì tế tác lại về báo tin là quân bộ chiến của Sứ quân Cảnh Thạc đã lên đường đi đánh thành Đan Phượng. Quân sư được tin, ngồi suy nghĩ một lát, rồi cho gọi các tướng Đinh Liễn, Phạm Cự Lượng, Hồ Tường Thụy đến nghe lệnh.
Ba tướng được lệnh vội đến ngay, ba tướng vừa vào doanh đã thấy Động chúa và Quân sư đợi sẵn, Động chúa bảo:
- Quả nhiên Cảnh Thạc đã xuất quân bộ chiến, các tướng phải lên đường theo kế của Quân sư ngay mới được!
Ba tướng nghe nói mừng ra mặt, Quân sư bảo:
- Đạo quân này mới là đạo quân quan trọng của Thạc. Đạo quân này đi chậm, có lẽ Thạc cốt làm cho Đường Lâm tưởng lầm là chỉ có thủy quân ở Đỗ Động đi đánh Đan Phượng, rồi nhân đấy đánh úp mặt sông Hát. Như vậy, đạo quân này tất phải mạnh hơn đạo thủy quân. Nay các ông đi giúp Đường Lâm phá đạo bộ chiến của Cảnh Thạc các ông định hành động ra sao?
Ba tướng không biết phải hành động ra sao, bàn một hồi thì Đinh Liễn nói:
- Thưa Quân sư, nếu là phá quân của Đỗ Động, thì phải dùng quân để giao chiến, vậy chúng tôi xin lãnh mệnh đem quân đi theo kế dàn xếp của Quân sư.
Hai tướng Phạm Cự Lượng và Hồ Tường Thụy cũng cho lời Liễn nói là đúng. Quân sư lúc ấy mới mỉm cười mà rằng:
- Hiện giờ ngồi ở Hoa Lư, đường lên Đường Lâm xa xôi đi thẳng phía Bắc thì vừa phải qua lãnh thổ Phù Liệt, vừa phải qua lãnh thổ Đường Lâm phía Nam. Nếu đi theo ngả Đằng Châu, cũng phải qua Bình Kiều rồi lên Tế Giang hay Phù Liệt mà vào Đỗ Động. Như thế thì chuyến đi đây không không phải là thảnh thơi như đi lại trên đất Hoa Lư, làm sao các ông dám để binh nghênh ngang như vậy được?
Ba tướng ngẩn người nhìn nhau, Động chúa gật gù:
- Quả thật không phải là đi lại ung dung được! Như thế việc kéo quân đi không được rồi, tất lại phải dụng diệu kế mới xong!
Quân sư cười thật tươi:
- Bẩm, quả đúng thế, phải dụng mưu kế chứ không dụng đại binh được! Lúc này, ta hãy mượn sức người để đánh người đã, bao giờ người mệt ta mới đứng dậy cũng chưa muộn!
Rồi Quân sư trịnh trọng:
- Bình Kiều đánh Phù Liệt bị Tế Giang hại, Phù Liệt đánh Đường Lâm bị phá nát đại binh. Cảnh Thạc đánh Đường Lâm cũng đại bại, nhưng nếu để Thạc bại binh mà về thì có phải là uổng mất cơ hội dàn xếp khiến cho ba Sứ quận Thủ Tiệp ở Tiên Du, Lữ Đường ở Tế Giang, Lý Khuê ở Siêu Loại chỉ mới bị giật mình chứ chưa lận đận hao thiệt lớn, sao gọi được là dụng kế khuấy cả thiên hạ được! Tế Giang xua quân xuống Nam, cũng sứt mẻ nhiều rồi, nhưng chưa đủ, nay ba ông lĩnh mệnh ra đi cùng một lúc phải làm được hai việc: Một là, giúp Đường Lâm phá binh Đỗ Động. Hai là, nhân cơ hội đi chơi một chuyến để cho ba sứ chém giết nhau. Về thủy quân của Sứ quân Cảnh Thạc tôi đã cho hai ông Phạm Hạp, Lê Hoàn, đi trói cả lại, biến thế trận “con rồng vàng đùa trên sóng nước lớp sau đè lớp trước” của Cảnh Thạc bị thành con lươn cao rão hết cả xương. Đường Lâm sẽ tha hồ mà chém giết, đạo quân của Thạc đầu đuôi đành nằm im chịu chết chứ chẳng cứu ứng gì được nhau!
Tới lúc này, Động chúa và các tướng mới hiểu được đôi chút về việc Quân sư sai Phạm Hạp với Lê Hoàn. Nhưng chưa biết mưu kế ấy sẽ thi hành ra sao để trói được cả đạo thủy quân lớn lao như vậy của Cảnh Thạc?
Quân sư lại nói:
- Sứ quân Cảnh Thạc cất quân hai đường đi đánh Đường Lâm, chẳng qua chỉ vì Sứ quân Nguyễn Siêu đánh Đường Lâm. Thế thì bất đắc dĩ mà Thạc phải ra binh, tất Thạc lo lắng các mặt khác ở ngoài nhòm ngó vào Đỗ Động. Nay ba ông lên đường, hãy để khí giới lại nhà, võ phục cởi ra chỉ mặc áo bá tánh, gấp rút chia nhau lên ba nơi: Bắc Phù Liệt, Nam Cổ Loa, Tây Tế Giang, ra sức khuấy động ba vùng ấy, khiến cho mọi nơi đều náo động.
Ba tướng rục rịch, xuýt xoa, thì ra võ tướng bây giờ lại trở thành người đi phao đồn khuấy động thiên hạ! Động chúa mỉm cười gật gù chẳng nói gì cố ý đợi nghe Quân sư định kế. Quân sư chỉ Phạm Cự Lượng:
- Trước hết là ông Lượng đã...
Cự Lượng vội nghiêm chỉnh khẽ cúi đầu tỏ ý đợi lệnh. Quân sư tiếp:
- Ông lên vùng phía Bắc Phù Liệt, vùng này dân cư đông đúc, hai Sư quân Cảnh Thạc lẫn Nguyễn Siêu chưa ai làm chủ được vùng này rõ rệt. Ông phải mau lẹ phao tin: “Nguyễn Siêu lui binh đánh Đồng Lư, đang gấp rút bất thần thúc quân lên phía Bắc, trước là chiếm vùng này, sau nhân Sứ quân Cảnh Thạc đang đánh Đan Phượng của Đường Lâm. Sứ quân Nguyễn Siêu đánh Đỗ Động rửa cái thù bị đánh lúc trước”.
Cự Lượng chăm chú nghe, các tướng khác cũng chăm chú nghe. Động chúa vẫn im lặng, Quân sư tiếp:
- Việc của ông, là cốt làm cho dân chúng ở vùng này bỏ cửa bỏ nhà chạy trốn, ít náo động đến tai Sứ quân Cảnh Thạc. Thạc lo thì Nguyễn Siêu cũng phải lo mà sẵn sàng binh vụ đề phòng bất trắc, thế nào Thạc cũng cho người dò la tin tức. Khi thấy Nguyễn Siêu sắm sửa mọi việc, lo liệu quân nhu ắt tin đúng là Siêu muốn đánh mình!
Rồi Quân sư quay sang Hồ Tường Thụy và Đinh Liễn mà rằng:
- Còn hai ông, thì ông Thụy tới vùng phía Nam Cổ Loa, nhưng bên kia sông Bạch Hạc, ông Liễn tới tế Giang, cũng bên kia sông Bạch Hạc vào lãnh thổ của Sứ quân Lữ Đường. Hai ông cũng thi hành cái kế “làm loạn lòng người” như ông Lượng...
Thì ra sứ mạng của của ba ông tướng là đi phao đồn việc bình biến, làm cho lòng người hoang mang náo động. Quân sư bảo:
- Ông Hồ Tường Thụy tới Nam Cổ Loa, thì phao đồn là Sứ quân Cảnh Thạc đem thủy quân đi đánh thành Đan Phượng, nhưng kì thực giả vờ thua để cùng hợp với quân của Đường Lâm bất thần tiến lên cướp Cổ Loa tranh ngôi báu của Nam Tấn Vương. Ông đợi khi nào triều đình sai quấn biên trấn điểm binh đương cự thì là xong sứ mạng...
Hồ Tường Thụy chăm chú nghe. Quân sư bảo Đinh Lễn:
- Còn ông sang Tế Giang thì phải phao lên rằng: Nguyễn Siêu thấy Đỗ Cánh Thạc đánh Đường Lâm, liền hồi binh giữ nhà, lại sắp nhân lúc Thạc bận rộn ở phía Tây, để xua quân sang phía Đông trả cái thù Tế Giang xâm phạm Phù Liệt. Ngày nọ nhân thể liên minh với Bình Kiều để chia đôi Tế Giang, tranh hùng với Tiên Du, Siêu Loại, cùng giữ mặt phía Đông cự với Cảnh Thạc. Khi nào ông thấy Tế Giang động binh, ấy là lúc việc ông xong rồi đấy. Ông cũng để ý mà xem, binh viễn chinh của Tế Giang thế nào cũng vội vã kéo về. Nhân việc đi Tế Giang, ông cố để ý mọi việc để mai sau lúc Hoa Lư ta thu thiên hạ thì được thêm ít hiểu biết nữa nhé!
Ba tướng quân nghe Quân sư dặn dò, ai cũng tủm tỉm cười nghe lệnh ra vẻ hứng thú! Đinh Liễn nói:
- Thưa Quân sư, đến khi các nơi náo động rồi, thì chúng tôi phải về ngay hay...
Quân sư tươi cười:
- Chưa! Chưa! Các ông lặn lội đi xa, sao lại chỉ làm có vậy rồi trở về cho uổng công lớn như vậy! Tôi nhờ ba ông nhân chuyến đi này, cũng ghé qua Đỗ Động thăm hỏi Sứ quân Cảnh Thạc ít điều hộ tôi chứ!
Mọi người sửng sốt, Động chúa bật hỏi:
- Quân sư gây náo động các nơi để hại Thạc, sao lại còn cho người đến hỏi thăm Thạc? Hay là Quân sư có quen biết với y?
Quân sư mỉm cười:
- Bẩm Động chúa, tôi tính việc mai sau, thấy gần ta thì có Nguyễn Siêu là tay đáng nể, xa một chút thì là Cảnh Thạc. Nhưng lúc Hoa Lư ta ra tay thu thiên hạ thì phá Thạc tất khó hơn phá Siêu, xong việc Thạc thì xong được việc Siêu, vì thế tôi mới chú ý đến giang sơn của Thạc. Thạc có thủy trại lớn lao nhất cõi Giao Châu ta, phép bài trí còn vượt xa hơn cả phép dựng thủy trại của Tào Tháo thời Tam Quốc bên Tàu, hết sức lợi hại. Nay biết được tí nào tất quý tí nấy. Ba ông xong việc ở các nơi, thì phải chịu khó “xuất gia đầu Phật” một phen mới được!
Ba tướng sửng sốt, Động chúa và các tướng khác thảy đều ngạc nhiên. Quân sư chẳng đợi cho có người hỏi, liền nói ngay:
- Người Giao Châu ta sùng bái đạo Phật, nhiều lúc trọng Phật, hơn cả quê hương Phật. Không hiểu cái tinh hoa của đạo Phật, nhưng sùng kính những gì liên quan đến Phật, đến độ quên mất cả để chỉ nhớ có Phật! Cảnh Thạc là một vị tướng có tài, lo việc đời còn chưa xong thì còn làm gì có thì giờ để nhàn rỗi tung hô Phật pháp được nữa! Chung quanh Thạc đâu đâu cũng thấy có thầy chùa, cảnh chùa thờ Phật nhiều còn hơn cả bến đò, thị điếm (chợ búa), dân chúng không lo việc canh tác làm ăn, chỉ lo ngày đêm thờ Phật, có khi còn trông thấy chùa hơn cả chức quan cai trị, vì thế Thạc rất ghét bọn thầy chùa. Nay ba ông xong việc rồi thì kín đáo chịu khó gọt đầu khoác áo thầy chùa. Rồi tới cả giang sơn của Thạc, công khai thuyết pháp nơi kẻ chợ, khuyên dân hãy xa lánh việc dữ, dốc lòng thờ kính Phật thì được phúc lành, các ông cứ xưng mình là cao tăng ở mãi đâu đâu, thấy dân gian sắp sửa lâm họa binh đao thì đành bỏ nơi tu dưỡng để đi cứu đời. Thế nào Cảnh Thạc cũng biết tin, rồi sai đưa các ông về doanh, nhân cơ hội ấy các ông mỗi người có lưu tâm xem xét một nơi, thu thập tình hình. Thạc sẽ không dám hại các ông, ghét thì có ghét, nhưng các ông cứ nói là thuyết pháp rồi sẽ đi chứ chẳng ở lâu, ắt Thạc bằng lòng mà để cho đi!
Bây giờ mọi người mới phì cười, thì ra lại có việc tướng Hoa Lư gọt đầu khoác áo làm thầy tu đi thuyết pháp nữa!
Thế là các tướng lĩnh mệnh lên đường ngay. Quân sư lại chờ tin ở các mặt để tính kế sau.
Lại nói đến việc Chung Tam Sở thúc thủy quân lên Hát Môn đợi uy hiếp thành Đan Phượng. Sở cho quân đóng dọc sông Bạch Hạc, xa bờ phía Đông, nhưng chưa ra đến giữa dòng. Như vậy là đạo thủy quân của Cảnh Thạc đi hai ngày trời thì tới vị trí dừng quân. Lúc ấy tướng Mộc Đường đã hội chúng tướng bàn xong kế phá dịch, và hai tướng Phạm Hạp, Lê Hoàn của Hoa Lư cũng đã tới được nơi này.
Chung Tam Sở đóng quân xông vào lúc mặt trời gần đứng bóng, tiết xuân ấm ấp, phong cảnh hai bên sông Bạch Hạc đẹp tuyệt vời, lại vừa cực kì uy mãnh với đạo chiến thuyền của Sở.
Chung Tam Sở liền truyền cho phó tướng Lữ Bối Diệp, Nhan Mục Thản và Hoàng Đình Cường đến hội nghị. Ngồi Soái thuyền, Chung Tam Sở bảo:
- Thế là thủy quân của ta đi sớm ít ra cũng được vài ba ngày, thì giờ rảnh rỗi quý báu này là lúc để ta chỉnh quân, hoàn bị phòng tuyến đợi lúc xuất trận giúp ông Kim Ân Phú ở mặt bộ. Nay ta chia quân ra làm ba đạo lập thế “Trường xà” ông Cường coi đạo quân chót, ông Thản coi đạo quân giữa, ông Diệp cùng với ta giữ dạo tiên phong. Ba phần liên lạc với nhau đợi khi vào trận sẽ dựa vào nhau mà công hãm thành địch, các ông tuy lúc này còn được rảnh rỗi, nhưng cũng nên cẩn thận việc canh chừng nhé.
Rồi Sở ra lệnh cho các thuyền nhẹ chở quân trinh thám đi lại khắp nơi, dò la tình thế, tin phải trình về Soái thuyền luôn luôn. Lại thêm thuyền tuần đi lại như thoi đưa trên sông nước thật nghiêm ngặt.
Đúng Ngọ, Sở vừa cởi giáp sắt đi ăn cơm, chợt có tiếng thuyền tuần đến trình: Tướng Hoàng Đình Cường coi đạo quận phía dưới, lúc đi tuần gặp một thuyền nhỏ đẩy chèo lại gần thủy doanh liền chặn lại. Trên thuyền lạ có một người ngồi cầm cái mai con rùa đập vào mạn thuyền hát mấy câu:
Mai nở rực Tản Viên Sương khuya rời đỉnh núi Chung mộng chẳng được dài Hai đường chia thảm thiết...
Người lạ nghêu ngao hát xong hỏi chẳng nói thêm, chỉ một mực nói rằng: “Nay họ Chung đã tìm về nguồn gốc sao chẳng đến tìm cha”, vì nghe người lạ nói như thế nên cho đưa đến trình soái tướng quyết định, xem có phải người lạ muốn tìm soái tướng hay không?
Chung Tam Sở là người tính tình buồn vui khác thường, trong lòng lúc nào cũng phiền muộn về việc chẳng biết gốc gác cha mình là ai, nay nghe trình như thế thì nhíu mày chẳng suy nghĩ, tiện truyền:
- Đưa người lạ vào ngay!
Sở ngồi đợi trong dạ bồn chồn, được một lát tại đã lại nghe có tiếng hát nghêu ngao. Sở lắng tai nghe, tiếng hát lại gần mãi, đến khi vừa dứt thì thuyền tuần cùng cặp mạn soái thuyền. Soái thuyền nhẹ nhẹ đu đưa, rồi quân vén trướng đưa người lạ vào.
Chung Tam Sở đứng dậy nhìn ra, thấy người lạ là một người tầm thước, ăn vận theo lối dân giã, không có gì là khác lạ. Chung Tam Sở chưa kịp mở miệng, người lạ đã vòng tay cúi đầu mà rằng:
- Bẩm đại nhân, ngài có phải là gốc gác của Mai Quy lão gia núi Tản Viên đó không?
Chung Tam Sở nhíu mày lạ lùng, rồi ngập ngừng nói:
- Ta họ Chung người ở Miên Sơn, chẳng hề biết gốc gác nào ở núi Tản Viên cả!
Người lạ có vẻ vui mừng mà rằng:
- Thế thì đúng rồi!
- Đúng thế nào?
- Bẩm, núi Tản Viên có hai người bạn thiết, một người họ Mai tên Quy, một người họ Đặng tên Thúc Bảo, ước với nhau cùng tu tiên để sống nghìn năm. Nửa đường tu luyện, người họ Mai một sớm xuống núi gặp mĩ nhân họ Chung ở phương xa lại, đôi bên kết nghĩa xương thịt với nhau. Đến khi vợ họ Mai có thai thì họ Mai vì muốn bắt con thuồng luồng ở cửa sông Thanh Hà để luyện phép màu cho con mai sau thành nghiệp lớn, nhưng sức chưa đủ bị con thuồng luồng sống hơn nghìn năm quật chết. Vì thế người họ Đặng mới đưa xác họ Mai về núi Tản Viên toan dùng phép màu để cứu sống lại, nhưng không được, vì thế mới táng xác bạn trên núi, rồi âm thầm giúp đỡ vợ bạn cho đến lúc sinh nở. Người họ Đặng muốn đem đứa bé về núi Tản Viên nuôi nấng, nhưng cô gái họ Chung không chịu, họ Đặng thở dài quay gót về núi cao ngẫm nghĩ việc trần thế. Bây giờ...
Chung Tam Sở lắng hết tinh thần ngồi nghe, vẻ mặt xúc động lắm, nghe đến đây thì nén lòng không được nữa bật hỏi:
- Bây giờ thì sao?
Người lạ hai mắt long lanh thần quang, ung dung đáp:
- Bẩm, người họ Đặng nghe tin tướng quân đem thủy quân đi xa, cho tôi đi xem có phải tướng quân là con người bạn cũ năm xưa hay không...
Chung Tam Sở lại hỏi vội:
- Đặng lão bây giờ ở đâu?
- Bẩm, Đặng lão tu tiên, tuổi gần trăm năm nhưng khí sắc vẫn êm đềm phong độ thanh thoát trẻ trung, người còn đợi ở bên sông để tôi đi hỏi tướng quân trước!
Lập tức, Chung Tam Sở vươn tay chụp cây dùi đồng, vận sức đập mạnh vào chiếc cồng Nhật Nguyệt ngay cạnh chỗ ngồi. Tiếng cồng rền rĩ chưa dứt tiếng đã thấy quân vén rèm đợi lệnh. Chung Tam Sở truyền:
- Lấy thuyền nhẹ để ta di việc ngay!
Rồi Chung Tam Sở lật đật chỉnh lại y phục, bái người lạ xin dẫn đường đi đến họ Đặng.
Thuyền nhẹ vun vút rẽ sóng vào bờ. Người lạ tự tay cầm mái chèo đẩy con thuyền, vẹt lau sậy mà đi, thuyền lách đi khó khăn. Chung Tam Sở vừa nóng ruột vừa chờn chợn. Thêm lát nữa, ngay trong lau sậy mịt mờ có một con thuyền nhỏ đợi sẵn, thuyền không mui, có một người ngồi quay lưng lại.
Hai thuyền sát mạn vào nhau, người lạ lên tiếng:
- Đặng tiên sinh, tướng quân họ Chung đã tới. Chung Tam Sở không đợi mời bước sang thuyền lạ, người có họ Đặng chậm chậm quay lại. Chung Tam Sở ngạc nhiên, họ Đặng mặt đẹp hùng vĩ, hai mắt long lanh sáng, sắc diện không có gì tỏ ra là người già cả, có khi lại còn trẻ trung nữa là khác. Chung Tam Sở sững sờ, lão nhân họ Đặng gần trăm tuổi mà lại như thể này ư?
Chung Tam Sở chưa kịp hé môi, Đặng tiên sinh đã nói:
- Quả thật là giống! Đúng là lão Mai buổi trẻ trung!
Giọng họ Đặng êm đềm, rõ ràng, đượm vẻ uy nghiêm quyền lực, lập tức Chung Tam Sở vòng tay vái một vái mà rằng:
- Thưa Tiên sinh, người là…
Họ Đặng mỉm cười chặn ngay:
- Ta là bạn thiết của lão Mai! Tướng quân giơ bàn tay trái cho ta xem, có phải ngón tay út bàn tay trái ấy có bốn đốt không?
Chung Tam Sở kinh hãi, quả thật bàn tay trái Chung Tam Sở có tật, có những bốn đốt, việc này Sở chưa nói cho ai hay, bây giờ người họ Đặng này lại biết! Sắc diện Chung Tam Sở kinh ngạc vô cùng, người họ Đặng hơi mỉm cười tiếp:
- Đúng phải không? Chưa đủ! Tướng quân có để ý trên mu bàn tay bên phải có điểm tròn sâu hẳn xuống như vết sẹo lớn không? Đây là dấu đá “tĩnh tâm” trên núi Tản Viên đấy!
Chung Tam Sở vái người họ Đặng thêm một vái nữa mà rằng:
- Thưa tiên sinh, quả thật có thế! Thế nào là dấu đá “tĩnh tâm” núi Tản Viên?
Người họ Đặng ung dung:
- Lão Mai với ta kết ước với nhau nhất định tĩnh tâm tu cho thành tiên thánh, lấy hòn đá trên đỉnh Tản Viên làm vật tiêu biểu, đặt tên cho nó là Tĩnh Tâm. Mỗi khi trong lòng bất định thì nhìn vào đá ấy để được định tĩnh. Khi lão Mai qua đời, ta dùng đá Tĩnh Tâm đốt nóng in dấu lên mu bàn tay Tướng quân, lúc ấy Tướng quân mới sinh ra đời, để sau này Tướng quân có dấu vết làm bằng mà tìm về nơi gốc gác.
Chung Tam Sở nghe người họ Đặng kể, tưởng như đang nghe câu chuyện thần tiên, nước mắt rưng rưng mà rằng:
- Thưa tiên sinh, việc in dấu đá Tĩnh Tâm tôi chưa được nghe mẹ nói, nay mới được biết! Tiên sinh có thể cho tôi nghe về cha tôi không?
Tiên sinh họ Đặng trầm ngâm:
- Cuộc đời thân phụ Tướng quân lúc đầu không có gì đặc biệt. Sau ngày hai người chúng tôi kết nghĩa với nhau thì mới quyết lòng tu tiên. Thân phụ Tướng quân họ Mai, tên là Quy, người gốc Động Lăng Sương núi Tản Viên. Nơi hơi nghìn năm về trước có vị thần tên Khải, thường vẫn gọi là Thần Núi Tản Viên đấy. Thân phụ Tướng quân mình cao tám thước, một mắt có hai đồng tử, vóc người hùng vĩ nhưng tính tình lại êm đềm. Lúc gặp Chung thị thì nên duyên chồng vợ. Chỉ vì vụ tình duyên này mà Mai lão dở dang việc tu tiên. Chung thị thì khốn khổ với miệng đời. Mai lão thường tâm sự với ta nhiều điều bi thương, xót xa Chung thị, nhưng việc lỡ rồi!?...
Chung Tam Sở nghe người họ Đặng kể, vẻ mặt thẫn thờ, hai dòng nước mắt chậm chậm đổ xuống. Người cầm chiếc mai rùa lặng lẽ chẳng nói, người họ Đặng thoáng chút xúc động rồi tiếp:
- Nay gặp Tướng quân, quả nhiên ta thấy giống Mai lão quá! Ta thường nghe Tướng quân than thở là không biết cha mình là ai. Nay thấy Tướng quân đem quân tới đây thì tìm đến để giúp Tướng quân biết gốc gác, nhân thể cũng là để thay người bạn khuất mặt để thăm hỏi Tướng quân vài lời! Bây giờ xong việc rồi, ta kiếu từ!
Chung Tam Sở như bất tỉnh, giọng nghẹn ngào mà rằng:
- Bẩm, ngài là bạn thiết kết nghĩa với cha tôi ngày xưa, nay cha tôi không còn nữa thì ngài cũng như cha tôi, tôi xin thành kính thay người đã khuất để bầu tiếp ngài một lần, thưa có được không ạ?
Chung Tam Sở quả thật là người tình cảm, lời lẽ nói ra không hết ý nhưng đượm đầy tình nghĩa, hai người lạ mặt nhíu mày, người họ Đặng ngập ngừng:
- Tướng quân nay đang giữ trọng trách quân vụ, ta không nên lạm phí thì giờ vào việc riêng tư nhiều...
Chung Tam Sở lại tha thiết:
- Bẩm gặp ngài ở đây chẳng khác nào như gặp được cha tôi, dù việc quân vụ trách nhiệm tôi cũng có mời ngài đến doanh một phen để được nghe lời chỉ dạy. Xin ngài đừng từ chối nhé!
Rồi Chung Tam Sở truyền quân đẩy thuyền. Hai thuyền thoáng lát đã ra sông rộng, nhằm hướng Soái thuyền của thủy quân Đỗ Động tại Hát Môn mà tiến tới.
Về đến Soái thuyền, Chung Tam Sở cung kính đãi đằng khách thật đầy đủ, lại tỉ mỉ hỏi về thân thế của cha mình, xem họ Đặng cũng như cha mình.
Chung Tam Sở thưa:
- Thưa ngài, nay tôi vâng lệnh Sứ quân chủ tôi đưa thủy quân tới đây, đóng doanh đợi quân bộ hãm thành Đan Phượng thì tiếp ứng. Xong việc thế nào cũng xin được theo ngài lên núi Tản Viên để tìm mồ cha.
Người họ Đặng gật đầu:
- Tướng quân đem thủy quân lên đợi tiếp ứng cho mặt bộ, thế Tướng quân dàn quân như thế nào?
Chung Tam Sở cung kính:
- Thưa, binh tôi tiếp chiến, hiện giờ dàn trận “Trường xà” để đợi hành động.
Chung Tam Sở nói vắn tắt, có ý không muốn nói rõ việc quân. Nhưng người họ Đặng đà ung dung mà rằng:
- Đóng quân như vậy là phải lắm, địa thế sông Bạch Hạc ở đây đúng là phải ra binh như vậy...
Chung Tam Sở hơi nhíu mày, thấy người có phần chú ý đến việc dàn quân, lấy làm lạ về kiến thức quân sự của người lạ, liền nói:
- Thưa ngài, dàn thế “Trường xà” là để đón địch mở trận rộng mới có lợi, nay trên sông nước dù thế nào chăng nữa cũng là hẹp, vì địch chỉ có thể một mặt tấn công ta, thì “Trường xà” là điều bất tiện phải đợi đến lúc hoạt động mà biến thế mới mong dốc toàn lực thủ thắng được đấy ạ!
Người họ Đặng mỉm cười:
- Quả thật Tướng quân là người giỏi chiến trận, thực tế hành động quả là giỏi hơn Mai lão ngày xưa, nhưng...
Chung Tam Sở nghe người họ Đặng so sánh mình với cha mình thì bồi hồi trong dạ, liền hỏi vội:
- Thưa ngài nhưng làm sao?
- Nhưng Mai lão tính nhầm một đường khiến lụy đến bao người. Tướng quân dàn thế “Trường xà” là đã biết lợi dụng cái thế “sóng lớp sau đè lớp trước” dốc lực kể như không hết mà công địch, sao lại bảo là “Trường xà” không có lợi?
Chung Tam Sở bắt đầu ngạc nhiên, quả thật có cái lợi như vậy trong phép chiến trận, nhưng Sở hỏi thêm:
- Thưa, mũi dùi nhọn làm sao đục được lỗ to, thế “Trường xà” tuy biểu lộ được cái thế dai sức nhưng chẳng làm sao phá địch mau lẹ được? Vải chăng, lúc bỏ thế “trợ” đổi thành thế “công” cũng bị vướng, giả sử địch công thì cũng khó thủ!
Người họ Đặng nhìn thật trìu mến:
- Đáng khen! Nhưng, địch không tấn công, ta sẽ tấn công. Tuy thế thân làm tướng biết lo trước vẫn là hơn. Vả chăng thế “Trường xà” mạnh thì có mạnh, nhưng nếu cắn đứt đầu thì hỏng cả. Vậy cần phải làm sao cho thế “Trường xà” ấy tiến lên thì vững vàng chắc thắng, thủ thì nhất định không để sơ hở thiên địch làm hại ta được nhiều.
Chung Tau Sở thấy lạ, liền hỏi thật cung kính:
- Bẩm ngài, đây là chỗ tôi cần được biết xin ngài chỉ bảo!
Người họ Đặng chậm chậm giảng:
- Nếu ta lấy cây cột liên lạc mà thúc, ắt phải mạnh hơn gióng trúc ghép từng đoạn. Giả sử đem cả bè gỗ mà chèn ép, ắt mạnh mẽ hơn từng mảnh gỗ rời rạc. Vậy thì, cái thế Trường xà ấy Tướng quân phải tạo cho nó cái sức mạnh của cột lớn, bè to. Vả chăng, mùa xuân thật đấy nhưng dòng Bạch Hạc ở chỗ Hát môn này uốn quanh, nước chảy chẳng phải là không gấp rút, đạo chiến thuyền của Tướng quân không phải là chẳng bị nhiều vất vả. Vậy thì, cái sức liền lạc thành một khối của quán bộ phải làm sao đạt được trong quân thủy mới là hay!
Chung Tam Sở đứng dậy, chắp tay vái một vái mà rằng:
- Quả thật ngài đã chỉ vẽ cho tôi điều hay! Chắc cha tôi dưới chín suối cũng hài lòng lắm! Vậy thưa ngài, bây giờ ta phải làm thế nào?
Họ Đặng ra chiều suy nghĩ, rồi đáp:
- Thủy quân của Tướng quân đóng ở đây, tất Đan Phượng đã biết cả rồi. Việc binh biến ảo, mình ở thế lợi cũng phải phòng bất ngờ địch thay đổi kế hoạch đánh ta. Vậy mọi chuẩn bị lo đón đỡ trước phải gấp rút ngay từ khi Tướng quân đưa quân đến đây mới phải…
Chung Tam Sở cung kính:
- Dạ đúng thế!
Người họ Đặng tiếp:
- Tiết xuân trong sáng, tất địch khó lòng dám tấn công ta giữa ban ngày được. Như vậy, phải nương vào trời sáng, giữa ban ngày gấp rút chỉnh đốn mọi việc mới xong. Việc bây giờ gấp rút, các sửa soạn lớn lao e rằng chậm chạp mất nhiều ngày giờ, không kịp. Tướng quân hãy cho lệnh chiến thuyền xếp thành hàng năm, ghép sát mạn vào nhau, hàng thuyền phía sau gác mũi lên đuối hàng thuyền phía trước, mái chèo đằng trước cột quai chèo thuyền sau, nhờ đấy tuy không có dây buộc hai thuyền trước sau vẫn liền lạc được. Đến lúc cần dàn ngang phá địch, thủy quân của ta lúc ấy vững như bức thành chắn ngang sông, như vậy mới thật là vẹn toàn mà lại ít tốn công!
Chung Tam Sở nghe họ Đặng hiến kế lập thế Trường xà thành vững mạnh, công thủ gì cũng đều tuyệt vời cả thì mừng lắm. Liền lập tức ra lệnh cho đạo thủy quân dàn xếp lại, thuyền ghép sát vào nhau mỗi hàng năm chiếc. Soái thuyền đậu ở hàng thứ ba, cả một đạo quân thủy của Đỗ Động kết chặt lại thành một khối dài sáu mươi hàng, thuyền sau gối mũi lên cuối thuyền trước, quả nhiên liền lạc như đi trên đất phẳng.
Chung Tam Sở điều động thủy quân dàn lại thế, loay hoay đến lúc chiều trời bảng lảng mới xong. Sở lại truyền mở tiệc để tiếp đãi họ Đặng và người theo hầu. Tiệc đến lúc trời tối hẳn mới tàn. Họ Đặng bảo:
- Thế là tôi đã gặp được Tướng quân, mừng người bạn xưa có con nay nên nghiệp cả! Tôi cũng mừng Tướng quân không làm thẹn vong hồn cha nơi khuất mặt! Việc quân bề bộn, tôi xin cáo từ để Tướng quân khải hoàn tới thăm, lúc ấy ta cùng đi viếng mộ người xưa nhé!
Chung Tam Sở nước mắt rưng rưng, hai ba lần tạ ơn họ Đặng đến chỉ bảo cho biết mọi việc, lại khẩn khoản cung kính hẹn là xong việc thế nào cũng tìm đến Tản Viên để nhờ tiên sinh họ Đặng đưa tìm thăm mộ cha.
Họ Đặng cùng người hầu chia tay Chung Tam Sở, đáp thuyền nhẹ vào bờ Bắc sông Bạch Hạc. Họ Đặng lên bờ, thuyền nhẹ trở ra giữa sông. Họ Đặng cùng người hầu đi chưa được bao xa, thì trong lùm cây bên đường bỗng đâu có người xông ra, người lạ túm chặt lấy áo họ Đặng la lên:
- Quân ta phục ở đây đã lâu rồi! Giỏi thật! Bay lớn gan to mật dám đến hại thủy quân Đỗ Động thế này thì quá đáng rồi!
Người họ Đặng cùng với người hầu cận kinh hãi rụng rời. Người hầu cận lập tức chuyển bộ, tay quyền tận lực vung ra, xử một thế “Lạc Long gặp Âu Cơ” cực kì dũng mãnh bổ vào ngực người lạ.
Người lạ lại la lên:
- Bay hại người xong, lại còn muốn hại cả ta để mong thoát thân hả? Người Hoa Lư bay ghê gớm thật!
Họ Đặng cũng chuyển bộ, chực ra đòn, hai thầy trò thầm nghĩ phải bắt giết cho kì được người lạ mặt.
Chưa biết ai đón đường thầy trò họ Đặng, việc ra sao xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—