← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Tám Mươi Ba Dị nhân giảng về tiếng địch
Hải Tang trong ngục hòa tiêu

Sứ quân nhìn ra, thì là tướng Đỗ Vạn Phúc giữ việc tuần phòng bên ngoài Phủ đường: tướng Phúc vòng tay quỳ gối bẩm:

- Bẩm trình Chúa công, có một dị nhân mặc áo bảy màu, lưng treo ống sáo, đòi vào ra mắt Chúa công để tấu địch!

Sứ quân Lý Khuê lập tức hết giận, vẻ mặt cũng tươi hẳn lên, Sứ quân hấp tấp:

- Đón dị nhân vào! Đón dị nhân vào!

Miệng nói, chân Sứ quân bước ra, tướng Đỗ Vạn Phúc theo bén gót Sứ quân.

Ra đến cửa cung Lục Hồ, Sứ quân thấy đám lính tuần canh cùng các tướng đứng quanh một người lạ. Người lạ cưỡi con ngựa lông xám bẩn, dị nhân mặc áo bảy màu sặc sỡ, tóc buông xõa như thuật sĩ phù thủy. Vẻ mặt dị nhân lạnh như băng, hai mắt sáng lạ lùng, dị nhân tuổi không cao nhưng nét phong trần hằn rõ. Dị nhân nhìn Sứ quân đang hấp tấp bước ra mà vẫn thản nhiên chẳng xuống ngựa, cũng không thèm nhẹ gật đầu chào một tiếng.

Sứ quân chẳng để ý đến tiểu tiết, xăm xăm bước lại, các tướng giạt cả ra nhường chỗ cho Sứ quân đi. Sứ quân đến bên ngựa xám của dị nhân, tay nắm dây cương, miệng vui vẻ:

- Thần nhân, ngài chịu đến giúp ta! Xin mời ngài vào!

Dị nhân trên mình ngựa khẽ nghiêng đầu nhìn xuống mặt Sứ quân, rồi lẳng lặng buông cương xuống ngựa. Sứ quân vội vàng quay gót trở vào cung Lục Hồ. Người lạ khoan thai đi theo, mắt chẳng nhìn ngang nhìn ngửa. Các tướng cũng lục tục theo vào.

Sứ quân đưa người lạ vào khách sảnh cung Lục Hồ rồi trịnh trọng mời ngồi, người lạ vẫn lẳng lặng chẳng nói một lời. Ung dung ngồi xuống ghế lụa, vươn tay ra sau lưng nhấc ống sáo dài bọc trong da trăn lột, để trên lòng mà ngồi yên. Sứ quân đợi cho mọi người cùng ngồi cả xuống, rồi trịnh trọng nói:

- Thưa ngài, tôi cho lệnh rao truyền cầu người tài giỏi tấu địch để cứu bệnh, ngài đã tới đây tức là đã có lòng giúp tôi. Vậy trước xin được hỏi thần danh, sau xin được vấn đến tiên cảnh nơi người tiên ở ẩn?

Người lạ thản nhiên:

- Tôi nghe Sứ quân có một văn sĩ giỏi nghề thổi sáo, có phải thế không?

Sứ quân trịnh trọng:

- Quả có thế! Ngài cần gì đến người ấy?

- Liệu sức y có hiểu nổi âm luật để huy động được bốn điệu hai-mươi-tám vận, bảy luật, thông được độ khúc mà tấu địch được không?

Sứ quân cùng các tướng nghe người lạ hỏi thì không ai hiểu ra sao cả, mọi người đều ngẩn ngơ, ở đây làm gì có người thông được luật tắc của âm thanh mà hiểu được những lời người lạ hỏi!

Sứ quân ngập ngừng chưa kịp đáp, thì lại thêm một loạt các tướng văn võ nữa từ ngoài bước vào. Khách sảnh xao động, mọi người an vị, lúc ấy Sứ quân mới tiếp:

- Thưa ngài, việc âm nhạc là phần cao siêu của tiên thánh, chúng tôi thì không được hiểu rõ, tai trần tục chỉ nghe đàn hay, xênh phách dìu dặt, ti trúc khoan hòa là thích, còn âm luật thì khó khăn dễ mấy người biết được!? Duy văn sĩ Du Hải Tang tôi nghe là người sành nhạc, giỏi âm luật, tất có thể y cũng hiểu được võ vẽ đôi chút chăng!

Người lạ chẳng nói, mưu sĩ Lý Thưởng tiếp lời Sứ quân:

- Bẩm ngài, tôi Vũ Dát, văn thì chưa qua hết cửa ngoài, âm luật ca nhạc nghe mơ màng như người chưa tỉnh giấc. Tai vẫn thường nghe vài bậc cao nhân luận bàn về cung bậc âm giai, nhưng tôi nghe chẳng kịp. Tiện đây, ngài từ xa lại sắp ra tài để cứu bệnh cho phu nhân Sứ quân, thì chúng tôi cũng mong được ngài bỏ công một lần giảng cho chúng tôi hiểu nhạc. Sau nghe tiếng địch mới hiểu hết được tinh hoa trời đất, ngài thuận chăng?

Cả khách sảnh xầm xì, ai cũng cho lời văn sĩ Lý Thưởng là đúng lắm, Sứ quân bồi theo:

- Thưa ngài, tệ nội của tôi mắc bệnh nhức đầu, chỉ nghe tiếng sáo mới khỏi bệnh. Tôi chắc bên trong bệnh tật có chỗ nguồn gốc nào đấy mà chưa ai tìm ra, nhưng nghe tiếng sáo khỏi được thì tất căn bệnh ấy nó thuộc về “nhạc căn” rồi?! Giả sử ngài chữa bệnh mà trừ được đến tận cội rễ, thì mới thật là quý báu. Vậy ngài giảng âm luật cung bậc trước khi cứu bệnh, tôi cho là điều hay lắm!

Người lạ chẳng nói, lặng lẽ một hồi rồi lạnh lùng hỏi:

- Người bệnh hiện giờ ở đâu?

Sứ quân đáp:

- Tệ nội hiện ở trong, có cần phải đưa ra ngoài này để ngài chữa trị cho không?

Người lạ hỏi:

- Tỉnh hay mê?

- Thưa, lúc mê lúc tỉnh.

Hồi lâu, người lạ mới bảo:

- Nghệ thuật cao ngang với trời, sâu cùng với lòng đất, không thể có quyền lực nào sai bảo mà có được, chẳng có bạc vàng châu báu nào đổi mà có được. Nghệ thuật chẳng phải là thứ nuốt vào bụng hàng ngày như cơm, chẳng phải là vật đắp bên ngoài như áo quần. Nghệ thuật có thể là quý vô cùng mà cũng có thể không bằng một hạt ngô, một mảy thóc. Như vậy, không ai lại đem nghệ thuật ra mà rêu rao trong thiên hạ. Ta chưa từng bao giờ lại chịu đi cử nhạc cho thiên hạ nghe, đã thế việc tấu nhạc lại không phải là muốn lúc nào cũng được...

Sứ quân nghe người lạ nói trong lòng vừa lo vừa chán, đến lúc nghe như vậy thì vội vã:

- Thưa ngài, tôi cầu thần tiên là ở lòng thành, xin được thần tiên cứu bệnh chứ chẳng dám đòi hỏi...

Người lạ chặn ngang:

- Thế sao Sứ quân không cầu văn sĩ của ngài tấu địch có được không?

Sứ quân ngượng ngập, rõ ràng là trước Sứ quân ra lệnh thật gay gắt cho văn sĩ Du Hải Tang phải tấu địch để chữa bệnh cho phu nhân. Như vậy tức là Sứ quân đã lạm dụng uy quyền để cưỡng ép nghệ thuật, nay nghe dị nhân hỏi thì Sứ quân khó trả lời. Lát sau, Sứ quân mới nói:

- Quả thật nghệ thuật cao siêu quý giá, Lăng công ta chưa đủ đức để cầu nghệ thuật. Dám hỏi, ngài đã tìm đến đây, tất là có ý muốn giúp ta rồi, liệu Siêu Loại ta có được nghe tiếng địch thần tiên không?

Người lạ thung dung đáp:

- Ta mang ơn nặng của người, bây giờ người đòi ta đến đất Siêu Loại này chỉ để cùng với văn sĩ Siêu Loại đợi lúc sương mờ đêm vắng, cùng nhau tấu khúc “Âu Lạc cầu duyên”. Khúc nhạc này trong đời ta cũng chưa từng được nghe ai tất cả, nhưng ta thì tấu được một nửa. Ta nghe văn sĩ Siêu Loại tấu được một nửa khúc nhạc thần ấy, cho nên mới đành nhận lời ân nhân đến để tấu nhạc. Chứ không phải là để chữa bệnh cho ai cả!

Sứ quân nghe người lạ nói, trong lòng mừng vô kể, vì như thế thì thế nào người lạ cũng sẽ cùng Du Hải Tang song tấu khúc địch tiêu thần tiên, và như vậy ắt phu nhân nghe được tiếng sáo rồi khỏi bệnh.

Sứ quân mừng, các tướng văn võ cũng mừng. Sứ quân cố nén nỗi mừng lớn mà rằng:

- Quả thật có thế! Nghệ thuật trong trời đất này lớn không cùng, theo với trời cao đất rộng và lòng người chân chính mà sống mãi, làm gì có việc thôi thúc nghệ thuật mà được nghệ thuật! Ngài nói phải, ta có nghe văn sĩ của ta giỏi phép thổi tiêu, mà thần khúc “Âu Lạc cầu duyên” lại phải cần đến hai người mới tậu được, nay có đủ hai người thì thật là hạnh ngộ thần tiên rồi! Nhưng có điều ta e rằng văn sĩ của ta chẳng chịu tấu địch?

Người lạ thản nhiên:

- Như vậy, ta khỏi phải cưỡng lòng mình mà tấu địch ở chỗ vu vơ!

Sứ quân bồi theo ngay:

- Có như thế mới gìn giữ được nghệ thuật cao siêu, nhưng e một điều là ngài chẳng làm tròn được dòi hỏi của ân nhân!

Người lạ nhíu mày suy nghĩ, hồi lâu thở dài rồi thẫn thờ:

- Món nợ của ta lớn quá, ân nhân chẳng đòi lại mà chỉ xin ta đi hòa sáo với người, thế chẳng phải là ân nhân giúp ta cơ hội để thỏa lòng với khúc sáo thần hay sao?

Cả khách sảnh cung Lục Hồ rộng mênh mông, hết thảy các tướng văn vũ đều im lặng hồi hộp đợi chờ. Hồi lâu, khách lạ giọng bình thản bảo:

- Ta vốn không có nhà cửa, chẳng có họ hàng thân thích, cõi Giao Châu này là nhà ta, người Giao Châu là anh em ta. Ta không có tên, cũng chẳng biết tuổi mình là bao nhiêu, nhưng biết ta đã chịu ơn người đời. Bây giờ chẳng trả ơn lớn ấy chẳng hóa ra ta là đứa quên ơn, câu nệ nghệ thuật đến nỗi phụ mất cả đại nghĩa hay sao?

Sứ quân Lý Khuê, các tướng Siêu Loại, thảy đều im lặng, nín thở nghe người lạ nói.

Lát sau, người lạ tiếp:

- Nghệ thuật nếu chôn ở trong lòng, đợi đến lúc cùng mang vào lòng đất, cũng thành vô dụng, lại thêm thiệt thòi cho cõi Giao Châu ta mất một bảo vật không có đến hai! Bây giờ là cuối tiết Thu sang Đông. Siêu Loại ở về phía Đông Đằng Châu, theo thiên văn thì thuộc khu vực sao Dực sao Chẩn, ngay vị thứ sao Thuần Vĩ. Núi non ruộng đồng rừng rú sông ngòi hòa hợp, khí hậu tốt nhưng cách biệt xa cho nên là thứ khí hậu “Xà khả ác thủy”. “Khe rắn nước độc”, ứng với khúc “Âu Lạc cầu duyên” tả thuật buổi Lạc Long với Âu Cơ gặp nhau lúc núi rừng sông ngòi hoang vu hỗn độn để đựng nước. Nay ta tấu địch thì là hợp với thiên văn địa lý, ứng với cái “chất” của khúc nhạc thần! Quả là có trời định sẵn trước cả!

Dị nhân ngừng nói, hai mắt mơ màng, Sứ quân cao hứng:

- Quả thế! Nhạc lớn tự núi non rừng rú, tự sông ngòi biển rộng, tự phong thổ địa lý, tự cõi lòng con người mà ra, rung động phải ứng với “chất” của nó mới thật là tuyệt!

Người lạ chẳng nhìn Sứ quân, vẫn thản nhiên tựa hồ biện bạch một mình chẳng cần ai nghe:

- Âm thanh do tính mà ra, trời sinh ra tính của muôn loài. Tính đem theo mệnh sai mới dựng thành cái hình thể của muôn loài. Như thế là trong thanh đã chứa đựng cả ý lẫn hình. Quá vị về ý thì mất hình, quá thiên về hình thì lạc mất ý, dung hòa được cả hai rồi làm cho cả hai hòa vào với trời đất mới là nghệ thuật. Đây mới là sứ mạng của người nghệ thuật, tức cũng như thay trời mà xếp đặt cho vạn vật muôn loài hòa hợp tốt đẹp!...

Sứ quân Lý Khuê cùng các tướng nghe dị nhân đều đều luận về âm thanh thì chẳng hiểu gì cả, nhưng cũng cứ lẳng lặng ra vẻ kính cần chăm chú ngồi nghe, làm như thể đang say mê nghe giảng ghê lắm!

Dị nhân tiếp:

- Âm thanh chẳng phải ở đâu cũng thế, ở vật nào cũng giống nhau. Âm thanh ở nơi phương Đông thì khít khao, thanh thoảng, ở phương Tây thì ồn ào rộng lớn, ở phương Nam thì lắng đục nhưng êm đềm, ở phương Bắc thì nghiệt ngũ sắc nhọn. Cũng vì thế mà mỗi phương trời đều có một ngôn ngữ khác nhau. Nhạc cũng theo đấy mà biến đổi, bổn âm mở rộng, bay xa, thu lại gần, hay mở lớn mới làm cho nhạc phát lộ được hết các tính của trời đất và người!

Sứ quân tai chẳng nghe những tuyệt diệu của âm luật, cho nên vẫn tỉnh táo, liền đưa đẩy:

- Âm chính phải như thế thì nhạc mới tuyệt vời, rồi đến luật mới là tuyệt diệu nữa!

Dị nhân bỗng như hân hoan tiếp:

- Đúng thế! Người xưa đặt ra luật là sáu ống sáo lớn nhỏ, vắn dài khác nhau gọi là Lục Dương. Tức là âm thanh thuộc về dương: Hoàng Chung Thái, Cô Tiển, Sanh Tân, Di Tắc, Vô Tịch! Lúc luật khởi phát thì đã lập tức hòa theo gọi là lẽ Lục Âm: Đại Lã, Giáp Chung, Trọng La, Lâm Chung, Nam La, Ung Chung. Sáu dương sáu âm ấy một bên xướng một bên hòa. Cả hai hợp lại lập thành hết thảy âm thanh của trời đất và muôn loài, thế mới là âm nhạc vĩ đại!

Sứ quân thấy hứng thú trong việc khích người lạ:

- Đúng thế! Việc trị nước người xưa nói là phải dụng đến Lễ với Nhạc. Nhạc có tiêu biểu chứa đựng được cả trời đất lẫn muôn loài thì phép trị nước mới không sai với luật trời!

Bây giờ thì khách lạ như mê đi trong lôi cuốn của Âm Nhạc, sắc mặt hân hoan nói:

- Trong âm nhạc tự nó chứa đựng tất cả, người thường làm sao tìm ra cho đủ được những dị âm huyền diệu ấy để hiểu được lành dữ, thành bại, trị loạn, hưng suy, nhanh chậm, cứng mềm, xa gần... Đời nay, người xử nhạc thuần là những kẻ hạ trọc, đem âm thanh hạ cấp để mê hoặc chúng nhân, sao gọi được là nhạc lớn của bực đại thánh được!? Người đời không hiểu chỗ tinh lý thâm viễn của Thần Cổ thời Hoàng Đế khi lấy trúc ở núi Giải Cốc để khoét thành ống sáo hoàng chung. Âm của sáo hoàng chung có âm dài âm ngắn, rộng hẹp, nặng nhẹ, dàn xếp khiến cho âm dương co duỗi thật hòa hợp. Từ đấy mới sinh ra được cái thế cách của tam tam điệt vận tức là ba lần ba đi liền với nhau. Rồi lại cửu cửu tương thừa, tức của luật tương sinh chín lần chín, đội nhau mà sinh ra trời đất, muôn vật muôn loài. Làm cho có thái hòa, nguyên khí, đưa nhạc lên thượng đỉnh cao quý, giúp cho nhà cai trị nó được cái đạo rất trung, rất hòa đấy!

Dị nhân nói đến đây thì Sứ quân không biết phải lựa lời đưa đẩy tán tụng ra sao nữa, liền gật gù nói bâng quơ:

- Hay! Hay lắm!

Dị nhân nghe Sứ quân ca tụng, càng hứng thú, tiếp:

- Nhạc đã vận chuyển như vậy, nương vào bốn âm để lập thành điệu. Như điệu vũ thì có các vận trung lã, chính bình, cao bình, tiên lã, hoàng chung, ban thiệp, cao ban thiệp. Điệu Giốc có các Vận Việt, Đại Lã, Cao Đại Thạch, Song Điệu, Tiểu Thạch, Át Chỉ, Lâm Chung. Ở điệu Cung Chức các vận Chính Cung, Cao Cung, Trung La, Điệu Đạo, Nam Cung, Tiến La, Hoàng Chung. Còn Điệu thương thì chuyên chở cá Vận Việt, Đại Thạch, Cao Đại Thạch. Song Điệu, Tiểu Thạch, Át Chỉ, Lâm Chung. Riêng Điệu Chủy thì chỉ có âm mà không có điệu. Người đời mấy ai thông báo được hết các điệu vận âm luật của nhạc như vậy để xứng đáng là bực thần nhạc được nào?!

Cả khách sảnh vẫn lặng lẽ, người lạ nói xong vẻ mặt trịnh trọng, trang nghiêm rồi dần dần biến thành buồn rầu mà rằng:

- Âm thanh tuyệt vời như thế, nhạc là lẽ hòa hợp của cả vạn vật thiên nhiên là thế. Ấy vậy mà người đời lại đem cái ham thích trần tục thấp kém ra để bắt nhạc phải hướng theo lòng. Chứ chẳng phải để lòng rung theo nhạc nữa. Vì vậy, cứ nghe xem nhạc đời Lục triều (Ngô, Đông, Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần), đời Ngũ đại (Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu) thì biết nhạc càng cao thì vận nước càng ngắn, chính là cái cớ ấy mà ra cả!

Sứ quân Lý Khuê và văn võ các tướng càng nghe nhạc lý của người lạ càng như thể mưa rơi lớn có sấm chớp đầy trời, nhưng đàn vịt vẫn thản nhiên tung tăng lội nước chẳng biết có việc gì xảy ra!

Khách lạ ngưng nói hồi lâu, rồi thở dài mà rằng:

- Ta vốn không ưa ở mãi một nơi, không thích ngồi mãi một chỗ, lang thang khắp hang động ở cõi Giao Châu này. Lại nghĩ là lãnh địa xứ Giao Châu ta từ xưa Lạc Long - Âu Cơ gặp nhau mà dựng nghiệp ở mãi Hỗ Động Đình, vì thế ta đã để gần nửa đời người chu du vùng Hồ Động Đình. Một ngày nọ vào buổi mạnh Hạ, ta lạc vào một cái động kỳ dị ở phía Nam Hồ Động Đình không biết động ấy là động gì, chỉ thấy rêu phong rậm rì, vách đá hoang sơ. Động ở trên sườn núi cao ngất, một bên núi trông xuống Động Đình, bên này núi nhìn xuống phương Nam, khí sắc uy hùng nhưng phảng phất buồn ảm đạm. Lục tìm trong động, ta phát giác được nhiều thứ lạ. Nào là búa đá hai lưỡi có người bảo là của Lộc Tục dùng trong những lúc tuần du. Nào là áo khoác da hải báo Hồ Động Đình trong lót lông chim Hồng thiên hạ bảo là áo khoác của bà Âu Cơ. Nào là cây cung ba mảnh vảy thủy quái nặng dễ có đến ngàn cân, người ta bảo là của Lạc Long Quân dùng để săn thú. Ta lại còn gặp một phiến đá mỗi chiều ước khoảng hai gang tay trên có khắc bốn phương, ở giữa là mặt trời, lại có các ngôi sao án định ở các phương hướng. Có ông sao to, có ngôi sao nhỏ, ngôi sao đậm nét, ngôi sao mờ nét, các ngôi sao lúc gần lúc xa, nghiêng về một phía thì hiện ra một cảnh khác. Đặt ngửa ra một thế, lật sấp biến thành thế khác, ta lấy làm kỳ mới ở lại hang động ấy để tâm suy nghĩ. May nhờ vốn ưa thích âm nhạc, học mới phát giác ra được rằng đấy là một bản nhạc tối cổ người xưa dựng lên để xử cho ống tiêu ống địch.

- Ta mừng quá ra sức tìm học bản thần tiêu ấy mất hơn bốn năm trời mới đọc được hết. Lại dành trọn bốn năm nữa cứ ngồi trên sườn núi cao hướng về phương Nam mà tấu luyện mãi khúc địch ấy mới ý hội được tinh lý tuyệt mật của bản nhạc. Lúc ấy ta mới thu thập các báu vật của Tổ Tiên định mang về xứ Giao Châu này, thế mà không hiểu vì dâu thiên hạ biết được đón đường toan lấy mạng ta để đoạt báu vật. Mạng ta, ta chẳng tiếc, nhưng vì nhất định không muốn để các báu vật ấy của Tổ Tiên lọt vào tay người nên ta cố trốn tránh. Đến khi tính mệnh không còn phương cứu gỡ, cấp quá ta đành mang tội lớn là hủy hết các báu vật ấy. Nhưng cũng vì thế mà thiên hạ ở phương Bắc càng giận dữ nhất định giết ta cho kỳ được. Sau nhờ có người ra tay giải cứu, bảo ta phải cố bảo trọng tấm thân để gìn giữ lấy báu vật cuối cùng là bản thân tiêu tiên địch của Tổ Tiên. Ta mang ơn cứu mạng, lại mang trọng trách lấy tính mạng mà cất giữ bản nhạc ấy, bây giờ cũng muốn truyền ra cho người Giao Châu. Ngó quanh chẳng thấy ai là người cốt cách thanh cao để đáng nhận báu vật truyền tộc ấy. Nay ân nhân chỉ đòi ra có một việc là: hãy đến Siêu Loại mà tấu khúc địch ấy lên, để cho văn sĩ Siêu Loại hưởng ứng cùng hòa lên khúc nhạc thần. Sau đấy mới có cơ hội lưu bản nhạc lại cho người đời sau. Hôm nay ta đến đây là vì thế, vậy văn sĩ Siêu Loại của Sứ quân đâu?

Sứ quân thở hắt ra, ngài băn khoăn lúng túng không biết trả lời ra sao, các tướng văn võ cũng thấy khó nói vì văn sĩ ấy là Du Hải Tang đã bị Sứ quân hạ ngục rồi còn gì!

Khách lạ đầu không ngửng lên, nhưng cũng biết cái vẻ mặt lúng túng của Sứ quân, liền bảo:

- Chắc hẳn văn sĩ ấy không chịu tấu địch, đã bị tội rồi chứ gì?

Sứ quân ngượng quá đành thú nhận cả, rồi bảo:

- Để ta ra lệnh thả văn sĩ Du Hải Tang ra!

Người lạ xua tay nói với:

- Đừng! Sứ quân đã hạ ngục y, nếu bây giờ lại tha y ra thì tất y kiêu căng, thần trí bồng bột không thể thấm được những chỗ huyền diệu của thần tiên. Nhà ngục dựng ở phía nào?

Sứ quân đáp:

- Ta cho dựng nhà ngục bên sông Kinh Phố, tức là một nhánh chỗ ngã ba Kinh Phố thông với sông Lâu Khê, nước tiếp của dòng sông Bái. Ngài muốn tới đấy chăng?

Khách lạ ngẫm nghĩ rồi bảo:

- Nhà ngục dựng bên sông, chẳng là nơi dưỡng thần đẹp lắm sao?! Vậy để ta cưỡi một thuyền nhỏ đến dưới chân ngục Kinh Phố mà tấu địch, ắt văn sĩ ngồi trong ngục nghe được rồi!

Thế là ngay trong trưa hôm ấy, khách lạ cưỡi một thuyền nhỏ theo dòng Kinh Phố, đến sát chân ngục trên bờ sông mà cắm sào neo thuyền. Sứ quân cũng vội cho lệnh sắm sửa một thuyền cho thật lớn, lại cho đặt trên thuyền ấy giường nệm lụa mịn để Lục Hồ phu nhân nằm. Các tướng văn võ cũng được cưỡi thuyền đi theo để cùng nghe khúc nhạc thần. Sứ quân lại được văn sĩ Lý Thưởng khuyên:

- Bẩm Chúa công, người lạ nói rằng ân nhân của y bảo y đến đây tấu địch để có cơ hội truyền lại bản nhạc thần ấy cho người Giao Châu ta, thì Chúa công cũng nên cho lệnh rao khắp nơi là: mọi người hãy tới cả sông Kinh Phố để nghe khúc nhạc thần, may ra trong đám đông trăm họ ấy có cách nào truyền lưu được bản nhạc chăng?

Sứ quân vui vẻ cho là phải, liền tức thì cho quân đi rao truyền khắp nơi, chẳng mấy chốc chung quanh ngục bên sông Kinh Phố đã nghẹt người đứng đợi.

Đến chiều tối hôm ấy, sương đầu mùa lất phất mờ mặt sông, ngục Kinh Phố nhập nhoạng trong bóng tối. Cũng là lúc tiếng trường địch của khách lạ bắt đầu trỗi lên.

Trên chiếc thuyền nhỏ, chỉ có Sứ quân, khách lạ, tướng Đỗ Bá Đoàn và văn sĩ Lý Thường. Nhìn ra mặt sông, thuyền san sát im lìm, nhìn lên hai bên bờ dòng sông nhỏ lô nhô đầu người đợi nghe tiếng sáo.

Khách lạ nhìn ra sông tối, lặng lẽ rút ống sáo dài trong bao da trăn lột ra. Ống sáo dị kỳ, không phải là ống trúc, chẳng phải là tre, cũng không phải là bằng kim khí, khách lạ bảo rằng đây là bột đá Núi Sóc ở Kim Anh nghiền nhuyễn trộn với đất bùn lẫn vỏ sò hến ở cửa sông Tiêu Tương, Từ Sơn, mà đúc thành, vì thế ống sáo dài, lòng nhỏ, tiếng cực nhanh, gọi là Thạch Địch.

Khách lạ lặng lẽ nâng thạch địch dạo bản: “Non nước cội nguồn”, tiếng sáo trong như hạt sương rơi, khoan thai như mây lướt trên đỉnh núi. Điệu nhạc không có gì đặc sắc nhưng tiếng sáo thanh thoát lạ lùng giữa chiều sương lạnh, theo hơi lạnh truyền đi xa, vượt vách nhà ngục mà vào phòng giam Du Hải Tang.

Quả nhiên, Du Hải Tang đang ngồi trong ngục tối ngẫm nghĩ đến thân thế, lòng chán ngán vô cùng. Chợt nghe thấy tiếng sáo lạnh như băng, vi vút như sợi chỉ nhỏ luồn vào trong ngục thì ngạc nhiên. Nhìn ra họ Du lại càng lạ lùng hơn nữa là cửa ngục mở rộng, chẳng thấy bóng quân canh đâu cả. Du Hải Tang ngồi dậy lắng tai nghe. Tiếng sáo dìu dặt lúc khoan lúc nhạt, lúc thấp lúc cao, tha thiết như lời cầu nguyện, êm đềm như nhắc nhủ khuyên lơn, điệu nhạc rõ ràng là bản “Non nước cội nguồn” thấm thía mà mông lung chập chờn. Du Hải Tang như theo cùng với tiếng sáo đi trở lại thời Lạc Long - Âu Cơ hạnh ngộ, cùng nhau mở nước ở phương Nam. Du Hải Tang dần dần quên cảnh ngục tù, tâm tư thanh thản lạ kỳ cùng với tiếng sáo bay hồn ra khỏi ngực, vượt lên không gian mà sống cùng vũ trụ.

Tiếng địch càng lúc càng rõ ràng, trong nỗi buồn lê thê lại chen lẫn những âm điệu dồn dập như trống giục thác đổ, trong cái lặng lẽ của buổi chiều tà lại như chứa đựng sức nóng cháy da bỏng thịt giữa trưa hè. Du Hải Tang không hiểu tiếng sáo ở đâu đưa đến, lắng nghe thì phát giác ra tiếng sáo ấy ở phía sau nhà ngục, trên sông Kinh Phố đưa lại, rõ ràng là người thổi địch ở gần lắm thì phải.

Nghe thêm hồi nữa, Du Hải Tang nhận thấy: điệu sáo thanh thoát thì thanh thoát, bồi hồi thì có bồi hồi, tình cảm chen lẫn ý vật lộn với thiên nhiên thật đấy, nhưng phảng phất vẫn còn thiếu mất phần đối họa. Lúc như thiếu mất phần dẫn khởi, thành ra tiếng địch ngập ngừng như bị chới với không biết hướng về đâu, có lúc lại như bẽ bàng không lôi kéo được phần tiếp nối còn dở dang thiếu sót.

Du Hải Tang mặt mũi xấu xí, tính tình lại giảo hoạt, nhưng tâm hồn lại nặng nghệ thuật. Vừa giỏi vừa mê thổi sáo. Hải Tang từ lúc nhỏ theo đám chăn trâu thả diều nghe gió lùa vào lưỡi cưa sáo diều phát ra tiếng vi vu, lắng nghe rồi mê thổi sáo. Hải Tang thường lấy ống trúc khoét thành sáo mà tập tấu địch, sau lớn lên chuyên tâm học phép thổi tiêu, lại chịu khó lặn lội tìm thầy học nhạc, cố kiếm sách lạ nói về phép thổi sáo để học. Du Hải Tang tự phụ là người đọc sách, học được phép thổi sáo của kỳ nhân ở Đầm Cự Linh (thuộc Châu Gia Lâm) có thể nghe tiếng sáo hiểu hết được ý tình, theo tiếng sáo mà đạt được chỗ cao siêu nhất của huyền nhiệm.

Du Hải Tang mê sáo, có lần dám bỏ ra cả trăm lạng bạc để mua một ống sáo bằng ngà voi núi Nham Biền (huyện An Lũng), sau thấy sáo ấy còn có chỗ khiếm khuyết thì đập nát, bảo rằng: “Đã gọi là vưu vật mà còn có khuyết điểm, thì thà không có còn hơn”.

Bây giờ nghe tiếng sáo lạ chưa bao giờ lại tuyệt vời đến như vậy, tự nhiên Du Hải Tang thấy bứt rứt lạ lùng, không thể ngồi yên một chỗ mà nghe được. Thế nào cũng phải có ống sáo để hòa với tiếng sáo lạ cho đủ phần hai bên bộ xuyết cho nhau. Ngó ra, cửa ngục mở rộng, không thấy bóng quân canh. Du Hải Tang ngập ngừng rồi đành lên tiếng gọi. Gọi mãi, mới có tên quân chạy vào quát mắng:

- Thân phận tù đày sao chẳng biết, lại còn kêu réo gì ầm ầm nữa?!

Du Hải Tang như chẳng nghe thấy lời mắng hỗn xược của tên quân coi ngục, liền nói:

- Ta nghe tiếng sáo lạ, muốn được hòa sáo cùng tiếng sáo ấy. Phiền ngươi chạy về nhà lấy cho ta ống sáo có được không?

Tên quân coi ngục vênh mặt:

- Dễ thường trên thế gian này chỉ một mình ông là biết nghe sáo, ta không biết nghe hay sao? Tiếng sáo của khách lạ đang thổi trên sông Kinh Phố, một đời người liệu nghe được đến hai lần không, sao ông ích kỷ thế?

Nói dứt, tên quân dậm bước toan quay đi. Du Hải Tang chạy vội đến túm áo tên quân năn nỉ:

- Bác làm ơn hộ tôi mà, thế nào cũng có trăm lạng mà!

Tên quân nghe nói “trăm lạng” cũng mê, ngó lại thấy Du Hải Tang vẻ mặt khẩn khoản thì y chợt động lòng tham, liền vênh mặt:

- Trăm lạng của ông kiếm cũng được, một đời người làm sao nghe được đến hai lần! Thôi thôi, ông cứ nằm ra đấy mà nghe tiếng sáo là đủ rồi!

Nói xong, tên quân giật mạnh tay Du Hải Tang nhất định bước đi. Du Hải Tang vội vã chạy theo lớn tiếng:

- Một ngàn lạng được không?

Tên quân thấy run trong lòng nhưng vẫn cố bước đi, Hải Tang lẽo đẽo theo sau, lại cố nói:

- Một vạn lạng được không?

Suýt chút nữa thì tên quân đã ngã xuống, y dừng ngay bước. Cùng lúc ấy, tiếng địch như chuyển cung bực, đang từ khoan thai hốt nhiên biến thành réo rắt gấp rút. Tiếng địch nghe như tiếng hót của bầy hạc bên ven sông, ríu rít mà lồng lộng cùng cực. Tức thì Du Hải Tang trong một thoáng ngẩn người vì tiếng sáo, liền nói lớn lên:

- Ta đổi cả cơ nghiệp tài sản của ta, ngươi chịu không?

Tên quân bàng hoàng đến lặng người mất trí. Du Hải Tang trong lúc khích động lại tưởng tên quân không muốn nhận, liền năn nỉ:

- Một đời được không có đến hai lần hòa nhạc được như thế này, người giúp ta lấy ống sáo, cả tài sản của ta ta tặng hết cho ngươi!

Tên quân bảo:

- Ông ỡm ờ làm chi, sao muốn thổi sáo không về mà lấy, lại nhờ vả gì tôi?

Du Hải Tang cho là tên quân muốn làm khó, càng năn nỉ:

- Không, ta nói thật, tài sản của ta ta tặng cả cho ngươi, lấy hộ ta ống sáo! Sứ quân giam ta ở đây, làm sao ta dám trái lệnh mà bỏ về được!

Lúc ấy, tên quân mới hỏi:

- Vậy, ông lấy gì bảo đảm cho lời nói nào?

Du Hải Tang nhíu mày nghĩ ngợi, rồi lập tức mượn thanh đao của tên quân, xõa búi tóc ra. Tay trái Hải Tang cầm mớ tóc dài, tay phải quyết liệt đưa thanh đao cắt gọt mớ tóc rồi đưa cho tên quân! Tên quân sửng sốt không kịp ngăn cản lặng người nhìn mớ tóc, nhìn vẻ mặt khẩn cầu của Du Hải Tang.

Từ ngoài sông, điệu sáo ngập ngừng như muốn tắt, mơ hồ như mãi từ xa xôi vọng về, Du Hải Tang khẩn khoản:

- Người giữ nắm tóc của ta làm bằng, người quân tử đứng trong trời đất này lấy một phần thân thể mình ra làm bảo chứng, thế là cùng cực rồi! Ta thề trước mặt ngươi, trên đầu có trời cao chứng giám là: ngươi lấy hộ ta ống sáo, thì cả tài sản của ta giao hết cho ngươi để trả ơn!

Tên quân vẫn ngẩn người, Du Hải Tang lại giục:

- Ngươi đi nhanh đi thôi! ống sáo ta cất trong tráp bạc ở ngay trên án văn trong phòng riêng của ta, ngươi cứ bảo vợ ta lấy cho là được! Nhanh lên đi!

Miệng nói, tay Du Hải Tang đẩy tên quân giữ ngục đi. Tên quân tức thì quay bước đi gấp.

Du Hải Tang ngồi ở tiền sảnh nhà ngục đợi trong bóng tối, cả nhà ngục lặng lẽ, cửa ngục vẫn mở rộng. Hải Tang lắng nghe tiếng địch lạ kỳ như dẫn dụ như tha thiết mời gọi.

Trên sông Kinh Phố, trời đã tối mịt, hơi sương đầu mùa lạnh lất phất phủ xuống trăm con thuyền im lìm. Hai bên bờ sông, bá tánh vẫn âm thầm nghe tiếng địch của dị nhân, tiếng địch thần tiên mê hoặc lòng người.

Hồi lâu, trong tiếng địch thanh lạ lùng của dị nhân đang véo von réo rắt, bỗng có tiếng tiêu trầm trầm mà dào dạt tuôn ra, tiếng tiêu lạ từ phía nhà ngục bay ra.

Mọi người sửng sốt nghe, bây giờ điệu địch cực thanh hòa với tiếng tiêu cực trầm, biến khúc nhạc thành tuyệt diệu.

Khúc nhạc hòa được một lát, khách lạ trên thuyền cắm sào phía sau ngục trên sông Kinh Phố đẩy một hơi trường địch. Phát ra âm thanh lạ kỳ nghe như tiếng suối chảy mạnh xiết vào bờ đá, tựa như gió rít lùa giữa ngàn thông. Tiếng địch vi vu mạnh mà lại tưởng như bé nhỏ vô cùng. Tiếng địch vừa chuyển điệu, tiếng tiêu cũng bắt theo ngay gắn bó vô cùng. Trong tiếng địch cực cao tiếng tiêu hùng hồn như sấm dậy, âm âm huyền diệu như nâng đỡ tiếng địch mà dìu nhau đi xa mãi, xa đến vô cùng của bản “Non nước cội nguồn” rồi tiêu địch cùng lặng tiếng.

Sứ quân, Lục Hồ phu nhân, các tướng, bá tánh ở chung quanh, thảy như vừa trải qua một giấc mơ đẹp, bàng hoàng còn chưa hết đã lại nghe tiếng địch trỗi lên. Tiếng địch rơi từng tiếng gọn tròn, cao mà mạnh, tức thì tiếng tiêu cũng bay lên từng tiếng một dồn dập mà trầm, rộng mà chứa đựng sức vĩ đại của núi cao biển rộng.

Khách lạ trên sông Kinh Phố mười ngón tay lướt trên huyệt địch, vẻ mặt mơ màng thận trọng tấu khúc “Âu Lạc cầu duyên”.

Trong ngục thất, Du Hải Tang như xuất hồn, vận hết tâm tư vào ống tiêu Sa Trúc ở châu Đông Triều trồng trong Châu Thạch (đá son) tận núi Phượng Hoàng, Chí Linh. Ống tiêu lớn như gióng mía vàng, dài ước khoảng ba bốn gang tay, vỏ Sa Trúc đen biếc như cát đen nhưng trong lòng lại đỏ quạch như sơn. Ống tiêu Sa Trúc của Du Hải Tang trên khoét bảy lỗ lớn, hai lỗ nhỏ, đầu ống tiêu lại buộc giải lụa trắng.

Du Hải Tang vừa nghe tiếng địch trên sông Kinh Phố thánh thót điểm từng tiếng trong tuyệt vời, thì nhíu mày. Trong bóng tối nhà ngục, Du Hải Tang lắng nghe tiếng địch khoan thai, lạ lùng không hiểu khúc “Âu Lạc cầu duyên” chỉ nghe nói mà thôi sao bây giờ lại có người tấu lên được?

Du Hải Tang ưa đọc sách nhạc, ra công tìm tòi, biết được người Giao Châu có khúc nhạc thần nhưng không tìm ra được bản nhạc ấy. Chỉ thấy nói là khúc nhạc cực hay, nhưng tấu một mình thì chỉ hết được một nửa, một nửa nữa lại phải đợi hòa tấu mới xong. Nhưng, trên thế gian này làm gì có người biết được khúc nhạc thần ấy? Hải Tang ngoài đời giảo quyệt, nhưng tâm hồn nghệ thuật lại siêu đẳng. Tuy chưa được nghe khúc “Âu Lạc cầu duyên” bao giờ nhưng hồn nhạc thì lại sẵn sàng để rung động.

Bây giờ, tiếng địch vừa trỗi lên chưa được trăm tiếng. Du Hải Tang đã như người sống từ nghìn năm trước, mười đầu ngón tay tự nhiên lướt đi trên ống tiêu Sa Trúc. Hồn nhạc của Hải Tang luồn vào ống tiêu mà bay ra ngoài.

Khách lạ nâng cây Thạch Định, vươn thẳng người, vận hết tinh thần phổ vào tiếng sáo. Tức thì, tiếng địch rào rạt thoát ra, nghe không thể phân biệt được từng tiếng, bây giờ tiếng địch như liền một dây dài, bất tận. Tiếng địch càng lên cao hơn nữa, cao mãi, cuối cùng nghe như tiếng gió thoảng ngoài mạn thuyền. Tiếng địch lên càng cao, tiếng tiêu Sa Trúc trong nhà ngục càng khoan thai êm đềm phát ra. Tiếng tiêu của Du Hải Tang tưởng như lâng lâng, phảng phất đọng lại một chỗ chứ không tan vào không gian nhưng lại dường như giam hãm gìn giữ tiếng địch không cho vượt vào vũ trụ mà mất tích.

Trong đời Hải Tang, vẫn thầm ước được nghe khúc nhạc tối cổ “Âu Lạc cầu duyên”, nào ngờ bây giờ lại chính Hải Tang được tấu tiêu hòa với khách lạ khúc nhạc thần ấy! Hải Tang đem cả tinh thần cuộc đời mình bắt tiếng tiêu theo tiếng địch, gắn bó lạ lùng. Cung bậc âm độ lên xuống, lúc nhanh lúc chậm, lúc rộng lúc hẹp, không còn là âm thanh thường tình nữa mà là những tiếng gió thoảng lúc đêm hè, những đợt cuồng phong hội trời đất mới dựng, những buổi núi mọc lên từ mặt đất, lúc rừng mới nẩy mầm, lúc con người mới chập chững đi vào hoang vu giữa ngàn dã thú.

Điệu nhạc vượt ra ngoài âm luật vận điệu như thể cùng với vũ trụ cùng tấu, cùng hòa, cùng chuyển động, biểu diễn thiên nhiên cùng cực. Lúc ấy, tiết đầu mùa Đông sương xuống lạnh lẽo, cảnh vật mơ hồ, dần dần thay đổi lạ kỳ theo với tiếng tiêu Sa Trúc - Thạch Địch mà hiển hiện huyền nhiệm. Trời cao như trong suốt, sương như ngừng rơi, lấp lánh vài vì sao bạc, khí tiết êm ấm. Đây là lúc bản “Âu Lạc cầu duyên” tả đến chỗ Lạc Long Quân trên đường săn dã thú vào mùa Xuân bên ven Hồ Động Đình gặp nàng Âu Cơ. Tiếng địch ngập ngừng trong sáng, thoảng một chút ngỡ ngàng như bốn ánh mắt gặp nhau lần đầu. Liền lúc ấy tiếng tiêu Sa Trúc âm âm nâng đỡ, dìu tiếng địch mà đi như mật quyện đầu tay, như nước dòng chảy êm khi qua khe đá.

Thạch Địch trầm xuống, để cho tiếng tiêu Sa Trúc lại vươn lên, đưa hai thế cao thấp, rộng hẹp, mạnh nhẹ tương phản với nhau, đối chọi nhau như những lời dò hỏi ướm thử lúc ban đầu. Điệu nhạc miên man dào dạt mà vẫn chứa đựng cái tinh thần kín đáo thuần khiết rồi êm đềm kéo dài như dòng suối len lỏi giữa những thảm cỏ băng qua các khu rừng âm u huyền bí. Điệu sáo thoát đổi sang líu lo như muốn chim vui hót. Thạch Địch lướt nhanh cùng cực, nghe như tiếng gió rít để cho tiếng tiêu Sa Trúc chững chạc chen vào như tiếng voi gầm, hổ thét. Tất cả rừng già chuyển mình trong nỗi hoan ca mừng Lạc Long hạnh ngộ Âu Cơ.

Tiêu địch quấn quýt biểu diễn cái khí thế vô biên của núi rừng rồi chậm lại bước vào thế khoáng đạt bao la. Tiêu Sa Trúc dẫn khởi như những bước chân dựng nước vững vàng, hùng mạnh dẫn dắt tiếng địch đá càng lúc càng rậm rạp, càng lúc càng chan hòa nghe như muôn vàn dòng sông vỡ bờ ào ạt phóng dòng mở rộng bờ cõi. Đây là lúc Lạc Long với Âu Cơ mở nước để cho những thế hệ hậu duệ dựng nghiệp dưới gầm trời.

Trên dòng Kinh Phố, trời cao lồng lộng, đêm đen mơ hồ như thời khuyết sử. Tiếng địch của dị nhân vượt không gian đi xa mãi mãi. Cách khoảng chẳng xa, từ nhà ngục tiếng tiêu của Du Hải Tang lúc êm đềm, lúc trầm hùng bị trúng đuổi theo, nâng đỡ, quấn quýt theo tiếng Thạch Địch. Cả một khoảng trời bao la như tách rời khỏi vũ trụ lúc ấy mà lui mãi về tận thời cổ sử.

Trên thuyền lớn, Lục Hồ phu nhân tứ lúc nghe tiêu địch hòa khúc “Non nước cội nguồn” đã tỉnh cơn đau, tinh thần dịu hẳn lại. Đến lúc tiêu địch cùng tấu khúc “Âu Lạc cầu duyên”, phu nhân cảm thấy có sức mạnh lạ kỳ len vào tâm tư, như rửa óc thay đời. Phu nhân thấy sảng khoái lâng lâng không thể nào hiểu được cái cảm giác dị kỳ ấy là thế nào. Chỉ thấy tinh thần sáng suốt, mạch máu chạy nhanh, hơi thở gấp rút mà hóa ra khoan thai đầm ấm, phu nhân tưởng như chưa hề bao giờ lại mắc chứng bệnh hiểm độc nhức đầu!

Cũng trên thuyền lớn ấy, Sứ quân Lý Khuê, văn sĩ Lý Thưởng, tướng Đỗ Bá Đoàn ngồi trong bóng tối lắng nghe tiếng địch của khách lạ. Lúc đầu còn chú tâm nghe, sau tự nhiên như bị mê hoặc không muốn nghe cũng bị tiếng địch lôi cuốn, cả ba ngồi lặng như tượng đá, tâm hồn như được rửa sạch hết mọi ưu phiền lo lắng. Trong bóng tối, Sứ quân không thấy gương mặt dị nhân, chỉ thấy bóng dị nhân với chiếc Thạch Địch hằn trên vách khoang thuyền.

Tiêu địch hòa tấu khúc “Âu Lạc cầu duyên”, lần lượt chuyển hết bốn mùa thời tiết, lúc nhanh lúc chậm, lúc êm đềm lúc hùng hồn. Một xướng Lục Hồ họa, một khởi một đi theo, hai người cách biệt hai nơi ngồi tấu nhạc thế mà tưởng như hai kẻ đối diện cùng nhau hòa tâm hồn vào dị ảo.

Đêm về khuya, tiếng Thạch Địch sang chiều ôn hòa, tiếng địch như dòng suối êm đềm trôi rồi bất thần cuồn cuộn xiết mạnh. Thạch Địch càng lúc càng lên cao, lên cao mãi, cuối cùng chỉ còn nghe tiếng vi vu nhẹ như gió thoảng nhưng thật ra mãnh lực của tiếng địch lúc ấy mới thật là dữ dội. Tưởng như có kim châm dao chích sâu vào da thịt, khiến có thể tung người lên mà nhảy múa cuồng điên được. Trong tiếng Thạch Địch dữ dội như thế, tiếng tiêu Sa Trúc lại đường bộ tấu theo, tiếng tiêu xuống dần, xuống thật thấp rồi cuối cùng chỉ nghe như có tiếng rền của sấm trên trời cao, có sức huyền nhiệm chế ngự hẳn tiếng địch làm cho người nghe cảm thấy mạnh nhẹ bổ sung, cao thấp hòa đồng, không còn bị kích thích cuồng điên nữa, mà cảm thấy khí lực như trào chảy thật đằm, thật kín đáo trong thân thể.

Thạch Địch cùng với tiêu Sa Trúc lặng lờ như vậy giây lát, gió trên sông Kinh Phố cũng vi vu thổi theo, trời tối đen như thoa phấn than, sương rơi lại thấy mờ mịt. Tiếng địch tiếng tiêu không còn nghe thấy nữa, âm thanh đã vượt ra ngoài khả năng lĩnh hội của người đời để đi vào hư không truyền cảm. Cả một vùng sông Kinh Phố phía Nam phủ đường Siêu Loại trong đêm hôm ấy thật đông người. Hơn trăm con thuyền cắm sào kín mặt sông. Có hai người tấu địch xử tiêu thế mà không nghe thấy tiếng nhạc, cũng chẳng thấy một lời lao xao. Tiêu địch không phát thành tiếng, nhưng dưới thuyền dị khách vẫn như đắm hồn vào tiếng nhạc. Mười đầu ngón tay vẫn lướt đi trên ống địch, dị khách vẫn tiếp tục vận hơi lùa vào lòng địch.

Trong ngục Kinh Phố, Du Hải Tang cũng đảo đầu như đang say đồng, mười ngón tay lúc buông lúc bắt trên chín huyệt tiêu. Hai người nghệ thuật đang trong lúc xuất thần để đưa nghệ thuật đến chổ tối diệu của “nghệ thuật không nghe mà thấy, không nhìn mà thấy” nữa. Nhưng mà là “cách không truyền cảm”, hư vô là dẫn trường mệnh lệnh, làm cho cả nghìn, cả vạn con người lúc ấy rõ ràng như sống với Tổ Tiên. Lần lượt trải qua thời vận nước lên xuống, thịnh suy, thái hòa hay loạn lạc.

Trên thuyền lớn, Lục Hồ phu nhân lúc nhan sắc rõ ràng, lúc ủ dột buồn bã, có lúc phu nhân lại khóc lóc thê thảm, lúc mỉm nụ cười hoan lạc, lúc gương mặt nghiêm trọng gay go... Vận nước lên xuống, bĩ thống, trị loạn, hàng nghìn năm lập quốc đang lần lượt sống lại với những con người trên sông Kinh Phố đêm hôm ấy.

Cho đến quá nửa đêm, sương mờ dòng sông, ngục Kinh Phố lẫn hẳn vào đêm tối, thì bản “Âu Lạc cầu duyên” cũng hết.

Trên thuyền lớn, Sứ quân, văn sĩ Lý Thưởng, tướng Đỗ Bá Đoàn bâng khuâng giây lát, rồi bừng tỉnh. Trong người cảm thấy như vừa thức giấc ngủ thật ngon, tinh thần sảng khoái kỳ lạ, tất cả chỉ cảm thấy như vừa đọc một cuốn sách hay, nghe kể một câu chuyện lạ. Ngoài ra không còn nhớ gì bản nhạc thần “Âu Lạc cầu duyên” nữa.

Sứ quân truyền đốt đuốc, lửa sáng trong thuyền lớn hắt ra ngoài, các thuyền khác cũng theo sau bật hồng, tiếng người lao xao như giữa buổi chợ đông.

Sứ quân hân hoan, ngài chợt sửng sốt: khách lạ trong đêm tối tấu khúc “Âu Lạc cầu duyên” là người già cằn cỗi phong trần, thế mà tại sao bây giờ khách lạ lại là người trẻ trung. Mặt mũi phương chi đẹp lạ lùng, hai mắt dị nhân sáng như sao phát thần cực mạnh!

Sứ quân, Lý Thưởng, Đỗ Bá Đoàn, cả ba đều sửng sốt khiến dị nhân cũng phải ngạc nhiên hỏi:

- Bẩm, Sứ quân ngài thấy có gì lạ?

Sứ quân sững sờ:

- Sao bây giờ ngài trẻ hắn lại, thần khí huy hoàng lạ kỳ?

Khách lạ giơ tay sờ má, vuốt tóc, rồi cũng sửng sốt:

- Thật lạ! Thật lạ!

Vừa lúc ấy, trên bờ sông có tiếng ồn ào. Sứ quân nhíu mày truyền đẩy thuyền vào bờ. Tới bờ, tướng Đỗ Bá Đoàn vọt ngay lên bờ, giây lát đã quay trở lại bẩm:

- Bẩm Chúa công, Du Hải Tang toan tính bỏ ngục, bị quân canh bắt giữ lại rồi!

Sứ quân vừa từ dưới thuyền cùng dị nhân lên bờ, vừa truyền:

- Cứ để cho y được tự nhiên, không cần giữ lại làm gì!

Lệnh vừa truyền ra, đã lại thấy tiếng om sòm, đèn đuốc sáng rực. Thì ra, quân đốt đuốc để đón Sứ quân, và cũng là để cho thấy rõ đường mà bắt giữ văn sĩ Du Hải Tang lại.

Tướng Đỗ Bá Đoàn dẹp đường để Sứ quân tiến lên, đi chưa được mấy bước đã thấy một lão già râu tóc dài thậm thượt trắng như cước. Ông già gương mặt hồng hào nhưng da chưa nhăn nhiều lắm. Tay ông già còn cầm một ống tiêu lớn. Ông già gạt đám quân bước tới trước mặt Sứ quân:

- Bẩm Chúa Công, tội phạm Du Hải Tang tôi xin cáo biệt Chúa công!

Thì ra, ông già ấy chính là Du Hải Tang! Hải Tang đã vận dụng hết tinh hoa tinh thần để cố đưa tâm hồn theo tiếng Thạch Địch của dị nhân cùng tấu khúc nhạc thần. Bao nhiêu tuổi trời còn lại của cuộc đời Du Hải Tang đã dồn cả vào cuộc hòa tiêu ấy rồi, chính vì thế nên chỉ trong chưa hết một nửa đêm, Du Hải Tang đang từ trung niên văn sĩ đã biến thành ông lão già như tiên trên đỉnh núi cao!

Sứ quân chưa hết kinh ngạc, Hải Tang giọng vui vẻ:

- Bẩm Chúa công, một đời tôi chỉ mơ ước được nghe có người tấu khúc “Âu Lạc cầu duyên”, không ngờ đêm nay ngồi trong nhà ngục lại được hạnh ngộ thần tiên cùng được tấu khúc nhạc ấy. Bây giờ thì tôi thấy không còn gì đáng lưu luyến nữa rồi! Chỉ tiếc một điều: thần tiên tấu khúc “Âu Lạc cầu duyên” ấy không biết là ai, ở đâu?

Sứ quân cười xòa:

- Du Hải Tang, chỉ một buổi thổi tiêu mà ông trở thành già lão như thế này, thế mà vị thần tiêu tấu khúc nhạc thần cho ông được hòa tấu đang đứng trước mặt ông đây thì trước già bây giờ trẻ lại! Thế là thế nào?

Du Hải Tang nghe Sứ quân nói, vẻ mặt nghiêm trọng nheo mắt nhìn khách lạ, rồi Hải Tang ngập ngừng hỏi:

- Ngài... ngài đây là người vừa tấu khúc nhạc thần?

Dị nhân khẽ gật đầu:

- Phải, chính ta!

Du Hải Tang liền bảo:

- Một địch một tiêu tình cờ tấu lên được khúc nhạc lạ lùng ấy, quả thật ngài là bực thần tiên. Tôi sung sướng là đời tôi sống không uổng vì đã được nghe khúc thần nhạc, lại được tự thân đem cả cuộc đời vào cuộc hòa tấu! Ngài là thần tiên, tôi là trần tục nhưng bây giờ cũng sạch hết bụi tục rồi, ngài cho tôi được theo hầu chăng?

Sứ quân càng ngạc nhiên, khách lạ khoan thai:

- Ta không có bầu bạn, chẳng qua vì nợ thiên hạ nên phải tới đây tấu địch. Ông là người giàu sang phú quý, sao lại bỏ cả để đi theo ta được?!

Du Hải Tang giọng hồn nhiên:

- Bây giờ thì ta chẳng còn phú quý giàu sang gì cả nữa, cả cơ nghiệp sự sản của ta, ta đã đổi lấy ống tiêu này rồi!

Du Hải Tang vừa nói vừa giơ ống tiêu Sa Trúc ra, sắc mặt Du Hải Tang tươi tắn hân hoan chưa bao giờ lại có như vậy. Sứ quân ngạc nhiên:

- Ông bảo là của cải tài sản của ông đổi lấy ông tiêu, thế là thế nào?

Du Hải Tang vểnh cao mặt, hãnh diện:

- Tôi ngồi trong ngục, phải đem cả tài sản ra để nhờ cai ngục ban cho ơn huệ về nhà lấy cây Sa Trúc này đấy! Bây giờ hết thảy tài sản cơ nghiệp của ta là thuộc về y rồi!

Dứt lời, Du Hải Tang ngửa mặt cười như thể mời trời đất cùng với ông ta chia niềm sung sướng. Hải Tang ngửa mặt cười, mấy chòm râu dài bạc trắng phất phơ cọ vào cổ y. Hải Tang chợt ngưng cười nhíu mày, rồi giơ bàn tay lên sờ má, vuốt vuốt bộ râu. Du Hải Tang kinh ngạc quá đỗi kêu lên:

- Ô hay! Sao ta lại râu ria thế này!?

Đến lúc phát giác ra râu tóc dài thậm thượt trắng bạc cả. Du Hải Tang lại ngửa mặt lên trời bật cười một chuỗi thật dài, rồi bảo:

- Quả thật ta không nên còn gì nữa, một cuộc đời ta đánh đổi lấy buổi hòa tiêu như thế cũng là quá đủ rồi! Thật ta không mong đến thế mà lại được!

Hải Tang dứt lời, giơ tay đập mạnh cây tiêu Sa Trúc xuống đá tảng, cây tiêu rít lên một tiếng như xé lụa tan ra như làn khói nhạt biến vào không gian. Hải Tang chẳng quay nhìn Sứ quân, cũng không thèm để ý đến dị khách tấu được khúc thần địch “Âu Lạc cầu duyên”. Hải Tang cũng chẳng cần biết đến chung quanh có những ai, lẳng lặng bước đi, xuống một chiếc thuyền nhỏ rồi tự tay đẩy chèo vượt dòng Kinh Phố.

Thuyền Du Hải Tang vừa rời bờ, quân đến trình:

- Bẩm Chúa công, phu nhân sắp tới!

Sứ quân lặng người về việc Du Hải Tang bỏ đi chưa hết, nghe tin trình thì lại vụt vui. Sứ quân chưa kịp quay gót đã có quân giục ngựa từ trong bóng đêm hấp tấp đến rạp mình bảo:

- Bẩm Chúa công, không hiểu vì nguyên cớ gì, viên quan ngục đang ra tay đòi đuổi hết vợ con của văn sĩ Du Hải Tang ra khỏi nhà ông ta, rồi bảo rằng tài sản ấy của ông ta đã tặng cả cho y rồi! Bây giờ vợ con văn sĩ Du Hải Tang đang gào thét cưỡng lại, việc rắc rối lắm!

Sứ quân nghe trình càng thêm ngẩn người, vừa dậm bước chực quay đi thì lại có kỵ sĩ tế tác bay ngựa đến. Vó ngựa chưa kịp dừng thì kỵ sĩ tế tác đã tung cương, vẻ mặt gay cấn quỳ ngay xuống hổn hển bẩm trình việc trọng đại.

Chưa biết kỵ sĩ tế tác trình báo việc gì quan trọng, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—