Hồi Thứ Tám Mươi Hai Tiên Du, Siêu Loại lui binh
Lục Hồ nhức đầu đợi sáo
Nhắc lại, hai quân Tiên Du, Siêu Loại giao tranh với nhau một trận thần kinh quỷ sợ. Thiệt hại của cả đôi bên chẳng phải là ít, các tướng cầm quân hoang mang chưa biết phải tiến thoái thế nào. Bên quân Tiên Du, tướng Điền Mẫu Nghị nửa thắc mắc về thái độ của tướng trấn thành Bồ Sơn là An Bình Huy, nửa lòng buồn phiền về hai thành Cổ Tiểu, Đại Bái tan nát lọt vào tay địch. Lại thêm tướng tiên phong Lưu Trọng Tài trúng thương nặng nhưng không đến nỗi nguy đến tính mạng, còn binh thì khó lòng tiến lên đuổi địch ra khỏi bờ cõi được.
Đại tướng Điền Mẫu Nghị một mặt cho quân đưa tin về trình Sứ quân, một mặt lại nén lòng cầu viện Bồ Sơn đưa binh tiếp viện. Lão tướng cố gạt hết mọi tự ái để lo việc lớn, năm lần bảy lượt họp bàn với các tướng mà vẫn không tìm ra cách nào để đuổi binh Siêu Loại được, đành truyền các tướng hãy đóng quân gìn giữ các mặt, cố thủ để đợi xem tình hình ra sao đã.
Phía binh Siêu Loại lúc vừa đoạn chiến với Tiên Du, binh chưa kịp lui về thế thủ, hậu quân đã tin ra mặt trận cho soái tướng Phạm Thừa Ân hay: “Từ phủ đường, Sứ quân có lệnh khẩn cấp báo ra cho soái tướng rõ!”.
Phạm Thừa Ân nghe tin giật mình không hiểu có việc gì khẩn cấp đến như vậy, vội truyền các tướng định quân hạ trại. Rồi tướng gấp quay lại trung quân gặp sứ giả của Sứ quân. Vừa về đến hổ trướng, Phạm Thừa Ân thấy một kỵ sĩ lạ mặt, kỵ sĩ vừa thấy Phạm Thừa Ân đã vội vòng tay rồi thưa:
- Bẩm đại tướng, Chúa công sai tôi ngày đêm khẩn cấp ra mặt trận triệu đại tướng đem binh về gấp…
Phạm Thừa Ân kinh ngạc, hỏi:
- Có việc gì khẩn cấp đến như vậy?
Kỵ sĩ kính cẩn thưa:
- Bẩm đại tướng, Chúa công truyền tôi đưa tin ra mặt trận để ngài rõ: Đằng Châu có Hoa Lư giúp đỡ, lại liên minh với Ngô Xương Xí ở Bình Kiều, bất thần chia quân hai đường đánh úp Siêu Loại ở hai mặt Tây và Nam. Tình thế bây giờ nguy cấp lắm rồi, binh ngoài đã vào sâu trọng địa của ta!
Phạm Thừa Ân suy nghĩ một thoáng, rồi ngửng đầu hỏi:
- Hiện giờ ở nhà Chúa công sai ai cầm quân cự địch?
- Bẩm, binh ta trao vào tay ông Đỗ Bá Đoàn chỉ huy, nghe lệnh của Chúa công đích thân xem xét tình hình!
Phạm Thừa Ân truyền kỵ sĩ lui, rồi lập tức hội các tướng lại mà rằng:
- Ta vừa được lệnh của Chúa công truyền ra, bảo phải gấp rút đưa quân về cứu nguy ở nhà. Binh Đằng Châu liên kết với Bình Kiều đã vào sâu trọng địa của ta...
Phạm Thừa Ân chưa nói hết, Diệp Đông Tùng đã cất tiếng:
- Sao lại có việc lạ lùng như vậy được? Quân ta lên đường chưa hết một tuần trăng, trước chẳng nghe một tin gì gọi là Đằng Châu với Bình Kiều liên kết với nhau được, sao bây giờ lại có việc hai Sứ quân cất quân xâm phạm bờ cõi của ta?
Tôn Bình Minh tiếp lời:
- Quả thật có việc lạ! Bình Kiều vì Đằng Châu mà khốn đốn, sao lại còn liên kết với Đằng Châu được? Vả chăng, binh ra quan ải lặng lẽ đến thế nào mà đến nỗi Đằng Châu cùng Bình Kiều xuất chiến đánh Siêu Loại ta, mãi bây giờ mới biết được tin?
Phạm Thừa Ân đáp:
- Mới đầu ta cũng nghi ngờ lắm! Nhưng, sau nghĩ lại mới vỡ lẽ ra là: Đằng Châu quả thật có Hoa Lư giúp đỡ. Bình Kiều có tướng lại là anh ruột của Quân sư của Hoa Lư, như vậy thì rất có thể Bình Kiều liên kết với Đằng Châu được là nhờ ở Hoa Lư. Nếu đúng như thế, thì việc hai Sứ ấy xâm phạm bờ cõi của ta là một việc không ngạc nhiên gì cả! Chỉ có điều: như vậy là tế tác của ta kém quá!
Các tướng còn đang hội nghị, đi lại có tế tác đưa tin đến: “Đại binh Tiên Du từ Bồ Sơn hợp với đại quân của tướng Điền Mẫu Nghị. Chia hai đường, một gấp rút đi tái chiếm Đại Bái, một chẹn đường không cho đại quân của ta lui về cứu viện cho Đại Bái!”.
Phạm Thừa Ân nghe trình cả kinh không còn kịp suy nghĩ, liền truyền tướng Ân Mạnh Thiệu lĩnh cờ tiên phong triệt quân cứu thành Đại Bái. Mở đường về của binh Siêu Loại, lại sai tướng Lý Khắc Tịnh đi ở hậu quân đề phòng không cho binh Tiên Du đuổi theo đánh úp.
Đại quân của Phạm Thừa Ân lẳng lặng nhổ trại, dù lặng lẽ đến đâu cũng chẳng thoát được mắt của tế tác Tiên Du. Lập tức tin trình về cho tường Điền Mẫu Nghị hay: “Đại quân Siêu Loại lẳng lặng gấp rút động quân”. Đại tướng nghe trình lập tức hội các tướng lại mà rằng:
- Quả nhiên đúng như lời ta nghĩ, quan Siêu Loại muốn bất thần đánh úp ta! Vậy phải dàn quân các mặt, nhân kế của nó mà đánh nó?
Rồi đại tướng truyền Diệp Đông Tùng mang quân giạt ra cánh trái. Lý Thái Định giữ cánh phải. Đích thân lão tướng cùng hai tướng Tôn Bình Minh và Trần Quốc giữ trung quân đối địch với binh Siêu Loại.
Quân Tiên Du vừa dàn xong trận thế, tin tế tác đã lại khẩn cấp trình vào: “Tướng An Bình Huy giữ trong thành Bồ Sơn vì việc Sứ quân nghi ngờ không giao cho binh quyền tiễu phạt Siêu Loại. Lại vì các tướng của Điền Mẫu Nghị giết tướng Đặng Tân Thư, nên An Bình Huy trình biểu có ý không bằng lòng Sứ quân. Sứ quân giận truyền An Bình Huy trao quyền lại cho phó tướng rồi về Tiên Du nghe lệnh. Nhưng An Bình Huy cưỡng lại đóng chặt cửa thành, cưỡng lệnh Sứ quân, lại lén liên lạc với thành Đại Bái để đưa tin lên tướng Siêu Loại gấp ra quân đánh vào mặt trước của đại quân Điền Mẫu Nghị. Phía sau thì An Bình Huy cho quân đánh thúc tới trả hận!”.
Điền Mẫu Nghị nghe tin tưởng như sét giáng ngang tai, bàng hoàng đến lặng người. Máu như ngừng chảy đến tím cả mặt, các tướng cũng ngẩn người như mất hồn! Không ai ngờ lại có những việc ghê gớm đến như vậy không! Điền Mẫu Nghị dần dần như tỉnh lại, buồn rầu bảo các thuộc tướng:
- Ta vẫn biết An Bình Huy hẹp lượng, không ngờ y lại hồ đồ đến như vậy được! Và chăng, thân làm tướng trấn giữ trọng thành, ắt phải biết là được tin cẩn như thế nào rồi, đã không biết việc trong lại mơ hồ việc ngoài như thế này thì sự phản phúc là điều có thể có được lắm! lại thêm việc các ông giết Đặng Tân Thư mà tôi chẳng can ngăn, khiến An Bình Huy làm phản là đẩy quân ta vào chỗ chết. Không mau gỡ ra thì đại quân ta ắt chẳng còn mạng nào sống sót trở về được!
Các tướng cúi đầu chẳng nói một lời, ai cũng có ý buồn. Lão tướng Điền Mẫu Nghị nói xong vẻ mặt bâng khuâng, chán nản. Lát sau, ông ngửng cao đầu, giọng cương quyết:
- Ông Tôn Bình Minh đi đầu, đưa cả đại quân của ta lên phía Bắc, vượt vách núi mà vào căn cứ Bát Vạn. Vào được Bát Vạn là ta hi vọng được tướng Khúc Việt Thư tiếp cứu, lại được cái lợi là tin được cho Bát Vạn biết ngăn chặn không cho Bồ Sơn quay giáo đâm sâu vào ngựa Tiên Du ta!
Đại quân của Điền Mẫu Nghị tức thì gấp rút chuyển động, quân hướng lên Bắc vượt vách núi để tránh nạn Bồ Sơn làm phản hợp với Siêu Loại hai mặt đánh ép vào giữa.
Điền soái tướng chuyển quân lên phía Bắc, tế tác biết ngay tin về cho lão tướng Siêu Loại là Phạm Thừa Ân rõ, lão tướng ngẫm nghĩ rồi đề quyết là binh của Điển Mẫu Nghị lên phía Bắc để gấp rút đánh chẹn không cho binh của lão tướng về cứu Đại Bái. Lão tướng liền lệnh cho tướng tiên phong đi tránh sang hướng Đông Nam. Binh vừa chuyển bước, tế tác đã lại được tin báo về: “Tướng Trương Bá Cương giữ thành Đại Bái bị bại quân của Tiên Du từ hướng Bắc, xuất phát từ thành Bát Vạn đến vây hãm nguy ngập quá đã phải bỏ thành lui hẳn xuống phía Nam rồi!”. Phạm Thừa Ân được tin kinh hãi rụng rời, như vậy là đại quân không còn đường về nữa!
- Như vậy, binh ta không cứu kịp Đại Bái rồi, bại quân của ông Trương Bá Cương không thể chạy về phía Đông, cũng không thể lên phía Bắc, ngó sang phía Tây lại càng vô lý. Chỉ còn con đường rút về phía Nam là còn hi vọng. Vậy, binh ta cũng phải giạt hẳn xuống Nam, đi sát phía Đông, có như thế mới mong được an toàn, lại có thể làm thế cứu trợ cho ông Trương được. Vả chăng, nếu binh ta tiến chậm, thế nào cũng không còn đường về, tướng tiên phong hãy cho lệnh rời quân gấp!
Tướng Ân Mạnh Thiệu lập tức cho quân lên đường ngay. Binh Siêu Loại triệt thoái lặng lẽ mà thật nhanh, tưởng như tất cả lui chạy.
Tin bay về thành Đại Bái, tướng Siêu Loại trấn giữ thành này là Trương Bá Cương được tin kinh hãi quá. Một mặt truyền quân chuẩn bị chiến đấu, sai đóng chặt cửa thành. Một mặt cho tế tác ra sức dò la tin tức. Tin đều đều gấp gửi về mỗi lúc một thấy tình hình thêm trầm trọng, nào là đại binh của tướng Phạm Thừa Ân đại bại, tướng tiên phong Lưu Trọng Tài của Tiên Du tuy bị Luy Lâu Thần Nữ đánh trọng thương, nhưng thành Cổ Tiểu đã san bằng. Đại quân Tiên Du cùng với quân trấn Bồ Sơn và Bát Vạn hai mặt kẹp binh của soái tướng Phạm Thừa Ân vào giữa mà bóp nát...”.
Trương Bá Cương nghe tin như ngồi trên đống lửa, muốn vào thăm hỏi Dương Ngọc Kỳ để bàn việc thì Kỳ vẫn còn mê man chẳng tỉnh.
Còn đang loay hoay chưa quyết, đã lại thêm tin: “Quân Tiên Du từ Bồ Sơn vượt núi, hợp với binh thành Bát Vạn đang gấp rút tới lấy thành Đại Bái để chặn đường tháo chạy của lão tướng Phạm Thừa Ân...”. Trương Bá Cương hiểu binh thành Bát Vạn do ai cai quản, bây giờ binh ấy ra trận ắt thành Đại Bái không mong một hòn gạch còn được nguyên vẹn nữa!
Trương Bá Cương liền quyết định ngay: một mặt cho tế tác có liên lạc với tướng Phạm Thừa Ân, báo cho soái tướng biết là thành Đại Bái bị uy hiếp nặng quá phải bỏ thành. Binh của Trương Bá Cương rút hẳn về phía Nam làm thế chống đỡ, một mặt Trương Bá Cương ra lệnh cho quân mau mau rút hết khỏi thành rồi đóng chặt cửa. Trong thành còn bao nhiêu dân cũng mặc, cứ việc nổi lửa thiêu hết!
Thế là chẳng mấy chốc, cả tòa thành Đại Bái tuy không lớn đã ngút lửa, dân thành không có lối chạy trước còn kêu la van khóc. Sau cùng đường thì kêu réo chửi rủa Sứ quân Siêu Loại chẳng còn lời lẽ nào là chừa nữa! Tình cảnh trong thành với vài trăm dân mới thật là thảm khốc, tất cả khoanh tay chờ chết. Có người muốn leo tường thành thoát ra ngoài thì lại bị binh Siêu Loại đón ở ngoài phóng tên giết chết luôn. Lửa mỗi lúc một lớn, nóng đến cạn khô cả máu trong thân thể, người lớn như điên cuồng, trẻ con như hóa dại. Những người còn tỉnh táo đành ôm trẻ nhỏ, đẩy người già vào biển lửa cho chết mau mau, rồi sau cùng nhảy vào lửa chết theo cho khỏi kéo dài đau đớn?
Lửa cháy được hồi lâu, trong thành không còn tiếng la thét chửi rủa nữa, thì người lính Siêu Loại cuối cùng cũng đã xa thành. Thành Đại Bái bị hỏa thiêu tin trình về cho Phạm Thừa Ân biết, lão tướng mắt chẳng thấy ngọn lửa thế mà cũng vã mồ hôi, mắt cay đến ràn rụa nước mắt. Chưa bao giờ trong đời làm tướng cầm quân của ông lại bi đát thương tâm đến như lần này!
Kể đến đạo quân Tiên Du do tướng Điền Mẫu Nghị chỉ huy, có tướng Tôn Bình Minh giữ cờ tiên phong ra sức vượt vách núi để vào địa phận trấn thành Bát Vạn. Binh của lão tướng lặng lẽ kéo đi cho đến tinh mơ hôm sau thì đã sang được hết bên kia vách núi. Nhìn ra rừng trùng điệp dày đặc, địa thế thật hiểm trở. Đại quân xẻ rừng tiến tới, đến lúc mặt trời đứng bóng quân mệt ngựa mỏi gối thì tế tác thành Bát Vạn đã phi báo về thành cho tướng Khúc Việt Thư hay là: “Có quân lạ nhằm hướng thành tiến tới!”.
Khúc Việt Thư nghe báo cả kinh, núi Bát Vạn linh khí ngút trời, danh tiếng cả cõi này, chưa từng có binh tướng nào dám xâm phạm. Sao bây giờ lại có quan lạ nào dám cả gan tiến tới là thế nào? Lập tức, danh tướng Khúc Việt Thư truyền đóng cửa thành, quân dân các nơi trên thành cao để cự địch. Khúc Việt Thư lại truyền cho các thuộc tướng mau đem quân bày trên các vách núi để làm thế phòng trợ.
Đến chiều tối hôm ấy, thành núi Bát Vạn mới được tin là: “Quân ta chẳng ai khác hơn là binh của lão tướng Điền Mẫu Nghị!”.
Điền Mẫu Nghị vào thành thuật hết mọi việc cho Khúc Việt Thư nghe, rồi bảo:
- Tôi không hiểu ông An Bình Huy sao lại hồ đồ đến như vậy? Bây giờ việc lớn nguy cấp, ông nên cấp báo về cho Chúa công hay, rồi hai binh hợp lực ngăn chặn An Bình Huy ở Bồ Sơn, lại ra quân để đối phó với mặt thành Đại Bái:
Khúc Việt Thư nghe Điền Mẫu Nghị thuật mọi việc thỉnh thoảng có hỏi lại đôi chỗ, đến khi nghe Điền Mẫu Nghị nói việc quân nên chia hai mặt cùng chặn Bồ Sơn với Đại Bái, thì đáp:
- Tôi thấy trong việc này có nhiều điều lạ! Điều lạ thứ nhất, là không lẽ chỉ vì một cớ nhỏ nhặt như vậy mà An Bình Huy làm phản! Điều lạ thứ hai, là nếu An Bình Huy làm phản, sao lại không ngăn binh của ông không cho đi thoát mới phải. Điều thứ ba, nếu An Bình Huy liên minh với quân Siêu Loại thì sao lúc ông triệt binh lại không thấy binh Siêu Loại đuổi đánh? Vả chăng, đường về Phủ đường tuy xa xôi, nhưng nếu tin đi thì cũng chẳng lâu là mấy, sao tôi chẳng được tin gì của Phủ đường hay của Đại Bái, Cổ Tiểu, hay Bồ Sơn cả?
Điển Mẫu Nghị đáp:
- Lúc tôi cho rời quân, thì sau lưng Bồ Sơn đang tiến quân, trước mặt binh Siêu Loại gấp rút chẹn đường, như thế rõ ràng là có gắn bó ra quân của hai nơi ấy chứ!
Khúc Việt Thư chưa kịp nói, đã có tế tác vào tình: “Thành Đại Bái ngút lửa, binh Siêu Loại lui khỏi thành, không hiểu nguyên cớ vì đâu, Siêu Loại định hành động ra sao?”.
Khúc Việt Thư, Điền Mẫu Nghị nghe tin, càng lấy làm lạ, hai lão tướng bàn suốt đêm đến tận sáng hôm sau vẫn không hiểu được tình hình.
Tại trấn thành Bồ Sơn, chẳng mấy ngày sau khi Đặng Tân Thư bị giết, tin trình về cho An Bình Huy rõ. Huy giận tưởng có thể đứt hơi thở mà chết ngay được, nhiều lần An Bình Huy nghiến răng trèo trẹo rủa bọn Điền Mẫu Nghị. Giận còn chưa nguôi chút nào, ít ngày sau lại có tin trình về: “Binh của Điền Mẫu Nghị gặp địch, giao tranh dữ dội, thành Cổ Tiểu bị san bằng, tướng tiên phong Lưu Trọng Tài bị trúng thương trầm trọng.” An Bình Huy được tin, cười hề hả bảo các thuộc tướng:
- Điền Mẫu Nghị ỷ tài, nhưng thật ra chỉ có hư danh, bây giờ gặp địch cương cường bị đại bại, thế nào cũng tan quân!
Rồi An Bình Huy truyền đóng chặt cửa thành, lại lệnh cho các tướng: “Nếu Điền Mẫu Nghị có bị bại binh chạy về cầu cứu, thì cứ chùng chình để mặc cho Nghị chết!”. Các tướng được lệnh, lại càng hăm hở hơn cả chủ tướng, ra sức phong tỏa thành, khiến cho dân chúng không còn lối đi lại làm ăn, mọi việc bê trễ, tình cảnh đang bình yên hóa ra điêu đứng khổ sở!
Được vài ngày, An Bình Huy lại được tin: “Điền Mẫu Nghị không hiểu vì cớ gì, bất thần đưa đại quân vượt vách núi vào địa phận trấn thành núi Bát Vạn!”
An Bình Huy được tin ngẩn người, truyền các tướng họp bàn đến hai ngày liền cũng chẳng hiểu nguyên cớ ra sao. Đành sai tế tác ra sức dò la tin tức, lại một mặt gấp thông báo về Phủ đường để Sứ quân biết việc!
Thế là, binh Siêu Loại đi đánh Tiên Du, ra quân mới phá xong hai thành đất ngoại biên thì mọi việc đảo lộn cả. Tướng Điền Mẫu Nghị đem đại quân đi chống binh ngoài xâm phạm bờ cõi thì tất cả đưa quân bỏ chạy, còn binh Siêu Loại của lão tướng Phạm Thừa Ân đang thắng trận cũng vội vàng cuốn cờ chạy về Nam. Bi thảm hơn cả, là tướng chiếm giữ thành Đại Bái đốt thành giết hết dân rồi lui binh cầm cự với địch mà vẫn không biết địch ở đâu, là ai, như thế nào?
Trương Bá Cương sau khi đốt thành Đại Bái, lui quân đợi binh của tướng Phạm Thừa Ân. Đợi đến gần sáu ngày trời tế tác liên lạc báo tin: “Đại quân của đại tướng cũng rút về Nam, sắp lại gần!”. Trương Bá Cương nghe báo cả mừng, liền sai người khôn khéo lanh lợi gấp rút đi liên lạc! Phạm Thừa Ân được tin của người khôn khéo của Trương Bá Cương cho hay là đã lui binh được an toàn thì lấy làm mừng rỡ, cũng vội giục tướng tiên phong Ân Mạnh Thiệu gấp đưa quân đến hợp với quân của Cương.
Hai quân gặp nhau, mừng thoát hiểm vây hãm của địch còn chưa hả, các tướng họp bàn đều ngẩn ngơ lạ lùng, không hiểu sao lại có những việc lạ như vậy? Các tướng cũng lại mừng là binh Siêu Loại xuất ngoại chinh phạt Tiên Du thắng lợi ở hai thành chứ chưa đến nỗi bị bại mà phải về. Rồi tướng Phạm Thừa Ân cho người phi báo về Phủ đường để Sứ quân được rõ. Sau mới đưa quân về tiếp cứu cho Phủ đường chống lại liên quân Đằng Châu, Bình Kiều xâm phạm bờ cõi Siêu Loại.
Tin đi nửa tháng trời mới về đến Phủ đường, lúc ấy tiết trời đã chớm vào Đông, lạnh rét lẫn mưa phùn cuối năm cũng không đủ làm cho Sứ quân thấy bớt được vã mồ hôi! Sứ quân kinh ngạc quá đỗi, truyền văn võ thuộc hạ họp tức thì để nghị việc.
Các tướng nghe tin lệnh cũng vội vàng kéo cả tới Phủ đường. Vào hội, Sứ quân bảo:
- Binh ta do đại tướng Phạm Thừa Ân cai quản, đã thắng lớn nhưng chưa vào sâu đất Tiên Du. Nay Phạm Thừa Ân gấp trình về đã lui quân được an toàn, bây giờ quân đang trên đường về cứu viện cho Siêu Loại ta chống liên binh Đằng Châu, Bình Kiều là thế nào?
Hết thảy mọi người nghe Sứ quân nói như vậy, đều tưởng như vừa từ trên trời cao rơi xuống, không ai biết việc ra sao! Hồi lâu, Sứ quân lại nói:
- Siêu Loại ta vẫn yên tĩnh, sao lại có việc tướng Phạm Thừa Ân bảo là đưa binh về cứu, chống cự với binh Đằng Châu - Bình Kiều? Hay là lão tướng ở bên ngoài được tin gì mà ta ở trong chẳng được biết?
Rồi Sứ quân tra hỏi các tướng giữ việc tuần canh, tế tác, liên lạc, tất cả đều quả quyết là không hề có việc binh ngoài xâm phạm bờ cõi Siêu Loại!
Sứ quân bảo:
- Binh ta đi chinh phạt Tiên Du, nhập chiến là thắng, tướng Tiên Du bỏ thành mà đầu hàng, rồi tướng của ta một mình một thiết côn san bằng thành của Tiên Du. Binh đang tiến mạnh như thế sao lại có việc gấp rút kéo về cứu nhà? Ta nghi có điều gì chẳng lành trong việc này đây!
Văn Sĩ Du Hải Tang nói:
- Bẩm Sứ quân, việc ta ra lệnh cho binh ngoài về cứu ứng rõ ràng là điều không có, như vậy thì đây phải cho là Siêu Loại ta bị trúng mưu thâm của địch mất rồi!...
Sứ quân bật hỏi:
- Địch nào? Ta trúng màu độc gì?
Văn sĩ Du Hải Tang đáp:
- Không phải chỉ có đem quân ra mặt trận mới là giao chiến, mà còn nhiều cái khác cũng gọi là giao chiến nữa. Trong đó có thứ “ngữ chiến” tức là dùng lời lẽ để lung lạc địch, “kế chiến” tức là dùng mưu kế để thắng địch mà không cần ra quân; “ngoại giao chiến” tức là đi lại vận dụng khôn khéo thế nào để binh không cần xuất trận mà địch cũng đầu hàng; rồi là ly “gián chiến”; “họa chiến, “vọng chiến”... tức là ly gián địch, gây cho địch những tai họa làm sụp đổ cả việc binh bị lẫn việc chính trị. Rồi là lối chiến tranh đánh ở đằng Đông mà địch ở tận đằng Tây phải tự nhiên bỏ chạy... Biết bao nhiêu là thứ chiến. Bây giờ, binh ta ngoài quan ải đang thắng trận, tự nhiên hấp tấp được lệnh của ta gọi về để cứu nguy ở nhà. Rõ ràng là địch đã dùng đến lối “kế chiến” hợp với “họa chiến” để hại ta rồi!
Cả hội nghị lao xao, ai cũng thán phục biện giảng của văn sĩ Du Hải Tang. Sứ quân gật gù mà rằng:
- Như thế thì quả nhiên ông Phạm Thừa Ân bị trúng mưu của địch rồi. Bây giờ ta nên tính thế nào?
Văn Sĩ Du Hải Tang lặng lẽ suy nghĩ, cặp lông mày nhỏ vút của ông ta nhíu lại như hai mũi kiếm nhọn. Du Hải Tang người đất quận Giao Chỉ (Phù Dung cũ, thuộc phủ Khoái Châu, Hưng Yên), nhà làm bên ven suối. Thuở nhỏ, cha mẹ Hải Tang vốn theo nghề chài lưới, nhưng Hải Tang không thích nghiệp nhà nên thường bảo: “Làm nghề chài lưới vất vả bữa no bữa đói, sao lại cứ theo đuổi cái nghề vất vả ấy làm gì? Phải làm thế nào để nói một lời trời đang nắng hóa mưa, đang nghèo hóa giàu, đang đói hóa thành no, có như thế mới thỏa chí!...” Rồi Du Hải Tang xa lánh đám trẻ cùng tuổi, chẳng đua đòi nghịch ngợm phá phách, suốt ngày chỉ lặng lẽ nhìn mây trên trời cao, xem gió thổi hết hướng Đông lại sang hướng Bắc. Quan sát trời mưa, để ý các thiên tượng. Lúc lớn lên, Hải Tang mày mò tìm sách đọc, thông hiểu thiên văn địa lý cũng nhiều. Năm nọ, người cùng làng vốn giàu có thóc gạo không còn chỗ chứa nhưng lại thật keo kiệt, cả làng ai cũng ghét. Người nhà giàu bị quân trộm cướp nhân đêm tối đến cướp của. Nhà giàu nhớ được mặt tên trộm cướp bèn thưa lên đình trưởng. Quan trên xét việc có ý muốn nhận việc này để nã bạc vàng của anh nhà giàu, lại toan thả tên cướp vì được nó đút lót rồi. Quan chưa biết phân xử thế nào cho phân minh, thì Du Hải Tang được người nhà tên cướp đến điều đình nhờ làm chứng cãi hộ. Hải Tang vốn chẳng ưa gì anh nhà giàu, bèn nổi máu anh hùng đứng ra làm chứng cho tên cướp.
Du Hải Tang vốn đọc sách, ý tưởng lại hơn người, liền trổ tài ra sức ngụy biện, nói trắng thành đen, gân cổ chứng minh tên cướp là người trong sạch, anh nhà giàu là đứa họa hại của trăm dân. Du Hải Tang cãi hay đến nỗi quan xử việc cứ tưởng thằng cướp là người lương thiện suýt nữa bị vạ oan, anh nhà giàu mất của hồ đồ vu vạ chẳng tiếc lời!
Sau vụ cãi cho thằng cướp này, Du Hải Tang được người đời tặng cho cái ngoại hiệu là “Nhuyễn Thiệt Tiên” có ý bảo gã là ông tiên có cái lưỡi mềm nhão rất lợi hại! Sau lần ngụy biện ấy, Du Hải Tang lúc nào cũng cảm thấy là mình có tài ăn nói, ắt mai sau thế nào cũng có phen đem cái lưỡi ra làm rung chuyển sơn hà một phen cho thỏa chí. Rồi Du Hải Tang lần tìm đến Sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại xin phò tá. Hải Tang giúp việc cho Sứ quân cũng được nhiều, nhưng thuần những việc “thay trắng đổi đen, thẳng bẻ thành quẹo” hết. Vì vậy những người ngay thẳng chẳng ai ưa Hải Tang, ai cũng gọi y là “thằng nhìn ngang” vì y có tật lác mắt (lé). Tuy thế trước mặt y thì chẳng ai dám gọi y như vậy cả.
Bây giờ trong hội, việc nghiêm trọng thành ra Du Hải Tang nhận thấy lờ mờ sự việc, dù có muốn bẻ cong hay đổi trắng thành đen cũng không được, nên chỉ nói ra những lời phải chăng.
Sứ quân hài lòng, các tướng văn võ cũng không có chỗ nào chê bai được. Du Hải Tang nghe Sứ quân hỏi, nghĩ một lát rồi giương cặp mắt lác nhìn ngang lên mà thưa:
- Bẩm, Tiên Du có mấy thành rất lợi hại, binh ta tiến đánh vào vùng thành Bồ Sơn trước. Thành Bồ Sơn hiểm hóc, có binh hùng tướng mạnh, binh ta thắng hai thành bên ngoài có thể là có thật...
Sứ quân ngạc nhiên, hỏi vội:
- Thế nào là thắng “có thể là thật?”. Hay là lại còn có thứ “thắng giả” nữa chăng?
Các tướng cũng ngạc nhiên. Du Hải Tang đáp:
- Bẩm, luận việc ta nói đi, nhưng cũng lại phải xét lại, có thế mới tìm ra chân lý được. Vì thế, ta được tin binh ông Phạm Thừa Ân thắng trận, phá hai thành, ta cứ tin như vậy đã. Sau, lại phải hỏi: tại sao phá được thành rồi, không nghe binh của ta tiến đánh Bồ Sơn? Mà tại sao cũng lại chẳng được tin gì về việc Bồ Sơn xuất chiến đương cự lại ta? Chẳng có lẽ Bồ Sơn không dính dáng gì đến hai thành bị mất, hay hai thành bị mất ấy không phải là của Tiên Du?
Cả hội sinh nghe Du Hải Tang nêu câu hỏi, không ai biết trả lời ra sao. Sứ quân bảo:
- Rồi ông thấy sao nữa?
Du Hải Tang ngồi cao người lên, hai mắt lệch không biết đúng ra là nhìn vào đâu, đáp:
- Trong việc binh của ông Phạm Thừa Ân thắng trận, có bao nhiêu là điều đáng nghi. Điều nghi trước tiên, là không có đương cự của địch. Điều nghi thứ hai, nó có liên hệ lắm với việc thắng hay bại ở hai thành của Tiên Du. Nếu thắng thật thì ta đã gặp khó khăn ở Bồ Sơn, còn thắng giả thì việc đại quân tự nhiên bỏ về phải nghĩ là: Ông Phạm Thừa Ân đã bại binh, rút về được an toàn là một điều mừng. Cũng vì thế, cái tin nói rằng: “... Chúa công ra lệnh đem quân về cứu ứng ở nhà để chống lại Đằng Châu.” Biết đâu lại chẳng là cái cớ để triệt binh đại bại ở ngoài?!
Nhiều tướng nghe Du Hải Tang nói thì giận lắm, tức thì tướng Đỗ Bá Đoàn đứng bật dậy nói:
- Bẩm Chúa công, ông Phạm Thừa Ân tuổi chưa già lắm nhưng ở đây không ai là chẳng kính trọng tài đức của ông ấy. Thì chắc chắn chẳng vì lẽ bại binh mà ông ấy lại phải trí trá hèn mạt đến như vậy được! Trong việc này, ắt có nhiều bí ẩn, nếu cứ nghe luận bàn “đổi trắng thành đen” như thế này, tất chẳng khỏi làm tổn thương đến danh dự của người làm tướng, nát cả việc lớn mất!
Sứ quân nhíu mày, như vậy là có sự bất hòa sinh khó chịu giữa đám thủ hạ rồi. Sứ quân bảo:
- Việc luận bàn là để tìm sự thật, làm gì có việc mất danh dự của ai!
Sứ quân vừa dứt lời, quân vào trình:
- Bẩm, tin từ ngoại biên gửi về cho hay là: Thành Đại Bái đã bị uy hiếp nặng nề quá, tướng của ông Phạm Thừa Ân đã phải hỏa thiêu thành rồi rút quân ra xa thành về phía Nam mới thoát hiểm! Hiện giờ binh ấy còn đang đợi đại quân của tướng từ hướng Đông kéo về.
Tin trình lên, các tướng ngẩn người, Du Hải Tang vẻ mặt vênh váo, hai mắt đã lác lại càng muốn lác hơn nữa! Du Hải Tang nói:
- Bẩm Chúa công, rõ ràng là binh ta bị nguy khốn, chứ làm gì có việc Tiên Du nguy khốn! Cái việc được thành Đại Bái, chắc lại là bị trúng kế của Tiên Du mất! Chẳng thế, thì tại sao thành Đại Bái nằm trong tay ta mà tướng của ta phải bỏ thành chạy cho nhanh như thế? Đến thành Cổ Tiểu thì việc thành bị san phẳng, ai dám chắc rằng đây là chiến thắng của ta!
Các tướng cứng họng, ai cũng nuốt giận cố nén, chẳng có cách gì cãi lại được miệng lưỡi của “Nhuyễn Thiệt Tiên” Du Hải Tang. Sứ quân thừ người!
Hồi lâu, Sứ quân mới nói:
- Như vậy là thế nào?
Như vậy là thế nào, làm sao ai biết được, duy có việc binh nhà triệt thoái gọi là để về cứu viện thì có. Nguyên nhân vì đâu thì không ai biết, chẳng lẽ nào danh tướng Phạm Thừa Ân lại tồi tệ đến độ trí trá như vậy? Mọi người im lặng, Du Hải Tang lại luận:
- Ta không được tin gì về phía Tiên Du xuất chiến đương cự binh ta, ấy là một điều lạ! Nhưng nay có việc binh ta triệt thoái mà chắc chắn ở nhà không có việc gì, thì phải bảo rằng: binh ta không thắng địch, phải rút về nhưng phải phao lên là đại thắng và bây giờ về cứu viện ở nhà. Có như thế thì việc triệt binh mới không lo địch đuổi đánh. Binh pháp chẳng nói rằng: “tiến binh khó một, triệt binh khó ba” là gì?
Hội nghị bàn tán mãi cũng không hiểu hết việc. Càng nghe Du Hải Tang biện luận càng như chất mãi tội to lên đầu quân viễn chinh. Các tướng chán ngán nín lặng, Sứ quân thẫn thờ truyền tạm đình nghị để chờ xem sự thể ra sao.
- Bẩm, tướng công hôm nay sao có phần không được rạng rỡ, có điều gì không vui?
Sứ quân nghe Lục Hồ phu nhân hỏi thì cười xòa mà rằng:
- Việc binh lăng nhăng, làm sao lại còn mang những việc bận bịu ấy đến cung người đẹp làm gì?!
Rồi Sứ quân ôm Lục Hồ mà vào cung vui thú yến ẩm. Trong tiệc, Sứ quân giấu bặt không nói gì về việc binh ngoài thất bại phải chạy về, chỉ một mực cười cợt ôm ấp Lục Hồ. Lục Hồ tuy tuổi còn rất trẻ nhưng lại rất thông minh, chỉ thoáng thấy phong cách của Sứ quân trong yến tiệc cũng đủ hiểu ngay là Sứ quân có điều gì lo lắng không vui.
Tiệc tàn, trời đã tối lâu rồi, Lục Hồ phu nhân trong lúc sánh vai với Sứ quân mới thủ thỉ gợi chuyện:
- Bẩm Chúa công, thiếp có nghe mới đây Sứ quân cất quân đánh lẫn nhau, loạn lớn trong thiên hạ không biết đến thế nào. May Siêu Loại ta có Chúa công sức hùng chí lớn, lại được văn thần võ tướng phù trợ hết lòng, nên trăm dân được yên ổn. Mới đây Chúa công cho binh đi đánh Tiên Du, tin thắng trận hạ hai thành gửi về liên tiếp. Sao thiếp thấy Chúa công còn có phần không vui ắt là có việc gì?
Sứ quân cười mà rằng:
- Việc chinh chiến, phu nhân là người thần tiên nghe làm chi cho bận rộn trong lòng!
Lục Hồ đáp:
- Nếu thiếp chẳng phải là tôi tớ của Chúa công thì đã hẳn là chẳng bao giờ thiếp bận tâm đến việc của Chúa công làm gì! Vả chăng, nước ròng cũng có cái dụng của nó, gió thoảng cũng lợi lúc đêm hè, thiếp tuy là phận đàn bà nhưng cũng giúp ích được Chúa công trong việc đàn bà mà!
Phu nhân nũng nịu, Sứ quân cả cười ôm lấy phu nhân mà rằng:
- Quả có thế! Quả thật có thế! Nước ròng gió thoảng đều có các dụng thật, chẳng phen phu nhân giúp ta ý tốt sao ta lại chẳng nhớ!
Phu nhân được đà nói luôn:
- Như thế, thì tại sao Chúa công lần này lại không muốn cho thiếp biết mọi việc là vì đâu?
Sứ quân nghiêm nét mặt lại chen lẫn vẻ buồn. Hồi lâu chậm rãi thuật lại hết mọi việc, không bỏ sót chỗ nào, rồi bảo:
- Trong hội chiều nay, văn sĩ Du Hải Tang có nói rõ tất cả như thế. Các tướng văn võ không ai cãi vào đâu được, thành ra ý ta cũng thấy băn khoăn lo ngại!
Lục Hồ phu nhân nghe Sứ quân thuật mọi việc xong, mày liễu chợt cau lại, nàng hỏi:
- Sao Chúa công không cho tế tác ra tận biên ải mà đón tin có được không?
- Tế tác của ta đi lại ngày đêm, tin liên miên đưa về có sai lạc đâu!
Lục Hồ nghiêm trang hỏi:
- Chúa công nếu thấy lời văn sĩ Du Hải Tang đúng, thì tại sao không ra lệnh cấp tốc gửi cho ông Phạm Thừa Ân bảo phải dừng quân ở ngoài, không được đem binh về. Trước là để tránh náo động, sau là đề phòng kẻ phản phúc có hơn không?
Sứ quân băn khoăn:
- Lý lẽ của Du Hải Tang đúng thì có đúng, nhưng ta còn có chỗ nghi ngờ rằng Phạm Thừa Ân không phải là con người trí trá như vậy!
Lục Hồ khoan thai:
- Tướng công ở ngôi cao, dưới trướng có trăm văn võ theo hầu, ý chúng làm sao lại hơn được minh trí tuệ tinh của tướng công! Thế thì, Du Hải Tang dù có là “ông tiên lưỡi mềm” đến thế nào chăng nữa, chẳng qua cũng chỉ là lời bàn góp mà thôi, sao tướng công lại không tự tin ở mắt nhìn của mình mà chẳng có phán đoán minh bạch như vậy?
Sứ quân bị Lục Hồ êm ái vặn hỏi, vừa có phần khuyên nhủ, lại không thiếu phần kín đáo trách móc, thì cũng có ý thẹn trong lòng. Sứ quân gỡ thẹn bằng cách cười lớn, tay quàng lấy vai Lục Hồ mà rằng:
- Ấy là ta nói như vậy đấy chứ, làm gì có việc không quyết đến nỗi để cho bọn thuộc hạ lung lạc được!
Lục Hồ càng nũng nịu:
- Tướng công thế mới đúng là bậc cao cả, em thật mừng rỡ biết bao! Thế tướng công quyết định như thế nào?
Lý Khuê làm gì có quyết định nào! Chẳng qua bị Lục Hồ dồn quá mà nói bừa như thế. Bây giờ bị hỏi đến nơi đến chốn không biết đáp sao, chỉ ậm ừ rồi kiếm cớ lảng sang việc khác. Sứ quân bảo:
- Ta về cung Lục Hồ là để được cùng người ngọc thưởng thức an nhàn vui sướng, nhắc làm chi những việc bận tâm ấy!
Thế là Lục Hồ phu nhân tươi vẻ mặt, sai tỳ nữ sửa soạn trương gấm, giường trải bạch tịch (chiếu trắng) Phù Dung sợi cói mịn nhỏ như sợi chỉ trồng ở Hưng Nhân để Sứ quân nghỉ.
Vừa vào đến giường, Lục Hồ phu nhân choáng váng mặt mày, đầu nhức như búa bổ. Phu nhân chẳng kịp thay áo thì đã vật xuống chiếu rồi. Sứ quân cuống cuồng vội sai đi gọi thầy thuốc đến xem bệnh.
Lục Hồ phu nhân có bệnh: thời tiết thay đổi, cuối năm nhân lúc mưa gió giao mùa và loài rươi ra nhiều thì thế nào cũng bị nhức đầu. Căn bệnh lạ lùng làm phu nhân trong đầu như có tiếng trống đập gió thổi lùng bùng. Chữa thuốc gì cũng không khỏi, nhưng hòa vào với tiếng gió lùng bùng ấy nếu có tiếng sáo vi vu thì dần dần gió thổi đến ù tai nhức óc cũng dịu dần. Tiếng trống đập cũng như nhịp nhàng hòa ái xen lẫn tiếng sáo tấu du dương, khiến phu nhân hết được nhức đầu.
Có lần, phu nhân cùng đám nữ tỳ đi dạo cảnh chiều bên sông Bái bỗng bị căn bệnh nhức đầu kỳ lạ phát ra. Phu nhân gục bên bờ sông khiến đám nữ tỳ kinh hoàng không biết phải làm sao. Lúc ấy, trên sông Bái có chiếc thuyền con xuôi dòng chậm chậm, trên thuyền có tiếng sáo véo von bay ra. Trời chiều bảng lảng, tiết cuối năm khí hậu dìu dịu sắp sửa có mưa giao mùa, phu nhân đang đau đớn lăn lộn bên bờ sông khi nghe tiếng sáo bỗng như có thuốc thần làm cho cơn đau đớn dịu dần. Đến lúc chiếc thuyền đi xa tiếng sáo còn nghe được tiếng mất tiếng còn lẫn vào trong gió, thì phu nhân cũng tỉnh lại. Từ đấy, mỗi lần bị lên cơn đau như vậy thì phải gấp tìm người đến bên ngoài rèm thổi sáo để chữa cho phu nhân hết bệnh.
Bây giờ bỗng nhiên cơn đau bốc lên, Sứ quân truyền đi gọi thầy thuốc nhưng mấy con nữ tỳ thì quen biết rồi, chúng bảo nhau đi tìm người biết thổi sáo. Sứ quân thấy mấy nữ tỳ cứ loanh quanh thì hốt nhiên nổi giận, Sứ quân quát mắng om sòm. Đến lúc ấy mấy con nữ tỳ mới quỳ xuống mà thưa hết mọi chuyện! Thì ra, Sứ quân mê say Luy Lâu Thần Nữ rồi lại bị Thần Nữ giữ không cho đến với Lục Hồ nên chẳng biết bệnh của nàng. Bây giờ Sứ quân mới biết bệnh của vợ mình phải chữa bằng cách nào!
Sứ quân trong một thoáng bối rối, liền tươi ngay nét mặt, ngài bảo Lục Hồ:
- Phu nhân thế nào cũng hết bệnh, ta biết có người giỏi nghề thổi sáo lắm!
Lục Hồ thều thào:
- Người ấy là ai? Sao Chúa công không cho gọi mau đi!
Sứ quân trong vui vẻ cũng còn chen lẫn đôi chút ngập ngừng, rồi ngài bảo:
- Khó là... người ấy...
- Người ấy là ai thế tướng công?
Giọng Lục Hồ vừa nũng nịu lại vừa như thúc giục, cố nén đau đớn, khiến Sứ quân chẳng còn kịp suy nghĩ gì thêm nữa, ngài nói:
- Người giỏi thổi sáo ở đời này, thì chỉ có văn sĩ Du Hải Tang của ta!
Một thoáng vẻ mặt Lục Hồ vui vẻ, rồi lại nhăn nhó đau đớn, phu nhân vật vã giọng rên rỉ:
- Tướng công cho gọi Du Hải Tang đi!
Nhìn cảnh Lục Hồ vật vã đau đớn khiến Sứ quân vừa xót xa vừa bối rối, cuối cùng thì đành cho lệnh đi triệu văn sĩ Du Hải Tang.
Du Hải Tang được lệnh Sứ quân gấp đến cung Lục Hồ thì chẳng biết có việc gì, liền hấp tấp ra đi. Đến nơi đứng ngoài cửa cung đợi lệnh, được một lát thì có nữ tỳ ra bảo rằng:
- Phu nhân nổi bệnh nhức đầu. Chúa công truyền văn sĩ thổi sáo để chữa bệnh cho phu nhân!
Du Hải Tang nghe tỳ nữ nói thì ngỡ ngàng, cố gắng hỏi. Tỳ nữ thuật rõ đầu đuôi căn bệnh của phu nhân, rồi nhắc lại lệnh của Sứ quân giục văn sĩ mau mau tấu địch. Du Hải Tang nghe xong thì bừng bừng giận dữ. Có bao giờ Du Hải Tang vẫn thường tự nhận là “Thần Tiên” ở đời, lại phải nhận cái nhục đứng trước cửa cung tấu địch để chữa bệnh cho thiên hạ như vậy được. Cho dù kẻ bệnh ấy là Lục Hồ phu nhân! Du Hải Tang mặt đỏ bừng, rồi chuyển thành tái mét, môi run rẩy nói chẳng ra lời. Cứ giương cặp mắt lác xệch nhìn nữ tỳ mà hóa ra nhìn đi đâu. Còn nữ tỳ thì cứ một mực thôi thúc Hải Tang!
Trong cung, Lục Hồ càng lăn lộn rên rỉ. Sứ quân càng luống cuống nóng lòng đợi tiếng sáo của Du Hải Tang, càng đợi càng thấy bằn bặt. Sứ quân mấy phen truyền tỳ nữ đưa lệnh cho Du Hải Tang tấu địch, mấy phen tỳ nữ rụt rè mãi mới dám trình rằng “Hải Tang giận dữ không chịu thổi sáo!”.
Sứ quân nghe trình liên quát lớn:
- Sao thằng tôi tới lệch mắt ấy dám trái lệnh ta!
Quát xong, Sứ quân xăm xăm bước ra truyền lệnh cho quân canh giục trống triệu tập các tướng, lại truyền thuộc hạ không thiếu một ai tất cả đều phải đến ngay trước cung Lục Hồ đợi lệnh. Sứ quân lại truyền bắt trói Du Hải Tang để đợi lệnh. Du Hải Tang uất khí bốc lên mặt nhợt nhạt như xác chết trôi, văn sĩ chịu trói đứng đợi trước cửa cung Lục Hồ.
Chẳng mấy chốc các thuộc tướng văn võ của Sứ quân đã tới đông đủ, Sứ quân truyền đốt đuốc cho sáng. Ngài đứng trên thềm cung Lục Hồ mà rằng:
- Du Hải Tang không chịu thổi sáo để chữa bệnh cho phu nhân, như vậy có phải là kẻ làm tôi trung thành được không?
Sứ quân sắc mặt giận dữ, các tướng văn võ nghe hỏi thì hiểu ngay cớ sự. Lập tức, Sứ quân vừa hỏi đã có người lên tiếng:
- Bẩm Chúa công, binh ngoài xâm phạm bờ cõi mà tướng không ra trận là tướng phản loạn. Lúc Chúa công có việc mà văn sĩ không giúp một tay dù chỉ là thổi sáo, thì chính là kẻ bất trung!
Người vừa nói là Ngô Văn Sính, người ở châu Gia Lâm. Sính võ không giỏi, văn không hay, nhưng theo hầu Sứ quân hết lòng hết dạ rất được Sứ quân yêu thương tin cần. Lúc ngồi trong hội nghe Du Hải Tang hết lời biện giảng tròng tội lên đầu bọn Phạm Thừa Ân thì Ngô Văn Sính thấy bực trong lòng. Nhưng Sính lại chẳng biết phải mở mồm ra sao để cãi cho bọn tướng đang chiến trận ở bên ngoài được. Bây giờ nghe Sứ quân nói, Sính nắm ngay lấy cơ hội để vặc lại Du Hải Tang. Các tướng nghe Sính nói đều im lặng, Sứ quân bảo:
- Bệnh của phu nhân ta chỉ có nghe tiếng sáo là hết, thế mà ở đây chỉ một mình Du Hải Tang biết thổi sáo. Lại tự phụ là giỏi khúc “Âu lạc cầu duyên” của họ Cao ở Hải Nam. Thế mà nay ta cầu đến y nhất định không chịu ra tài, như thế phỏng có xứng đáng là tôi trung được không?
Nói xong, Sứ quân truyền giam ngay Du Hải Tang lại, đợi đến khi bệnh của phu nhân chữa khỏi lúc ấy sẽ xét tới mà định tội Hải Tang sau. Rồi ngay trong chiều hôm ấy, Sứ quân truyền lệnh ra khắp mọi nơi. Xem trong thiên hạ có ai giỏi thổi sáo thì mau mau đến chữa bệnh cho phu nhân mà lĩnh trọng thưởng.
Quân lĩnh mệnh lập tức đốt đuốc đập trống, chia nhau đi các ngả mà ra lệnh cầu của Sứ quân. Sứ quân vào trong cung Lục Hồ xem bệnh tình của phu nhân, lại mang theo các tướng vào vấn an. Việc Lục Hồ phu nhân bị bệnh nhức đầu thế là trong chớp mắt cả Siêu Loại đều biết. Trăm quan văn võ trong đêm hôm ấy không ai dám rời cung Lục Hồ ra về, ai cũng ra vẻ băn khoăn lo lắng chẳng khác nào như chính Sứ quân băn khoăn lo lắng.
Suốt đêm, Lục Hồ phu nhân lúc mê lúc tỉnh, mê thì ngủ thiếp đi, tỉnh thì lại bưng đầu mà lăn lộn khiến Sứ quân càng cuống quýt. Các tướng thuộc hạ của Sứ quân cũng đứng ngồi không yên, cả đêm không ai ngủ. Đến gần sáng thì phờ phạc thảm hại! Thế là, Siêu Loại đang rối bời về việc binh đao chiến trận, nay lại gặp phải cái nạn nhức đầu của phu nhân vợ Sứ quân. Không ai là còn thiết nghĩ đến binh ngoài biên ải thắng bại ra sao. Chỉ riêng có Du Hải Tang là không đâu bị họa vào thân!
Cho đến trọng Thìn hôm sau, Sứ quân buồn bã ngồi bên giường nhìn phu nhân thiên tiếp. Các tướng văn võ thuộc hạ của Sứ quân chia nhau ra về. Chỉ để lại một ít người để nghe tin, phục dịch, đợi lệnh của Sứ quân, thì bỗng có tiếng trống lạnh nên thùm thùm ở bên ngoài. Sứ quân nhíu mày, các tướng vội vã chạy ra xem sự thể. Sứ quân lo lắng chen lẫn giận dữ, chỉ sợ tiếng trống ẩm ầm làm phu nhân giật mình thức giấc thì lại bị nhức đầu! Sứ quân đã toan đứng lên ra lệnh, thì vừa lúc ấy một tướng hấp tấp chạy vào, tướng ấy mặt mày hớn hở quỳ xuống mà bẩm việc.
Chưa biết lại có việc gì mà tướng ấy hớn hở, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—