← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Bảy Mươi Sáu Ba tướng xé xác Thúc Đạt
Công đường thầy tu giảng pháp

Quân mã bộ của Đỗ Động kéo đi chưa được hai ngày bỗng nhiên cả Đỗ Động nhốn nháo. Dân chúng lo thu xếp gạo nước, dự trữ lương khô, có nhiều nơi lại bỏ nhà bỏ cửa bồng bế nhau đi lên phía Bắc mà ở. Đâu đâu cũng phao đồn là: “Quân Phù Liệt đã lên đường, chỉ nay mai là lên đến Văn Trì. Trước là chiếm lấy vùng này, sau đấy hợp sức với Đường Lâm cùng phá Đỗ Động mà chia đôi giang sơn”.

Lời đồn đại không có cánh mà bay đi rất nhanh, chỉ trong vòng có một ngày trời có nơi cả một làng đã bỏ đi nơi khác, có nơi như xã Đại Đồng thì dân mở tiệc lớn cả xã xúm lại ăn uống phè phỡn no nê suốt ngày, rồi nổi lửa đốt rụi cả. Sau đấy lũ lượt kéo nhau đến tận vườn Tiên trong núi Tản Viên mà lập nghiệp.

Nhân gian náo loạn, Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc lấy làm lạ liền hội họp văn quan võ tướng lại để nghị sự. Sứ quân bảo:

- Quân ta hai mặt thủy bộ vừa lên đường chinh phạt Đường Lâm, sao đã lại có việc lạ đến nỗi náo động khắp nơi như thế này?

Các thuộc tướng ngẩn người, không ai biết sự thật ra sao, nhưng ai cũng đều tận mắt được thấy dân chúng rục rịch bồng bế nhau đi lánh nạn. Tai được nghe không biết bao nhiêu là lời đồn đãi. Nào là Đằng Châu đang lên Bạch Hạc hợp cùng với quân Bình Kiều, Tế Giang ở bên kia sông. Tây Phù Liệt ở bên này sông phía Nam, tất cả hợp sức phá Đỗ Động. Nào là Đường Lâm ra quân, đã vượt sông Hát đang tiến tới Đỗ Động ở mặt phía Bắc. Lại có tin Cổ Loa đang chọn tướng cầm quân thay Nam Tấn Vương xuất binh Nam phạt lần nữa, lần này trước hết đánh Đỗ Động, sau lấy Đường Lâm, phá Tế Giang, sau nữa sẽ kéo xuống phía Nam. Các tin đồn hàng ngày xảy ra không biết bao nhiêu mà kể. Thậm chí, mới chiều hôm qua ở kẻ chợ đang buổi chợ đông tự nhiên dân chúng ùn ùn bỏ chợ chạy về, nhà nhà gấp đóng cửa cho chắc, chẳng mấy chốc đường xá vắng hoe, tin nói chắc nịch là “Binh Phù Liệt đã lấy xong Văn Trì đang tiến lên phía Bắc, chỉ ngày một ngày hai là chiến trận tới tận chỗ tim óc Đỗ Động.”.

Nay vào hội, các tướng hoang mang, có người sắc mặt còn lộ vẻ lo âu sợ hãi. Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc vừa giận vừa lo lắng vô cùng!

Sứ quân hỏi, các tướng không ai biết trả lời ra sao, Sứ quân lại nói:

- Quân ta đi đánh Đường Lâm, tại sao Đường Lâm lại còn có việc cất quân muốn xâm phạm bờ cõi của ta? Chẳng lẽ Đường Lâm không biết quân ta đi lấy thành Đan Phượng hay sao? Vả lại, Phù Liệt sai tướng cầm quân đi đánh Đồng Lư tuy thất bại, nhưng không phải là Phù Liệt đã kiệt sức để Đường Lâm ngang nhiên đem quân xuất chiến ngoại biên như vậy? Ta chắc có điều gì mờ ám đây?

Hội nghị bàn suốt nửa ngày trời, cho mãi đến tối mịt cũng chẳng biết tại sao, nhưng có điều là hội nghị càng sinh lắm điều lục đục bất ổn. Dường như không ai còn tin tưởng vào cái thế hùng cứ của mình nữa, ai cũng nhuốm ý tưởng cao chạy xa bay cho yên thân giữa thời đại loạn! Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc hiểu rõ tình hình như vậy, lòng bồn chồn giận dữ chen lẫn lo âu, mấy phen đã muốn cho người mang lệnh ra hai mặt trận truyền cho các tướng đem ngay quân thủy bộ về để dàn xếp nội bộ trước đã.

Hội nghị bàn đến khuya mới nghỉ. Sáng hôm sau Sứ quân lại triệu tập chúng tướng bàn việc nữa. Hội nghị bàn đến gần giữa trưa thì Sứ quân quyết định: trước hết hãy triệu hồi đạo thủy quân để gấp rút về gìn giữ mặt thủy quân Đằng Châu, phòng ngừa binh Bình Kiều và Phù Liệt. Sau đến lượt đạo quân bộ mã Kim Ân Phú phải gấp rút kéo về đi kinh lí việc Văn Trì ngay, trấn an dân chúng, phòng giữ mặt Nam mới được.

Hội nghị còn đang họp tiếp, tế tác đã hấp tấp vào khẩn trình việc quân trọng đại. Sứ quân cau mày truyền quân cho người mang tin vào gấp. Quân vào hấp tấp quỳ bẩm:

- Bẩm Chúa công, tế sứ biên phòng trình tin gấp: thủy quân của tướng Chung Tam Sở chiều hôm trước bị Đường Lâm dùng bè gỗ phá tan, chỉ còn một số ít chạy thoát. Chưa biết thêm về các thiệt hại như thế nào?

Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, cả hội nghị nghe tin đều sửng sốt. Sứ quân kinh hãi đến chẳng thất được lời nào. Sứ quân ngồi lặng một lát rồi mới thốt ra lời được. Sứ quân bảo:

- Tại sao lại có việc như thế này? Chung Tam Sở không kém, sao lại bị Đường Lâm đánh bại mau đến thế được?

Sứ quân chưa kịp cử tướng đi xem xét, đã lại có tin trình về: “Tướng Chung Tara Sở tử trận, bại quân khoảng xế trưa thì về đến nơi!”.

Xế trưa hôm ấy, quả nhiên đoàn chiến thuyền bại quân của Đỗ Động về đến doanh. Sứ quân truyền cho tướng Nhan Mục Thản, Lữ Bối Diệp và Hoàng Đình Cường vào trình việc gấp. Ba tướng lần lượt thuật không còn thiếu việc nào, cả ba đều nói là: “Đã hết lời khuyên can Chung Tam Sở, nhưng Sở không nghe.”.

Sứ quân lặng người, hồi lâu mới nghiến răng mà rằng:

- Thế là Chung Tan Sở trúng kế của địch, tan cả đạo thủy quân, vỡ mất cả thế trận! Như vậy thì đạo quân mã bộ của ông Kim Ân Phú cũng sắp tan nốt chạy về đến nơi mất rồi! Toàn là bọn ăn hại, không bao giờ một mình chủ trì việc gì mà xong được!

Sứ quân la mắng ầm ầm, giận dữ chẳng để đâu cho hết. Đã thế, tế tác ở biên giới lại dồn dập tin về: “Cổ Loa sắp ra quân, Tế Giang cũng rục rịch..” Sứ quân nghe trình như ngồi trên lửa bỏng, lửa giận dữ bốc ngùn ngụt khiến Sứ quân chẳng còn biết phải hành động ra sao. Chỉ một mực mắng hết người này đến người khác, rồi ra lệnh: “Dân chúng ai bỏ nhà, bỏ làng mạc mà đi, sẽ phải tội chém đầu, bất luận kẻ nào phao tin binh biến đều bị tội “chém ngang lưng” ngay nơi kẻ chợ”. Sứ quân ra nghiêm lệnh không cho dân rối loạn, lại tức thì bắt các tướng phải vào trực hết trong doanh bất kể ngày đêm để đợi lệnh.

Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc ban lệnh nghiêm ngặt, quả nhiên bên ngoài giữ được Đỗ Động khỏi náo loạn, bên trong tạm kiềm tỏa được các thuộc hạ toan bỏ trốn để mong cầu an. Việc tạm yên, Sứ quân lập tức sai tướng Nguyễn Thúc Đạt gấp rút lên đường đi xem xét mặt quân mã bộ của Kim Ân Phú. Sứ quân lại truyền tướng Nguyễn Thúc Đạt là: “Bảo với Kim Ân Phú: thủy quân ngu dốt làm lỡ việc, làm mất cả uy thế của Sứ quân. Nếu mặt bộ xét thấy không đương cự được với địch, thì lão tướng cứ việc lui quân đừng cố giữ tăm tiếng không đâu để lại thiệt quân hại tướng?”. Sứ quân giận mất khôn nên mới sai tướng đi gặp Kim Ân Phú nói như vậy.

Lúc tướng Nguyễn Thúc Đạt ra tới gần sông Bạch Hạc, thì gặp đạo quân của lão tướng. Đạt thấy hiệu kì thì thừa biết là quân nhà, nhưng cũng cố cất giọng mà hỏi to xem là quân nào!

Nguyễn Thúc Đạt người ở tận Cổ Lũng (Phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh ngày nay) vốn không có tài cầm vũ khí cưỡi ngựa ra trận, nhưng lại có tài đón gió lựa lời tâng bốc nịnh nọt Sứ quân. Sứ quân vốn nóng tính lại thâm hiểm, được Nguyễn Thúc Đạt là đứa lưu manh phụ họa thì lại mờ mắt cho mình là đấng thánh thần nên vẫn thường ra mắt khinh rẻ thuộc hạ, hoặc có khen lao tưởng thưởng thì cũng lại ra vẻ coi khinh.

Nguyễn Thúc Đạt là người như vậy, làm sao có thể hòa thuận với Kim Ân Phú là người ngay thẳng nghĩa khí được. Vì thế giữa Kim Ân Phú với Nguyễn Thúc Đạt vẫn có những hục hặc ngầm nhưng không thể nào phát ra. Lão tướng thường tỏ vẻ khinh bỉ tiểu nhân, thì Nguyễn Thúc Đạt cũng lại hay ra mắt khinh bỉ các võ tướng. Cho các võ tướng là vũ phu chẳng biết gì về phép xử thế cả.

Đạt lợi dụng được Sứ quân yêu như gia nhân tôi tớ, nên làm nhiều điều sằng bậy, có lần ngay giữa hội còn dám vênh mặt thay cả lời Sứ quân để trách trắng văn võ các tướng khiến cho ai cũng cau mày uất hận ngầm.

Nay Đạt được Sứ quân sai đi gặp Kim Ân Phú, thì trong lòng như mở hội, quyết phen này phải nhân cơ hội mà xỉ vả lão tướng một phen cho thỏa thích.

Vì thế, khi gặp đạo quân của lão tướng, Nguyễn Thúc Đạt mới vờ lên tiếng hỏi như vậy, rồi lập tức giục ngựa chạy tới trước quân chắn ngang đường mà cản quân lại. Nguyễn Thúc Đạt thấy binh của lão tướng quay về, thừa biết là lão tướng đã thận trọng lui quân, nhưng cũng cứ giả vờ sửng sốt kêu to lên:

- Lão Đại tướng! Lão Đại tướng! Sao ông phá xong Đường Lâm chẳng cấp báo tin mừng về để Sứ quân ra tận ngoài xa đón rước, lại lẳng lặng khải hoàn thế này?

Tướng tiên phong Lâm Bạch Tường nghe Nguyễn Thúc Đạt hỏi rồi lại vênh váo thì tức sôi máu. Biết là Nguyễn Thúc Đạt mỉa mai, nhưng không làm sao ra tay ngay được, liền hầm hầm vận lực vào cây côn sắt, quát lớn một tiếng đến rung rinh cả ngọn lau chung quanh, rồi uốn người lộn qua đầu chiến mã xuống đất. Lúc thân hình Lâm Bạch Tường lộn qua đầu ngựa thì cũng là lúc Tường vươn côn sắt dốc toàn lực quật xuống mặt đất chát một tiếng đến rung cả mặt đất. Cỏ lau lãnh một côn tan ra như bụi bay lên cùng với đất mờ mịt. Cùng với tiếng cây côn sắt quật xuống mặt đất, Lâm Bạch Tường đã như con cọp từ trong đám bụi vẹt ra cực nhanh chụp xuống trước ngựa Nguyễn Thúc Đạt.

Nguyễn Thúc Đạt nghe Lâm Bạch Tường quát một tiếng tưởng cả bầu trời sụp xuống. Đạt kinh hãi rút vai co đầu khiếp sợ, rồi lại thấy Tường huy côn sắt lộn qua đầu ngựa đập tan cỏ tung đất dữ đội quá thì run rẩy. Run rẩy chưa xong lại thấy Lâm Bạch Tường như con cọp lớn từ xa vọt tới chụp xuống đầu mình, tay Lâm Bạch Tường giang thẳng cây côn sắt như sắp sửa giáng xuống đầu Đạt. Đạt rụng rời tay chân, hồn chẳng còn bám trong thân suýt tí nữa thì Đạt ngã xuống ngựa!

Lâm Bạch Tường thị oai dọa Nguyễn Thúc Đạt xong, trong lòng cũng hả được đôi phần, liền cố ra vẻ tươi cười chống côn sắt xuống đất mà rằng:

- Ông đi đâu ra đây mà lật đật thế? Gặp ông tôi mừng quá thành ra hấp tấp lỗ mãng chẳng đón rước được linh đình, ông đừng để bụng nhé!

Nguyễn Thúc Đạt bây giờ mới lại hồn, trong lòng căm giận biết là Lâm Bạch Tường có ý dọa mình rồi lại còn nói thác ra như vậy, liền cũng gượng cười mà mỉa mai:

- Các ông đi chinh chiến hùng dũng thế này, khải hoàn sao chẳng cờ mở trống rong, truyền rao cho khắp bàn dân thiên hạ rõ, mà lại âm thầm như đưa ma thế?

Lâm Bạch Tường nén giận:

- Binh không vào đất địch nữa, mà kéo về đây. Ông có việc gì đi đâu thế?

Nguyễn Thúc Đạt thừa biết là Kim Ân Phú kéo quân về, nay nghe hỏi thì vênh mặt:

- Tôi vâng lệnh Sứ quân mang lệnh ra cho Đại tướng Kim Ân Phú đây! Đại tướng đâu nhờ ông mời ông ấy ra đây nhận lệnh!

Lâm Bạch Tường cũng nghiêm nét mặt, có ý gây sự:

- Tôi lĩnh cờ tiên phong đi trước ngựa Đại tướng Kim Ân Phú, ông có lệnh gì của Chúa công cứ việc đưa tôi!

Nguyễn Thúc Đạt nhíu mày khinh bỉ:

- Ông là tướng đợi sai bảo, sao lại nhận lệnh của Chúa công được?

Lâm Bạch Tường mím môi cố nén:

- Thì ông cũng là người chịu sai bảo, làm sao lại gặp người ra lệnh là Đại tướng Kim Ân Phú được?

Tức thì Nguyễn Thúc Đạt nhổm cao người trên lưng ngựa, gằn giọng mà rằng:

- Ông nói thế là thế nào? Ông bảo ông Phú là người ra lệnh có phải là ông ấy tiếm quyền Chúa công ra lệnh đấy hay không? Tôi mang lệnh của Chúa công ra đây có khác nào thay mặt Chúa công mà hành xử, sao ông lại đem thuộc hạ sánh ngang với chủ như thế?

Lâm Bạch Tường thấy khó xử, hận rằng chẳng tức thì đập một côn cho nát thây Nguyễn Thúc Đạt ra mới hả. Đành dịu giọng:

- Đại tướng Kim Ân Phú trong người không được khỏe mạnh, phải nghỉ ở trung quân, ông có lệnh gì của Chúa công cứ đưa tôi đem vào trình Đại tướng cũng được!

Nguyễn Thúc Đạt thấy Lâm Bạch Tường đã xuống giọng, thì lòng dạ đứa tiểu nhân lại càng được thể lên cao, y liền vênh mặt:

- Ông Phú có mệt mỏi thế nào chăng nữa, tôi tưởng cũng không thể đợi Chúa công đến tận bên giường mà nhờ vả được! Phiền ông mời ông ấy ra nhận lệnh!

Nói dứt, Nguyễn Thúc Đạt làm như thể là người an nhàn chẳng có việc gì, khẽ kéo cương cho ngựa thung dung bước một mà đi quanh quanh như đang nhàn du lãm cảnh. Lâm Bạch Tường hai ba phen nuốt giận, đành nói:

- Vậy ông cứ đợi ở đây, tôi đi mời Đại tướng!

Dứt lời, Lâm Bạch Tường quay ngựa hậm hực trở lại trung quân. Tường cho mời tất cả các tướng lại, thuật việc Nguyễn Thúc Đạt đến truyền lệnh của Sứ quân, việc Tường ghét Thúc Đạt nên ra oai rồi hai bên cãi nhau thế nào thuật đủ cả. Rồi hỏi:

- Đại tướng đau ốm như thế, làm sao lên ngựa ra trước quân nhận lệnh của Chúa công được? Tôi đã hết lời mà y chẳng chịu nghe, cứ khăng khăng đòi Đại tướng phải thân ra nhận lệnh. Các ông bảo nên tính thế nào?

Tướng Lương Quế Hồ vốn tính nóng như lửa, nghe Lâm Bạch Tường thuật xong thì lửa giận bừng bừng, cứ cây thiết bản đập xuống mặt đất “rầm” một cái, rồi xăm xăm toan bước ra. Các tướng phải níu lại, rồi Lâm Bạch Tường hỏi:

- Ông định đi đâu vậy?

- Tôi đi đập chết thằng Thúc Đạt!

Các tướng phải khuyên can mãi Lương Quế Hồ mới chịu ngồi xuống. Ngó ra, lại thấy Dịch Tụy Đồng hai hàm răng nghiến vào nhau ken két như chốt cửa xiết vào nhau mùa nắng ráo. Dịch Tụy Đồng vốn tính hung dữ, đa sát, nghe kể việc Nguyễn Thúc Đạt thì giận còn ghê gớm hơn cả Lương Quế Hồ, đến nỗi đứng dậy không được cứ ngồi một chỗ mà nghiến răng kèn kẹt, hai mắt trợn trắng lên tưởng sắp vọt cả con ngươi ra ngoài.

Tiểu Thần tiên Phụng Trì Cung vốn người nho nhã, ôn hòa, bèn bàn:

- Lệnh của Sứ quân gửi ra, dĩ nhiên là Tướng Soái mới được tiếp nhận, nay ông Kim Ân Phú đang lâm trọng bệnh nếu Nguyễn Thúc Đạt là người quân tử thì y chắc chẳng nề hà gì chẳng tới tận bên giường mà vấn an. Nhưng y là đứa lòng dạ hèn hạ, cứ một mực đòi lão tướng phải ra nhận lệnh như thế thì không có cách nào khác được, đành phải vào hỏi ý kiến lão tướng xem ông ấy bảo sao?

Phùng Ngoại Địch bảo:

- Các ông còn lạ gì tính tình lão tướng nữa, ông ấy là người trung cang nghĩa khí, trọng nhân luân. Ắt thế nào cũng thân ra nhận lệnh rồi! Thôi bọn ta cứ vào nói cho ông ấy biết, kẻo nhỡ có lệnh khẩn thiết của Chúa công trì chậm e lỡ việc!

Rồi cả bọn kéo vào hổ trướng, rón rén bước vào, Kim Ân Phú vóc dáng tiều tụy, phờ phạc, hai mắt trũng sâu, nước da tái nhợt rõ ràng không còn khí lực. Thấy các tướng lặng lẽ kéo cả vào, lão tướng thều thào hỏi:

- Các ông vào có việc gì thế?

Các tướng chưa kịp thưa, Lương Quế Hồ đã nói như quát:

- Bẩm, có thằng Nguyễn Thúc Đạt đến, bảo là mang lệnh của Chúa Công tới lão huynh. Chúng tôi bảo nó là lão huynh mệt muốn đưa lệnh gì của Chúa công cứ đưa anh em chúng tôi vào trình lại cũng được. Nó không nghe cứ khăng khăng đòi lão huynh phải thân ra tiếp lệnh mới được!

Kim Ân Phú nghe nói, gượng ngồi dậy mà rằng:

- Các ông đừng nóng giận, lệnh Chúa công ai cũng phải trọng, y đòi như thế cũng phải. Để tôi ra tiếp lệnh Chúa công.

Rồi lão tướng gượng dậy, lảo đảo đứng không vững, các tướng phải xúm nhau lại dìu đi, ai cũng nhìn nhau xót xa thương lão tướng một đời ngang dọc mà nay suy kiệt đến thế này.

Ra khỏi hổ trướng, lão tướng bỗng dừng bước, truyền cho các tướng tháo bỏ hết khí giới để lại, rồi mới đem cả bọn ra tiếp lệnh Sứ quân. Lão tướng bảo:

- Thân làm tướng cầm quân, không thể không giữ uy nghi phong độ, không được vì tình riêng trong người mà làm mất cả khí độ của ba quân!

Rồi truyền dắt chiến mã ra, lại lấy nhung phục mặc vào đầy đủ, sau đấy mới cùng các tướng lên ngựa đi ra. Lão tướng yếu quá, ngồi trên yên ngựa không vững, phải cố lắm mới cầm được chắc dây cương. Sáu tướng chia nhau hai bên mà gìn giữ. Ngựa đi bước một ra trước quân.

Lát sau, ra trước quân đã thấy Nguyễn Thúc Đạt hầm hầm vẻ mặt. Khi thấy bọn các tướng chậm chậm kéo ra thì Đạt ra vẻ khinh bỉ kéo cương cho ngựa quay ngang, mắt nhìn đi nơi khác. Đến khi các tướng dừng ngựa, Kim Ân Phú một mình một ngựa bước lên vài bước để tiếp Nguyễn Thúc Đạt, thì trong đám các tướng có ba tướng Lương Quế Hồ, Dịch Tụy Đồng, Võ Phương Đạc kềm ngựa. Ba ông nghiến răng kèn kẹt, cố nén giận xem Nguyễn Thúc Đạt giở trò gì. Nguyễn Thúc Đạt vẫn làm như chẳng biết có tướng Kim Ân Phú lại bên, cứ giả vờ tiếp tục nhìn đi nơi khác. Kim Ân Phú thu sức, thều thào nói:

- Kim Ân Phú tôi xin có lời chào. Nguyễn huynh mang lệnh gì của Chúa công cho tôi thế?

Nguyễn Thúc Đạt mỉa mai:

- Tôi là tôi tớ của Chúa công mang lệnh đến trình ngài, cho nên phải đợi ở trước quân cả đến nửa ngày trời mới được ngài tiếp mà!

Kim Ân Phú thều thào:

- Không phải thế, lão phu đau ốm trong người nên không ra đón tiếp huynh được mau lẹ đấy thôi!

Lúc ấy, Nguyễn Thúc Đạt mới chậm chậm quay ngựa lại. Vừa thấy Kim Ân Phú, Nguyễn Thúc Đạt chẳng khỏi sửng sốt kinh hãi. Vị lão tướng lúc cầm quân lên đường, oai phong lẫm liệt bao nhiêu, nay chỉ cách vài ngày sao lại có thể tiều tụy đến thế này được? Đạt là kẻ tâm địa hẹp hòi hèn hạ không hiểu thế nào là cao thượng, chẳng ý thức được thế nào là vinh quang với thất thế. Nay thấy Kim Ân Phú tiêu điều tàn tạ như vậy thì mới đầu cũng thấy xót xa nhưng rồi lập tức máu tiểu nhân nổi dậy. Đạt chẳng khỏi hả lòng hả dạ cho là bao nhiêu lần bị Kim Ân Phú khinh bỉ nay đã có cơ hội để trả thù. Thế là Nguyễn Thúc Đạt giả và sửng sốt:

- Ô hay! Lão tướng đem quân đi chinh phạt Đường Lâm, nay ca khúc khải hoàn sao lại tiều tụy thế này?

Kim Ân Phú nhếch mép mỉm cười thê thảm chưa kịp nói, Nguyễn Thúc Đạt đã lại nói luôn:

- Các ông mang quân hai mặt đi đánh Đường Lâm, ở nhà Chúa công mong đợi tin mừng, nay thì mặt thủy đã được tin ông Chung Tam Sở đại bại đến nỗi thiệt mạng. Chúa công lo lắng mặt bộ nên sai tôi gấp rút đi gặp ông đây!

Sáu tướng đứng nghe Nguyễn Thúc Đạt nói, trong lòng giận lắm, biết là Đạt mỉa mai mốc mỉa Kim Ân Phú, có ý chê cả bọn. Nguyễn Thúc Đạt nói xong vẻ mặt sung sướng lắm. Kim Ân Phú ngồi trên mình ngựa hai tay nắm chặt lấy tay yên đầu cúi xuống lặng lẽ. Khi nghe Đạt nói như vậy, lão tướng ngửng cao đầu, cố ý lấy sức giữ giọng cho rắn rỏi mà rằng:

- Việc binh thắng bại là thường, ông Sở xông pha trăm trận ắt cũng có phen phải trả nợ lấy của thiên hạ chứ! Chúa công chắc cũng biết đủ cả rồi nên mới sai ông tới đây! Tôi chắc Chúa công cho ông ra gọi tôi về phải không?

Nguyễn Thúc Đạt biết lão tướng nổi tính tình rồi liền cố ý chọc tức:

- Tôi thiết nghĩ! Nếu lão huynh thấy phá được Đường Lâm, đòi lại khoản vay ông Sở cho Đường Lâm mượn, thì lão huynh cứ tiến quân chứ? Chắc bây giờ lão huynh đem quân về, ắt cũng sợ mất vốn như ông Sở chứ gì?

Sáu tướng thấy nóng ran trong lưng, Kim Ân Phú cười nhạt:

- Chúa công bảo ông ra tìm tôi về việc gì?

Nguyễn Thúc Đạt biết Kim Ân Phú nổi nóng rồi, liền ung dung:

- Khi được tin ông Sở bại binh thiệt mạng, Chúa công chẳng khỏi giận dữ quát mắng mọi người. Chúa công giận dữ cũng phải. Chính vì quân đi chinh chiến ngoài xa đại bại tan nát chạy về, làm cho cả Đỗ Động ta rung rinh náo loạn, dân tình nhốn nháo, bá tánh bỏ cửa bỏ nhà tìm nơi lánh nạn. Chúa công thấy tình cảnh ấy làm sao nén được mối giận mối lo, cho nên mắng khắp mặt là “đồ ăn hại” cũng phải!...

Hai tay Kim Ân Phú bám lấy đai yên ngựa run run, lão tướng mấp máy môi nhưng chẳng thốt ra lời. Nguyễn Thúc Đạt nhìn thấy lão tướng run rẩy như vậy thì trong lòng sung sướng lắm, tới lúc ấy mới dõng dạc:

- Lão tướng, Chúa công bảo tôi gấp rút ra gặp lão tướng bảo cho biết việc ông Sở bại binh. Chúa công sợ rằng ông không biết tin gì cả, cứ đem quân vào đất địch e chẳng tránh được cái họa như ông Sở! Chúa công...

Kim Ân Phú chịu không nổi nữa, thốt kêu lên:

- Tôi thân làm tướng cầm quân ra trận, sao lại chẳng biết tin để đến nỗi ở nhà phải cho người ta chỉ vẽ thế này! Như vậy chắc hẳn Chúa công chê trách tôi nhiều lắm chứ gì?

Nguyễn Thúc Đạt được đà, cứ dẻo lưỡi mà rằng:

- Thì Chúa công lo ông tuổi già sức chắc phải suy giảm, việc quân bận rộn quán xuyến không hết, lỡ lầm là thường chứ! Chúa công mắng có phải là hồ đồ không phải đâu?

Sáu tướng ngồi thẳng lại trên yên ngựa, ai cũng gay cấn. Kim Ân Phú cố nén gặng hỏi:

- Chúa công mắng ra sao?

- Ông đang mệt mỏi trong người, tôi nói lại lời Chúa công cũng chẳng được ích gì.

Kim Ân Phú quyết liệt:

- Ông cứ nói ta nghe xem sao?

Nguyễn Thúc Đạt thấy cơ hội quý báu này không nên bỏ qua, liền cao giọng bịa đặt:

- Ông đã muốn nghe, lại bắt tôi phải kể, thì tôi xin tuân lệnh. Sứ quân điểm khắp mặt các tướng mà mắng. Ngài nhắc lại việc lần trước đem quân đi đánh Phù Liệt cũng chẳng ra sao cả. Bây giờ vào việc lớn mới biết là bọn các tướng bất tài, chỉ giỏi nghề huênh hoang. Chúa công bảo Chung Tam Sở là “đứa ngu phu không cha, không mẹ”. Mắng Chung Tam Sở xong Chúa công lại sợ lão tướng cũng lỗi lầm như Sở, ngài bảo: “Ông Phú tính tình ngay thẳng, chẳng hiểu được cơ mưu, như thế cũng chẳng hơn gì ông Sở”...

Kim Ân Phú thở hổn hển, sáu tướng cũng thở hổn hển, Kim Ân Phú run giọng giục:

- Rồi Chúa công mắng tôi sao nữa?

Nguyễn Thúc Đạt làm ra vẻ ngập ngừng:

- Lão tướng trong người không được khỏe lắm, thôi đừng... đừng nghe nữa là hơn!

Lão tướng uất khí bừng lên vẻ mặt nhợt nhạt, giọng gay gắt:

- Ông cứ nói ta nghe!

Nguyễn Thúc Đạt cười thật tươi mà rằng:

- Lệnh của lão tướng, tôi xin tuân! Chúa công bảo rằng: “Lão tướng giỏi cầm gươm lên ngựa, nhưng cục mịch vũ phu không khéo chết vì ngu dốt như ông Sở”, cho nên truyền tôi gấp rút ra gọi lão tướng mau triệt binh!

Tức thì, lão tướng Kim Ân Phú kêu lên:

- Chúa công!...

Rồi lão tướng như trái chín rụng khỏi cành, từ trên lưng chiến mã đổ xuống. Sáu tướng kinh hãi vọt ngựa chồm tới, cả sáu tướng cùng hối hả xuống ngựa xúm xít nâng lão tướng dậy. Lão tướng mềm nhũn, cặp mắt mở trừng trừng, bọt mép sùi ra, lão tướng bị uất khí dồn lên làm dứt hơi thở chết liền tại chỗ!

Sáu tướng kêu gào lay gọi tuyệt vọng. Nguyễn Thúc Đạt mới đầu thấy trả thù được Kim Ân Phú thì hả dạ lắm cho đến khi thấy Kim Ân Phú gục xuống y vẫn còn hí hửng cho là Phú uất quá bị khí uất đưa lên đến ngất đi chứ không ngờ là sức khỏe lão tướng đã hết rồi. Nay vì những lời lẽ của Đạt mà lão tướng chết thật, khi thấy các tướng lay gọi không xong, Nguyễn Thúc Đạt bắt đầu thấy lo.

Quả nhiên, Nguyễn Thúc Đạt lo chưa xong, đã thấy Lương Quế Hồ hai mắt trợn trừng đỏ như máu, hai dòng nước mắt còn lăn dài, môi Lương Quế Hồ mím chặt đến thâm tím. Hồ đứng bật dậy giơ tay điểm mặt Nguyễn Thúc Đạt quát lên như sấm mà rằng:

- Chúng tao đã bảo là lão tướng mệt trong người, mày không nghe bắt lão tướng phải ra nhận lệnh. Lệnh đâu chẳng thấy chỉ thấy mày xỉ vả đến nỗi lão tướng uất lên mà chết! Tội ở mày, không xé xác mày không hả giận này!

Dứt lời, Lương Quế Hồ rảo bước tiến lên, các tướng chưa kịp can ngăn, thì đã lại thấy hai tướng Dịch Tụy Đồng và Võ Phương Đạc cũng chạy theo Hồ, cả hai cùng kêu lên:

- Để ta! Để ta!

Nguyễn Thúc Đạt thấy nguy toan giật cương ngựa bỏ chạy, nhưng Lương Quế Hỗ đã chộp được cương ngựa. Hồ vươn tay túm ngực áo Nguyễn Thúc Đạt lôi Đạt xuống khỏi lưng ngựa.

Tức thì ba tướng xúm lại đánh đấm Đạt thẳng tay, vừa đánh vừa gầm thét như bầy cọp tranh mồi. Than ôi! Đạt là tay giỏi miệng mép nịnh nọt, chứ không giỏi việc sức mạnh. Bây giờ bị ba tướng nổi tiếng là nóng nảy hung dữ, hiếu sát trút cơn giận lên đầu, thì Đạt làm sao chịu cho nồi. Ba tướng Lâm Bạch Tường, Phụng Trì Cung, Phùng Ngoại Địch can không kịp, chớp mắt Nguyễn Thúc Đạt đã bị ba tướng đánh chết.

Trong cơn say giận, ba tướng còn thi nhau bóp nát thi thể Nguyễn Thúc Đạt, không cái xương nào trong người Đạt lại chẳng vỡ vụn, xác Đạt như một bọc thịt băm. Tướng Dịch Tụy Đồng lại tay không dứt dứt đầu Đạt, bưng đến cạnh xác lão tướng Kim Ân Phú khóc rống lên mà rằng:

- Lão huynh ôi! Đệ đã rửa thù được cho lão huynh rồi đây! Lão huynh truyền bỏ khí giới ở nhà, thì đệ dùng tay bứt đầu thằng giặc cũng xong rồi đây!

Sáu tướng khóc kể thêm hồi nữa, rồi bảo nhau đem xác lão tướng vào trung quân.

Sáu tướng làm lễ tang Kim Ân Phú ngay ngày hôm ấy, lại đem đầu Nguyễn Thúc Đạt treo trước áo quan Kim Ân Phú. Lão tướng Kim Ân Phú thọ bảy mươi tám tuổi, chết đúng vào ngày Canh Dần, tiết Lập Thu, điềm Sao Sâm đêm trước hiện ra đằng sau Sao Chủy rung rinh chực tắt.

Rồi sáu tướng truyền quân nhổ trại, Lâm Bạch Tường mang cờ tiên phong đưa quân trở lại Đỗ Động.

Quân đi chậm chậm, ba ngày sau thì về tới địa phận phủ đường. Bá tánh hiếu kì đổ ra xem binh viễn chinh trở về, ai cũng ngơ ngác hỏi nhau: “Quân khải hoàn sao lại có cái áo quan của ai dẫn đi trong quân? Binh tướng ai cũng rầu rầu vẻ mặt là thế nào?”.

Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc được tin quân về, liền truyền mở cửa đại sảnh, rồi truyền các tướng vào trình việc. Sáu tướng nhận lệnh, bảo nhau ghé vai khiêng áo quan Kim Ân Phú đến thẳng đại sảnh.

Sứ quân thấy quang cảnh thì sửng sốt đứng ngẩn người, các tướng khác cũng ngạc nhiên quá đỗi.

Sáu tướng khiêng quan tài Kim Ân Phú vào trong đại sảnh, đề án quan Phú xuống rồi mặt lạnh như băng mà đứng chung quanh. Cả đại sảnh im phăng phắc, lát sau Sứ quân mới cất giọng hỏi được:

- Thế là thế nào?

Tới lúc ấy, Lâm Bạch Tường mới bước ra, thuật hết đầu đuôi mọi việc từ việc lão tướng dàn trận bày mưu, lo phối hợp với quân thủy của Chung Tam Sở như thế nào. Kịp đến khi được tin Sở bại quân lão tướng dàn xếp lo liệu ra sao, rồi phải kéo quân về nửa đường. Lại gặp Nguyễn Thúc Đạt mang lệnh của Sứ quân ra khiến cho lão tướng sức khỏe đang kiệt vì lo lắng việc quân khi nghe những lời mắng mỏ của Sứ quân đến nỗi uất quá từ trên lưng ngựa ngã xuống mà chết ra sao...

Sứ quân kinh ngạc hỏi:

- Ta có mắng mỏ chê bai gì lão tướng đâu? Ta chỉ sai Nguyễn Thúc Đạt mang lệnh ra khuyên lão tướng nên tính xem sao, hồi binh để giữ sức là hơn cơ mà!

Tức thì Dịch Tụy Đồng bước ra, vóc dáng Đồng cao lớn, gương mặt dường như đang cơn giận. Đồng rút cây búa sắt là khí giới của y dặt mạnh xuống sàn đại sảnh, rồi quỳ xuống rằn giọng mà rằng:

- Tiểu tướng theo chân Kim Ân Phú lão tướng ra vào chỗ sống chết nhiều phen chưa bao giờ lại thấy lão tướng làm việc gì hồ đồ, bậy bạ. Thế mà việc ông Sở bại binh chẳng qua là việc thường tình, có lí nào chỉ vì thế mà lão tướng bị nhục mạ sỉ mắng oan như vậy được?

Sứ quân kinh ngạc hỏi:

- Ai dám nhục mạ sỉ mắng lão tướng, người nói ta nghe?

Dịch Tụy Đồng đáp:

- Bẩm Chúa công, Nguyễn Thúc Đạt nói rằng Chúa công không hết lời mắng rủa tướng đang vất vả ngoài mặt trận là đồ ăn hại, ngu dốt chẳng biết gì...

Sứ quân nói chặn ngay:

- Thôi ngươi đừng nói nữa, ta hiểu cả rồi! Ta có bao giờ lại hồ đồ như vậy, đúng là tên Nguyễn Thúc Đạt bịa chuyện cả đây mà!

Sáu tướng lần lượt kể việc Đạt tới trước quân gọi Kim Ân Phú ra nhận lệnh ra sao, cho đến khi ba tướng đánh chết Đạt lại dứt đứt đầu treo trước quan tài Kim Ân Phú mà kể ra hết. Cả đại sảnh lặng người. Sứ quân ngồi thư suy nghĩ: “Việc bất hòa chỉ vì Nguyễn Thúc Đạt gian xảo mà ra cả, nếu không trấn an các tướng thì e có họa chẳng lành!”.

Nghĩ rồi, Sứ quân ôn tồn phủ dụ:

- Quả thật, Nguyễn Thúc Đạt là đứa có tội đáng chết các tướng giết y rồi cũng đủ cho y đền tội! Lão tướng Kim Ân Phú triệt binh còn kịp rửa thù cho ông Sở, công lao ấy vằng vặc đáng trọng. Việc binh thắng bại là thường, các ông đừng lấy làm phiền muộn gì cả!

Rồi Sứ quân truyền làm lễ an táng lão tướng Kim Ân Phú, lại luôn thể cho đắp điểm lại mồ Chung Tam Sở, rồi các tướng ra trận chẳng kể công lao thế nào đều được trọng thưởng bạc vàng lụa là. Sứ quân làm như không hề có việc bại binh thiệt tướng, cũng chẳng tỏ vẻ gì là lo nghĩ về việc nội bộ vừa trải qua cơn sóng gió.

Mọi việc vừa yên, đã thấy tin báo vào phủ đường: “Ở kẻ chợ có nhà sư thuyết pháp, lại nói rằng năm nay sinh nhiều điềm xấu, nào là ở Cổ Loa có chuột hai đầu thành tinh gieo rắc bệnh hiểm nghèo; ở Tế Giang có cây leo nửa đêm biến thành vô số là rắn dữ giết hại nhiều người; nào là xã Vân Hội có bến đò đêm hiện ra chiếc thuyền lạ trên có tiếng khóc than mãi cho đến lúc rạng đông mới biến mất; nào là ở Siêu Loại, sông Bái tự dưng nước lên cao trong dòng sông lại có thủy quái đầu như cái thúng phá phách dân chúng; ở Tiên Du thì có mưa nước đen tanh tưởi; cuối cùng thì nhà sư bảo rằng: Đỗ Động sắp có loạn lớn, bá tánh phải siêng năng lập đàn cầu Phật mà cầu được an ổn... Vì thế, tướng tuần phòng đã bắt giữ nhà sư để đem trình Sứ quân”.

Sứ quân Cảnh Thạc vốn không ưa những chuyện hoang đường, lại ghét đám nhà chùa hay dựa vào đức Phật để khuynh loát mê hoặc lòng người, nay nghe quân trình thì giận lắm, liền truyền đem nhà sư vào.

Sứ quân bảo các tướng vào cả nghị sảnh để nghe Sứ quân phát lạc mệnh lệnh trấn an dân chúng. Quân đưa nhà sư vào, nhà sư vóc dáng to lớn, đầu trọc nhẵn, áo cà sa mới tinh. Nhà sư hai mắt long lanh, dáng đi vững chắc. Vừa gặp Sứ quân, nhà sư đã nhanh nhẩu mà rằng:

- A di đà Phật! Sứ quân đang lo buồn, chắc hẳn ngài thiệt tướng bại binh đây mà! Phật pháp sáng suốt, thông tỏ khắp nơi, nhà chùa tôi mừng Sứ quân vừa trải qua cơn hoạn nạn nhưng vẫn vững thế chính ngôi! A di đà Phật!

Sứ quân, các tướng nghe nhà sư nói một hơi, không ai là chẳng giật mình, quả nhiên có việc Sứ quân vừa thiệt tướng bại binh, sao nhà sư lại biết?

Sứ quân cau mày hỏi:

- Nhà chùa trụ trì ở đâu, tới đây có việc gì?

Nhà sư ung dung đáp:

- A di đà Phật, Sứ quân thương mà hỏi đến nơi bản nạp trụ trì, nơi ấy ở núi Hạng Đàm, quanh năm chẳng có bóng người lai vãng, chim muông cũng chẳng sinh hoạt vì là đất độc rừng thiêng.

Sứ quân giọng gay gắt:

- Sao nhà chùa chẳng ở Hạng Đàm mà tu đạo, lại tới đây mê hoặc lòng người, làm dân gian náo động, ý định thế nào?

Nhà sư thản nhiên:

- A di đà Phật, kẻ tu hành ngồi trên núi cao nhìn ra phương Đông, thấy mờ mịt yêu khí, biết trăm dân đang khổ, nên mới phải xuống núi khuyên giải chỉ vẽ cho người đời biết đường tránh đấy ạ!

Sứ quân dằn giọng:

- Nhà chùa đem những chuyện nhảm nhí làm cho lòng người sợ sệt, lại dòm ngó đến việc quân của bản đường, có phải là người của bên ngoài sai đến gây sự, dòm ngó nội bộ ta không?

Nhà sư trang nghiêm:

- A di đà Phật! Sứ quân khép tội như thế, e có điều không phải. Phật có dạy: “Lấy đức gỡ oán, oán hết; lấy oán trả oán, oán chập chùng”. Sứ quân chẳng ban đức cho kẻ tu hành, sao lại nỡ oán giận như thế?

Sứ quân bực mình, liền hỏi:

- Nhà chùa đến giang sơn ta thuyết pháp lại cố ý làm loạn lòng người, tội rành rành! Nhà chùa đem lời Phật dạy ra để che tội, ta hỏi: Phật bảo giải thoát, nay ta muốn ứng lời Phật giải thoát cho ông thì ông có oán hận ta không? Ta thi đức đấy mà?

Nhà sư thoáng vẻ lo âu, chưa kịp đáp thì bên ngoài quân đi lại trình vào: “Không biết hôm nay là ngày gì, lại có hai ông sư nữa đi thuyết pháp rầm rầm ngoài kẻ chợ, nói năng xem ra là làm loạn lòng người, hai ông này cũng bị tướng tuần phòng bắt giải cả về phủ đường đợi lệnh Sứ quân!”.

Sứ quân nghe trình bực mình lắm, liền cho lệnh giải cả vào.

Lát sau, quân đưa hai nhà sư vào, ba nhà sư nhìn nhau cố nhịn cười. Thì ra đây là ba tướng của Hoa Lư, theo lệnh Quân sư đi khuấy động dân chúng các nơi, nay xong việc liền tới cả Đỗ Động mà dò la. Ba tướng Phạm Cự Lượng, Hồ Tường Thụy, Đinh Liễn gặp nhau tại phủ dường Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, người nào vóc dáng cũng to lớn, mắt long lanh sáng. Bộ điệu không thấy có gì tỏ ra là nhà chân tu cả. Sứ quân nhìn cung cách ấy chẳng khỏi vừa ghét lại vừa khinh bỉ bọn nhà tu!

Sứ quân nhìn ba nhà sư một lượt, rồi lạnh lùng hỏi:

- Thế gian hết chỗ để các vị học kinh nhà Phật rồi hay sao, lại đổ cả tới Đỗ Động này tập nghề rao truyền Phật pháp như thế? Bá tánh cầu được yên ổn còn chưa xong, sao các vị lại còn làm loạn lòng người như vậy?

Hồ Tường Thụy nhanh nhảu:

- Bẩm Sứ quân, muốn cầu được an ổn, không gì bằng đi chùa lễ Phật, hàng ngày chân thành đọc kinh nhà Phật đủ hai mươi bốn lần thì được phúc lớn, đọc được ba mươi tám lần thì chắc chắn mai sau thế nào cũng được vào Niết Bàn gặp Phật Tổ đấy ạ!

Sứ quân hầm hầm:

- Giặc ngoài muốn xâm phạm bờ cõi của ta, dân chúng lo lắng, ta lo lắng chống đỡ còn chưa xong, sao các vị lại xúi dân ẩn mặt cầu an như vậy, có phải là các vị xúi dân ta bỏ trốn việc phòng giữ chống lại giặc ngoài hay không?

Đến lượt Đinh Liễn nói:

- Bẩm Sứ quân, giặc ngoài tới thì binh tướng của Sứ quân tài sức có thừa để đuổi giặc, bá tánh lo gì đến việc ấy. Quả nhiên cứ tụng niệm kinh Phật cho nhiều là tâm định thân an, phiền não chẳng còn, tranh đua chém giết cũng hết. Nhờ đấy, Sứ quân được an nhàn cai trị trăm dân, sao lại bảo là tụng kinh Phật là không có lợi?

Sứ quân gắt:

- Lúc nãy, ông kia giảng lời Phật, ta có bảo: “Phật bản giải thoát, nay ta muốn ứng lời Phật và giải thoát cho cả ba ông thì các ông có oán ta không?”.

Bây giờ Phạm Cự Lượng mới lại lên tiếng:

- A di đà Phật! Sứ quân ngài dạy thế quả nhiên không sai lời Phật! Nhưng giải thoát như vậy thì lại phạm vào sát giới, nhà Phật rất lánh xa sát giới! A di đà Phật, Sứ quân lo lắng việc bá tánh ấy là ứng lời Phật dạy: “Lo cho chúng sinh an vui, thảnh thơi mà vui với Phật pháp”, như thế là công đức của Sứ quân lớn lao lắm! A di đà Phật!

Hai tướng Hồ Tường Thụy, Đinh Liễn nghe Phạm Cự Lượng nói thì cố nhịn cười, lại vừa sực tỉnh nhớ ra rằng: “Nhà chùa mỗi lần nói ra điều gì bao giờ cũng phải niệm Phật hiệu “A di đà Phật” đã, như thế mới đúng là nhà tu theo cửa Phật! Thế là hai tướng đua nhau giảng về lời Phật, Phật pháp, tu Phật lời nói lăng nhăng chẳng ra đâu vào đâu, duy chỉ có “A di đà Phật” thì cứ loạn cả lên, làm cho Sứ quân và văn võ các tướng vừa bực mình lại vừa buồn cười về sự dốt nát của mấy ông thầy chùa này!

Rồi Sứ quân nghiêm mặt hỏi:

- Thôi được, việc ba ông đến đây thuyết pháp cho bá tánh xong rồi, ba ông có còn ý định gì khác nữa không?

Hồ Tường Thụy đáp:

- A di đà Phật! Nhà chùa chúng tôi là con của Phật, tuy chẳng ngồi chung một chỗ, nhưng nước chung vẫn là Thiên Trúc, nay đến đây hoan hỉ giảng đạo, lại được gặp Sứ quân, A di đà Phật, thật là quý hóa!...

Đinh Liễn tranh lời:

- A di đà Phật, bọn nhà chùa chúng tôi không phải chỉ tới có một nơi đây, trước khi đến đây chúng tôi đã đi nhiều nơi rồi. Chúng tôi sẽ còn đi nhiều nơi khác nữa để giảng về Phật pháp vô biên, mong độ được chúng sinh ra khỏi cơn nước lửa.

Sứ quân cười khàn mà rằng:

- Ba ông đi thuyết pháp, cứu độ chúng sinh sao lại làm cho bá tánh đang yên ổn làm ăn phải kinh hoàng bỏ nhà bỏ của chạy đi tị nạn, cơ cực không biết thế nào là hết? Như thế thì ba ông đi gieo loạn mới phải chứ!

Ba nhà sư chưa kịp nói, thì tướng Cao Cẩm Đính đã nói tiếp lời Sứ quân:

- Bẩm Chúa công, ba ông thầy chùa này xem ra Phật pháp chẳng thông, nhưng lại giỏi nghề làm loạn lòng người, gây rối cho cả thiên hạ, lẽ ra ta đem chém đầu ngay mới phải, nhưng các ông ấy bảo là còn đi nhiều nơi khác thì tôi nghĩ là nên mau mau đuổi các ông ấy đi sang nơi khác là hơn!

Tới lúc này, Sứ quân mới nghiêm nét mặt, bảo:

- Các ông tự nhận là nhà chùa, nhưng ta xem ra chẳng có gì là nhà tu hành cả, biết đâu các ông chẳng là người ở đâu đến để gây rối tại giang sơn ta, nhòm ngó việc trong của ta! Nay chém đầu các ông cũng chẳng có tội gì, thả các ông đi ta e mang họa về sau, không thể thả được!

Ba tướng thầy chùa Hoa Lư nghe Sứ quân nói, thấy lạnh ở trong lòng, ba ông đưa mắt nhìn nhau kinh hãi. May chính vì nhờ cái vẻ mặt kinh hãi này thành ra Sứ quân mới cho là ba ông này quả là thầy chùa thật, nhưng ngu dốt đấy thôi. Sứ quân cứ đợi xem sao.

Trong lúc nguy hiểm như vậy, Phạm Cự Lượng phúc đáo tâm linh, mấy phen nghe lệnh Quân sư, nhiều lần nghe Quân sư định kế bày mưu, thì tự nhiên trí óc cũng sáng láng ra, liền bật nói:

- Bẩm Sứ quân, Sứ quân Ngộ Nhật Khánh trọng Phật yêu sư, lại khuyến khích bá tảnh siêng năng thờ lạy Phật, quả nhiên mấy phen binh ngoài xâm phạm bờ cõi Đường Lâm mà rút cục đành phải rút chạy cả. Như thế thì Sư hay Phật ắt có công, chúng tôi chẳng xin được lập công, cũng không dám mong được yêu kính. Chỉ xin được như ở Bình Kiều là Sứ quân chẳng đến nỗi vì đám nhà chùa ngu dốt chúng tôi mà mắng lây đến cả Đức Phật Tổ. A di đà Phật! Được Sứ quân cho phép như thế, nhà chùa chúng tôi mới dám thưa về Phật pháp?

Sứ quân chán ngán mấy ông thầy chùa, làm gì có chỗ nào trong lòng lại muốn dành để nghe thuyết pháp, chẳng qua chỉ muốn dọa mấy ông sư mà thôi, này nghe Phạm Cự Lượng nói vậy thì lại cho là các ông thầy chùa này là sư thật, lại không muốn rườm tai mất thì giờ, liền bảo:

- Thôi thôi! Ta là kẻ trần tục chẳng thích nghe thuyết giảng Phật lí, các ông là người tu hành thì cứ việc tu nhưng đừng có làm loạn lòng người là được. Việc binh không phải là cầu kinh Phật mà thắng trận được, các ông biết gì mà nói:

Việc tu hành đọc kinh Phật thì ba ông thầy chùa này không biết, chứ việc Quân sư thì ba ông lại biết rành lắm. Khi nghe Sứ quân nói như vậy thì ba ông chợt quên mình là nhà tu, máu nhà tướng nổi lên, ba ông cùng mở mồm toan tranh nói, Đinh Liễn đã bảo:

- Bẩm Sứ quân, việc binh tướng ra trận có người bày mưu tính kế cho thì cái sức mạnh mới vẹn toàn. Tướng đoạt thành chiếm đất lấy sức không chưa đủ mà cần phải có cái mưu lược hạ thành mới xong!

Sứ quân cau mày không hiểu mấy ông thầy chùa này là người thế nào mà việc binh bị cũng lại muốn giảng nốt. Sứ quân xua tay:

- Thôi, thôi! Việc giảng đạo của các ông không ăn nhập gì đến việc tướng lấy thành chiếm đất cả, các ông đừng nói nữa!

Sứ quân vừa nói xong, quân lại trình vào: “Có một nhà tu nữa cũng đang giảng pháp ở kẻ chợ. Tướng tuần phòng cũng đưa luôn về trình Sứ quân!”.

Sứ quân bật kêu lên:

- Hôm nay là ngày được mùa sư chắc, sao mà lắm thế?

Ba tướng Hoa Lư liếc mắt nhìn nhau, không hiểu lại còn có ông sư nào nữa thì quân đưa nhà sư vào. Nhà sư này trọng tuổi, vóc dáng gầy gò, cà sa bạc phếch, tay chống cây kim cương trượng. Trông rõ ra là nhà tu hành từ bi chân chính. Ba tướng Hoa Lư thở ra nhẹ nhõm. Sứ quân khẽ gắt:

- Nhà chùa sao không giữ việc tu hành ở nơi yên tĩnh, mà lại về kẻ chợ làm náo loạn lòng người lên như vậy là thế nào?

Nhà sư già giọng ấm, ung dung đáp:

- A di đà Phật! Tháng nào nhà chúa chúng tôi cũng về kẻ chợ giảng đạo pháp, nhận của thập phương, có bao giờ nhà chùa chúng tôi dám làm loạn gì đâu. Bẩm Sứ quân, nay thiên hạ đại loạn, Sứ quân góp một phần vào việc trị dân, đem no ấm lại cho trăm dân, nhà chùa chúng tôi giảng về Phật pháp để giữ cho lòng người được trong sạch yên ổn, cũng là giúp Sứ quân việc giữ dân đấy mà!

Sứ quân nghe nhà sư nói thì rất bực mình. Sứ quân chưa bao giờ lại phải nhờ vả đến ai chỉ dạy cho việc trị dân giữ đất, nay nghe nhà chùa nói như vậy thì bực mình gắt:

- Bọn nhà chùa các ông mấy ngày nay làm loạn lòng người, ta chưa hỏi tội lại còn đến đây kể công với ta nữa sao? Ta không tin các ông là người tu hành chân chính, một ngày mà lắm Sư làm loạn thế này ắt hẳn có nguyên do gì đây, ta phải tra ra mới được!

- A di đà Phật! Bẩm Sứ quân, ngài nói như vậy chẳng phải là không đúng! Quả thật dạo này có lắm sư gian ra đời, chuyên đi làm bậy thành ra bọn nhà chùa chân chính chúng tôi cũng bị mang tiếng oan…

Đinh Liễn lại tiếp luôn:

- A di đà Phật! Bẩm Sứ quân, quả thật lúc này có nhiều sư gian, ở bên Tế Giang, có bọn sư gian tám ông mê hoặc lòng người, vơ vét được tài sản lên đến mấy trăm mẫu ruộng, về sau vì chẳng biết gìn giữ được nữ sắc mà bị lộ chuyện, bị Sứ quân Lữ Đường giết cả. Lại ở Tiên Du, phong cảnh u nhã, nhà chùa cũng lắm, bọn du thủ lưu manh lợi dụng làm bậy, cũng bị Sứ quân biết được hạ ngục cả. Mới đây, chúng tôi có nghe ở Đằng Châu Sứ quân Phạm Phòng Át nghe lời nhà chùa gian, đến nỗi đuổi cả dân lấy đất cho sư xây chùa, làm cho dân chúng oán than. Sau nhờ có mấy ông tướng bí mật giết mấy nhà sư gian ấy đi mới hết họa. Bẩm Sứ quân, xem như thế thì việc Sứ quân nghi ngờ bọn nhà chùa chúng tôi cũng không oan, nhưng cũng may được Sứ quân sáng suốt nhìn là biết bọn sư gian như thế nào rồi, nhờ đấy mà chúng tôi không bị vạ lây đấy ạ! A di đà Phật!

Sứ quân nhếch mép cười nhạt, mỗi con mắt hai đồng tử long lanh đảo lộn nhìn soi mói mấy nhà sư, rồi Sứ quân hỏi:

- Các ông bảo sư gian với sư ngay khác nhau như thế nào?

Ánh mắt Sứ quân dữ dội mà có sức mạnh như dùi vào da thịt, ba tướng Hoa Lư đởm lược hơn người nên giữ được vẻ thản nhiên, bình tĩnh. Duy có nhà sư già là bậc tu hành thật thà, không chịu nổi cái nhìn ghê gớn ấy của Sứ quân vì thế nhà sư có phần luống cuống, sợ sệt. Sứ quân nhận thấy rõ ràng như thế, ba tướng Hoa Lư cũng biết như vậy, Phạm Cự Lượng liền nhân cơ hội trút tội:

- A di đà Phật, bẩm Sứ quân, người ngay thẳng trong lòng thanh thản, cho nên lúc nào cũng tỏ lộ được cái thái độ “tĩnh không” của Phật tổ. Kẻ gian tà trong lòng vẩn đục những mờ ám cho nên lúc nào cũng sợ sệt, kinh hãi. Ví như ma quỷ phải sợ ánh mặt trời, người ngay thẳng phong độ tự nhiên thần tĩnh, kẻ gian tà đứng ngồi đều không yên, mắt nhìn chẳng dám nhìn thẳng đấy ạ!

Phạm Cự Lượng nói những lời lẽ ấy ra, càng làm cho nhà sư già thêm sự hãi, người ngay thẳng thật thà tuy trong lòng không mờ ám nhưng cũng không khỏi khiếp sợ sự oan khiên, vì thế nhà sư cứ cúi đầu lặng lẽ.

Sứ quân càng thấy thái độ ấy của nhà sư già, lại càng nghi ngờ, Đinh Liễn được đà của Phạm Cự Lượng liền nói:

- A di đà Phật, gian tà bây giờ nhiều hơn ngay thẳng, đến nhà chùa cũng lẫn những kẻ gian manh, đạo đức chẳng vững thì chỉ còn có phép trị nước nghiêm minh mới mong sửa trị được xã hội. Kẻ có tội phải bị trừng trị nặng mới xong!

Đến lượt Hồ Tường Thụy vin vào:

- Cổ Loa cũng chỉ vì xem nhẹ phép nước, trên dưới nghiêng ngửa, gian tà thao túng hại trăm dân, ngay thẳng bị xem là thù nghịch bị tiêu diệt cho nên xã hội mới đại loạn như ngày nay. Bẩm Sứ quân, ngài thị trăm dân nếu có cơ hội trừ gian tà thì đừng nên ngập ngừng, thấy người ngay thẳng thì nên làm cho tỏ rạng người ngay, để lòng người cùng hoan hỉ hướng cả về Sứ quân mà mong đợi. Có như thế, bọn nhà chùa chân chính chúng tôi mới gỡ được cái tiếng oan uổng là “kẻ tu hành gian manh hơn cả thế tục” đấy ạ!

Sứ quân cười nhạt chẳng nói, nghe ba nhà sư mỗi người một lời thì trong lòng lại càng nghi ngờ vị sư già, Sứ quân chợt hỏi:

- Thế còn vị sư này, ông khuyên gì ta đây? Có phải là ông muốn khuyên ta trong thì dung dưỡng gian tà, ngoài thì dụng cường quyền bạo lực để áp chế trăm dân đấy không?

Vị sư già kinh hãi, như thế thì quả thật Sứ quân có lòng nghĩ mình là sư gian, là lưu manh làm những điều xằng bậy rồi! Nhà sư già như chợt tỉnh, hai mắt long lanh, gương mặt bình thản, ông chậm rãi:

- A di đà Phật! Bẩm Sứ quân người ngay thẳng chẳng cần biện bạch tự nhiên ngay thẳng cũng sáng tỏ, kẻ gian tà càng ra sức biện bạch để che giấu tội lỗi nhưng gian tà càng tỏ lộ! Dám bẩm Sứ quân, nhà chùa chúng tôi không dám có lời khuyên Sứ quân nhưng dám xin Sứ quân cho được nhà tu hành chúng tôi hành đạo giúp đời...

Sứ quân gay gắt ngắt lời:

- Có phải giúp đời là ở chỗ khuấy động lòng người, làm loạn cương thường đấy không? Các ông xúi bẩy làm cho bá tánh bỏ cửa bỏ nhà mà đi, loạn nước ở đấy mà ra chứ còn ở đâu nữa?

Nhà sư già liền cãi:

- A di đà Phật! Chúng tôi là kẻ tu hành sao dám xúi giục làm loạn lòng người được? Giả sử việc triều chính trị dân không sai lạc với đạo thánh hiền, thì làm gì còn có cái cảnh xã hội loạn li nữa!

Sứ quân nghe đến đây thì nói lớn lên:

- Như vậy là ông bảo ta là người làm loạn triều đình chẳng theo đúng triều dình, trị dân toàn những sai lạc mới sinh ra loạn trong xã hội! Như vậy thì ông chẳng là kẻ làm loạn thì còn ai nữa? Quân bay!

Quân dạ ran, Sứ quân hầm hầm giận dữ:

- Phép nước không nghiêm, gian tà không bị tiêu diệt, sao có thể an được lòng người, xếp đặt được việc xã hội! Kẻ có tội phải bị trừng trị mới xong! Mau dem nhà sư này ra chém đầu răn chúng!

Quân xúm lại lôi nhà sư đi, ba tướng Hoa Lư run thầm trong bụng. Đinh Liễn cố tự nhiên mà rằng:

- Bẩm Sứ quân.

Sứ quân ngắt lời:

- Các ông cũng muốn theo đứa gian tà kia chăng? Thôi ta không muốn nghe thêm gì nữa! Các ông đi ngay đi, lần sau gặp ta ắt không còn được dung thứ nữa đâu? Bọn nhà chùa các ông làm loạn cũng không ít! Đi đi thôi!

Dứt lời, Sứ quân phất tay áo bãi buổi hội, lại có ý đuổi ba nhà sư. Thế là ba tướng Hoa Lư thoát nạn, ung dung đứng dậy ra khỏi phủ dường Sứ quân Đỗ Động. Ba tướng kín đáo đưa mắt xem xét địa thế, ung dung bước ra nhưng kì thật là cố chậm bước để ra vẻ phong thái nhà chân tu, lại vừa để có thì giờ quan sát.

Ba nhà sư tướng Hoa Lư đi ra một lát, Sứ quân đợi cho các tướng ra khỏi nghị sảnh rồi, mới quay lại hổ trướng ngồi thư suy nghĩ! Nghĩ còn chưa đủ, đã thấy tướng tuần phòng chạy vội vào quỳ gối bẩm:

- Bẩm Chúa công, một tướng tuân lệnh đem nhà sư gian ra pháp trường trị tội, việc sửa soạn vừa xong thì có ba nhà sư ở đâu xồng xộc vào cướp pháp trường, ba nhà sư này hung hãn quá quan quân không làm sao can nổi, vì thế kẻ tội phạm đã bị bà nhà sư cướp đi mất rồi? Tướng trấn thủ vừa mới mang quân đuổi theo ba sư ấy!...

Sứ quân nghe báo, giật mình nhíu mày suy tính, rồi chợt giậm chân mà rằng:

- Thôi, thôi, ta mắc lừa kẻ gian manh, mang tiếng lớn với thiên hạ mất rồi!

Rồi Sứ quân truyền gióng trống triệu tập văn võ các tướng, toan quyết việc đem binh truy nã ba nhà sư gian, thì lại có quân từ ngoài hấp tấp xin báo bẩm trình việc Quân sư khẩn cấp.

Chưa biết lại có việc gì xảy ra, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—