Hồi Thứ Bảy Mươi Bảy Lữ Đường lui binh đoạn chiến
Thủ Tiệp tế tác điểm quân
Quân vào trình:
- Bẩm Chúa công, binh Tế Giang, theo đường thủy xuống đánh Phù Liệt đại bại phải chạy về, lại đi đường bộ xâm phạm phía Nam bờ cõi của ta. Chưa biết Tế Giang có ý định như thế nào?
Sứ quân nghe cấp báo cả kinh vội truyền tướng Quốc Hồi Uy mang hai nghìn quân đi phòng giữ các nơi hiểm yếu. Chờ xem binh Tế Giang toan tính ra sao? Binh của tướng Quốc Hồi Uy vừa kéo đi, quân đã lại trình vào: “Tướng biên trấn Cổ Loa, được lệnh ra quân dàn ở bên kia sông Bạch Hạc, cũng chưa rõ ý định thế nào?”.
Sứ quân được tin trong lòng bối rối, vì thế cũng chẳng còn có thời giờ mà nghĩ đến việc Chung Tam Sở bại quân, Kim Ân Phú chết vì uất khí. Sứ quân cũng lo không biết Đường Lâm liệu có cử binh gây sự hay không, nhất là khi được tin binh của Phù Liệt đi đánh Đồng Lư cũng đại bại phải chạy về, thì Sứ quân lại càng lo Đường Lâm có thể xuất binh Đông phạt.
Nhưng, mối lo của Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc thực ra cũng chẳng có gì, vì binh ngoài không nơi nào có ý muốn xâm phạm Đỗ Động cả.
Binh Tế Giang do quân sư An Dương Thanh Sứ đích thân chỉ huy thay thế cho Đại tướng Trình Kế Ngọc mạng vong vì đường gươm rửa hận của tướng Lâm Phúc trong trận ác chiến giữa quân Tế Giang với Bình Kiều trên đất Phù Liệt dạo nọ.
Pháp sư bây giờ không cưỡi con trâu trắng nữa, vì con trâu ấy bị tướng Lâm Phúc chém lìa một sừng bên trái vào sát đến sọ để đoạt lại xác tướng Nguyễn Bá Thượng. Con trâu không chết ngay lúc ấy nhưng đau quá phát điên lên lồng chạy, nhờ đấy mà pháp sư thoát chết về tay Lâm Phúc, sau con trâu cũng chết. Pháp sư lúc này cưỡi ngựa đi đầu, hai bên có các tướng hộ vệ.
Pháp sư bị trúng một ngọn roi sắt của Nguyễn Bá Thượng, vết roi rạch dài một đường trên lưng, may chưa đúng tầm nên chỉ xẻ thịt đau đớn, chứ không đến nỗi lấy tính mệnh của Pháp sư. Pháp sư đau đớn, mệt mỏi, quên cả việc nữ sắc!
Pháp sư cho lệnh quân án lại Xuân Kiều để đợi xét tình hình Binh Tế Giang thắng Phù Liệt nhưng lại thất bại lớn vì quận Bình Kiều trong lòng các tướng không khỏi chán nản lo lắng. Binh của Pháp sư thống lĩnh một mặt thông tin về cho Sứ quân Lữ Đường hay mọi việc, một mặt cho người đi dò xem đạo quân của tướng Lương Tích Lịch chỉ huy. Có các thuộc tướng là Đỗ Bằng Lân, Phạm Đại Hải, Phạm Hoàng Linh, Trần Đức Việt và Lý Phúc Tảo, xem đạo quân này đi đường bộ vượt Bình Kiều xuống đánh Đằng Châu ra sao.
Đạo quân Tế Giang theo đường bộ do tướng Lương Tích Lịch thống lĩnh vì được lệnh cố tránh không để lộ hình tích để khỏi phải giao tranh với binh Bình Kiều, cho nên phải đi đường vòng, băng rừng vượt núi, lánh xa nơi dân cư mà đi, thành thử vì thế tiến rất chậm. Đến khi đạo quân này tới được biên giới Bình Kiều - Đằng Châu, binh chưa kịp hạ trại dàn quân, tướng Lương Tích Lịch đã được tin binh Tế Giang vượt sông vào Phù Liệt. Phá binh Phù Liệt, hỗn chiến thua thiệt với binh Bình Kiều rồi.
Lương Tích Lịch vốn tự thị có cây A Hồ Lục Cương Kiến là báu vật ở thế gian, lúc xuất hiện viễn chinh đã tưởng là phen này tha hồ tung hoành trong thiên hạ. Nào ngờ mới tới được đây đã nghe tin binh nhà bên kia sông thua thiệt phải lui trở lại, lại thêm Đằng Châu cử thuyền ngược dòng Xích Đằng. Bây giờ đã lui lại để làm thế ngự phòng nơi biên giới dòng sông ở mặt bộ. Bốn tướng Hoa Lư là Lê Hoàn, Nguyễn Bặc trấn ở Đông Bắc Đằng Châu, Trịnh Tú, Chu Kỷ Toàn trấn ở Tây Bắc Đằng Châu. Thảy đều đã được tin của Quân sư cho hay về việc binh Tế Giang vượt Bình Kiều muốn xâm phạm Đằng Châu, các tướng cũng cho tế tác đi dò la tin tức và bây giờ biết rõ địch hành động ra sao, liền dàn quân theo kế của Quân sư rồi phao đồn ầm lên rằng Đằng Châu xuất đại binh sắp phá tan quân Tế Giang.
Đạo quân của Lương Tích Lịch bây giờ mới thật là chơ vơ. Bị nghẽn ở giữa nơi nguy hiểm, phía Bắc thì Bình Kiều không thắng lợi ở Phù Liệt sắp đưa quân về. Ở nội lãnh thổ thì tướng Triệu Mai Nhận được Sứ quân Ngô Xương Xí cho toàn quyền điều động quân để giữ nhà, đã đem quân dàn trận để cự với binh Tế Giang.
Ở bên kia sông Xích Đằng. Pháp sư được tin bất lợi cho đạo quân đi đường bộ, liền một mặt trình về Sứ quân xin triệt binh, một mặt thông tin cho Lương Tích Lịch biết sự thể. Lịch được tin của Pháp sư thì chẳng cần đợi lệnh Sứ quân, ngay giữa đêm truyền quân lẳng lặng nhổ trại, âm thầm nương theo đường cũ gấp rút chạy về.
Sứ quân Lữ Đường được tin cáo mật, trong lòng lo lắng vô cùng, liên miên hội các tướng văn võ để bàn cãi về tình hình, tìm cách ổn định mọi việc. Hội nghị liên miên không dứt, còn chưa tìm ra được cách nào để chuyển đổi tình thế, đã thấy trấn phủ tướng trình vào là khắp nơi dân gian náo động. Nhiều tin đồn lạ lùng nào là Bình Kiều sắp xuất quân Bắc phạt, nào là Lý Khuê ở Siêu Loại liên minh với Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du để đánh Tế Giang, nào là tin ở ngoại biên liên miên gửi về cho biết quân viễn chinh thất lợi. Đại tướng Trình Kế Ngọc cùng với mấy tướng tử trận. Sứ quân Lữ Đường nghe tin càng bấn loạn, liền quyết định phát lệnh cho tướng Lương Tích Lịch gấp rút đưa quân về. Lệnh vừa ban xuống đã có tin tướng Lịch chuyển quân đang âm thầm chạy về.
Sứ quân cũng lại cho quân mau mau đưa tin gọi đạo quân do Pháp sư trông nom về gấp.
Binh của Pháp sư kéo lên phía Bắc, đi đường bộ nhiều hơn đường thủy cốt lấy tiện việc cho mình, nhưng lại làm cho cả vùng phía Đông Nam Đỗ Động náo loạn. Quả nhiên ứng với những lời đồn đại là binh Phù Liệt sắp đánh chiếm vùng này. Thế là, dù có lệnh của Sứ quân Cảnh Thạc cấm không cho dân chúng bỏ chạy, dân chúng cũng bồng bế nhau đi lánh nạn. Sứ quân Cảnh Thạc giận lắm, hội chúng tướng mà rằng:
- Trước, có tin nói là quân Phù Liệt muốn đánh phía Nam của ta, bây giờ thì binh Tế Giang bại trận chạy về lại dám nghênh ngang đi qua đất của ta làm cho lòng người náo loạn. Ta muốn nhân cơ hội này trước là trừng trị Tế Giang, sau là kiếm lấy chút lời để dành mai sau. Vậy tướng nào muốn cầm quân ra trận phá binh Tế Giang?
Tức thì có mấy tướng cùng đứng dậy xin đi, Sứ quân rất hài lòng bảo:
- Tốt lắm, như vậy là các ông ai cũng hết lòng cả, việc chiến trận rồi đây ai cũng có phần gánh vác cả. Thôi bây giờ thì ông Quốc Hồi Uy ra trận trước, các ông khác hãy cứ nghỉ ngơi đã nhé!
Rồi Sứ quân truyền tướng Quốc Hồi Uy lĩnh hai nghìn quân, thêm các tướng Đỗ Trọng Đẩu, Ngô Vọng Thái, Quách Bạch Hạc và Lê Tường Bính cùng ra trận. Sứ quân lại dặn tướng cầm quân Quốc Hồi Uy rằng:
- Binh Tế Giang bại trận chạy về, ắt tinh thần chẳng còn, nhưng phải nhớ rằng đạo quân ấy lại do một tay yêu thuật chỉ huy, y là kẻ gian manh tàn ác, vậy phải hết sức cẩn thận mới được!
Sứ quân không muốn để các tướng vừa từ Đường Lâm về phải vất vả ra trận lần nữa, nhưng Sứ quân lại chẳng nói rõ, cũng không có ai được biệt đãi, tuy rằng mọi người đều được thưởng công nhưng làm như thế thì lại tỏ ra là chẳng trọng công lao thật sự. Bây giờ Sứ quân sai các tướng khác ra trận, tuy trong lòng Sứ quân không định, thế nhưng người ngoài chẳng khỏi dị nghị về sự vụng về của Sứ quân, ắt làm cho các tướng phải buồn lòng. Binh của Quốc Hồi Uy kéo ra ngoài doanh, theo đúng lời dặn của Sứ quân thẳng đường ra phía Đông, rồi men theo dòng sông mà xuống phía Nam.
Binh đi được hai ngày đường gặp không biết bao nhiêu chuyện trong dân gian, mắt được thấy lê dân bồng bế nhau chạy giặc. Dân chúng dừng lại bên vệ đường xem quân của Sứ quân trẩy xuống Nam, còn ai dám bảo là không có loạn li nữa! Thế là trong nháy mắt, cả thiên hạ xôn xao cho là quả thật có việc binh ngoài xâm phạm bờ cõi Đỗ Động, họa gươm giáo tất không tránh được!
Quân của Quốc Hồi Uy xuống đến núi Phục Tượng thì dừng lại, dàn thành trận thế để đợi binh Tế Giang.
Thế là việc Quân sư Hoa Lư sai tướng Đinh Liễn đi phao tin ở Tế Giang là Đỗ Cảnh Thạc sắp đánh Tế Giang, nay lại thành sự thật. Tế Giang với Đỗ Động sắp giao chiến với nhau, nhưng chiến địa lại ở bên này sông, thuộc giang sơn của Đỗ Cảnh Thạc!
Binh Tế Giang hạ trại nghỉ ngơi được một ngày, thì quân Đỗ Động lên đường. Vết thương do ngọn roi sắt của tướng Nguyễn Bá Thượng rạch đứt da thịt ở lưng Pháp sư An Dương Thanh Sứ tuy không làm cho Pháp sư chết được nhưng hiện giờ đau nhức lắm. pháp sư suốt ngày nằm ở trong trướng mà rên. Thành thử vì thế việc quân do năm tướng còn lại là Nguyễn Hồng Vỹ, Phạm Đăng Tùng, Cao Xuân Nhuận, Lê Doãn Hồ, và Đỗ Hùng Liệt chia nhau trông coi.
Xế trưa hôm ấy, tế tác hấp tấp chạy về báo tin: “Binh Đỗ Động đã kéo tới hạ doanh ở núi Phục Tượng, đang đợi quân ta để chặn đánh!”. Tức thì năm tướng họp nhau lại mà bàn kế cự địch. Lê Doãn Hồ nói:
- Lần ra quân này, quân ta thiệt Đại tướng tiên phong Trình Kế Ngọc lại mất thêm Phó tướng Dương Lệ Thắng. Pháp Sư quân sư suýt nguy đến tính mạng. Nay quân ta về được đến đây, lại gặp quân Đỗ Động chẹn đường, các ông bàn nên hành động ra sao đây?
Các tướng bàn nhau hồi lâu, đều cùng chung ý nghĩ: “Binh Tế Giang lúc này không chủ chiến, nhưng tìm đường về được căn cứ của mình cốt sao cho an toàn”. Vì thế, năm tướng vào trình Quân sư An Dương Thanh Sứ để xin ý kiến. Quân sư đang đau nhức rên rỉ, nghe tin binh Đỗ Động chặn đường thì đang đau cũng hết cả đau. Kinh hãi quá, lật đật ngồi dậy đến khi được các tướng trình rõ ý kiến là nên làm cách nào để về được an toàn, tránh giao chiến thì hơn, thì Pháp sư bằng lòng lắm!
Pháp sư vốn là kẻ tà ma, gian xảo, trong lúc cấp bách liền nảy ý muốn điều đình với Đỗ Động, Pháp sư bảo các tướng:
- Thật ra ta thừa sức phá binh Đỗ Động, nhưng ngặt một điều hiện giờ trong mình ta không được khỏe mạnh, phép màu khó thi thố, vậy ta chịu điều đình với Đỗ Động là hơn! Vả chăng Đỗ Động hai mặt thủy bộ vừa bị Đường Lâm đánh cho đại bại, nội bộ lại lung lay, ắt việc Cảnh Thạc mang quân chặn lối của ta, cũng chẳng khác nào tên thợ săn ốm đói. Cùng đường quá, phải chặn lối đi của cọp mong có thịt ăn đấy thôi! Nay ta ngỏ ý giảng hòa tất chúng nó cũng mừng mà nhận chứ chẳng sai!
Các tướng vừa mới được thấy chiến trận khốc liệt, nay dù tự tin thế nào chăng nữa, nhưng nghe Pháp sư nói cũng không ai cho là đúng, nhưng cứ làm theo lời Pháp sư xem sao?
Thế là tin của Tế Giang gửi sang doanh Đỗ Động, Quốc Hồi Uy nhận thư nghị hòa của Tế giang thì phân vân lắm. Một mặt họp các tướng lại bàn, một mặt gấp chạy tin về trình Sứ quân để xin lệnh. Soái tướng Quốc Hồi Uy truyền hậu đãi sứ giả của Tế Giang, lại dặn là về tình với Pháp sư: “Xin chậm lại đôi ba ngày để dàn xếp mọi việc, rồi sẽ phúc đáp sau”.
Sứ giả về trình, Pháp sư huênh hoang đắc chí:
- Quả nhiên lời ta đoán chẳng sai, chúng nó có mạnh thì đã chẳng xin ta trì hoãn vài ngày để điều đình, chỉ những kẻ yếu mới mong được điều đình mà thôi!
Pháp sư quên mất mình mới là người đưa tin muốn điều đình trước! Rồi Pháp sư bảo:
- Phàm đã điều đình, thì các ông phải nhớ là: ta phải dựng được cái thế, tạo được một cái quang cảnh thuận tiện. Nay ta đang mệt mỏi trong người, cũng phải làm sao để cho tỏ ra đường hoàng, phong độ mới được. Từ giờ cho đến lúc có tin của Đỗ Động, các ông phải sửa soạn cho đầy đủ, quân phải nghiêm, các ông là tướng phải oai vệ, nhung phục cho rực rỡ. Đợi Đỗ Động tới nghị hòa trong cái thế nhàn nhã ung dung mới được!
Pháp sư cho lệnh sửa sang lại hổ trướng, bày biện uy nghi như tại bản doanh Tế Giang, chứ chẳng có vẻ gì là trong doanh của đạo quân đang chinh chiến ở xa.
Được một hôm, thì có tin của Đỗ Động xin cử sứ đến để điều đình về việc binh Tế Giang đi qua lãnh thổ Đỗ Động về Tế Giang. Pháp sư An Dương Thanh Sứ đem năm tướng Nguyễn Hồng Vỹ, Phạm Đăng Tùng, Cao Xuân Thuận, Lê Doãn Hồ và Đỗ Hùng Liệt cùng ngồi nghị bàn với sứ của Đỗ Động.
Sứ của Đỗ Động chính là tướng Quốc Hồi Uy. Tướng Uy không bận võ phục mà lại ăn vận theo văn quan, chỉ mang theo có hai quân hầu. Quốc Hồi Uy vóc người tầm thước, gương mặt thanh tú. Nay ăn bận theo lối văn quan thì không ai biết được ông ta chính là võ tướng.
Vào hội, Pháp sư ngồi ghế chính giữa, bên cạnh có hai cô gái đẹp quạt hầu, bưng nước kê tận miệng cho Pháp sư uống. Thái độ thật dâm dật khó coi, còn các tướng thì chia nhau ngồi ở hai bên. Tướng Quốc Hồi Uy bước vào đại sảnh, dáng điệu khoan thai, nhận mình là văn quan tận Đỗ Động đến để nghị hòa với binh Tế Giang. Pháp sư nghe nói rất hài lòng, vẻ kênh kiệu tự thị mà rằng:
- Như thế, là Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc cũng là người đáng gọi là khôn ngoan biết mình biết người đấy! Nay binh ta đại thắng Phù Liệt, giết tướng Bình Kiều xong thì trở về. Chiến trận dù đại thắng cũng có chút mệt mỏi cho ba quân tướng sĩ, cho nên binh ta muốn trở về ngay thẳng, chẳng muốn làm cho các nơi sợ hãi nên mới phải mượn đường của Đỗ Động để trẩy quân. Vậy Sứ quân Cảnh Thạc có đòi hỏi gì ta không?
Quốc Hồi Uy nghe pháp sư huênh hoang thì trong lòng giận lắm, nhưng làm như chẳng có gì, chỉ một mực kính cẩn khép nép khiến Pháp sư và các tướng Tế Giang thỏa thích lắm. Quốc Hồi Uy bảo:
- Bẩm Pháp sư, Đỗ Động tôi đem binh ngoại chiến chẳng qua cũng chỉ vì tình thế bắt buộc, nay việc binh không lợi cho nên khi thấy đại quân Tế Giang kéo qua lãnh thổ của mình, ý hèn cũng tự biết là: binh Tế giang không có ý xâm phạm gì Đỗ Động cả. Nay trong quân của Tế Giang đích thân tôi được nghe cao ý của pháp sư, thì Đỗ Động chúng tôi không còn chỗ nào là còn thắc mắc nữa. Vì thể không dám có điều gì đòi hỏi ở ngài cả, chỉ dám xin ngài cho biết là: đại quân Tế Giang sẽ đi đường nào mà thôi?
Pháp sư An Dương Thanh Sứ bình thường vốn là đứa gian ác, lắm thủ đoạn, mưu mô chẳng ít. Bây giờ muốn ra oai khinh thị thiên hạ lại được thiên hạ rạp mình qụy lụy, thì sung sướng lắm. Quên mất cả những điều cấm kị của người cầm quân cho nên mới hỏi các tướng:
- Này các ông, quân ta ngay bây giờ sang sông cũng được, nhưng qua sông rồi đường bên kia sông không được tốt bằng bên này, vì thế ta nghĩ rằng cứ mượn đường của Đỗ Động mà ngược lên cho đến chỗ sông bắt đầu ngoặt khúc tức là vào địa phận Văn Giang. Lúc ấy quân ta sẽ vượt sông vào Tế Giang là hay hơn cả, các ông nghĩ thế nào?
Pháp sư coi việc mượn đường của Đỗ Động mà đi là điều Đỗ Động có bổn phận phải để cho binh Tế giang muốn đi đứng thế nào cũng được, tùy ý thích. Các tướng Tế Giang mới thoạt nghe cũng thấy có khó nghe đôi chút nhưng đã thấy sứ giả của Đỗ Động nói:
- Bẩm Pháp sư, đường đi Pháp sư tính như vậy thì cũng tiện lắm. Dù vậy, Đỗ Động chúng tôi xin được tỏ tình để hi vọng giao hảo mai sau...
Pháp sư vênh mặt:
- Ông muốn Đỗ Động giao hảo với Tế Giang ta ra sao, tỏ tình thế nào?
Quốc Hồi Uy cười tươi tắn:
- Bẩm, binh Tế Giang viễn chinh trở về đại thắng, nhưng chắc cũng có đôi phần mệt mỏi. Vậy nếu đường bộ kéo đi thì cả người lẫn ngựa đều mệt mỏi thêm, cho nên Đỗ Động chúng tôi xin được tỏ tình quý hóa Tế Giang bằng cách kết bè để quân Tế Giang độ giang. Lại sai quân kéo bè ngược dòng để binh Tế Giang về Văn Giang cho thuận tiện. Như thế thì binh Tế Giang về đường sông vừa êm đềm, mà Đỗ Động chúng tôi cũng được cái ơn là không náo loạn lòng dân vì binh ngoài kéo qua giang sơn mình đấy ạ!
Pháp sư nghe Sứ giả đề nghị thì tưởng như bay bổng lên mây, mừng quá. Còn các tướng thì cũng hết thắc mắc, ông nào cũng tỏ ra hân hoan, thế là các tướng Tế Giang đều tự nhiên có cảm tình với Sứ giả Đỗ Động!
Lập tức, Pháp sư truyền dọn tiệc để đãi sứ. Trong tiệc lại hẹn đúng ngày giờ thì Đỗ Động sẽ đưa bè đến để binh Tế Giang sang sông. Mọi việc dàn xếp thật tốt đẹp không ngờ được.
Hai hôm sau, bè của Đỗ Động đã kết xong, cả thảy là ba mươi chiếc, bằng tre vầu vững chắc. Bè nọ ràng chặt vào bè kia lập thành một bè lớn trên sông. Binh Tế Giang người ngựa xuống cả dưới bè. Pháp sư đem các tướng cùng Sứ giả Đỗ Động xuống bè, đóng bản doanh ở khoảng giữa, rồi lại truyền đem rượu đãi sứ. Binh Tế Giang bỏ khí giới, ngựa bỏ yên, các tướng cởi chiến giáp, tất cả đều say sưa nghỉ ngơi. Đợi đến gần nửa đêm nước lên thì quân Tế Giang mới nương theo con nước đẩy bè ngược dòng tiến lên. Bè ngược dòng, còn có chục chiếc thuyền con của binh Đỗ Động kéo theo. Tướng Quốc Hồi Uy tận tình uống rượu với các tướng Tế Giang, mãi đến quá nửa đêm mới cáo từ. Gọi quân tháo một chiếc thuyền nhỏ mà bơi vào bờ.
Quốc Hồi Uy rời bè chở quân Tế Giang đúng vào lúc nước ròng đã đứng. Uy nói là đưa tiễn quân Tế Giang đến đây thôi, rồi xin phép trở về doanh, nhưng sứ để cho đám lính ở lại để giúp đẩy bè.
Pháp sư cùng các tướng Tế Giang tiễn sứ, người nào cũng chếnh choáng hơi men, không ai là không hả dạ cười nói oang oang. Quốc Hồi Uy chỉ một mực giữ thái độ khiêm tốn, cung kính chào mọi người rồi xuống thuyền nhẹ truyền quân đẩy chèo đưa thuyền vào bờ.
Bè chở đại quân Tế Giang chậm chạm ngược dòng, đại quân Tế Giang thung dung lắm, không ai lo lắng gì cả. Bè ngược dòng được hai ngày, không có gì trở ngại, quân Tế Giang quen cảnh an nhàn không ai canh gác, hết thảy như đám người đi trẩy hội trên sông, náo nhiệt vui chơi chứ chẳng có gì gọi là đại quân đang độ giang được.
Đến nửa đêm hôm ấy, nước ròng vừa rút, bè đang lơ lửng giữa sông rộng bát ngát, hai bên bờ sông mờ mịt chẳng biết ở đâu, chỗ gần khúc quanh sông rộng lắm, sóng rung nhè nhẹ. Đại quân Tế Giang đã tắt đèn ngủ cả, chỉ còn có đám lính Đỗ Động giữ việc đẩy bè thì cùng lên bảo nhau bỏ bè xuống thuyền nhỏ, kín đáo bơi vào bờ phía Đỗ Động.
Nước ròng rút xuống mỗi lúc một mạnh, bè chở quân Tế Giang bây giờ lại theo dòng nước trôi xuống mạn Nam. Bè trôi thật êm, trên bè không ai hay biết. Hai ngày bè ngược dòng nương theo con nước lên phía Bắc được bao nhiêu thì bây giờ không có tay chèo điều khiển, bè lại tự do trôi xuống mạn xuôi bấy nhiêu.
Đúng vào lúc nước ròng rút mạnh nhất, thì ở phía trên thấy xuất hiện những mảng lớn đen xì theo dòng nước đổ xuống thật mau. Quân Tế Giang có phận sự canh gác, mấy ngày chểnh mảng quen rồi nên đêm nay cũng lơ là. Đến khi phát giác ra có những vật lạ to lớn đuổi theo bè, mà bè thì lại trôi xuôi, thì kinh hãi vội thúc trống báo hiệu.
Trống hiệu nổi lên cấp báo giữa đêm khuya nghe thật kinh hoàng, đại quân Tế Giang bừng tỉnh cuống cuồng xô nhau chạy, lấn nhau cướp vội lấy khí giới. Hỗn loạn diễn ra các tướng không làm sao giữ cho được!
Pháp sư An Dương Thanh Sứ vội hội các tướng để hỏi sự tình, đến khi mọi người được biết sự thể thì không ai là không khiếp sợ. Tìm đến đám lính Đỗ Động thì chẳng thấy đứa nào, lệnh truyền cho quân vững tay chèo đẩy bè giạt vào bờ thì tìm mãi chẳng thấy có cái mái chèo nào. Trong cơn gấp rút, bè phăng phăng trôi giữa dòng sông chảy xiết, binh tướng Tế Giang chưa kịp vã mồ hôi thì những mảng đen to lớn ở phía trên đuổi kịp. Tới lúc lại gần mới biết các mảng to lớn ấy là những bè gỗ chất cao, trên bè lại để nhiều rơm rạ. Bè gỗ như những bức tường lớn đập mạnh vào bè chở quân Tế Giang. Phút chốc bè chở quân tan vỡ, binh Tế Giang giạt cả lại những bè ở đằng sau mà tránh. Nạn vỡ bè còn chưa biết làm sao tránh được đã lại thấy lửa phựt cháy dữ dội trên các bè gỗ. Các bè gỗ bây giờ như bức thành lửa cứ thúc vào bè quân Tế Giang.
Trên bờ, tướng Quốc Hồi Uy cùng các tướng khác dẫn quân theo xem trận hỏa công bè gỗ phá binh Tế Giang, thảy đều mừng vui xiết kể! Thì ra khi được báo tiệp của quân Tế Giang muốn nghị hòa. Quốc Hồi Uy liền trình về Sứ quân Cảnh Thạc rõ. Sứ quân triệu tập hội nghị khẩn cấp để định việc đối phó. Vừa vào hội, Sứ quân đã bảo:
- Tướng cầm quân đương cự binh Tế Giang là Quốc Hồi Uy vừa mới tin về, cho biết việc Tế Giang Soái tướng là Pháp sư An Dương Thanh Sứ muốn nghị hòa để an toàn kéo qua đất của ta mà về Tế Giang. Tướng Uy cũng báo cho biết là quân Tế Giang đại bại ở Phù Liệt. Đại tướng Tiên phong bị tử trận cùng với Phó tướng. Ta lại được biết là Tế giang cũng đang náo động, binh ngoài nhòm ngó giang sơn của Lữ Đường, vì thế binh ngoại chiến của Tế giang mới phải gấp rút mà về đấy...
Hội nghị bàn cãi, cân nhắc việc quân Tế Giang triệt hồi, rồi cùng nhau cho rằng “Pháp sư tự đắc, hỗn xược dám hành động như vậy, vừa làm cho dân tình náo động, quấy phá Đỗ Động, lại vừa có ý khinh Đỗ Động. Vừa đem binh đi đánh ngoài xa không thành công, coi thường Đỗ Động. Vậy Đỗ Động cứ mềm mỏng để đưa quân Tế Giang vào kế, kết bè chở quân Tế Giang, rồi cứ theo phép phá thủy quân của Đường Lâm phá binh Chung Tam Sở mà phá binh Tế Giang, lại dụng thêm hỏa công cho ác liệt, tất thế nào cũng nhàn hạ mà được chiến công lớn...”.
Vì thế mới có việc Quốc Hồi Uy đi sứ, chịu nhịn đủ điều để dụ quân Tế Giang. Và bây giờ thì đại công đã thành.
Binh Tế Giang chết vì bè vỡ, lửa đốt không ít, may không có tướng nào bị thiệt mạng. Cuối cùng, pháp sư cũng đưa được đám quân bại tẩu sang bờ bên kia rồi lên vùng đất của Tế Giang.
Tin trình về phủ đường, Sứ quân rụng rời kinh hãi, vội triệu tập văn võ các tướng đề nghị bàn. Hội nghị chưa bàn cãi được gì, đã lại có tin quân đường bộ của tướng Lương Tích Lịch cũng đã âm thầm về đến nơi rồi. Sứ quân nghe báo cũng mừng trong lòng là đạo quân này không bị sứt mẻ gì!
Hai đạo quân viễn chinh của Tế Giang rút về, lòng người càng xôn xao. Trước đây tin đồn khắp nơi là Tế Giang sắp sửa có loạn to, nào là Sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại hợp lực cùng với Bình Kiều sắp đánh mặt Đông Nam Tế Giang; nào là Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp ở phía Bắc đã phát lệnh cho quân lên đường hỏi tội Tế Giang liên kết với Siêu Loại toan tính xâm phạm bờ cõi của Thủ Tiệp.
Tin trình về phủ đường mỗi ngày nhiều vô kể, việc còn hoang mang không rõ thế nào, nhưng trong thì dân gian náo loạn, các tướng cũng ngơ ngác bàn tán không hiểu sự thể ra sao, mọi người lo lắng lắm! Thế là Sứ quân Lữ Đường đành phải quyết định: Các mặt đều phải ra quân, trấn phòng phía Bắc đỡ Tiên Du, phía Đông chống Siêu Loại, phía Nam đón Bình Kiều, phía Tây dàn hết chiến thuyền đợi Đỗ Cảnh Thạc tiến đánh là cự được ngay.
Sứ quân tổng huy động binh lực, làm cho các mặt náo động, tin lan truyền chỉ có một sớm một chiều là ầm ầm khắp nơi, các Sứ quân khác đều nhất tề hội văn vũ các tướng đề nghị sự. Thế là, vài tướng của Hoa Lư theo kế Quân sư Lê Thảo lên đường khuấy động vài chỗ, khiến cho cả thiên hạ rung chuyển. Cổ Loa cũng kinh động, Nam Tấn Vương cũng phải khẩn cấp phát chiếu chỉ cho tướng biên trấn các nơi phải đề phòng các mặt, sẵn sàng chống đỡ binh của các Sứ quân tràn tới.
Tại Tiên Du, Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp được tin báo vào, liền cấp tốc họp các tướng mà rằng:
- Nam Tấn Vương đi đánh Hoa Lư bị bại chạy về, khiến cho cả thiên hạ náo loạn. Các nơi khác đã đem binh đánh lẫn nhau, máu đổ tướng chết vô số kể. Nay ta lại vừa được biết là ở phía Nam, các Sứ quân liên kết với nhau toan tính xâm phạm bờ cõi của ta. Ta không thể nào ngồi khoanh tay đợi binh ngoài vào lãnh thổ của mình được. Nay ta quyết ra binh, trước là đánh chặn những kẻ muốn xâm phạm giang sơn ta, sau là vượt núi Bát Vạn vươn vai đứng dậy tranh hùng với thiên hạ. Các tướng có ý thế nào?
Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp chiếm giữ Tiên Du, đất không rộng bằng Siêu Loại của Lý Lăng Công (tức Lý Khuê). Cũng thua cả Tế Giang của Sứ quân Lữ Đường. Nhưng, Tiên Du địa thế cực kì u nhã, hiểm hóc, có những rặng núi danh tiếng như Lạn Kha, Bạch Bắc Sơn, Bát Vạn, Bồ Sơn. Quan hệ hơn cả là núi Bát Vạn với thành quách hết sức hùng vĩ ở dưới chân núi do chính Sứ quân dựng lên để làm cửa ải mà giữ Tiên Du. Trên núi Bát Vạn, lại có một cây tháp cao đo Cao Biền dựng để trấn yểm phong thủy Giao Chỉ, tháp ấy gọi tên là Tháp Bát Vạn.
Sứ quân Nguyễn Thủ Tiện mặt tròn, hai mắt thu hẹp gần nhau tròn xoe, hàm râu quai nón vểnh ngược. Sứ quân lúc nào đầu cũng quấn khăn bịt búi tó phía đằng sau, vóc dáng Sứ quân cao lớn khác thường, có sức mạnh ngang với thần thánh, ý chí lại rất cương cường. Sứ quân là người dũng lược song toàn, tự tính toán lấy mọi việc chứ không cần Quân sư mưu sĩ để hỏi việc. Sứ quân sai phát mệnh lệnh có phần quyết đoán, hung dữ. Sứ quân trấn giữ Tiên Du là hiểm địa, chung quanh phải đối phó với rất nhiều khó khăn, nhất là các giống rợ từ mạn Bắc tràn xuống. Vì thế Sứ quân không mấy khi hành động lại tỏ ra nhu nhược, ngập ngừng. Cũng vì cái tính ấy mà nhiều lần Sứ quân chẳng tránh được lỗi lầm, quyết định oan uổng cho đám bộ hạ.
Dưới trướng của Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp, có nhiều tướng giỏi. Sứ quân lại còn có ba nghìn đệ tử hết sức trung thành, đám đệ tử này hung hãn lạ thường, lúc ra trận bao giờ cũng vây quanh Sứ quân mà bảo vệ. Các đệ tử ấy ở lưng có dán bùa bảo là “vào trận không bao giờ chết” vì vậy rất khinh khi tự phụ, bao giờ cũng ở trần mà ra trận.
Khi Sứ quân mở hội, họp các tướng đề nghị việc ra quân tranh hùng với thiên hạ, Sứ quân vừa nói dứt lời đã có tướng đáp liền:
- Thưa Chúa công, giang sơn ta tuy nhỏ hẹp, nhưng địa thế lại hết sức hiểm trở, đã thế Chúa công lại sẵn dưới tay vài chục tướng tài, ba nghìn đệ tử, binh được thêm vài nghìn. Sức tuy chưa đủ ra tay là đoạt thiên hạ, nhưng cũng thừa để trông giữ nhà, ngoài lấn dần các Sứ quân khác. Đã thế, Chúa công lại có lão tướng thần tiên Đông Thừa Trọng trấn thành núi Lạn Kha. Đại tướng Khúc Việt Thư giữ thành Bát Vạn, oai thế lẫy lừng bên ngoài khó lòng lọt vào được. Như thế, thì việc ta xuất quân ngoại chiến nếu chưa lấy được thiên hạ thì cũng chẳng thiên hạ nào vào nổi nhà ta. Vậy xin Sứ quân nên xuất chiến!
Mọi người nhìn ra, mới biết là tướng Quách Cước Đồng người ở tận An Bác (tỉnh Lạng Sơn ngày nay). Đồng là tướng rất mạnh, có tài vượt núi băng rừng còn lẹ làng hơn cả người đi trên bộ phẳng phiu. Đồng lại giỏi môn quăng dây bắt tướng địch, thường vẫn được người đời tặng cho cái danh hiệu là Truy Phong Khách. Quách Cước Đồng tính tình bộp chộp, hay phụ họa a dua nhưng thật ra lòng dạ lại chẳng có gì, không làm hại ai. Nay trong hội, Đồng lên tiếng trước nói rộng ý muốn của Sứ quân, tuy rằng Đồng nói cũng chẳng có gì là quá đáng, nhưng chẳng ai nghe vào tai. Đồng nói xong vẻ mặt hân hoan. Sứ quân giương hai con mắt tròn xoe nhìn Quách Cước Đồng rồi bảo:
- Quả đúng thế, ta có bốn danh tướng giữ bốn tòa núi, sức mạnh như tường đồng vách sắt che chở suốt mặt Nam, bên ngoài nhất định không có cách gì lọt vào được. Bên trong, sức ta đủ mạnh để ra ngoài mà không lo thua thiệt. Đông Thừa Trọng giữ Lạn Kha, Khúc Việt Thư giữ Bát Vạn, Lộc Kiệt giữ Bạch Hắc Sơn, An Đình Huy giữ thành Núi Bố Sơn. Các hiểm địa trọng yếu đều có các đại tướng trấn giữ, như thế là việc cửa ngõ của ta đã vững vàng, bây giờ ta an tâm ra ngoài tranh đua cùng thiên hạ. Các tướng khuyên ta nên hành động ra sao?
Sứ quân vừa dứt lời, đến lượt tướng Triệu Đằng Giao nói:
- Bẩm Chúa công, nếu muốn xuất kinh ngoại chiến, thì tự nhiên trước hết phải bảo bốn tướng ngoại vi phải sửa sang lại thành quách, rồi sau đó ta mới đem quân từ trong ra, hoặc sai ngay bốn tướng ấy xuất thành chiếm đất rộng ra. Hai đường xuất quân như vậy, cũng đều có lợi cả.
Triệu Đằng Giao vẫn tự xưng là con cháu gốc gác Triệu Việt Vương thời xưa. Giao là tướng không mấy tài giỏi, nhưng lí sự thì lại muốn tranh hơn cả mưu sĩ, Giao có người em ruột là Triệu Đồng Long cùng phụ tá cho Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp. Em của Giao thì ngược lại với anh, Triệu Đồng Long ít nói, mặt đẹp, xung trận rất tài giỏi, Sứ quân rất yêu thích.
Hội nghị nghe Triệu Đằng Giao nói, chưa ai có ý kiến, thì lại có người bàn:
- Bẩm Chúa công, bây giờ hại Sứ quân Lữ Đường ở Tế Giang, Lý Khuê ở Siêu Loại muốn liên kết với bên ngoài để phá ta, nhưng lại giả vờ là hứa liên minh với ta lập thanh thế “Ba oản xếp một đĩa” để chống cự với các mặt khác. Như thế, ta vừa phải lo hai mặt phương Nam, lại phải đề phòng phía Tây là Cổ Loa nhòm ngó.
Sứ quân Thủ Tiệp nói luôn:
- Quả đúng như lời ông Điền nói, ta có thể bị các mặt cùng một lúc nhòm ngó đây! Nhưng ông thấy thế nào?
Tướng đang bàn việc, là Điền Mẫu Nghị lão tướng. Tướng Điền Mẫu Nghị là tướng rất giỏi, quen xử cây đoản đao rất lợi hại, được Sứ quân trao cho quyền cai quản các đạo quân nội giang sơn. Điền Mẫu Nghị vẫn thường nói: “Sứ quân sai bốn tướng trấn giữ bốn trong thành, chỉ riêng mình là ở nhà tức là có điều kém cỏi.” Cho nên họ Điền vẫn thường xin Sứ quân được cầm quân ở ngoài mới thỏa chí.
Bây giờ nghe Sứ quân hỏi, Điền Mẫu Nghị thưa:
- Bẩm Sứ quân, mặt Cổ Loa, triều đình suy sụp lại thêm việc Nam Tấn Vương tự thân cầm quân đi đánh Hoa Lư thất bại trở về. Nay không còn gì đáng kể, vì thế ta có thể tạm chưa lo mặt ấy. Nhưng nếu ta xuất quân đánh Cổ Loa để cướp ngôi báu, thì thế nào cũng bị các nơi cùng đề binh tranh giành với một mình ta. Cái nguy ấy ta không nên tự chuốc vào thân, mà nên dựng lấy thế lớn rồi sau hãy quay sang Cổ Loa cũng chưa muộn. Còn mặt phía Nam, hai Sứ quân Lữ Đường ở Tế Giang, Lý Khuê ở Siêu Loại, tiếng là muốn kết hòa với ta, nhưng đều âm thầm muốn xâu xé ta. Bây giờ, ta cần lựa chọn xem nên xuất binh trừng phạt nơi nào trước?
Hội nghị xôn xao, ai cũng thấy lời bàn của tướng Điền Mẫu Nghị là rất đúng, Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp bảo:
- Tế Giang đang xuất quân mạo hiểm, lại bị bại ở các mặt thiệt tướng hại quân, nếu ta đánh Tế Giang thì tất có lợi, nhưng sau lưng ta lúc ấy lại có Lý Khuê ở Siêu Loại. Khuê chưa bị sứt mẻ gì tất còn mạnh, giả sử Khuê đánh trộm ta thì ta bị nguy. Chi bằng, Tế Giang vừa bại binh chắc không dám ho he gì nữa, mà còn phải nằm dưỡng thương thở chưa kịp, nhất định không dám gây sự với ta. Vậy, ta tiến quân hỏi tội Lý Khuê, thì chỉ có một mình Khuê phải cự với ta. Vả chăng, Tế Giang lúc ấy muốn án binh mặc cho Siêu Loại bị nguy, nếu Tế Giang với Lý Khuê thấy nguy có cầu cứu đến Tế Giang chăng nữa, lúc ấy Tế Giang lấy cớ mới thua thiệt mà không ra quân cũng chẳng mất lòng Lý Khuê. Vậy nếu đánh Lý Khuê, các ông nghĩ nên hành động ra sao?
Lời nghị luận của Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp quả nhiên rất đúng, giữa Lý Khuê ở Siêu Loại với Lữ Đường ở Tế Giang làm gì có việc liên kết với nhau. Chẳng qua chỉ vì trúng kế Quân sư Hoa Lư mà Sứ quân Thủ Tiệp tưởng làm ra như thế.
Nay Sứ quân muốn đánh Lý Khuê ở Siêu Loại, tất có thể được vững bụng ở mặt Tế Giang không lo Lữ Đường thừa cơ tập kích sau lưng.
Điền Mẫu Nghị lại tiếp:
- Bẩm Sứ quân, đánh Siêu Loại tiện hơn cả là ta đưa đại quân đi đường bộ, vượt núi Thiên Thai, lại cử một đạo chiến thuyền theo dòng sông men chân núi Thiên Thai đánh thẳng vào Siêu Loại.
Sứ quân hỏi:
- Đường núi Thiên Thai như thế nào?
- Bẩm, núi Thiên Thai ở phía Tây Bắc Gia Bình, cách Siêu Loại chừng mươi dặm đường. Núi Thiên Thai là cả một dãy núi, có một ngọn cao chót vót đất đá lẫn lộn. Núi này còn có tên là Đông Cứu Sơn, hay Đông Cao Sơn. Hồi xưa Cao Biền có xây một cái tháp trên núi này để yểm trấn mạch đất nước ta. Núi Thiên Thai địa thế vừa hùng vĩ, lại vừa có phong cảnh u nhã, nhưng nếu dụng binh mà vượt được ải núi Thiên Thai, lọt vào đến thác Than, tức là đã vào đến vùng ruột gan của Siêu Loại rồi!
Sứ quân lại hỏi:
- Thác Than là thác thế nào?
- Bắm, thác Than thuộc phần sông ở xã Đại Than, Gia Bình. Người đời nói rằng trong thác Than có một cái hang rỗng rất sâu, các thuyền bè đi lại qua chỗ này thường hay bị chìm úp, ở bên cạnh thác Than lại có đền thờ Cao Biền. Thuyền bè trước khi đi qua đền khấn vái thì được yên ổn. Thác Than là cửa ngõ để bước tới vùng Sứ quân Lý Khuê tụ hội chúng tướng ở đấy mà cai quản Siêu Loại.
Điền Mẫu Nghị kể phong thổ, địa thế đường vào Siêu Loại, cả hội nghị hết sức chăm chú nghe. Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp ra chiều suy nghĩ lung lắm, rồi nghiêm trang nhìn các tướng một lượt, đoạn lớn tiếng truyền:
- Như vậy, ta xuất quân từ ải núi Bát Vạn, nhắm núi Thiên Thai tiến tới, rồi thúc binh tới thác Than tranh hùng với Lý Khuê một phen. Đấy là đại cương đường lối binh ta ra trận đánh Siêu Loại đấy!
Các tướng đều tỏ vẻ hài lòng, Sứ quân Thủ Tiệp lại nói:
- Sức mạnh của ta nếu để tranh hùng với một Sứ quân, thì ta không sợ, nhưng sức mạnh ấy tất chưa thể đoạt cả thiên hạ được. Nay ta ra quân bằng đường ải Bát Vạn, có cái lợi là tránh xa được Lữ Đường ở Tế Giang không sợ y đánh trộm ta, chỉ một mình ta với Lý Khuê thử sức mà thôi. Các ông ai là người dám vì ta lĩnh cờ tiên phong đem binh ra ngoài sao?
Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp hỏi như vậy, nhiều tướng muốn ra trận nhưng ai cũng tự biết là không đủ sức để điều khiển đại quân, chỉ có thể lĩnh mệnh của tướng thống soái giao chiến với bên ngoài được mà thôi. Vì thế, khi nghe Sứ quân hỏi các tướng đều dồn cả vào lão tướng Điền Mẫu Nghị mà nhìn. Lão tướng trong lòng đã muốn xin nhận lệnh cầm quân, nhưng vẫn tỏ ra nhún nhường cho nên chờ đợi xem có tướng nào xin cầm cờ Thống soái tiên phong hay không.
Cả hội nghị im lặng, Sứ quân lặng lẽ nhìn các tướng, cuối cùng nhìn đến lão tướng Điền Mẫu Nghị, rồi bảo:
- Mai sau, khi cả thiên hạ ra sức tranh hùng, tới lúc ấy ta sẽ đích thân cùng các tướng ra tranh đua với thiên hạ. Còn bây giờ, quân ta ra khỏi thành Bát Vạn trước là để hỏi tội Lý Khuê, sau là thử xem sức mình như thế nào? Nếu các tướng đều dè dặt thì chỉ còn ông Điền Mẫu Nghị mà thôi, ông Nghị hãy theo lệnh ta cầm đại quân đi hỏi tội Lý Khuê, thử sức Tiên Du ta một phen xem đã đủ mạnh hay chưa.
Điền Mẫu Nghị nghe Sứ quân bảo, liền đứng dậy nghiêm trang:
- Bẩm Chúa công, Chúa công đã tin tôi, các tướng cũng tin tôi. Vậy tôi xin được lĩnh mệnh đem anh hùng Tiên Du ta ra ngoài một phen xem sao!
Cả hội nghị hân hoan, Sứ quân bảo:
- Vậy thì lão tướng Điền Mẫu Nghị lĩnh ấn Soái tướng, tùy tiện mang theo bao nhiêu tướng, bao nhiêu quân cũng được. Ta để lão tướng được tự ý!
Điền Mẫu Nghị vòng tay cúi đầu tạ ơn Sứ quân, rồi ngửng cao đầu sang sảng:
- Bẩm Chúa công, Lý Khuê ở Siêu Loại là tay hùng dũng, từng một mình một gươm xông pha mà dựng bờ cõi. Bên cạnh Lý Khuê, lại còn có yêu nữ tự xưng là Luy Lâu Thần Nữ có lắm ma thuật lợi hại. Siêu Loại địa thế cũng lại rất mờ mịt, núi sông chằng chịt, tướng giỏi không thiếu, quân không ít, dân đông giàu có. Nay ta đem quân đánh Siêu Loại là nói rõ cái nghĩa: “Từ bỏ bình an, để dấn thân vào náo động, chẳng khác nào như rồng thiêng cực mạnh bỏ hang hốc để vượt lên mây cao.” Ắt hẳn là sung sướng an nhàn không còn nữa mà là chịu nhận gian lao khổ cực rồi. Như vậy, thì việc ra quân lần này, Tiên Du ta phải hiểu rõ cái nghĩa: “Thử sức mình, thử sức người” chứ chưa phải là đã đến hồi vươn tay dài đến tận Cổ Loa để đoạt lấy ngai vàng làm chủ cả Giao Châu này!
Sứ quân nghe lão tướng Điền Mẫu Nghị nói, rất hài lòng gật gù luôn luôn, các tướng cũng phấn khởi lắm. Điền Mẫu Nghị tiếp:
- Bẩm Chúa công, tôi phải nói rõ ra như thế, cốt để cho việc xuất quân không đến nỗi nghiêm trọng, không để cho trong lầm lẫn. Tránh cho bá tánh khỏi có điều dị nghị về việc làm của Chúa công!
Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp hài lòng lắm. Thế là lão tướng Điền Mẫu Nghị xin Sứ quân để được điều động các tướng Lưu Trọng Tài, Tân Bình Minh, Diệp Đông Tùng, Lý Thái Định, Trần Quốc năm tướng cùng với hai nghìn quân để đi đánh Siêu Loại.
Lão tướng Điền Mẫu Nghị rất chú trọng đến phép điều khiển tướng sĩ, lại đắn đo đến tài năng của mỗi tướng, lão tướng thường bảo: “Quân ra trận, tướng chẳng tinh thông mọi mặt, cầm bằng như đem binh tinh nhuệ mà ném xuống hố sâu vực thẳm. Tướng tài mà binh sĩ chỉ giỏi nghề lau gươm giáo, ăn vận cho đẹp, hà hiếp dân cho giỏi, thì quân ấy chẳng khác nào như lửa rơm dùng để thui chết tướng tài.” Vì vậy lão tướng vẫn thường rèn quân luyện tướng, ra sức răn dạy các tướng mọi bề.
Nay được Sứ quân trao cho trách nhiệm cầm quân đi đánh ở xa, thì liền truyền tướng Lưu Trọng Tài lĩnh cờ tiên phong phát lệnh, sai sửa soạn giáo trường để lão tướng điểm quân duyệt tướng.
Lệnh truyền ra, lập tức tướng Lưu Trọng Tài dựng lễ đài lớn ở giáo trường phía Tây phủ Đường Sứ quân, trương cờ gióng trống, bày biện đúng pháp “Tam Đông, Lục Tây” là phép duyệt binh đặc biệt riêng của lão tướng Điền Mẫu Nghị.
Cả Tiên Du rung động, việc Sứ quân ra binh đánh Siêu Loại phút chốc khắp nơi đều biết, bá tánh một đằng tò mò rủ nhau đi xem Sứ quân điểm binh xuất chiến, một mặt lo tích trữ lúc gạo để phòng loạn lạc lâu ngày đói khổ.
Sáng ngày Quý Dậu tháng năm năm đó, nắng vừa lên cao thì giáo trường đã đông nghẹt bá tánh đợi xem. Giáo trường rộng mênh mông, cờ xí rực trời, ở mé phía Bắc lễ đài lồng lộng. Trên đặt một chiếc ghế lớn bọc da hổ của Sứ quân, sau lưng Sứ quân là ba nghìn đệ tử lưng giắt dao ngắn chuôi bằng bạc, lưỡi dao cuốn cong lên như cái tổ sâu. Dao không bỏ vào bao mà chỉ cài ở giây lưng bằng da gấu, lưỡi dao sắc thép xanh biếc. Ba nghìn đệ tử của Thủ Tiệp người nào cũng cao lớn hùng vĩ, trước ngực áo có vẽ hình bát quái. Lúc vào trận các đệ tử này cởi áo buộc ở ngang bụng để mình trần, lưng có vẻ bùa lạ bảy ngôi sao án thành nửa vòng tròn trên một cái khung cong cong như con thuyền lớn. Trên lá bùa ấy loằng ngoằng những chữ triện kì bí mờ mịt không đọc ra được là chữ gì. Thủ Tiệp thường bảo: bùa ấy tên gọi là “bùa bất tử, ai được mang đạo bùa ấy thì gươm đao cung tên đều không xâm phạm được tới mình. Thảng hoặc đụng phải giờ nhâm thần có trúng thương chết đi chăng nữa, thì cũng chỉ ba ngày là tự sống lại khỏe mạnh như thường. Nhờ ở bùa ấy, nhờ ở lời nói ấy của Nguyễn Thủ Tiệp, mà đám đệ tử lúc xung trận tỏ ra cực kì dũng mãnh, đâm chém chưa bao giờ bị thua, ai cũng sợ.
Ngay phía trước ghế da hổ của Sứ quân, các tướng văn vũ chia ta làm hai hàng mà đứng, phía bên phải giáo trường là tướng đài để lão tướng Thống soái Điền Mẫu Nghị đứng điều quân. Ngọn cờ soái lớn dựng ngay trước tướng đài, các tướng sắp cùng Điền Mẫu Nghị ra quân viễn chinh đều đứng cả ở dưới đài mà đợi lệnh.
Giáo trường đông nghẹt bá tánh. Đối diện với tướng đài là cửa vào giáo trường ở mé phía Bắc, đến cuối Thìn thì giáo trường trống giục ba hồi liền nhau, chiêng khua dậy đất. Dứt tiếng chiêng là một hồi mõ gỗ nện nghe như đá trên núi cao đổ xuống, dứt hồi mõ, là tiếp theo sau hồi trống giục kèm theo chiêng gióng. Cả giáo trường im lặng như tờ. Mé bên Tây, Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp uy nghi ngồi trên ghế da hổ, phía dưới đài các tướng văn vũ chỉnh tề, quang cảnh thật nghiêm trang. Mé phía Nam, lão tướng Điền Mẫu Nghị mình bận chiến bào bạc trắng giát bạc xanh óng ánh như vảy rồng, cây đoản đao cài ở ngang lưng. Trước ngựa lão tướng là kính hộ tâm sáng rực, lão tướng tuổi già nhưng phong độ uy nghi, hai mắt long lanh trong ánh nắng ban mai.
Sáu hồi trống lần thứ nhì dứt tiếng, giáo trường im lặng đến rợn người, nhìn ra chỉ thấy khắp nơi nháng lửa mặt trời trên những mũi giáo sắt sáng choang của quân cấm vệ đứng dàn quanh giáo trường.
Đứng trên tướng đài, Điền Mẫu Nghị vận lực hai mắt lấp lánh, cất giọng sang sảng phát lệnh. Phía dưới tượng đài, tướng tiên phong Lưu Trọng Tài lần lượt theo lệnh của soái tướng mà trương cờ lệnh.
Tức thì cửa giáo trường mở toang, quân bộ chiến của Tiên Du rầm rộ đi vào. Quân đi theo hàng ba người, ráp một vòng sân đến mé Đông thì một hàng ba binh dừng lại, ráp ba vòng thì hai hàng sáu binh dừng bước ở mé Tây. Cuối cùng mé Tây có hai nghìn bảy trăm quân, mé Đông có một nghìn năm trăm binh, như vậy là binh nội giang sơn của Thủ Tiệp đồng tất cả là bốn nghìn rưỡi người không kể các quân của mấy tòa thành nơi biên trấn.
Soái tướng đứng trên tường đài lại ban lệnh cho tướng tiên phong phát hiệu kì phân đạo quân mé Tây ra thành ba đạo. Quân uốn lượn, xen kẽ vào nhau cất bước quanh cho hai hàng nhập một thì một hàng lại bước ra ngoài, chung cuộc chia thành tiền quân, hai đạo tả hữu, tất cả mỗi đạo đông tám trăm quân. Còn lại ba trăm thì Soái tướng sử dụng tại trung quân.
Điền Mẫu Nghị điểm quân cốt phô diễn cái phép luyện quân thành thạo, lại chứng tỏ hiệu nghiêm minh, sĩ tốt tuân hành tướng lệnh không sai lạc. Điền Soái tướng lấy cái phép quanh co của biển rộng sông dài để làm phép điểm binh, kì thực là chỉ nhằm vào chỗ tinh nhuệ của hiệu lệnh, binh xen kẽ vào nhau mà chẳng lạc bước. Tướng giám trận nhìn quân tuôn đi như nước chảy mây trôi vẫn không bị hoa mắt mất phương hướng.
Còn đạo quân một nghìn tám trăm người ở mé Đông soái tướng để lại ở nhà, rồi trao cờ tiên phong cho tướng Lưu Trọng Tài, tả dực trao cho hai tướng Tôn Bình Minh và Diệp Đông Tùng, hữu dực sai Lý Thái Định và Trần Quốc cầm cờ phát lệnh.
Trung quân do Soái tướng trông nom ba trăm quân phòng trợ. Soái tướng điều binh đúng Ngọ thì hoàn tất.
Sứ quân phát lệnh cho quân lên đường ngay, cờ tiên phong kéo đi trước, hai đạo tả dực lần lượt kéo đi theo. Tại giáo trường, Sứ quân đợi Soái tướng Điền Mẫu Nghị từ trên đài bước xuống, liền truyền cho các tướng họp lại ngay tại giáo trường nghị sự, Sứ quân bảo:
- Binh ta đi đánh Siêu Loại, khắp các nơi đều biết, nhưng bên ngoài tất chưa hay. Ta phải nhân cái chổ ấy mà loan tin lớn lên rằng binh ta đi đánh Tế Giang, có như thế thì Siêu Loại mới ơ hờ không phòng bị, hoặc có phòng bị chăng nữa thì cũng chỉ là lấy lệ mà thôi!
Thế là tin binh Tiên Du đi đánh Tế Giang phút chốc dồn đi ầm ầm. Bây giờ mọi người mới biết là Sứ quân Thủ Tiệp phát quân để hỏi tội Lữ Đường. Tin ra biên ải, rồi lọt tai tế tác của Sứ quân Lữ Đường ở Tế Giang. Vì vậy Sứ quân mới kinh hoàng lại thêm tin từ bên ngoài báo về cho biết đạo quân của Đại tướng Trình Kế Ngọc gặp Bình Kiều trên đất Phù Liệt bị thiệt hại nặng. Sứ quân Lữ Đường gấp rút ban lệnh hồi quân, nhờ đấy mà Thống soái Lê Hiền mới yên lòng.
Binh vừa ra khỏi giáo trường, Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp đã phát lệnh báo cho bốn thành Lạn Kha, Nguyệt Thường, Bát Vạn và Bồ Sơn hay việc xuất quân. Lại lệnh cho tướng giữ thành Bát Vạn phải đặc biệt canh phòng các mặt, sẵn sàng tiếp chiến cho đạo quân viễn chinh của tướng Điền Mẫu Nghị.
Sứ quân dặn các tướng trấn bốn thành biên ải là phải hết sức giữ kín việc Tiên Du cất quân đánh Siêu Loại, cho đến khi nào binh Tiên Du đã vào Siêu Loại thì lúc ấy mới ra mặt yểm trợ ở đằng sau.
Sứ quân phát lệnh vừa xong. Soái tướng Điền Mẫu Nghị vừa quay di chưa kịp lên ngựa, đã thấy tế sứ phi ngựa hối hả chạy vào thao trường. Ngựa chưa kịp dừng vó, tế tác đã tung mình xuống đất, chân không kịp quỳ gối đã vòng tay cúi đầu hổn hển xin cấp báo.
Chưa biết lại có việc gì xảy ra, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—