Hồi Thứ Bảy Mươi Lăm Tiểu thần tiên xem lá đoán việc
Kim Ân Phú chém tướng trả thù
Bè xuôi dòng thêm hồi lâu. Lữ Bối Diệp mới nhận ra đoàn thuyền ấy chính là chiến thuyền Đỗ Động đại bại chạy về được đến đây. Diệp mừng quá!
Đến tinh mơ hôm ấy, Lữ Bối Diệp đưa được xác Chung Tam Sở lên thuyền chiến, cùng với hai tướng Nhan Mục Thản và Hoàng Đình Cường xúm lại khóc Sở. Lại than trách việc bị trúng mưu “trói thuyền chịu chết”. Khóc chán, ba tướng mới tính đến việc đem tàn quân trở về. Lúc ra đi đoàn thuyền chiến của Đỗ Động đồng ba trăm chiếc, lúc về chỉ còn được gần bảy chục chiếc!
Tướng Hoàng Đình Cường bảo:
- Bây giờ về biết phục mệnh Sứ quân ra sao đây? Thủy quân ta chưa giao chiến dã tan nát, đây là một tội! Lại thêm việc bộ binh của ông Kim Ân Phú khi hãm thành Đan Phượng, thì lấy đâu ra sức trợ chiến để phân sức địch đây, thế là hai tội.
Nhan Mục Thản bàn:
- Hay là ta chỉnh đốn lại thủy quân, lại thận trọng ngược dòng tới Hát Môn. Đợi khi ông Phú hãm thành ta tiếp chiến cũng có lợi, còn hơn là đề hỏng cả thế ra quân của Sứ quân như thế này!
Lữ Bối Diệp nói:
- Sức ta bây giờ là “con dế bị gãy càng”, có làm liều chăng nữa thì cũng lại làm cho địch có cơ hội phá nốt mấy chiếc thuyền còn lại này mà thôi! Chi bằng, ta cứ về phục mệnh, chịu tội sơ suất, nhưng thật ra bọn chúng ta đã cố can mà ông Sở không nghe nên mới ra nông nỗi. Vậy trước Sứ quân bọn ta cứ hết lời biện bạch ắt cũng không đến nỗi nào đâu!
Rồi ba tướng cho quân lẳng lặng kéo về, bỏ mặc Kim Ân Phú ở mặt bộ.
Thế là, Chung Tam Sở đưa thủy quân của Đỗ Động lên Hát Môn chưa xuất chiến lần nào đã tan quân, Sở lại thiệt mạng oan uổng!
Tại thành Đan Phượng, tướng Mộc Đường băn khoăn mãi vẫn chưa hiểu tại sao lại phá được thủy quân của Đỗ Động dễ dàng như vậy, dành tạm gác chiến thắng sang một bên để đợi tin mặt bộ.
Kể lại việc Đại tướng Kim Ân Phú đem quân mã bộ cùng với sáu tướng tài ba lĩnh ba nghìn quân đi đánh thành Đan Phượng. Binh của lão tướng lên đường chậm hơn thủy quân của Chung Tam Sở nửa ngày.
Dọc đường đi, lão tướng cho mời sáu tướng đến bàn việc. Lão tướng cùng các tướng ngồi trên lưng ngựa mà bàn bạc, lão tướng bảo:
- Nay tôi lĩnh trọnh trách mang quân đánh Đường Lâm, có các ông giúp sức thì chẳng còn phải sợ gì nữa. Mặt thủy lại có ông Sở trợ chiến, thế của ta là mạnh đấy nhưng thành Đan Phượng chẳng phải là dễ nuốt được đâu. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa cứ ông nào lĩnh cờ tiên phong, ấy cũng là vì một tướng không thể đủ sức công thành được. Phá Đan Phượng mà cứ theo những chiến pháp bình thường ắt không xong, các ông có biết tại sao không?
Sáu tướng lắc đầu, không ai biết cái khó trong việc đánh thành Đan Phượng chỗ nào. Nhìn ra, quân bộ mã từ từ tiến bước, bụi vẩn, nắng chiếu mùa xuân, lão tướng Kim Ân Phú râu tóc bạc phơ cưỡi con chiến mã sắc đỏ, thanh đại đao gác ngang đầu ngựa trông đẹp như thiên thần. Lão tướng cùng sáu tướng trụ ngựa ở bên đường, đứng trông cho quân trẩy đi. Lão tướng trầm ngâm giây lát rồi bảo:
- Thành Đan Phượng có danh tướng Mộc Đường trấn thủ. Mộc Đường không biết những kì phép huyền bí như Mạc Cương Hồng trấn giữ Đồng Lư. Nhưng Mộc Đường là tay tướng tính việc giỏi như thần, thao lược của ông ta từ lúc Sứ quân Ngô Nhật Khánh xưng hùng đến nay chưa có đạo quân ngoài nào xâm phạm Đan Phượng mà thắng được ông ta. Ông Mộc Đường trấn thành quân không nhiều, nhưng mưu lược lại rất dồi dào, so với sức của ta thì có thể nói ta vượt hơn. Nhưng quân nhiều tướng mạnh, chưa chắc đã hơn được trí lược đấy.
Tướng Lâm Bạch Tường nói:
- Đành rằng Mộc Đường là tay giỏi, nhưng chẳng lẽ dưới gầm trời này lại chẳng có người hơn được ông ta hay sao? Vả lại, lão huynh dè dặt là phải lắm, nhưng tôi nghĩ cũng chẳng nên quá hạ mình làm tăng thêm uy thế cho địch như vậy!
Tướng Phùng Ngoại Địch cũng tiếp lời:
- Thành nào cũng đều phải có hào ở ngoài, vách cao ở trong, trên thành có quân đi tuần. Đánh thành phải vượt hào leo tường, hạ quân chém tướng địch. Vậy đánh Đan Phượng cũng đúng như vậy. Sức đủ mạnh thì ta ào ạt công thành, địch có mẹo thì ta cũng có mẹo “vờ đánh bên Đông để phá bên Tây”, chọn chỗ trọng yếu của dịch mà công kích. Mưu mẹo cũng cần phải có thực lực mới xong, quân ta mạnh, lão huynh đừng lo ngại gì nhiều quá như vậy!
Kim Ân Phú nghe hai tướng nói, vẻ mặt nghiêm trang suy nghĩ, rồi bảo:
- Ta không khinh địch, nhưng cần biết rõ địch. Ta không hạ giá của ta, nhưng phải biết sức mình. Rõ được lợi hại của đôi bên thế nào, thì ta vào trận mới nắm chắc phần thắng. Cái thắng của ta, không thể chỉ nhờ một đạo quân này mà cho là có được…
Nghe đến đây, tướng Phụng Trì Cung hỏi ngay:
- Lão huynh cho là ta nhờ vào đâu mới mong thủ thắng?
- Tiểu Thần tiên, ông chưa sử dụng đến tài xem lá cây biết việc cát hung của ông, tài ấy ắt có lúc tôi phải nhờ vả đấy! Còn bây giờ, ta có thủy quân của ông Chung Tam Sở trợ chiến. Ta phải nhờ vào sức mạnh cùng một lúc đánh bộ cũng được, đánh thủy cũng được của đạo quân ấy mà lúc thì mở trận bộ chiến hãm thành Đan Phượng, lúc lại lui hẳn về cái thế “Giao long đợi mây, kình ngạc đón sóng” mà giúp ta chia sẻ sức mạnh của Đan Phượng. Đem mưu trí của danh tướng Mộc Đường biến thành “loạn trí” mới xong!
Tới lúc ấy, tướng Lương Quế Hồ lại hỏi:
- Sứ quân sai ông Chung Tam Sở mang thủy quân đi yểm trợ cho ta, nay lão huynh làm thế nào để nhờ vả ông ấy giúp phân lực của địch được?
Kim Ân Phú đáp:
- Ông Sở là người nóng nảy, tính thẳng thắn, lại rất hào hiệp, trên trung với chủ, dưới khoan thứ cho thuộc hạ. Con người ấy không phải là hạng vênh vang, nếu ta nhờ ông ấy tiến quân thế này hay thế khác, tôi chắc là ông ấy vui lòng giúp ta ngay. Duy có điều, cái tính nóng nảy của ông ấy thì phải cẩn thận, nóng nảy ắt để sơ hốt, việc binh sai một li có khi mang họa ghê gớm.
Còn hai tướng Dịch Tụy Đồng và Võ Phương Đạc cũng mỗi người góp ít lời bàn bạc. Cuối cùng Đại tướng Kim Ân Phú bảo:
- Thôi được, ta dè dặt là để mưu tìm cái thắng lợi chứ không phải là để khinh địch mà sinh lỗi lầm. Đợi đến lúc sang sông, bắt đầu vào đất địch, ta bắt liên lạc với ông Chung Tam Sở mà lập thế lớn. Bây giờ thì ông Phùng Ngoại Địch lĩnh cờ tiên phong trông nom cho cả đạo quân nhé!
Binh của Kim Ân Phú cứ thế mà tiến, vượt sông Bạch Hạc vào đất của Đường Lâm, chậm chậm, thận trọng mà tiến đến bờ Hát Giang thì dừng lại.
Kim Ân Phú hội sáu tướng lại mà rằng:
- Quân ta tiến, một phần trên đất nhà thì yên tĩnh đã đành, đến đây là đã vào đất địch tại sao không thấy có rục rịch gì là thế nào? Dù rằng rừng hoang vu đến thế nào chăng nữa, có bao giờ biên cương lại bỏ ngỏ thế này? Đường Lâm ở chỗ này chẳng phải là chỉ toàn rừng cao núi cả, tại sao lại im lặng? Ta tiến quân như vậy là nhanh lắm đấy, đến trưa hôm nay là được hai ngày mà quân vượt được khoảng đường như vậy là quá đấy. Bây giờ, ông Lê Bạch Tường lĩnh mệnh, gấp rút băng rừng mà đi, đem theo mười tên quân, liệu chia khoảng cách cho đều đặt trạm ở dọc đường từ đây cho đến Hát Môn. Ông liên lạc với ông Chung Tam Sở rồi cho tin gửi về đây qua các trạm liên lạc cho được nhanh chóng, để xem tình hình thế nào rồi ta định liệu sau nhé!
Tướng Lâm Bạch Tường lĩnh mệnh, xốc giáo sắt lên ngựa đi ngay. Kim Ân Phú đóng quân đợi tin.
Bắt đầu xế trưa, tin lần lượt gửi qua các trạm liên lạc về đều đặn. Kim Ân Phú nghe tin đều đều, liền sai quân kín đáo vượt Hát Giang vào sâu đất địch để dò xét tình hình. Hai mặt tin về cho biết sự thể, ở bên kia Hát Giang tế tác trình về: “địch vẫn im lìm không có dấu hiệu gì chứng tỏ là Đường Lâm đã sẵn sàng để đối phó với mặt bộ này”! Kim Ân Phú nhận tin suy nghĩ nhiều lắm. Đến sẩm tối, tin từ Hát Môn gửi về báo: “Thủy quân Đỗ Động dàn dọc dài đã ghép mái vào mạn thuyền sau, lập thành thế “trường thành” trên sông Bạch Hạc...”
Kim Ân Phú nghe trình, suy nghĩ rồi giật mình, vội hội các tướng lại mà rằng:
- Tại sao ông Sở lại ghép thuyền vào với nhau như vậy? Thủy chiến thì cái lợi nhẹ nhàng mau lẹ là cần, nay ghép lại với nhau như vậy thì làm sao xoay trở. Thảng hoặc địch dùng mưu công phá thì làm sao trở được? Đến lúc tiếp chiến cho mặt bộ của ta, thì cái dọc dài cứng nhắc ấy làm được trò trống gì?
Rồi Kim Ân Phủ ra lệnh cho tướng Lương Quế Hồ lập tức đi ngay đến gặp Chung Tam Sở bảo phải mau mau gỡ thuyền ra, lập thành thế “tam sơn trấn địa” (ba núi trấn một vùng đất) giằng co yểm trợ cho nhau mới được, rồi lại bảo tướng Sở tạm lui thủy quân xuống phía Nam vài dặm, nương vào bờ bên này Bạch Hạc ẩn quân phòng bị địch lợi dụng dòng nước đánh lén, rồi sẽ có kế xin được tiếp trợ.
Tướng Lương Quế Hồ nhận lệnh, tức thì rạp mình trên lưng chiến mã cố vượt rừng núi, lau sậy mà đi tới.
Kim Ân Phú sai Lương Quế Hồ đi rồi, trong lòng nóng như có lửa đốt. Nhìn ra bên ngoài, trời tối mịt mù, tiết Xuân ấm áp không có gió mạnh, cả một vùng in lặng bí mật. Kim Ân Phú liền cho mời tướng Phụng Trì Cung đến hổ trướng mà rằng:
- Ông Chung Tam Sở không biết tại sao lại dàn quân sai phép, phạm điều cấm kị như vậy? Ta lo lắng lắm! Một cử động nhỏ nhặt của ta, tôi chắc là đều đã lọt vào mắt tướng Mộc Đường cả rồi, y là người sâu sắc thao lược. Nếu biết ông Sở dàn quân như vậy thì có thể y tấn công ra tay trước, ắt thế nào cũng thành công đấy! Tôi lo lắng lắm! Nay, ông có ngoại hiệu là Tiểu Thần tiên, tôi nhờ ông giúp tôi đoán một quả xem lành dữ thế nào nhé!
Phụng Tì Cung mặt trắng đẹp, có tài xem lá cây mà biết việc hung cát, nay nghe Kim Ân Phú bảo như thế, thì nói rằng:
- Thưa lão huynh, việc bói toán tôi xin tuân lời lão huynh mở một quẻ xem sao. Thật ra, ít khi tôi lạm dụng thuật thần tiên ấy, nay việc quan hệ trọng xin được long trọng cần đến thần thánh. Vậy, xin lão huynh cho mời tất cả các tướng đến để chứng giám luôn thể nhé!
Kim Ân Phú bằng lòng, liền cho mời nốt các tướng để nghe việc huyền bí do Tiểu Thần tiên Phụng Trì Cung sắp nói ra.
Sang đầu giờ Hợi, các tướng tề tựu chỉnh tề, Phụng Trì Cung đứng trước hổ trướng của Kim Ân Phú, hai tay chắp lại ở ngực, mắt nhìn ra ngoài trời tối đen. Tiểu Thần tiên lâm râm khấn vái một hồi, rồi quay lại vừa gặp tướng Võ Phương Đạc đứng ngay sau lưng, liền nghiêm trang nói:
- Tôi nhờ ông ra ngoài, gặp cây nào bứt cho tôi một cái lá. Rồi vào, ông đừng đưa tôi vội, cứ cất kĩ nhé!
Tướng Võ Phượng Đạc bước ra ngoài, Tiểu Thần tiên Phụng Trì Cung ung dung bước lại trước hổ trướng của Kim Ân Phú mà ngồi xuống ghế, Phụng Trì Cung quay lưng ra phía cửa. Kim Ân Phú và các tướng lẳng lặng đến đứng cả trước mặt Phụng Trì Cung mà đợi xem.
Được một lát, tướng Võ Phương Đạc bước vào, hai tay giấu đằng sau lưng. Võ Phương Đạc đứng ở cửa mà nói rằng:
- Tôi lấy được lá rồi đây!
Phụng Trì Cung giơ tay ra hiệu cho Đạc đừng nói nữa rồi nói:
- Lá dày hay mỏng?
- Lá mỏng!
- Lớn hay nhỏ?
- Nhỏ!
- Héo hay tươi?
- Tuơi!
- Tôi nhắm mắt, ông đem lá vào đây để trước mặt tôi nhé, bao giờ xong cho tôi biết!
Nói xong, Phụng Trì Cung hai mắt nhắm lại ngồi ngay ngắn đợi chờ. Võ Phương Đạc bước tới khẽ đặt lên mặt bàn một nắm lá me đất, Kim Ân Phú và các tướng hồi hộp nhìn nắm lá me đất. Võ Phương Đạc nói:
- Xong rồi!
Tiểu Thần tiên Phụng Trì Cung mở mắt, thốt kinh hãi kêu lên:
- Ô hay sao tôi bảo ông ngắt một chiếc lá, ông lại dứt cả nắn thế này? Lá cây chẳng còn thứ nào hay sao, mà ông lại lấy thứ lá “xuất vòng bồi táng” thế này?
Tiểu Thần tiên vừa sửng sốt kêu lên, vừa đứng bật dậy. Kim Ân Phú và các tướng ai nấy cũng kinh hãi, nhưng chẳng hiểu đầu đuôi ra sao cả, Võ Phương Đạc đứng ngẩn người rồi lắp bắp:
- Tôi... tôi ra ngoài trời tối thì chẳng trông thấy gì. Lại thêm... lại thêm lính chặt hết cây, phát hết bờ bụi để lấy chỗ hạ trại, mãi ở xa mới thấy có cây, tôi ngại đi cho nên khi thấy có dám me đất thì dứt một nắm đem về. Tôi có biết gì đâu!
Kim Ân Phú run giọng:
- Cũng không nên trách ông Võ làm gì, việc gì cũng có Trời định trước cả đấy mà! Tiểu Thần tiên, ông thấy điềm lành dữ thế nào?
Tiểu Thần tiên Phụng Trì Cung chậm chậm ngồi xuống ghế, hai mắt đăm đăm nhìn nắm lá me đất, rồi thở dài một tiếng mà rằng:
- Thưa lão huynh, nếu vậy thì tôi xin thưa tất cả: lá me đất về chiều tối là ứng quẻ thứ bốn mươi tư của phép bói “Thần nhân vấn thiên”, quẻ này là quẻ “Xuất vong bồi táng”, đi ra thì thất bại, mạng vong, trở về thì chôn cả sự nghiệp. Đời nhà Chu bên Tàu, Tuyên Vương thấy chinh chiến dẹp tan sáu Rợ thì lấy làm khinh thường các việc huyền bí thánh thần. Cho nên lấy cái thắng để xuất quân chinh phạt rợ Tây Nhung, lại chọn đúng vào ngày “me đất nở rộ”, quẻ “Xuất vong hồi táng” rành rành trước mắt, quần thần khuyên can cũng không nghe, cho nên lần xuất quân ấy tan binh thiệt tướng. Sau phải rời đô sang Lạc Ấp để tránh Rợ Tây Nhung. Bây giờ, ông Võ Phương Đạc lấy lá, trời đất xui khiến cho ông ấy lại dứt nắm lá me đất thế là điềm dữ đã hiện ra rồi!
Các tướng nghe Tiểu Thần tiên Phụng Trì Cung nói ai cũng lo lắng, bồn chồn, chẳng ai dám mở miệng hỏi han điều nào. Phụng Trì Cung hai mắt vẫn chăm chú vào nắm lá me đất, rồi chậm rãi tiếp tục:
- Cứ xem trong nắm lá me đất tám cái này, cuống dài có ba cái bị gãy, là điều dữ hiện ở miền Bắc, ba cọng lá me gãy lập thành chữ “Thủy”, tất đạo thủy quân của ta thế nào cũng khốn đốn vì quẻ “xuất vong hồi táng” chứ chẳng sai!
Kim Ân Phú kinh hãi, hỏi vội:
- Ông xem thật kĩ hộ tôi, xem việc thế nào nhé!
Tiểu Thần tiên Phụng Trì Cung chẳng nói gì, lẳng lặng chiêm nghiệm nắm lá, rồi lại tiếp:
- Tám cái lá, cái lớn nhất không có cuống, ứng vào điểm “Trường xà vô thủ” ở cung “xuất” tôi...
Tiểu Thần tiên đứng bật dậy, các tướng lo lắng, Phụng Trì Cung nhìn đăm đăm Kim Ân Phú rồi giọng quả quyết:
- Tôi quả quyết là thủy quân của ta nguy mất, cái điềm “rắn dài không dầu” thì không khéo Soái tướng đạo thủy quân của ta mất mạng chứ chẳng sai! Hôm nay Đinh Mùi, sao Tỉnh đi vào hành Thủy, tức là vào đúng quẻ Trực Phá, lại gặp điềm “Xuất vong hồi táng” thì việc dự ắt xảy trên sông nước! Phép “Diệp Phệ” của tôi linh nghiệm vô cùng, trăm lần chẳng sai trệch một! Ta hãy chờ xem!
Tiểu Thần tiên nói xong lẳng lặng ngồi xuống. Kim Ân Phú vẻ mặt buồn bã lẫn lo lắng, các tướng tần ngần. Hồi lâu, Tiểu Thần tiên mới ngẩng đầu nói tiếp:
- Vạn việc đều do trời định trước cả, may nhờ có ông Võ không đâu dứt nắm lá này ta mới được biết điềm dữ mà đề phòng, cũng là cái hay!
Kim Ân Phú thở dài, lát sau thẫn thờ nói:
- Phép “Diệp Phệ” của ông tôi không dám chỉ trích, chỉ lo một điều là nếu đúng như vậy thì không biết phải tính toán dàn xếp thế nào bây giờ đây? Việc Sứ quân trao phó cho quan trọng thế này, có khi đành phải chịu tội mất!
Kim Ân Phú nói xong, các tướng không ai dám cất tiếng bàn luận gì. Cả bọn lặng lẽ cúi đầu suy nghĩ. Kim Ân Phú buồn bã tiếp:
- Tôi vẫn lo cho ông Chung Tam Sở nóng nảy, sợ lỡ việc lớn...
Kim Ân Phú còn đang chậm rãi nói, đã nghe có tiếng vó ngựa khua dồn dập. Các tướng ngừng nói lắng nghe, Kim Ân Phú hơi nhíu cặp mày trắng phau, vẻ mặt gay cấn. Tiếng vó ngựa khua nhanh vụt lại gần, rồi ngừng bặt. Tiếp theo lại có tiếng quân hô lớn:
- Cấp báo! Cấp báo!
Kim Ân Phú đứng bật dậy, các tướng cũng lẳng lặng đứng lên theo. Từ bên ngoài, kị sĩ tế tác chạy vội vào lật đật bỏ nón vòng tay mà rằng:
- Bẩm Soái tướng, tin gấp về báo rằng: Thủy quân của ông Chung Tam Sở đã bị Đường Lâm dùng bè gỗ lớn phá tan nát: Hiện giờ trận chiến còn đang hỗn loạn, ông Lâm Bạch Tường một mình không tài nào giúp được gì cho ông Sở, đành phải ở lại xem tin rồi sẽ cấp trình về sau!
Kim Ân Phú nghe báo ngẩn người, hai bàn tay nhăn nheo của vị lão tướng tì trên mặt bàn, tướng Phụng Trì Cung thấy rõ mặt bàn rung rung vì hai bàn tay lão tướng run rẩy bíu trên mặt bàn.
Tế tác lui ra, Kim Ân Phú ngồi thừ người suy nghĩ, các tướng vẫn nghiêm chỉnh đứng đợi lệnh. Lát sau, Kim Ân Phú ngẩng đầu lên giọng sang sảng truyền lệnh:
- Thế là ông Chung Tam Sở quả nhiên sơ hốt để bị địch công phá, việc kết cục ra sao ta chưa biết, nhưng quẻ bói lá của ông Phụng Trì Cung tất không sai lạc chút nào rồi! Bây giờ...
Tướng Phú ngừng lại, cặp mắt long lanh của viên lão tướng như bốc tinh quang, lão tướng nói:
- Một là ta gấp tiến quân đánh Đan Phượng để cứu nguy cho ông Sở, hai là ta đành phạm lệnh Sứ quân mà triệt binh. Các ông có ý thế nào?
Bốn tướng lẳng lặng đưa mắt nhìn nhau, không ai có ý kiến ra sao cả. Thêm một lát nữa, tướng Dịch Tụy Đồng nói:
- Lão huynh là người trải trăm trận, già dặn việc đời bây giờ lĩnh mệnh của Sứ quân sai khiến bọn chúng tôi nơi mặt trận, chúng tôi xin hết lòng đợi lệnh của lão huynh.
Kim Ân Phú lặng lẽ suy nghĩ, rồi bảo:
- Tế tác của ta không thấy thành Đan Phượng có động tĩnh gì ở mặt bộ để đương cự với ta, như thế một là địch không hay biết là ta tới đây, hai là diệu màu đã được dàn xếp, ta tiến ắt mạng vong! Giả sử địch không hay biết gì, nay ta gấp tiến binh đánh Đan Phượng, đường đi cho rằng gấp rút thúc ngựa mà chạy cũng phải hơn ngày trời mới tới nơi được, làm sao kịp cứu cho ông Sở đang nguy ngập ngay lúc này? Như vậy, việc ta tiến quân gặp nhiều khó khăn, lành ít dữ nhiều! Có đạo thủy quân để lập thế “vòng xích liên lạc”, chống đỡ cho nhau thì thủy quân đang bị địch phá…
Kim Ân Phú vừa nói tới đây, đã lại nghe vó ngựa tế tác khua vang. Tế tác vào báo: “Đạo chiến thuyền của Chung Tam Sở bị phá tan, đầu đuôi không cứu ứng được nhau đành lần lượt chịu chết! Tướng Sở cùng với một tướng nữa lạc trong quân của địch, cuộc chiến đấu xem ra không còn hi vọng!”
Kim Ân Phú nghe báo lại thở dài một tiếng, phất tay cho tế tác lui ra, rồi nói tiếp:
- Nếu thế thì chỉ trong đêm nay thôi ắt ta biết đủ tin về việc ông Sở bại binh! Đánh thành Đan Phượng bây giờ thì cũng lại theo ông Sở mà chọn cái quẻ “Xuất táng bồi vong” mất thôi!
Rồi lão tướng Kim Ân Phú lệnh cho bốn tướng chia quân trấn giữ các mặt, một nửa nhìn sang bên kia Hát Giang phòng địch vượt sông đánh lén, một nửa áp lưng vào đạo ứng chiến để làm thế yểm trợ sau lưng.
Quân vừa dàn xếp xong xuôi, đã lại có tế tác trình về “Tướng Lương Quế Hồ đã liên lạc được với tướng Lâm Bạch Tường, cả hai tướng trình về: Thủy quân của Chung Tam Sở đã tan nát, chỉ còn một số nhỏ thoát chạy được về hướng Đông để về căn cứ cũ. Hai tướng còn đợi xem tình hình thêm chút nữa rồi sẽ về sau”.
Kim Ân Phú truyền quân đốt đèn nhựa thông, một mình ngồi ở Soái trướng đăm đăm suy nghĩ, lão tướng tính toán xem nên tiếp tục tiến quân hay là trái lệnh Sứ quân mà rút quân về. Lão tướng băn khoăn mãi về chỗ: tại sao thành Đan Phượng biết lẽ ra quân gấp rút, tấn công thủy quân dữ dội đến như vậy được, mà lại có lý nào không biết ta đem quân đến đây?
Lão tướng ngồi một mình suy nghĩ đến gần nửa đêm, thì nghe tiếng vó ngựa dồn dập, thoáng lát hai tướng Lâm Bạch Tường và Lương Quế Hồ bước vào, hai người vẻ mặt buồn bã xen lẫn gay cấn trình rằng: “Thủy quân của Chung Tam Sở đã tan hẳn, chiến trận đã hết, binh Đường Lâm đã về rồi”. Hai tướng thuật đầy đủ những việc mắt thấy cho lão tướng Kim Ân Phú nghe, tướng Lương Quế Hồ nói:
- Tôi vâng lệnh Soái tướng gấp rút ra đi, cũng chỉ kịp cùng với ông Lâm Bạch Tường thấy thủy quân của ta tan vỡ. Tôi không hiểu tại sao ông Sở lại dàn trận như vậy trong lúc địch tiến đánh, tôi không thấy các chiến thuyền của ta cử động được gì cả cứ im lìm đợi chết. Mãi về sau mới có được vài chục cái thoát chạy được!
Ngay trong đêm hôm ấy, Kim Ân Phú truyền quân hết sức canh phòng các nơi, phải luôn luôn do thám bên kia sông Hát xem địch động tĩnh thế nào.
Đến tinh mơ hôm sau, Kim Ân Phú hội các tướng lại. Vừa gặp lão tướng, sáu thuộc tướng đã thốt kêu lên kinh hãi! Thì ra, suốt đêm qua lão tướng Kim Ân Phú không ngủ, một mình ngồi tại hổ trướng suy tính công việc, lòng lo lắng chen lẫn những uất hận, làm cho lão tướng suốt một đêm dài vận dụng cả tinh thần vào tính toán, khiến cho sắc diện vốn tráng kiện hồng hào đẹp như thiên thần chỉ qua một đêm mà già nua hốc hác ghê gớm. Hai mắt lão tướng thường nhật tinh quang lấp lánh, nước da hồng hào, những đường răn đẹp như trong tranh vẽ. Bây giờ, hai mắt lão tướng hõm sâu mờ đục, nước da tái nhợt như già nua kiệt sức đang trong cơn hấp hối, trên mặt lão tướng hằn sâu những nét răn thảm hại!
Sáu tướng còn đang sững sờ, lão tướng đã cất giọng, giọng lão tướng khàn khàn như không còn khí lực, cái giọng sang sảng chuông đồng mới hôm qua nay đã biến đâu mất, lão tướng buồn bã bảo:
- Suốt đêm hôm qua tôi đã suy tính cả rồi. Ông Sở bại quân, Mộc Đường không phải là kẻ tầm thường chịu sung sướng với cái thắng một lần, mà bỏ lỡ cơ hội để thắng lớn lần thứ hai. Vậy thì tôi tin chắc rằng Mộc Đường trước đây đã dàn xếp, cứ xem việc ông ta ra tay như gió cuốn phá thủy quân của ông Sở đủ biết là tay đáo để đến thế nào, quân ta không dò xét thấy vết tích địch ở bên kia sông là một điều đáng nghi ngờ lắm!
Sáu tướng lặng lẽ ngồi nghe, ai cũng cúi đầu buồn bã không dám ngẩng lên nhìn thẳng vào mặt lão tướng Kim Ân Phú, chỉ lâu lâu liếc nhanh một cái mà thôi. Kim Ân Phú ngừng một chút, rồi tiếp:
- Tôi chắc là Mộc Đường có dàn xếp ở mặt bộ để đón đánh ta, bây giờ ta mất thủy quân chính là lúc để Mộc Đường dựng cái thế “góp cả gió lại mà quét đám lá rụng lạc lõng”. Mộc Đường xuất quân ta không tài nào dò thấy, đủ hiểu y là người lợi hại đến thế nào? Mộc Đường đánh ta có hai cách, một là đợi ta vượt sông Hát, hai là bất thần đánh ta ngay tại vị trí này...
Lão tướng ngừng nói, vẻ mệt mỏi, một lát ông tiếp:
- Nếu ta vượt sông, tôi cho là ta không còn đường về nữa! Hát Giang sẽ là bức thành lớn chắn sau lưng ta, trước mặt ta là nghĩa địa chôn hết thảy chúng ta. Nếu Mộc Đường đánh ta bên này sông, tôi dám chắc là Mộc Đường sẽ dụng cái kế “Đuổi con chó đói đến tận nhà mà mắng chủ” tức là xua quân chặn đường về của ta, để cho mặt sông Hát công phá quân ta, khiến cho ta hai mặt chịu trận mà tan nát. Tới lúc ấy cả Đỗ Động ta rung rinh, chung quanh nhòm ngó vào, liệu quân ta còn đủ tinh thần để vững chân cự địch được không?
Sáu tướng ngồi nghe thấy chán nản lạ lùng, không ai nói một lời. Rồi Kim Ân Phú hỏi:
- Này các ông, giả sử tôi quyết bỏ mạng già này để gỡ cái vốn bị mất ở mặt thủy quân, liệu các ông có dám cùng chết với tôi không?
Lão tướng hỏi thật bất ngờ! Tướng ra trận không ai sợ chết, nhưng trước tình cảnh như thế này thì không ai lại mong được chết oan uổng! Sáu tướng nhúc nhích nhìn nhau, chẳng biết đối đáp ra sao. Kim Ân Phú giơ bàn tay nhăn nheo vuốt chòm râu bạc phơ không còn óng ả nữa, rồi cất tiếng cười thê lương mà rằng:
- Các ông ngại là phải lắm! Không ai lại chọn cái dại dột không đâu với một việc đã thấy rành rành như vậy cả! Các ông có thể đưa quân về một mình cũng không sao. Sứ quân không trách cứ các ông vào đâu được...
Tướng Phụng Trì Cung rơm rớm nước mắt mà rằng:
- Lão huynh định ở lại một mình cự địch, để chúng tôi được yên ổn chạy về ư?
Kim Ân Phú nhếch mép cười ảm đạm:
- Giả sử một mình tôi đủ cản địch, đánh lui được Mộc Đường, thì tôi nhất quyết ra lệnh cho các ông cứ về! Nhưng sức nào lại có thể nhấc được Tản Viên, chuyển được hướng dòng Bạch Hạc mà mong mơ tưởng. Các ông nếu về một mình, thì tuy rằng Sứ quân không có chỗ nào trách cứ được, nhưng cái trách nhiệm của tôi cũng chưa xong! Tôi mang lệnh cầm quân, tôi có trách nhiệm phải đưa quân về yên ổn! Có thế thì uy thế của Đỗ Động ta mới không bị sứt mẻ. Sứ quân thiệt một đạo thủy quân nhưng không tan mất cái thế cùng thiên hạ tranh hùng, trong vẫn yên mà ngoài vẫn vững. Việc đánh tan thành Đan Phượng để lấy Đường Lâm coi như là chưa đến lúc thuận tiện mà thôi!
Nói xong, Kim Ân Phú đứng dậy, giọng cố rắn rồi truyền lệnh:
- Ông Lâm Bạch Tường lĩnh mệnh đổi hậu quân thành tiền quân, mở đường thận trọng đưa quân về. Ông Phùng Ngoại Địch với ông Phụng Trì Cung trông nom tả dực, hai ông Lương Quế Hồ, Dịch Tụy Đồng trông nom hữu dục. Còn ông Võ Phương Đạc thì cùng với tôi đi ở đoạn chót. Như vậy là bọn ta chia nhau ra trấn giữ các mặt, cố đưa quân về cho dược vẹn toàn. Các ông cho lệnh quân nhổ trại ngay, đúng giữa Thìn thì ta bắt đầu rời quân!
Rồi lão tướng sai tế tác thêm người đi dò la địch tình, hết sức cẩn thận đề phòng địch đánh lén.
Đến giữa Thìn hôm ấy, quân của lão tướng Kim Ân Phú lặng lẽ lên đường trở về Đỗ Động.
Kể lại việc ở thành Đan Phượng. Lão tướng Mộc Đường sau khi thắc mắc mãi về chỗ thắng địch, không tài nào hiểu nổi, liền bảo:
- Thôi ta tạm dẹp việc ấy sang một bên, lo đối phó với mặt bộ. Tế tác của ta báo là địch vẫn đóng yên bên kia sông Hát. Ta cho rằng lúc này tất chúng đã được biết thủy quân bị phá, thế nào cũng phải rút về. Ta muốn nhân cơ hội này phá nốt quân bộ mã của địch, các ông tính thế nào?
Các tướng đều hân hoan mà rằng: “Ta vừa thắng một trận thủy chiến, bây giờ thừa thắng phá quân bộ của địch là một điều hứng khởi lắm! Xin đợi lệnh Soái tướng!”.
Mộc Đường bảo:
- Thủy quân của địch bị phá, thế là địch coi như mất một nửa sức mạnh. Tôi dám chắc địch không dám vượt sông Hát vào sâu lãnh thổ của ta. Vậy bây giờ ta lại tiến đánh địch chứ không phải là đợi cự địch trên đất nhà mình nữa. Nếu phá được quân mã bộ của Đỗ Động nữa, thì mặt phía Đông ta yên ổn ít ra cũng được mười năm, phía Bắc cũng không dám dòm ngó ta, phía Tây Kiều Thuận đành ngậm miệng chẳng dám động đậy gì. Vậy, ông nào có ý kiến gì về quân bộ của Đỗ Động nào?
Tướng Vi Hiển Đức hỏi:
- Thưa Soái tướng, không biết tướng nào của Đỗ Động cầm đạo quân mã bộ này?
Lão tướng Mộc Đường đáp:
- Hai ông Lâm Hồng Mỹ, Quan Đại Thắng đem một nghìn quân giữ bên này sông Hát, vẫn âm thầm theo dõi địch tình, hai ông ấy có báo về là quân mã bộ của Đỗ Động do lão tướng Kim Ân Phú thống lĩnh.
Đến lượt tướng Khúc Bắc Hải hỏi:
- Thưa, tướng Kim Ân Phú là người thế nào?
- Kim Ân Phú là tay cự phách, rất khó đối địch, làm việc thận trọng biết lúc nào thì tiến, lúc nào thì gấp bước lui về. Không hiểu tại sao ông ta lại đi chậm hơn thủy quân nhiều đến thế, để đến nỗi chưa vào được đất ta thì thủy quân đã tan mất cả rồi!
Tướng Đỗ Trường Tồn nói:
- Ông Vi Hiển Đức vừa xong công lớn phá thủy quân địch, tôi xin được đi lấy công to phá quân mã bộ của tướng Kim Ân Phú!
Lão tướng Mộc Đường mỉm cười mà rằng:
- Thật ra, đánh kẻ bại là một điều chẳng đẹp, nhưng chưa chắc ta đã thắng được Kim Ân Phú trong lúc ông ta bại đâu. Vả lại, bây giờ vì tình thế bất lợi cho nên Kim Ân Phú có rút quân về, cũng là một cách cầm quân giỏi của vị làm tướng, chứ Kim Ân Phú đã đối địch với ta trận nào đâu mà bảo ông ta bại quân?
Các tướng im lặng, Đỗ Trường Tồn có phần ngượng chẳng cãi lại, Mộc Đường tiếp:
- Ông muốn đi lấy công, tôi cũng để ông đi. Nhưng phải dàn xếp cho thật cẩn thận mới được. Bây giờ ông cầm một nghìn quân gấp rút vượt đường, cứ thẳng hướng Đông mà tiến, rồi men theo dòng Bạch Hạc đợi ở tiền quân của địch. Ông đợi khi nào ở hậu quân địch hai ông Lâm Hồng Mỹ, Quan Đại Thắng xua quân đánh tập hậu, lúc ấy ông hãy xuất hiện mà phá binh Đỗ Động. Ông phải nhớ một điều là: ông đối địch với Kim Ân Phú Ông cũng lại đừng quên là chỉ thêm sức phá địch, chứ không phải là mong tiêu diệt hẳn địch. Vậy thắng rồi thì lại phải đưa quân ngược lên phía Bắc, lại theo đường cũ mà về, thì vừa vững quân mình lại vừa được đạo quân của hai ông Mỹ, ông Thắng yểm trợ giằng co cho nhau, không lo bị địch gây khó dễ nữa.
Tướng Đỗ Trường Tồn lĩnh mệnh còn đang điểm quân đã có tin từ mặt trận gửi về cho hay: “Quân mã bộ của Đỗ Động rục rịch muốn triệt hồi”.
Mộc Đường nhận tin mỉm cười mà rằng:
- Quả nhiên Kim Ân Phú thận trọng, đáng sợ!
Rồi sai thêm tướng Đinh Phục Thường cùng đi với tướng Đỗ Trường Tồn gấp rút đi phá địch. Quân vừa xuất thành, Mộc Đường lại cho quân gấp mang lệnh đến cho hai tướng Lâm Hồng Mỹ, Quan Đại Thắng đang phục ở bên này sông Hát, rằng: “Phải kín đáo mang quân vượt sông, lẳng lặng theo sau lưng địch, đến chiều tối hôm sau khi nào thấy tiền quân của địch bị tiến đánh, thì phải lập tức xua quân đánh tập hậu địch. Khi nào địch tan nát, không được đuổi theo, phải chỉnh đốn hàng ngũ rút về. Lúc lui về phải đi quá lên phía Bắc, yểm trợ cho đạo quân nhà do hai tướng Đỗ Trường Tồn và Đinh Phục Thường ở tiền quân địch rút về”.
Lệnh truyền đi rồi, Mộc Đường ung dung đợi tin từ mặt trận.
Quân mã bộ của tướng Kim Ân Phú chậm chậm triệt hồi, binh đi thật thận trọng, lúc nào tế tác cũng đi trước để dò đường, xét tình hình địch. Các tướng theo lệnh Kim Ân Phú triệt binh, tuy buồn vì không vào được đất địch, nhưng lại cảm thấy vững lòng vô cùng.
Quân đi như vậy về gần đến Bạch Hạc thì đã được hai ngày một đêm. Chiều hôm ấy binh Đỗ Động vẫn từ từ mà đi, trời chiều êm ả, lão tướng Kim Ân Phú ngồi trên lưng ngựa ngẫm nghĩ, đầu hơi cúi xuống thật buồn bã. Nơi này phía trước bờ bụi lau sậy mịt mù, đằng sau lưng là cả cánh rừng, đạo quân vừa cố ra khỏi để phòng khi trời tối thì tạm dừng quân hạ trại được.
Binh Đỗ Động vừa dừng chân, ngựa chưa kịp dặm vó nghỉ ngơi, quân chưa kịp cởi khí giới, đã nghe thấy ở tiền quân có tiếng quân reo ngựa hí. Lập tức tin về hậu quân cho lão tướng biết là: “có địch chặn ở phía trước!”.
Lão tướng nhận tin chẳng bấn loạn, liền truyền cho tướng Lâm Bạch Tường dạt đạo quân sang hẳn phía bên trái mà cự địch. Lão tướng lại sai hai tướng Phùng Ngoại Địch và Phụng Trì Cung đem trung quân quặt về mé trái, nhưng lùi lại đằng sau để làm thế yểm trợ cho đạo tiền quân cự địch. Còn hậu quân, lão tướng sai Lương Quế Hồ và Dịch Tụy Đồng gấp rút rẽ sang bên phải mà dàn ngang, ẩn nấp cho kín đợi lệnh sau.
Lão tướng truyền lệnh xong, ba cánh quân chuyển động cực nhanh, y như đàn diều hâu rẽ cánh dạt sang hai bên mà đợi địch. Binh Đỗ Động vừa vào thế trận xong, đã thấy mé sông Bạch Hạc tiếng vó ngựa rầm rập, thoáng lát một tướng giục ngựa chạy tới chưa kịp nói năng gì, đã lại thấy ở mé sau quân Đỗ Động có tiếng ngựa hí quân reo. Thì ra đây là đạo quân của Lâm Hồng Mỹ và Quan Đại Thắng đuổi theo quân Đỗ Động, nay thấy tiền quân của Đỗ Động náo loạn thì biết là phục binh của Mộc Đường đã ra mặt chặn đánh, liền cũng giục quân tiến lên.
Lão tướng Kim Ân Phú quan sát tình hình, chỉ mỉm cười chẳng nói. Đi bên cạnh lão tướng là tướng Võ Phượng Đạc trong lòng bồn chồn nóng vảy, chỉ muốn nhập trận cự địch. Lão tướng Kim Ân Phú vẫn bình thản, trụ ngựa trong bụi kín đáo mà quan sát.
Binh Đường Lâm hai mặt ập tới, đuốc thông nổi lên sáng rực một vùng, nhìn ra chỉ thấy thấp thoáng binh Đỗ Động rẽ cả sang một phía như thể né tránh. Bốn tướng Đường Lâm cho quân hai đạo dừng lại, rồi bàn nhau gấp rút thúc quân đuổi theo binh Đỗ Động.
Quân Đường Lâm vừa đổi hướng toan đuổi theo binh Đỗ Động cũng đã dàn xong thế trận, liền nhất tề hò reo quay trở lại ra sức đánh thẳng vào tiền quân của Đường Lâm. Thế là hai bên hỗn chiến dữ dội.
Kim Ân Phú truyền cho cánh quân ở phía bên trải do hai tướng Lương Quế Hồ và Dịch Tụy Đồng tiến lên ép binh Đường Lâm vào giữa. Thế là, quân Đường Lâm đi đuổi địch, lại bị địch ép vào giữa mà công phá.
Vừa vào trận, bốn tướng Đường Lâm biết gặp phải thế bất lợi, chưa thấy một tướng nào của địch xuất hiện còn đang hoang mang đã thấy một tướng già nua, râu dài trắng xóa, tướng này tay cầm đại dao, theo sau còn có một tướng nữa khí độ dữ dội tay lăm lăm ngọn roi sắt, hai tướng lạ giục ngựa chạy tới.
Tướng già râu dài dừng ngựa, rồi ôn tồn hỏi:
- Các ông vâng lệnh ông Mộc Đường, có phải là muốn thừa cái thắng phá thủy quân Đỗ Động để giết nốt đạo quân của Kim Ân Phú này đây không?
Bốn tướng Đường Lâm nghe nói, mới biết rằng đây là tướng Kim Ân Phú, nhân vật được Mộc Đường lão tướng nể vì lắm. Bốn tướng lo lắng trong lòng, như vậy thì quả thật Kim Ân Phú đã biết trước tất cả rồi, thế tất gặp nguy mất! Bốn tướng còn đang ngẩn ngơ, thì Kim Ân Phú đã nói tiếp:
- Đường Lâm phá mất thủy quân của ta, lại còn tham lam muốn đuổi theo đánh trộm, rõ thật là trời muốn cho ta được đòi cái nợ thua thiệt ở mặt sông rồi, các ông đem quân đánh trộm ta, ắt có chết cũng chẳng ân hận gì!
Tức thì tướng Vi Hiển Đức giục ngựa xông ra, giơ ngọn roi mây bện, chỉ Kim Ân Phú mà rằng:
- Tướng già kia, ta trông thần sắc ngươi cũng chẳng còn gì, sao chẳng biết phận còn mang xác ra chốn này mà lớn tiếng huênh hoang...
Vi Hiển Đức quát mắng chưa xong, thì Võ Phương Đạc đã vọt ngựa lên, cây roi sắt quất một đường thẳng xuống đỉnh đầu Vi Hiển Đức. Đức giật ngựa tạt sang một bên mà tránh, miệng Vi Hiển Đức quát:
- Thằng giặc này sao dám hỗn!
Quát vừa dứt tiếng, Vi Hiển Đức đã hoa cây roi mây bện lên đánh ra một đường “Thiên lôi xuống trần”, đường roi ngoằn ngoèo nhưng thật ra lại rất thẳng, đánh vào giữa mặt Võ Phương Đạc. Đạc không tránh, cử cây roi sắt lên, cán roi khẽ chạm vào ngọn roi mây của tướng địch mà đẩy sang một bên, rồi Võ Phương Đạc chuyển thế lòng bàn tay đang ngửa xoay úp xuống thật nhanh, cây roi sắt rít lên một tiếng “vút” quật như chớp giật vào giữa mặt Vi Hiển Đức.
Vi Hiển Đức toát mồ hôi ở lưng, dạt ngựa chạy hẳn ra xa mà tránh. Võ Phương Đạc chưa kịp tung vó ngựa đuổi theo, thì lão tướng Kim Ân Phú đã thúc ngựa xông tới, một đường đao múa ra đẩy lui luôn Võ Phương Đạc lại kiềm tỏa được vó ngựa của Vi Hiển Đức không cho chạy xa. Vi Hiển Đức vừa tháo mồ hôi vì đường roi thần kinh quỷ khiếp của Võ Phương Đạc, đã lại điếng hồn vì đường đại đao lợi hại quá chừng của tay tướng già này.
Kim Ân Phú dừng tay đao lại ôn tồn hỏi:
- Bốn tướng Đường Lâm kia, có ai là người dự trận phá thủy quân của Đỗ Động ta không?
Vi Hiển Đức tức thì vênh mặt:
- Phá thủy quân của Đỗ Động, chính là ta đây!
Kim Ân Phú và hết thảy sáu tướng Đỗ Động đều giật mình, lão tướng hỏi vội:
- Lão phu mới chỉ biết việc Đỗ Động tan nát thủy quân, không được biết sự thể thế nào, ông là người cầm quân trong trận ấy, nói ít điều ta nghe được không?
Vi Hiển Đức ngửa mặt cười thật lớn một hơi dài, các tướng Đỗ Động nghiến răng cố nén. Rồi Vi Hiển Đức bảo:
- Trong đời ta chưa bao giờ lại gặp tướng cầm quân ngu như tướng của Đỗ Động, y ghép thuyền thành một tảng lớn đợi thủy quân của ta phá tan nát cả mà không làm sao xoay trở được, để đến nỗi phải táng mạng trong trận...
Kim Ân Phú hỏi vội:
- Tướng nào táng mạng?
Vi Hiển Đức vênh mặt:
- Tên tướng cầm quân ngu dốt xử cây nhuyễn tiên có móc sắt ấy đã bị quân ta bắn mấy trăm mũi tên chết tại trận rồi!
Kim Ân Phú bật hỏi nữa:
- Chung Tam Sở chết thật rồi ư?
- Phải, y chết rồi! Tên còn lại ta không biết y tên gì phải cướp xác bạn nhảy xuống sông chạy trốn, chắc cũng chết chìm rồi chứ gì?
Kim Ân Phú bỗng ngửa mặt lên trời cười thật thê lương, tiếng cười nghe như khóc than tràn đầy uất hận. Cười dứt, Kim Ân Phú bình tĩnh bảo:
- Này tướng Đường Lâm, mi phá quân của Đỗ Động ta, lại giết em ta, ta khen mi tài giỏi lại có số may, nhưng em ta quả nhiên linh thiêng mới xui khiến cho mi lại mang quân đuổi theo toan đánh lén ta, bây giờ chính là lúc để ta đòi nợ cho anh em, lấy đầu ngươi treo trên cổ ngựa để rửa hờn cho anh em ta đây! Số may của mi hết rồi, ta ban cho mi ơn huệ cuối cùng là được chọn cái chết: nếu đầu hàng thì một mình mi bị chết, trái lệnh ta thì cả đạo quân của Đường Lâm phải bỏ mạng lại chỗ này để trả nợ vay của anh em ta!
Bốn tướng Đường Lâm thấy lão tướng Kim Ân Phú phong độ bình tĩnh, trong lòng đã sợ lại càng sợ thêm. Bên tai Vi Hiển Đức dường như lời dặn của Mộc Đường còn văng vẳng: “Ông nhớ là đối địch với Kim Ân Phú...”.
Bốn tướng Đường Lâm nói dứt lời, sáu tướng Đỗ Động đã nhất tề giục ngựa vọt tới vây lấy bốn tướng Đường Lâm, tướng Đỗ Động người nào vẻ mặt cũng đằng đằng sát khí. Bốn tướng Đường Lâm bối rối, Kim Ân Phú đã quát lớn:
- Bớ tướng Đường Lâm, ta ban ơn huệ cho bọn chuột nhắt chúng bay được chết minh bạch, biết thế nào là Kim Ân Phú một lần!
Rồi lão tướng truyền cho sáu tướng lui quân ra xa, cứ giữ nguyên thế trận đợi xem lão tướng lấy đầu các tướng Đường Lâm!
Sáu tướng hậm hực vâng lệnh, ai về vị trí nấy mà giữ quân, binh Đường Lâm thế là bị quân Đỗ Động vây chặt.
Đuốc soi tỏ chiến trường, lão tướng Kim Ân Phú gác đại đao trên đầu chiến mã mà chậm chạp lùi ngựa ra xa. Bốn tướng Đường Lâm đưa mắt nhìn nhau, rồi cho ngựa dàn ngang một hàng chờ đợi. Quân Đỗ Động hò reo rầm rầm trợ chiến, khí thế chiến trường thật trầm trọng.
Lão tướng Kim Ân Phú bỗng quay ngựa lại, rồi giục ngựa băng băng phóng. Ngay lúc ấy, ba tướng Đường Lâm vòng ngựa tránh ra xa, rồi hô quân nhất tề ào tới. Chỉ còn lại một mình Vi Hiển Đức là trụ ngựa đối địch với Kim Ân Phú.
Ba tướng Đường Lâm giục quân nhập trận trước hết là muốn vây hãm Kim Ân Phú, sau là mong tìm lối lui quân. Binh Đường Lâm bất thần ra tay, khiến sáu tướng Đỗ Động cũng hô quân xốc tới. Thế là đôi bên reo hò chém giết. Trong đêm tối, ánh đuốc bập bùng, khi tỏ khi mờ, hỗn loạn làm cho chiến trường càng ngày càng mở rộng. Cũng như thế ba tướng Đường Lâm sau này đưa được bại quân tháo chạy.
Về phần Vi Hiển Đức chống nhau với Kim Ân Phú, tài của Đức chẳng thể nào đương cự được với lão tướng lấy vài đường đại đao. Nhưng sức của lão tướng bình thường còn vững vàng bây giờ đã sa sút nhiều lắm, vì buồn bã lại bị suốt mấy ngày trời nghĩ ngợi đến hao mòn cả nguyên khí. Nhờ đấy mới đầu Vi Hiển Đức kinh hoàng, sau dần dần khởi sắc lấy lại được phong độ.
Ngọn roi mây của Vi Hiển Đức lên xuống tung hoành cực kì thận trọng, đòn đánh ra toàn là đòn chí tử, cốt cầm cự để đợi cơ hội lão tướng kiệt sức sẽ ra tay làm nên chuyện lớn. Vi Hiển Đức vào trận, đao qua roi lại vài đường là hiểu ngay tình cảnh của lão tướng. Đức khấp khởi mừng thầm, nhưng vẫn lo ngại còn sáu tướng nữa của Đỗ Động. Vì thế Vi Hiển Đức tuy có ý cầm cự, nhưng cũng lại giở toàn những đòn quyết liệt để mong mau chóng làm cạn sức của lão tướng.
Lão tướng Kim Ân Phú đánh ra vài đường đao, là hiểu ngay sức mình đã kiệt mất rồi! Chỉ mới mấy hôm buồn bực lo nghĩ, đến nỗi hao mòn sức khỏe đến thế này sao? Lão tướng trong lòng sôi uất hận. Danh tướng Kim Ân Phú bây giờ đối địch với một tướng vô danh tiểu tốt của Đường Lâm mà không hạ được y trong vài dường đao, thì còn gì là Kim Ân Phú nữa! Lão tướng lại thấy tướng địch đòn tuy có phần quyết liệt nhưng lại cố ý cầm cự, thì hiểu rằng y đang đợi mình kiệt sức để ra tay hủy diệt uy danh của mình đây!
Nghĩ rồi, tinh thần trầm tĩnh lại, tay đao đang ở thế công nay bỗng nhiên dừng hẳn lại nhường cho địch đánh tới. Lão tướng thúc ngựa dạt sang một bên, hai tay nhấc cây đại đao lấy sống dao đỡ ngọn roi. Đợi cho cây roi quật xuống vừa đúng sức mạnh mới buông tay trái lúc ấy đang giữ mũi đao. Tay phải xử một thế “Cầu vồng ngang trời”, cử đại đao vòng một đường nương theo sức mạnh của cây roi vừa bổ xuống thật đúng nhịp chém xả vào ngang sườn Vi Hiển Đức.
Đức kinh hãi lùi ngựa tránh đường đao, tức thì lão tướng thúc ngựa vọt lên. Thanh đại đao đổi thể cực nhanh hất ngược trở lên một đường “Chim én xuyên mây” muốn xé xác Vi Hiển Đức ra làm hai mảnh từ giữa bụng lên đến vai bên trái. Vi Hiển Đức xoay ngựa nghiêng người vận sức lên ngọn roi, nghiến chặt hai hàm răng dốc lực quật cây roi một thế “Sóng lớn xô non” vào giữa cây đao của Kim Ân Phú cốt ý đánh lui lão tướng ra xa.
Cây roi mây bện lúc mềm thì uyển chuyển như dải lụa lúc vận lực thì cứng như côn sắt. Bây giờ quật vào lưỡi đao của lão tướng cực mạnh, quả nhiên sức quật ấy hợp với sức cây đao đánh ra, làm cho lão tướng sức khỏe đã suy giảm mất nhiều phải lạng người mất thế. Vi Hiển Đức cả mừng, uốn người quay hẳn lưng lại, cây roi mây bện xử một thế “Quan Âm giáng phàm” như chớp giật giáng xuống lưng lão tướng còn đang mất đi.
Lão tướng Kim Ân Phú mím môi, uy danh lão tướng có lẽ nào lại chịu tắt ở trận đấu này, có lẽ nào lão tướng đành chịu thua thiệt vì một tướng đã hại anh em mình? Lão tướng biết sức mình suy kiệt, khó lòng kéo dài trận đấu với tướng địch được, đành hi sinh tất cả để trả mối thù cho Chung Tam Sở. Trong cơn cấp bách, việc xảy ra cực nhanh, tinh thần lão tướng Kim Ân Phú vụt sáng suốt lạ thường, lão tướng không vận lực giữ thế, mặc cho con chiến mà vẫn khua vó, mặc cho thân hình lạng đi, mặc cho cả đường roi của tướng địch bay tới!
Lão tướng mím môi, nhân cái thế nửa người phía trên lạng đi, hai tay cầm vững đốc đại đao, thu hết tàn lực quát lớn một tiếng bật người trở lại. Tay đao mở rộng lia một đường “Đoạt mệnh đao” cực kì dũng mãnh.
Vừa lúc ấy, ngọn roi mây bện của Vi Hiển Đức quật xuống trúng vai trái lão tướng “chát” một tiếng, lập tức tay trái lão tướng Kim Ân Phú rời khỏi đốc đại đao, tay phải vẫn thừa đà giữ cho cây đại đao lướt đi như ánh chớp, nghe “nhập” một tiếng. Chắc chắn lưỡi đại đạo đã đi lướt trên vai phải tướng Vi Hiên Đức mà chém trúng cổ Đức!
Trong đời lão tướng Kim Ân Phú chưa bao giờ cây đại đao lúc đã xử ra thế “Đoạt mệnh đao” lại không thành công chém rụng đầu tướng địch, nay chỉ vì lão tướng sức đã hết, lại thêm một vai bên trái trúng một đòn gãy hẳn xương vai. Vì thế sức mạnh cây đại đao không đủ để tiện lìa đầu tướng Vi Hiển Đức!
Vi Hiển Đức trúng một đao ngập vào quá nửa cổ, máu trào ra như mạch nước. Chiến mã của Đức vẫn chạy hất xác Vi Hiển Đức xuống đất, lúc ấy cây đại đao mới rời ra. Cùng lúc ấy lão tướng Kim Ân Phú có ghìm ngựa, lảo đảo gục trên lưng ngựa rồi cũng lăn xuống đất!
Sáu tướng Đỗ Động xua quân đương cự với ba tướng Đường Lâm, thắng thế ngay từ đầu, sáu tướng ra sức chém giết rửa thù cho thủy quân. Trận đánh thật khốc liệt, sáu tướng như mê đi trong cuộc chém giết. Tìm chẳng thấy ba tướng địch đâu thì cứ điên cuồng đâm chém cho đến khi quân Đường Lâm chạy đã xa mới dừng bước quay trở lại.
Sáu tướng say máu, một phần tin chắc là lão tướng Kim Ân Phú tất thế nào chẳng dễ dàng hạ được tướng Vi Hiển Đức. Nên đến khi chém giết đã sướng tay thì quay binh lại tìm Soái tướng, mới thấy lão tướng gục trên mặt đất, cạnh đấy là xác tướng Đường Lâm nằm trong vũng máu.
Sáu tướng cả kinh tưởng Kim Ân Phú đã bị tướng địch hại, liền vội vàng xuống ngựa chạy tới nâng lão tướng dậy. Tới lúc ấy mới biết là lão tướng chưa chết, chỉ bị trúng một dòn gãy lìa xương vai trái. Sáu tướng vừa mừng vừa giận, vội cứu tỉnh lão tướng.
Vừa tỉnh lại, lão tướng thoáng mắt ngơ ngác, rồi thều thào hỏi:
- Quân ta thế nào?
Sáu tướng tranh nhau kể chiến thắng đã đuổi được quân Đường Lâm chạy xa rồi. Lão tướng lại hỏi:
- Còn tướng Đường Lâm bị ta chém một đao thì sao?
- Y chết rồi!
Kim Ân Phú mỉm cười thỏa mãn, gương mặt già nua suy kiệt của lão tướng thoáng nét hân hoan. Lão tướng bảo:
- Y đánh trúng ta một roi, khiến ta chẳng còn đủ sức chém rụng đầu y! Nhưng y chết rồi, thế cũng được!
Rồi trong đêm hôm ấy, lão tướng truyền quân tạm nghỉ bên dòng Bạch Hạc. Sai các tướng cẩn thận canh gác các nơi, lại cho tế tác đi rộng ra để dò xét để phòng địch trở lại đánh lén. Cũng trong đêm hôm ấy, lão tướng truyền cắt đầu tướng Vi Hiển Đức, ngay bên dòng Bạch Hạc làm tế lễ Chung Tam Sở. Lão tướng tay trái liệt hẳn phải buộc một mảnh vải đeo vào cổ để cho khỏi bị lay động khiến đau đớn. Lão tướng hài lòng vì thắng trận, nhưng cũng không thể vì thế mà phục hồi được nguyên khí đã suy kiệt. Lão tướng phải có hai người đi hai bên mà đỡ, mới vào được đến lễ đài tế Chung Tam Sở.
Lão tướng khóc thảm thiết, thương tiếc Chung Tam Sở, lại hận là không còn đủ sức để san bằng thành Đan Phượng mới hả được uất hận này. Các tướng cùng quân sĩ Đỗ Động nghe lão tướng khóc Chung Tam Sở, ai cũng rơi lệ.
Sáng hôm sau, lão tướng Kim Ân Phú truyền cho các tướng đưa quân vượt sông Bạch Hạc vào đất Đỗ Động. Lúc vượt sông, lão tướng càng tỏ ra suy yếu, thần sắc như chẳng còn gì, thanh đại đao phải trao cho quân gìn giữ, các tướng phải kèm chung quanh lão tướng mà trông nom. Ngựa đi khấp khểnh, lúc băng rừng, vượt suối, càng làm cho lão tướng kiệt sức.
Nhiều lúc lão tướng suýt ngã ngựa, các tướng khuyên lão tướng nên nằm cáng mà về nhưng lão tướng khẳng khái không nghe, bảo rằng:
- Thân làm tướng điều khiển ba quân tướng sĩ, không ngồi được vững trên lưng ngựa, phải nằm võng mà đi, còn cái nhục nào bằng, làm gì còn đủ phong độ để sai khiến ba quân được nữa!
Vì thế, lão tướng cố gượng, lúc vừa ra khỏi rừng Cẩm Khê thì lão tướng mệt quá, quân phải tạm dừng lại. Cũng vừa lúc ấy, từ xa một người rạp mình trên lưng ngựa phi tới như bay. Người lạ đến trước quân của lão tướng Kim Ân Phú kêu lớn lên:
- Có phải quân của lão tướng Kim Ân Phú đấy không?
Chưa biết người lạ từ đâu đến có việc gì, xin xem hồi sau sẽ rõ...
—ooOoo—