← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Tám Mươi Bốn Siêu Loại bàn việc lớn lao
Hoa Lư được tin phương Bắc

Tế sứ trình:

- Bẩm Chúa công, thiên hạ đại loạn, tướng biên phòng miền Nam của ta cấp trình về để Chúa công rõ: Hoa Lư đã lấy Bình Kiều, thế là Bình Kiều tan rã. Lại thêm Đằng Châu biến động sắp mất vào tay Hoa Lư rồi. Nay mai thế nào Hoa Lư cùng nhòm ngó các nơi khác nữa! Tình thế khẩn cấp lắm!

Sứ quân nghe trình qua, sững sờ một lát mới lại hồn. Ngài liền truyền hết thảy các tướng mau mau trở về phủ đường hội nghị. Sứ quân chẳng kịp làm lễ tạ ơn dị nhân, nhìn ra chỉ thấy tà áo sặc sỡ của dị nhân mờ dần trong ánh đuốc nửa đêm mùa Đông. Sứ quân trong lòng rối bời, chẳng còn biết suy nghĩ tính toán ra sao.

Ngài chưa kịp cất bước đã thấy Lục Hồ phu nhân cùng đám thị nữ bước lại, phu nhân mặt hoa rạng rỡ tuyệt vời. Nàng nhìn Sứ quân âu yếm rồi vòng tay thi lễ mà rằng:

- Nhờ ơn Chúa công nên mới có bậc thần tiên tấu địch đuổi hết bệnh nghiệt cho thiếp!...

Sứ quân tươi vẻ mặt, hỏi:

- Bây giờ nàng thấy thế nào?

Lục Hồ phu nhân đáp:

- Những lần nghe sáo trước kia, thiếp rõ ràng cảm thấy bệnh thì tạm lui, còn lần này thì mới thật hết đến tận gốc! Tinh thần thiếp bây giờ thấy sảng khoái lắm, chắc là từ nay về sau không còn bị lại nữa đâu!

Sứ quân vui lắm, nhưng rồi nét mặt chợt buồn ngay lại. Lục Hồ phu nhân là người thông minh mẫn tuệ thoáng nhìn là thấy, liền ngập ngừng hỏi:

- Việc vui chưa được mấy chốc, sao tướng công đã lại có phần buồn bã lo lắng thế?

Sứ quân kể lại việc tế sứ vừa trình, rồi bảo:

- Ta được việc vui, chưa xong việc cũ, nay việc lớn đã lại dồn đến, ta lo là phải chứ!

Phu nhân nghiêm trang:

- Ngay bây giờ cũng chẳng bàn luận được gì. Chúa công nên cho các tướng về nghỉ ngơi, rồi sáng mai hãy mở đại hội xét định việc lớn thì hơn!

Sứ quân cho là phải, truyền bãi buổi họp nửa đêm rồi về phủ đường nghỉ ngơi.

Sáng hôm sau vào hội nghị, Sứ quân bảo ngay:

- Suốt đêm hôm qua, ta được tin liên tiếp từ các mặt trình về mới hay: Đằng Châu có biến, trước sau cũng mất vào tay Hoa Lư, lại thêm vương thân Ngô Xương Xí ở Bình Kiều chán nản vì việc bại binh ngoại chiến lâm trọng bệnh từ trần từ mấy năm nay. Nên bây giờ Hoa Lư đã lấy Bình Kiều, nếu không thì Bình Kiều cũng mất vào tay Sứ quân Lữ Đường. Ở bên kia sông, Sứ quân Nguyễn Siêu ắt cũng muốn nhòm ngó Bình Kiều nhưng còn e ngại Đỗ Cảnh Thạc ở đằng sau lưng. Vì thế, Bình Kiều như bỏ ngỏ từ lâu chẳng có chủ, giữa Hoa Lư với ta là có cái thế tranh nhau được mà thôi, nhưng ta để lỡ khiến Hoa Lư ra tay trước! Lữ Đường ở Tế Giang trước bị bại binh ở Tây Phù Liệt, sau lưng còn có Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du, như thế chưa chắc Lữ Đường đã dám động đậy. Cái thế tiến thoái như vậy, các tướng văn võ của ta nghĩ thế nào?

Văn Sĩ Lý Thưởng đáp ngay:

- Bẩm Chúa công, Đằng Châu có biến, đấy là việc ở xa. Bình Kiều tan rã, đấy là việc ở xa; còn binh ta đi đánh Tiên Du đang phải kéo về, thì đây là việc gần! Vì thế tôi nghĩ rằng: trước hết phải xét định cho rõ cái việc tại sao ông Phạm Thừa Ân đi đánh ở ngoài thắng hai thành mà lại vội vàng đem binh về cứu nhà, tại sao lại có như vậy? Biết rõ mọi việc rồi, lúc ấy ta có ra tay hành động mới không còn có chỗ nghi hoặc được nữa!

Sứ quân khen văn sĩ Lý Thường nói rất phải, rồi bảo:

- Dù thế, ta cũng nên xét đến tình hình Đằng Châu xem sao?

Tướng Đỗ Bá Đoàn nói:

- Bẩm, Đằng Châu đất rộng, người đông, giàu có, tướng giỏi không có, nhưng có Hồi Chúc Tiên Nương là vợ của Sứ quân Phạm Phòng Át rất sắc sảo, giúp Sứ quân rất nhiều. Nhưng năm xưa, Cổ Loa đem binh đánh Hoa Lư gặp phải Quân sư Hoa Lư. Lại thêm Đinh Bộ Lĩnh cùng các tướng ghê gớm quá thành ra binh Cổ Loa do đích thân Nam Tấn Vương thống lĩnh cũng phải chạy dài qua ngả Đằng Châu, vào Bình Kiều, Tế Giang mà về Cổ Loa. Hồi ấy, Hoa Lư dàn xếp khiến đưa được binh vào Đằng Châu. Cái thế của ta khó lòng tranh đoạt được với Hoa Lư, lại thêm vướng hai Sứ quân Thủ Thiệp ở Tiên Du, Lữ Đường ở Tế Giang, đến nay đem quân xuất chinh thắng mà hóa bại chạy về. Việc lớn thiên hạ chuyển động. Một Sứ quân chết, không phải là việc của riêng ông ta, mà nó có liên hệ lớn đến các nơi khác. Việc một Sứ quân bị chinh phục, cũng lại không phải là việc riêng của ông ta. Đốt rừng làm rẫy, ắt làm kinh động đến chim muông dã thú, sinh loạn rừng không thể tránh được. Nếu bây giờ, quả thật có việc Hoa Lư nhân cơ hội Bình Kiều hỗn loạn chiếm đất rồi toan tính thôn tính Đằng Châu, thì cũng lại không phải là việc riêng của một mình Hoa Lư. Mà phải xem là việc lớn chung của cả thiên hạ, ta không chạy cùng người tất bị người xéo chết. Động binh là điều phải làm rồi!

Tướng Đỗ Bá Đoàn nói một thôi một hồi, khiến cho cả nghị sảnh im phăng phắc, ai cũng lo âu về các việc biến động. Sứ quân trầm ngâm chưa nói, các tướng văn võ chưa ai thêm lời, đã có quân vào bẩm:

- Có phu nhân tới!

Lập tức, Sứ quân đứng dậy ra tận cửa đón phu nhân vào, các tướng văn võ cũng vội chỉnh tề khăn áo. Có người đưa tay vuốt mặt cho tỉnh táo, vì đêm qua ngủ quá muộn sáng nay lại bị dậy sớm, lúc ngồi trong hội nghị cứ ngáp dài!

Phu nhân Lục Hồ tuổi rất trẻ, nhan sắc mặn mà, lại có óc thông minh sắc sảo, phu nhân là người rất lo lắng đến công việc của Sứ quân. Khuyên giúp Sứ quân rất nhiều việc lớn. Sứ quân rất yêu mà kính trọng phu nhân lắm, các tướng vì thế cũng kính nể phu nhân. Phu nhân thường ngồi với Sứ quân trong những lúc họp bàn việc quan trọng. Bây giờ nghe có những biến động lớn, Sứ quân hội nghị từ sớm, thì phu nhân cũng vội tề chỉnh y phục, điểm trang vừa phải rồi tới ngay hội nghị.

Vừa ngồi yên chỗ, phu nhân đã cất tiếng, giọng êm đềm mà nghiêm nghị, nói:

- Bẩm Chúa công, trước có tin đại tướng Phạm Thừa Ân mang quân đi đánh Tiên Du chiếm được hai thành. Sau tự nhiên đại tướng lại được lệnh gấp rút về cứu Siêu Loại này, hiển nhiên là có ngoại địch phá hoại ở trong rồi. Bây giờ, lại có việc Đằng Châu, Bình Kiều, bàn tay người ngoài ắt không thể không nhúng vào. Chúa công cùng các tướng văn võ, tất ai cũng thừa biết là việc binh bị không tránh khỏi xáo động, hại đến sinh sống của trăm dân. Cái phép trị dân ấy Chúa công vẫn trọng, nay sắp xảy binh đao lớn là việc tai hại. Thiếp xin được nhắc Chúa công điều ấy trước!

Lục Hồ phu nhân nghiêm trang nói, giọng vừa thánh thót vừa uy quyền ai nghe cũng nể. Sứ quân bảo:

- Phu nhân nói như vậy là phải, ta tuy ưa chuộng võ nghiệp nhưng vẫn quan tâm đến phép trị dân, các tướng văn võ của ta ai cũng đều nhớ như vậy cả. Bây giờ trước việc thiên hạ, phu nhân nghĩ như thế nào?

Lục Hồ phu nhân đáp ngay:

- Bài binh bố trận để đối địch với bên ngoài, dựng nghiệp lớn, đấy là việc của kẻ làm trai, thiếp không dám bàn. Nhưng nhìn ra ngoài thiên hạ, ngó về phía trước Giao Châu ta có những nữ kiệt Trưng - Triệu. Đến nay Giao Châu có loạn lớn thiếp tuy chẳng thể theo gót được hai Bà họ Trưng, nữ kiệt họ Triệu. Nhưng quyết không thể là hạng đàn bà ở với Sứ quân Kiều Thuận ở Hồi Hồ xúi chồng bán xương máu bá tánh để mưu giàu sang, áp chế thuộc hạ văn võ để mưu lợi một mình. Vậy, thiếp xin được giúp Chúa công vỗ về trăm dân, lo liệu ở đằng sau binh lớn. Chúa công cùng văn võ các tướng bận rộn việc chinh chiến, ắt có lúc mệt mỏi khiến không nhận ra chỗ lỗi lầm. Thiếp xin được làm người đứng một bên để nói lên những sai lầm ấy!

Phu nhân nói năng khéo léo, nhưng trên từ Sứ quân xuống các hàng văn võ các tướng, ai cũng hiểu là phu nhân nghiêm nghị cảnh cáo mọi người. Bảo cho mọi người biết là: “còn có phu nhân đứng bên cạnh giám sát công việc của mọi người...”.

Sứ quân chẳng khỏi thấy ghê ghê trong lòng, các tướng ngồi im không dám cựa quậy. Sứ quân cười vui vẻ:

- Được như thế thì còn gì bằng nữa! Phu nhân vừa giúp ta vỗ về trăm dân, lại vừa giúp chỉ trích lỗi lầm, thế là nhiều quá rồi còn gì!

Các tướng cũng vội vui vẻ. Phu nhân lại nói:

- Chúa công triệu được dị nhân thổi địch chữa bệnh cho thiếp, lại thêm việc văn sĩ Du Hải Tang hòa tiêu. Sau bỏ đi, cả cơ nghiệp đem cho người cai ngục khiến vợ con bị bơ vơ. Chúa công nên giúp dàn xếp đừng để cho vợ con ông ta bị thiệt thòi như thế. Chúa công cùng các tướng ở đây, có ai được hiểu dị nhân thổi địch ấy không?

Các tướng lao xao, Sứ quân gật gù:

- Dị nhân lúc mới tới, hình dáng tiều tụy già nua cằn cỗi, thể mà sau một đêm tấu địch hòa tiêu với Du Hải Tang, thì lại trẻ lại, thật là lạ! Ông ta không nói cho biết gốc gác ở đâu, chỉ một mực nói rằng: “Tuân lời ân nhân đến đây tìm văn sĩ cùng tấu địch hòa tiêu”. Đến lúc buổi tấu nhạc dứt, tin tức dồn dập đưa về trình, khiến ta cũng chẳng kịp hỏi cho rõ ông ta mọi việc!

Lục Hồ phu nhân nhìn các tướng văn võ một lượt, rồi nói:

- Ở Giao Châu ta, người đi chu du thiên hạ chẳng phải là ít, người tài cũng lại không phải là hiếm. Hiếm một nỗi đất nước ta chưa định, thành ra người tài còn phải long đong vất vả. Hồi thiếp đi chơi sông Bái hai năm về trước, có nghe được nhiều tin tức ở ngoài, cũng nghe việc người Giao Châu tìm ra được vết tích tổ tiên ở Hồ Động Đình. Nếu đúng dị nhân thổi địch là người ấy, thì phải là Chu Giao Chỉ ở núi Chung Sơn (Yên Thế, Bắc Ninh).

Sứ quân hỏi ngay:

- Chu Giao Chỉ là người thế nào?

Các tướng chăm chú nghe Sứ quân và phu nhân đối đáp. Phu nhân nói:

- Núi Chung Sơn phong khí oai linh, địa thế mờ mịt vô cùng. Chu Giao Chỉ không có gốc gác, chỉ biết ông ta chiếm một hang động trong núi ấy làm căn cứ đi về. Chu du khắp thiên hạ, bặt tích đến nửa đời người, sau lại nghe trở về Chung Sơn. Thiếp chỉ nghe biết có như vậy thôi, còn việc ông ta nợ nần ân nhân ra sao thì không ai biết? Thiếp cũng lại cho rằng: Chu Giao Chỉ tới đây không phải chỉ có một việc tấu địch hòa tiêu để chữa bệnh cho ai cả, mà cũng chẳng phải là ông ta muốn thỏa cái thích của riêng mình đâu, ắt còn có mục đích gì khác nữa!?

Các tướng lao xao, Sứ quân gật gù:

- Đúng thế! Ông ta luôn mồm bảo: “Theo lời ân nhân tới đây tìm văn sĩ cùng hòa địch, chứ không chữa bệnh cho ai hết”. Như vậy, thì có thể là có việc khác nữa mà chắc ngay ông ta cũng không biết đâu. Ta cũng lại không biết ân nhân của ông ta là ai nữa?

Văn sĩ Lý Thưởng nói:

- Bẩm Chúa công, thưa phu nhân, Chu Giao Chỉ cứ xem phong độ thì y là kẻ cao ngạo lắm, thế mà phải tuân lời người khác đến đây thổi sáo thì tất người ấy phải là người như thế nào. Hoặc giả ơn nặng đến thế nào nên y mới chịu tuân lời đi thổi sáo như thế. Còn phía ân nhân của Chu Giao Chỉ, đem ơn lớn ra chỉ đòi đổi lấy có một việc là: thổi sáo cho người khác hòa tiêu, mình không cần nghe bản tiêu thần ấy, ắt phải có dụng ý gì ghê gớm lắm! Giả sử bây giờ ta biết được ân nhân của Chu Giao Chỉ là ai thì có thể biết được đôi phần sự việc?!

Các tướng lại lao xao bàn tán, Lục Hồ phu nhân nói:

- Hồi thiếp mới về với Chúa công, có việc biến động Cổ Loa cất quân đi đánh Hoa Lư. Đằng Châu đi theo Hoa Lư. Việc làm chuyển động cả cõi Giao Châu là do một tay Quân sư của Hoa Lư dựng lên cả. Không biết trong việc thổi sáo này có bàn tay Quân sư của Hoa Lư dính vào không?

Sứ quân bảo:

- Phải, Quân sư của Hoa Lư ta nghe nói tuổi còn trẻ, mà tài thì cả thiên hạ đều đã biết. Dị nhân Chu Giao Chỉ từ xa lại đây chỉ để tấu địch cho người khác cùng hòa bản nhạc “Âu Lạc cầu duyên”, thế thì cái dụng của cuộc tiêu địch cùng hòa ấy thế nào cũng là lạ kỳ lắm!...

Sứ quân Lý Khuê, Lục Hồ phu nhân cùng văn vũ các tướng Siêu Loại bàn việc, càng bàn càng thấy mờ mịt. Chỉ thấy việc Giao Châu càng lúc càng lắm biến động khiến nghe vào càng ngơ ngẩn...

Nhắc lại việc ở Hoa Lư, từ khi đại quân đuổi xong binh Cổ Loa trở về qua gò Đồng Lượng tế mồ Đoàn Phúc Hải, rồi tất cả trở lại căn cứ. Quân sư Hoa Lư ra tay dàn xếp việc trị an, nuôi dưỡng sức lực, thao luyện ba quân tướng sĩ, theo dõi tình hình khắp cõi Giao Châu. Lại xếp đặt để cho Sứ quân Đằng Châu là Phạm Phòng Át phải sang Hoa Lư tạ ơn, rồi nhân cơ hội cho năm tướng Đinh Điền, Lê Hoàn, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Chu Kỷ Toàn ra tay giao du với các nhân vật Đằng Châu tạo ra nội biến để cho Sứ quân Phạm Phòng Át khó có đường về.

Sau khi binh Cổ Loa phải chạy về không dám nghĩ đến đánh Đằng Châu nữa, thì khắp thiên hạ chuyển động. Các Sứ quân lần lượt hoặc cùng một lúc đem quân đi đánh lẫn nhau, cả Giao Châu hỗn loạn. Sứ quân Kiều Thuận ở Hồi Hồ là người bất tài nhưng tham lam tàn ác, lại gặp đám thủ hạ đua với chủ để làm hại nhân dân khiến cho trăm dân cùng khổ không còn biết thế nào mà kể nữa!

Hồi ấy, ở Hồi Hồ có những câu hát trong dân gian tỏ ý chê bai Sứ quân Kiều Thuận cùng với hết thảy đám thủ hạ gian tham tàn ác. Sứ quân nghe lời thủ hạ ra tay vơ vét bạc vàng, tìm ra đủ cách để bắt dân nộp thóc gạo, gọi là “tô sinh” ý nói là “thuế sinh sống”. Lại đinh tuổi hai mươi trở lên hết thảy mọi người chẳng kể là trai hay gái mỗi năm một lần đều phải phục dịch cho phủ đường một tháng trời, gọi “nghĩa vụ thần tử”. Nhân cơ hội này bọn thủ hạ ra sức hành hạ bá tánh nô dịch đàn ông con trai, đàn bà con gái thì trăm người cả trăm không ai lại thoát được nạn bị hãm hiếp tàn tệ. Trăm dân đã phải lao dịch một tháng rồi nhưng chưa kể phải phục dịch cho Sứ quân những lúc Sứ quân cho chở gỗ chở đá để xây cất dinh cơ. Lên rừng đẵn gỗ để dựng doanh trại. Cả vùng Sứ quân cát cứ bỗng nhiên trở thành “địa ngục trần gian”. Dân chúng rủ nhau bỏ trốn đi nơi khác làm cho Sứ quân lại ban lệnh nghiệt: Bách tính từ mười hai tuổi trở lên phải có thể tre khắc họ tên. Ra đường ai không có thẻ thì bị bắt giam lao dịch một năm. Kẻ nào trốn sang vùng Sứ quân khác thì ghép vào tội phản nghịch phải tội chết. Chẳng ngày nào là không có người bị đem ra chém ở trước chợ. Thế mà bá tánh vẫn không sợ cứ tiếp tục tìm đường bỏ đi. Việc làm của Sứ quân khiến cho trăm dân khổ sở không sao nói hết được, lời kêu ca ngút tận trời xanh. Sứ quân lấy cớ là: hai bên sườn Hồi Hồ, có Sứ quân Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm, phía trước mặt cách dòng Bạch Hạc lại có Sứ quân Nguyễn Khoan ở Tam Đái. Hồi Hồ lọt vào giữa vùng núi non sức không mạnh ắt khó tránh họa diệt vong, vì vậy phải đắp núi vây quanh, đào sông che chở, có như thế mới mong được yên ổn được.

Sứ quân Kiều Thuận vốn dòng Kiều Công Tiễn, hung khí bốc thành mà dựng nghiệp Sứ quân chứ chẳng có gì là chí lớn tung hoành với thiên hạ cả. Sứ quân đã vậy, đến vợ của Sứ quân lại càng tàn nhẫn hơn nữa. Vợ Sứ quân vốn không đẹp nên ghét hết thảy phụ nữ nào mặt mày nhan sắc tốt tươi. Bao nhiêu con gái có chút nhan sắc ở Hồi Hồ đều không tránh khỏi họa vợ Sứ quân hành hạ. Nhan sắc càng mặn mà càng bị tội nặng. Có người bị lấy vải thô tẩm nhựa đu đủ đắp kín mặt, nhựa đu đủ ăn loét tan cả mặt, lòi cả mắt, có thế vợ Sứ quân mới hài lòng. Vợ Sứ quân tham lam đến độ bao nhiêu công việc làm ăn của bá tánh đều phải qua tay phu nhân. Không một việc gì bá tánh được phép tự do hành động, vì thế đám thủ hạ của Sứ quân đua nhau nghĩ mưu lập kế xúi giục phu nhân chèn ép bá tánh, vơ vét đến manh khố rách của dân đen. Tiếng than thấu tận thiên đình, thế mà Sứ quân vẫn cứ ung dung ngồi nghe đám thủ hạ thi nhau ca tụng ân đức Sứ quân. Thậm chí đến ngay Sứ quân cũng còn mở miệng nói ra những lời lẽ tự ca ngợi ân đức của mình đổ xuống cho trăm dân.

Sứ quân tàn ác, thủ hạ càng tàn ác, bá tánh cắn răng nhẫn nhục mong đợi có lúc đổi đời. Nhưng cũng có lắm kẻ chịu không nổi thì tụ tập nhau thành những đảng cướp hoành hành khắp nơi, dân tình càng khốn khổ. Sứ quân đã không đánh dẹp các đảng cướp ấy, lại còn lấy cớ là: Thời chinh chiến lớn sắp xảy đến nơi, không lo trước ắt sinh họa sau! Rồi Sứ quân cho lệnh đắp hai thành Bạch Hạc (xã Phú Lập), và thành Cẩm Khê (xã Trương Xá) để lo việc chinh chiến (hai thành này ngày nay còn dấu vết).

Lệnh Sứ quân đắp thành Bạch Hạc trấn giữ mặt Bắc, thành Cẩm Khê dựa vào núi Tây Phương để chống đỡ Đường Lâm. Hai tòa thành dựng lên với hàng nghìn mạng dân lành, tiếng oán than ngút tận trời xanh. Thế mà Sứ quân đã chẳng động tâm còn bảo là: “Xưa, Thủy Hoàng nhà Tần đắp thành Vạn Lý lưu danh sử sách. Nay ta đắp hai thành Bạch Hạc, Cẩm Khê nghìn đời sau ắt còn nhớ đến. Kỳ công của ta Giao Châu còn phải nhớ mãi!”.

Việc làm tàn ác của Kiều Thuận, giữa lúc các Sứ quân khác còn đang cử binh tranh giành với nhau, nhưng rút cục chẳng nơi nào lấn được nơi nào. Vì thế Sứ quân Kiều Thuận vẫn được yên ổn để hành hạ trăm dân.

Thiên hạ đại loạn, Quân sư Hoa Lư xếp đặt mọi việc còn chưa xong cả, thì một sớm mạnh Hạ năm Giáp Tý (964). Tin mật từ phương Bắc gấp trình về dưới trướng báo rằng: “Gió Bắc đã nổi, mùa Đông đến sớm; nhà nát sắp bay mất mái, đám gà con ngơ ngác nhìn nhau!”.

Quân sư được mật báo bàng hoàng đến lặng người hồi lâu rồi mới định được tinh thần. Nhìn ra ngoài trướng, nắng Hạ buổi sớm đã thấy trong suốt, oi bức! Quân sư khẽ rùng mình, rồi lẩm nhẩm suy tính. Quân sư đứng dậy ra ngoài trướng, bốn bề yên lặng. Hoa Lư vững vàng kỷ cương, sắp đặt mọi việc lớn từ mấy năm nay, thiên hạ loạn thế mà Hoa Lư vẫn an hòa, thịnh vượng, trăm dân đổ xô về Hoa Lư sinh sống lập nghiệp.

Suốt trong mấy năm ấy, Quân sư ngày đêm cùng với Động chúa Hoa Lư luyện quân rèn tướng. Đón cả thiên hạ đến với Hoa Lư để chuẩn bị việc lớn mai sau. Quân sư khuyên Động chúa không để cho các Sứ quân được yên ổn mà chèn ép trăm dân, nhưng cũng lại không để cho các Sứ quân vì tranh giành nhau đến nỗi đưa cả Giao Châu vào cùng cực tan nát. Quân sư thường bảo: “Sức Hoa Lư chưa thể giơ tay là thu được cả thiên hạ, thế của Hoa Lư chưa thể xóa hẳn được một triều đại. Khuất phục được khắp nơi, đối phó được với phương Bắc lúc nào cũng lăm le nhòm ngó. Giả sử, phải lấy sức mạnh binh hùng tướng giỏi để thu thiên hạ, thì Hoa Lư chưa đủ sức làm việc ấy. Cái thế trị dân định quốc thì chưa đạt được đến cùng.” vì thế Hoa Lư đành phải nén lòng âm thầm chờ đợi.

Bây giờ, tin mật trình về, Quân sư xúc động lắm. Như thế là đến lúc Hoa Lư không thể đợi chờ thêm được nữa rồi!

Quân sư ra khỏi trướng, truyền quân hầu lấy ngựa, lại dặn: “nếu Động chúa có hỏi, cứ trình là Quân sư ra ngoài xem xét tình hình, có thể về trễ.”

Rồi Quân sư một mình một ngựa Á Lôi, lưng giắt cây Giao Long Truy Thủ. Thong thả cho ngựa ra khỏi đại doanh Hoa Lư, trước hết nhắm hướng Bắc tiến tới. Quân sư lên vùng cao thì dừng ngựa, tìm nơi đá lớn ngồi suy nghĩ. Ngó xuống phương Nam, Hoa Lư mở rộng mãi xuống phía dưới, mắt nhìn chẳng hết được. Quay sang hướng Đông cơ sở vững vàng liền lạc, dòng Sinh Khuyết mờ mịt rừng rú không biết đến đâu mới chạm dòng Xích Đằng. Ở phía Bắc, núi non Kiệm Lộng, Cô Nghĩa bây giờ đã thành căn cứ cực kỳ hung hiểm, bao nhiêu cửa ngõ ra vào, bao nhiêu khe lạch hang hốc, bao nhiêu hồ đầm hay chỗ đất phẳng đều trở thành trong địa. Oai khí ngút trời đủ sức bảo vệ cho cả Hoa Lư chống đỡ quân ngoài xâm phạm.

Quân sư ngắm nhìn giang sơn Hoa Lư trong nắng sớm giữa Hạ, trong lòng cảm thấy thảnh thơi lạ lùng. Ngồi được một lát, Quân sư đứng dậy nhìn về phương Bắc, chỉ thấy núi non trùng điệp. Nắng trên trời không vướng một mảnh mây nhỏ đổ xuống khe núi đẹp vô ngần. Quân sư lẩm bẩm:

- Giao Châu ta hùng vĩ, tuyệt vời thế này, thế mà lại sắp bước vào những ngày anh hùng tranh đua kinh hoàng lắm rồi đây!

Quân sư thở dài một tiếng, lại ngồi xuống phiến đá. Cứ theo mật tin trình về, thì cái câu “Gió Bắc đã nổi, mùa Đông đến sớm” ấy Quân sư lo lắng đợi chờ từ nhiều ngày rồi. Bây giờ quả nhiên đã trình về dưới trướng! Quân sư dàn xếp mọi việc chuẩn bị cho Hoa Lư. Bên ngoài khuấy động để cho các Sứ quân tự làm hao mòn sức lực của nhau. Tạo ra cái thế “mây mờ giăng khắp, người đi trong sương chẳng nhìn thấy mặt nhau.” Nhờ đấy Hoa Lư lặng lẽ cho tế tác ra ngoài thiên hạ ra sức dò la tin tức, luôn luôn thông báo kịp thời mọi việc. Những việc lớn trong thiên hạ Quân sư chỉ trình lên cho một mình Động chúa biết. Còn các tướng thì chỉ đợi lệnh, có lắm người ra đi một mình, có lúc hai ba người cùng đi. Thay nhau vào thiên hạ để dựng kế khuấy động các Sứ quân, làm cho các Sứ quân ăn ngủ không yên.

Hoa Lư lo việc trong cõi Giao Châu, nhưng lòng vẫn ưu tư hơn cả về cái họa Bắc phương. Cho nên lập ra một đoàn tế tác đặc biệt, gọi vắn là “đoàn Bắc Tế”. Đoàn tế tác này bí mật hoạt động ngay đến các tướng cũng chẳng hay là lại có những việc lạ như thế. Đoàn Bắc Tế đều đều đưa tin các nơi về Hoa Lư, chỉ Động chúa với Quân sư là được biết. Tế tác Bắc Tế rải dài từ Cổ Loa lên đến tận phương Bắc, ngày đêm nghe ngóng tin tức Bắc phương rồi trình về Hoa Lư: “Hậu Hán mất ngôi vào tay Thái Tổ Hậu Chu, Bắc Hán (một trong Thập Quốc) viện quân Khiết Đan vào đánh Lộ Châu. Vua nhờ Túc Vệ tướng Triệu Khuông Dẫn mà đại phá được giặc. Vua băng, con là Cung Đế lên ngôi mới có bảy tuổi, quân Khiết Đan lại vào đánh. Triệu Khuông Dẫn giữ chức Điện Tiền Đô Kiểm Điểm Tiết Độ Sứ trấn Quy Đức được vua sai đi đánh giặc. Đi đến Trần Kiều quân sĩ tôn Tiết Độ Sứ Triệu Khuông Dẫn lên làm vua rước họ Triệu trở lại Đại Lương ép Cung Đế nhường ngôi. Triệu Khuông Dẫn lên ngôi xưng là Thái Tổ nhà Tống. Triệu Khuông Dẫn ra tay dẹp loạn Thập Quốc, lại sai tiên phong tế tác dò đường xuống phương Nam nhòm ngó Giao Châu…”.

Quân sư liên tiếp đón tin từ hơn một năm nay trong lòng chẳng khỏi lo lắng. Ngày đêm mật nghị với Động chúa gấp rút xúc tiến việc quân, dàn xếp nội trị để cố giữ cho trong ngoài tạm được yên mà tính việc lớn.

Cho đến giữa Hạ Giáp Tý thì đoàn Bắc Tế lại gấp trình về: “Nam Tấn Vương hậu Ngô chinh chiến liên miên, chiến trận không lợi, không đẹp được các dám giặc lớn. Các Sứ quân đang chờ để làm loạn lớn...”.

Quân sư tiếp tin, mật nghị với Động chúa:

- Bẩm Động chúa, phương Bắc Triệu Khuông Dẫn đang chuẩn bị để nhòm ngó Giao Châu ta. Ở Cổ Loa thì Nam Tấn Vương thất bại mọi mặt, thảng hoặc Nam Tấn Vương không chết mà chỉ mất hết quyền uy thôi. Cũng đủ làm cái cớ để cho Triệu Khuông Dẫn đề binh đánh chiếm Giao Châu ta mất. Còn các Sứ quân, thì một mặt trúng kế của ta, một mặt tự ý chinh chiến đánh giết lẫn nhau. Giao Châu nếu để lâu nữa ắt sinh đại loạn khó gỡ. Bây giờ là lúc Hoa Lư ta bắt đầu mở rộng cửa cất bước ra ngoài thiên hạ được rồi đấy!

Đinh Bộ Lĩnh nghe Quân sư trình, vẻ mặt ngài hiện lên nét vui mừng, rồi nghiêm nghị nói:

- Việc đã dàn xếp mọi mặt. Bây giờ muốn mở cửa để đại quân ta ra ngoài thiên hạ, thế thì cái thế tiến ra bên ngoài của ta như thế nào?

Quân sư thong thả đáp:

- Bẩm, kể từ lúc Nam Tấn Vương đem quân xuống đánh Hoa Lư, cũng là lúc tôi được ở bên cạnh Động chúa, cho đến nay cũng đã được mười ba năm trời. Việc thiên hạ mờ mịt dày đặc, các dàn xếp của Hoa Lư ta cũng đã lập được cái thế vững vàng. Đằng Châu dù chưa vào hẳn tay ta nhưng có khác nào như một gian nhà nhỏ phụ thuộc vào tòa giang sơn lớn của ta không? Ấy cũng nhờ ở cái thế Đằng Châu như vậy, cho nên thiên hạ chung quanh vẫn không dám động đậy gây sự. Còn Bình Kiều, thì quả nhiên Sứ quân Ngô Xương Xí sau khi cử quân đi Phù Liệt đại bại mà về, thì Ngô Xương Xí chán nản lâm bệnh qua đời. Lẽ ra Bình Kiều là đầu mối để cho các Sứ quân ở chung quanh tranh giành xâu xé, may nhờ có người anh tôi là Lê Hiền cố giữ được vài ba năm rồi mới bỏ hẳn. Tuy vậy cái thế của Hoa Lư ta cũng đủ làm cho các Sứ quân không dám liều lĩnh cất bước vào Bình Kiều. Từ đấy đến nay, Bình Kiều cũng chẳng hơn gì Đằng Châu. Tuy chưa thực sự là đất của ta, nhưng các tướng của ta cũng đã đi lại trông coi việc trị dân ở đấy. Bây giờ Cổ Loa đã đến lúc tàn hẳn. Hoa Lư ta phải trước hết chinh phục cho xong Đằng Châu, công khai lấy Bình Kiều, mở rộng thanh thế cùng sức lực ra ngoài thiên hạ...

Động chúa vừa mừng vừa băn khoăn hỏi:

- Liệu ta phải đương cự với Cổ Loa như thế nào? Ta phải chống với Bắc phương ra sao?

- Bẩm, Cổ Loa tự tan rã, ta không cần phải đối phó, mà chỉ cần đắp cho tốt quan lộ để tiến đến mà thôi! Lúc ấy, Bắc phương sẽ chậm bước hơn ta. Loạn Thập Quốc còn chưa dẹp xong thì chưa phải là lúc Triệu Khuông Dẫn dám cất quân xuống Giao Châu này. Việc quan trọng hơn cả, là một mặt ta phải kiềm chế các Sứ quân, trương cao thanh thế nói rõ tình hình để cho Triệu Khuông Dẫn e ngại chưa dám nhìn xuống phương Nam. Một mặt ta kết thúc cuộc dàn xếp để bước vào Đằng Châu trước!

Động chúa hào hứng:

- Trước khi vào Đằng Châu, ta đối xử với bọn Phạm Phòng Át như thế nào?

Quân sư trầm ngâm:

- Phạm Phòng Át không xứng đáng chút nào, nhưng suốt hơn mươi năm nay Hoa Lư ta kiềm chế y, khiến y âm thầm cay đắng lang thang không trở về Đằng Châu được nữa. Ta lấy cớ: Tôn Phủ Nghi cùng mấy tướng làm loạn tiếm quyền, các tướng của ta đã ra sức dẹp mà chưa được. Mấy phen Phạm Phòng Át đòi về, mấy phen ta đều dàn xếp để họ Phạm thấy rõ tình thế hết sức bất lợi cho y nên y không thể về được. Phạm Phòng Át đành nén lòng. Duy có một điều...

Quân sư ngập ngừng không nói hết, Đinh Bộ Lĩnh tủm tỉm:

- Có phải ngài định nói: duy có một điều là ta bây giờ ra tay tức là dứt khoát phế hẳn Phạm Phòng Át. Bao nhiêu tình nghĩa biết xử trí ra sao phải không?

Quân sư cười gượng:

- Bẩm đúng thế! Phạm Phòng Át theo về với ta tuy có chỗ hậm hực, nhưng chẳng phải là y chẳng thấy cái thế khác biệt giữa Đằng Châu với Hoa Lư. Vả chăng Hoa Lư ta đãi Phạm Phòng Át chưa bao giờ lại không bằng đãi thượng khách của Động chúa. Hoa Lư ta rất mực cung kính trọng vọng Phạm Phòng Át. Thế thì, tình cảm là quý, nhưng đại nghiệp chung của cả cõi Giao Châu ta tất phái trọng hơn chút tình cảm riêng tư. Đã thế, tôi lại phải dựng cái kế để các tướng của ta trước lấy Bình Kiều cho xong hẳn, rồi lập thành cái thế “Đằng Châu lung lay” để dứt cho xong Phạm Phòng Át!

Động chúa vui vẻ:

- Trước hết phải dứt cho xong Phạm Phòng Át mới được, sau đây mới có đà mà bước ra ngoài thiên hạ! Với Phạm Phòng Át, ta nên giết hay nên đối xử theo cách khác?

Quân sư suy nghĩ, rồi ngửng cao đầu:

- Bẩm, lúc ta bước ra ngoài thiên hạ, chắc chắn bao nhiêu Sứ quân đều phải bị dẹp hết. Hoa Lư ta gồm thâu thiên hạ, lúc ấy không còn ở trong cái thế đương cự hay chống chọi với ai cả nữa. Thế thì không phải lo “cỏ nhổ chưa sạch rễ”, lúc ấy “cỏ cũng thành hoa thành trái, thù nghịch cũng trở thành bầy tôi hữu dụng”. Như thế, ta không cần phải giết Phạm Phòng Át, giết thì dễ, thu được lòng thiên hạ mới là khó. Giết thì thiên hạ sợ mà lánh hay phải cố chết mà cưỡng lại ta; ân đức làm cho thiên hạ nhìn vào để yên lòng. Ta để thu phục lòng người theo về khiến ta bớt được vất vả, vậy ta nên chiêu dụ Phạm Phòng Át để y vui vẻ nhận làm bầy tôi của ta. Y chịu về với ta, riêng với Đằng Châu, sẽ không làm cho các tướng thuộc hạ của y ở Đằng Châu vì thù của chủ mà chống lại ta. Ta lại được thêm thuộc hạ của y cũng theo về phò trợ. Vả chăng, đối với thiên hạ, ta vẫn giữ được cái tiếng là “anh hùng chân chính, được thiên hạ theo về”. Chứ không phải là ta gian giảo dùng mưu chèn ép cướp đất của thiên hạ!

Động chúa ngắt lời:

- Như thế, thì mai sau ta tiến ra lấy thiên hạ, dẹp các Sứ quân khác. Ta cũng sẽ mang cái tiếng là đi cướp đất của người khác chăng?

Quân sư hùng hồn:

- Đằng Châu với ta như tay chân, cung kính mà vẫn ngang tàng. Nay ta lấy Đằng Châu sao tránh được thiên hạ dị nghị, nhưng nếu Đằng Châu tự ý theo về với ta thì tức là thanh thế của ta lên cao. Việc sẽ làm cho các Sứ quân khác lo nghĩ, thuộc hạ của các Sứ quân đắn đo. Đằng Châu chẳng giống các nơi khác, các nơi khác không thể so sánh với Đằng Châu trong việc bị ta thôn tính được. Đến lúc ấy cái ý nghĩ “chiến hay hòa” sẽ làm cho nội bộ các Sứ quân phải rạn nứt. Vả lại, tại sao Đằng Châu nhìn thấy việc lớn mà theo về với ta, các Sứ quân khác không theo về tức là chống lại ta. Binh ta là binh nhân nghĩa đi khắp thiên hạ để dẹp loạn nước, dựng một cuộc đời mới, sao lại bảo là đi cướp đất của thiên hạ được? Ta chỉ làm công việc: thu hồi đất đai của Tổ Tiên đang bị thiên hạ xâu xé, giữ cho giang sơn của chung dân tộc được vẹn toàn. Rồi dựng lại cuộc đời an bình cho trăm dân, sao lại bảo là đi cướp đất của ai? Lại nữa, cả Giao Châu này, có ai lại nhận các đảng giặc lớn tự xưng “Sứ quân” ấy là những chân chính triều đại. Các hành vi đạo tặc của các Sứ quân còn ai chưa biết? Vậy, hành động của ta, ban bố ân đức hay thẳng tay tru diệt, cũng đều là hành động đúng của người hào kiệt trong cuộc đẹp loạn, giữ nước, cứu dân!

Đinh Động chúa mừng lắm:

- Vậy thì, ta sẽ chiêu hàng Phạm Phòng Át, nhưng chắc thế nào cũng còn có một vài tướng của y không chịu, lúc ấy ta tính sao?

Quân sư thẳng thắn:

- Chính những kẻ không chịu hàng ta, không chịu hùa theo chủ đề theo ta, khi biết rằng chỉ mình không phải thực lòng như vậy, thì những kẻ ấy mới là những hảo hán ở đời này! Ta không phải là những hiền thánh nhân thời xưa ngồi trong nhà cỏ mà luận ân đức, nên bảo là chịu nhận cái thiệt “thà để thiên hạ phụ ta, hơn là ta phụ thiên hạ.” Hoa Lư ta nằm gai nếm mật, đem xương máu ra để chống đỡ cho giang sơn, che chở cho dân tộc, khi cùng phải xuống tay tru diệt hảo hán cũng là uổng, là đáng tiếc. Dụ hàng được dù cho kẻ ấy không theo ta nhưng lui về ở ẩn cũng vẫn là điều hay, lúc ấy ta không giết mà nên đối xử tỏ lòng quý trọng. Chém giết nhiều thì Giao Châu ta bề nào cũng thiệt thòi mà thôi!

Thế là, Đinh Động chúa trao lệnh cho Quân sư gấp rút định phân công việc. Quân sư trình tiếp:

- Bẩm, Nam Tấn Vương đem quân đi dẹp loạn bị bại binh liên miên, thế giặc tuy là giặc cỏ nhưng bây giờ lan tràn. Tuy không mạnh nhưng dày quá, nhỡ chỉ một mũi tên đoạt mệnh Nam Tấn Vương thì triều Ngô trên danh hiệu lúc này tuy là còn đấy, nhưng thực tế chẳng qua chỉ như là cái xác chết chưa chôn. Cũng đủ làm cho cả Giao Châu ta chới với, tôi lo ngại việc này lắm! Cách đây tám ngày, hôm ấy là ngày Quý Tỵ, trời nửa đêm oi bức, tôi không ngủ được bước ra ngoài xem thiên văn. Lúc ấy vào khoảng giữa giờ Sửu, sao trên trời vằng vặc mà có nhiều điềm bất tường lắm...

Động chúa hỏi gấp:

- Ngài thấy những bất tường ra sao?

- Bẩm, trước hết là ngôi Bắc Đẩu rung rinh như muốn quay đầu xuống phía Nam. Chung quanh các sao Tử Tướng, Lục Hợp lại như sáng tỏ, đấy là điềm “Linh Điểu Nam Phi” con chim khôn bay xuống Nam. Ứng vào điềm Bắc phương muốn nhòm ngó phía Nam. Nhìn về phía Tây Bắc, cả một giải Ngũ Vị (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) không hành trình về đường ngang, như đang muốn rời xa khu vực sao Dực sao Chấn. Muốn cách lìa hẳn vị thứ của sao Thuần Vĩ, ứng vào điềm Cổ Loa lung lay lu mờ mất rồi!...

Đinh Bộ Lĩnh nghe Quân sư nói về thiên văn huyền bí thì không hiểu gì cả, nhưng nghe báo Cổ Loa lu mờ mất rồi thì hấp tấp hỏi ngay:

- Ngài nói rõ thêm nữa cho tôi hiểu. Sao không đi ngang, đi dọc thế nào mà Cổ Loa lu mờ rồi là ra sao?

Quân sư đáp:

- Phàm kinh thành dựng lên, bao giờ cũng phải hợp với ngôi vị các ngôi sao trên trời, để cho phép vận hành trời đất không hỗn loạn. Thành Cổ Loa cũng thế, cái phép án sao cho đúng với Lục Hợp, Ngũ Phú, giằng co được với Tuế Đức, Thiên Đức vào ngày Quý Tỵ vừa rồi thì đã đứt lìa mất cả. Tuy thế, Cổ Loa án ngay vị thứ sao Thuần Vĩ, khiến cho Ngũ Vị lánh xa, bao nhiêu cái tinh tản mác mất cả. Nhưng tôi tính toán thì cũng phải gần cuối năm sau Cổ Loa mới mờ hẳn!

Đinh Bộ Lĩnh trầm ngâm, rồi hỏi lại:

- Nếu Cổ Loa mờ, ta có cơ hội lớn chăng?

Quân sư nghiêm trang:

- Đúng lúc của ta, thì dù Cổ Loa không mờ ta cũng vẫn hành động được. Việc Hoa Lư ta dàn xếp, giả sử được thêm ít năm nữa thì có khi chẳng cần phải ra quân cho mệt mỏi, tránh được cái họa máu đổ thịt rơi, ta cũng có thể gồm thâu dược thiên hạ. Tôi vẫn hằng lo lắng cố dàn xếp làm sao, để cho lúc Hoa Lư ta tuyên cáo ra ngoài thiên hạ. Thì lúc ấy khắp nơi đều phải hướng về, trăm vạn người Giao Châu là một. Nghìn tướng chẳng khác lòng, nhất tề phò trợ cho Hoa Lư trong ổn định mọi việc. Ngoài giương cao được cái thế vĩ đại cản bước không cho Bắc phương dám bước xuống cõi Giao Châu ta. Anh hùng bước ra đại binh, hảo hán lên yên là cả thiên hạ theo về, đấy là cái chí của Hoa Lư ta. Nhưng bây giờ thì mệnh trời khó chuyển đổi, binh đao khó tránh được!...

Đinh Bộ Lĩnh lắng nghe, thấy hừng hực sôi nổi trong lòng. Quân sư thở dài mạnh một tiếng, rồi cao giọng:

- Đã vậy, ta phải ra tay gấp lấy cho xong Bình Kiều, giải quyết việc Đằng Châu. Dàn xếp gấp rút thêm chút nữa để đưa quân ra ngoài. Việc tranh hùng phải dứt khoát, càng nhanh càng đỡ khổ cho trăm dân. Càng nhanh càng cứu được Giao Châu ta tránh được vòng Bắc thuộc bi đát!

Động chúa hỏi thêm:

- Việc chiến chinh như thế, Quân sư liệu tính sẽ phải lâu bao nhiêu năm mới xong?

Quân sư giọng quả quyết:

- Bẩm, Hoa Lư sửa soạn cả chục năm lẽ ra chỉ giơ tay là đại bình được thiên hạ. Nay có những biến chuyển gấp rút khó lòng tránh được, thành thử phải ra tay sớm hơn một chút. Nhưng dù vậy tôi nghĩ rằng ra cũng không thể kéo dài công việc đánh dẹp các nơi được, phải cố làm sao càng mau càng tốt. Có thế thì trong mới tránh được cho trăm dân khỏi đồ thán, ngoài mới giữ được lực làm nản chí của Triệu Khuông Dẫn...

Đinh Bộ Lĩnh nóng lòng hỏi ngay:

- Như vậy thì mau cũng ước phải bao lâu, mà lâu thì liệu như thế nào?

- Bẩm, việc Hoa Lư ta bước ra ngoài thiên hạ tuy mang cái tiếng là đánh dẹp các Sứ quân để thống nhất Giao Châu, nhưng kỳ thực hệ trọng hơn cả là tranh giành lấy cái thế mạnh, vững vàng, thảnh thơi, để đối mặt đường cự với Bắc phương. Nhất định không cho Bắc phương có cơ hội hoặc điều kiện để nhòm ngó Giao Châu ta. Như thế, thì mong ước hơn cả là quân ta ra khỏi Hoa Lư phải làm sao trong vòng một năm trời là gồm thâu được thiên hạ, thu giang sơn về một mối. Còn chậm lắm là đến hai năm, quá nữa là chuốc họa cho Giao Châu. Thế nào Triệu Khuông Dẫn cũng cử binh tướng xuống ngay!

Đinh Bộ Lĩnh ngẩn người, lát sâu hỏi:

- Ta mong ước trong vòng một năm trời dẹp xong các Sứ quân khác? Làm sao lại có thể mau đến như vậy được? Ngài tính có chỗ nào quá chăng?

Quân sư ung dung:

- Giả sử có việc Bắc phương đem binh ngấp nghé ở ngoài biên ải, lại thêm trong có việc Cổ Loa suy tàn. Thì Hoa Lư ta tự mang cái trách nhiệm của những người gánh vác đại nghĩa, quyết không để cho đám Sứ quân thừa cơ thủ lợi đến mức chết cả trăm dân, đẩy cả Giao Châu ta vào chỗ Bắc thuộc được. Vì thế, ta ra tay thì phải làm sao đạt được cái thế của cuồng phong cuốn đám lá rụng, như dòng thác lũ phá tan ngay được con đê mọt mà tràn đi. Các Sứ quân tuy có binh đông tưởng nhiều thật, nhưng hành động vẫn không ra ngoài cái danh nghĩa “đám giặc lớn hại nước giết dân.” Chứ không phải là anh hùng hào kiệt có thể bình định được cả thiên hạ. Như vậy, ta ra tay đúng phép, đúng lúc, đúng việc, thì thành công không phải là việc khó hay không làm được. Cái khó là làm sao đạt được “đại nghĩa để lôi cuốn được muôn dân!”. Đại nghĩa ấy, phải chi ta có đủ thì giờ, thêm được một thời gian vài năm nữa, thì thế nào mà chẳng lấy được Cổ Loa trong êm thắm. Các Sứ quân lúc ấy sẽ quỳ cả xuống xin quy phục ta ngay!

Rồi Quân sư xin Động chúa ra lệnh triệu tập các tướng, sẵn sàng để mở kế trước lấy Bình Kiều, sau thu phục Đằng Châu. Rồi thừa thế đem lại nghĩa mở rộng ra ngoài thiên hạ.

Động chúa Đinh Bộ Lĩnh rất hài lòng, tức thì ban lệnh khắp Hoa Lư chuẩn bị đại hội. Lệnh vừa ban ra, Quân sư lui về tư thất thì đã thêm một tin gấp trình: “Gió Bắc đã nổi, mùa Đông đến sớm, nhà nát sắp bay mất mái, đám gà con ngơ ngác nhìn nhau.” Thì hiểu rằng tình hình đã đến lúc không thể nấn ná được nữa rồi!

Theo tin mật trình của đoàn Bắc Tế, thì ở phương Bắc Triệu Khuông Dẫn đã khởi sự: việc dòm ngó Giao Châu. Lại thêm Cổ Loa đang hồi bối rối vì Nam Tấn Vương lâm nạn. Nam Tấn Vương lâm nạn ra sao thì Quân sư chưa được biết rõ. Còn việc Bắc phương nhòm ngó Giao Châu thì Quân sư vốn vẫn băn khoăn nhiều lắm!

Giờ đây, ngồi trên đỉnh núi cao, Quân sư lo lắng suy tính công việc thật gấp rút. Mãi đến hồi sẩm tối hôm ấy Quân sư mới xuống núi về doanh.

Vừa về đến doanh, Quân sư đã thấy mấy nhân vật của đoàn Bắc Tế đợi sẵn, tất cả bẩm trình: “Nam Tấn Vương đem binh đi dẹp giặc bị bại ở các nơi đành phải rút quân về, Cổ Loa sắp tan nát! Bắc phương đã cho người xuống Giao Châu!”. Quân sư được tin trình thì lo lắm. Lập tức Quân sư đi gặp Động chúa báo tin, rồi trình:

- Quả nhiên việc Hoa Lư ta dàn xếp không thể đạt được chỗ mong muốn là lúc đứng lên cả thiên hạ sẽ theo về, Cổ Loa là nơi ta bước đến mà ngự trị nữa. Bây giờ là lúc ta đem sức hùng ra thu thiên hạ. Bắc phương khi được tin Nam Tấn Vương suy sụp rất có thể viện cớ “Giao Châu hỗn loạn, vua nhu nhược không còn uy quyền, nên sai người xuống kinh lý.” Lúc này Bắc phương đã cho người xuống nước ta xem xét tình hình rồi. Về phía các Sứ quân thì tất các Sứ quân ắt cũng muốn nhòm ngó ngai vàng ở Cổ Loa. Bây giờ việc gấp rút không giúp ta thu thiên hạ bằng cách im lặng được nữa, mà phải ra tay gấp. Ngoài biểu dương được sức mạnh giữ an toàn, bảo đảm được việc trị dân tốt đẹp, có thế phương Bắc mới đành bó tay!

Động chúa rất bình tĩnh, ngài như chẳng lo lắng gì, nhưng có phần hân hoan mà rằng:

- Việc Nam Tấn Vương suy tàn lẽ ra phải có từ hơn chục năm trước rồi, lúc ấy là lúc ta ra tay đốt rụi thành Ngọc Lũ. Nhưng ta cố gìn giữ cho Nam Tấn Vương được sống thêm đến ngày nay, thế là quá rồi. Bây giờ Nam Tấn Vương có bị chết về tay người khác cũng là điều mong ước của ta, vả chăng như vậy thì ta khỏi phải thắc mắc về việc thẳng tay xóa bỏ một ông vua bất xứng. Vậy còn có gì là phải thắc mắc lo lắng nữa?

Quân sư đáp:

- Đã đành là trước sau ta cũng phải ra tay thu cả thiên hạ, nhưng việc lớn không phải chỉ nhắm vào có cái ngai vàng ở Cổ Loa. Mà phải làm sao trong chấm dứt được cái họa của trăm dân, ngoài xua đuổi được đại nạn của Giao Châu ta là nạn Bắc thuộc. Chỉ một sơ suất nhỏ thôi cũng đủ làm cho loạn thêm lớn, họa thêm to, trách nhiệm ấy nghìn đời sau còn phê phán ta đấy!

Động chúa ôn tồn:

- Vậy thì, ngài định như thế nào?

Quân sư trầm ngâm, rồi đáp:

- Bẩm, lẽ ra các Sứ quân còn hục hặc với nhau nhiều thêm nữa, sức lực của các Sứ quân còn phải làm cho hao kiệt thêm nữa. Nhưng nay thì ta phải làm sao cho cả thiên hạ ai ở đâu phải ở yên chỗ ấy, không Sứ quân nào được ra binh làm Giao Châu biến động. Tất cả phải khoanh tay ngồi một chỗ đợi Hoa Lư ta dàn xếp việc trong ngoài cho đến lúc ta mở được cái thế “bước ra chỗ rộng là vươn mình lên bằng núi cao, mở rộng hai tay là ôm được cả biển lớn”. Còn bây giờ, các Sứ quân vì dàn xếp của ta nên đang đem quân đánh lẫn nhau, tất cả đều phải triệt binh đợi chờ mới được!

Động chúa nghe Quân sư nói thì lấy làm lạ lắm, làm thế nào mà bắt tất cả các Sứ quân ai ở đâu phải ở yên một chỗ đợi Hoa Lư ra tay được? Thiên hạ dù có là giặc cướp chăng nữa thì cũng làm gì có ai lại chịu khoanh tay ngồi chờ chết bao giờ? Nghĩ thế, Động chúa hỏi:

- Ngài làm thế nào để bắt cả thiên hạ ai ở đâu ngồi im chỗ mà đợi ta được? Tôi thiết tưởng thế nào thiên hạ cũng phải đua nhau gấp bước tiến tới Cổ Loa mới phải chứ?

Quân sư mỉm cười đáp:

- Bẩm, quả thật có việc cả thiên hạ đua nhau chạy đến Cổ Loa cho nhanh, chứ không có việc thiên hạ khoanh tay ngồi đợi ta đến thu phục cả. Nhưng giả sử cả thiên hạ đều biết Triệu Khuông Dẫn là Cao Tổ Tống triều sắp mang đại quân sang lấy Giao Châu, nạn nước các Sứ quân khó bề giải cứu được. Thì lúc ấy có Sứ quân nào dám mang binh làm loạn để Giao Châu mất vào tay nhà Tống hay không? Bọn Sứ quân giặc cướp, nhiều kẻ ngu si, chỉ lo lợi quyền riêng tư, tự biết sức chẳng chống được với binh phương Bắc. Cái tội cát cứ nuôi dưỡng binh tướng liệu có thoát được tội chết khi nhà Tống đã vào Giao Châu ta hay không?

- Ngài nói thế, thì tức là bảo thiên hạ còn có chỗ liêm sỉ, chưa đến nỗi cúi mặt lo lợi riêng để hại đến cả một dân tộc đấy chăng?

- Bẩm, bảo rằng chỉ nói ra một lời mà được cả thiên hạ nghe thì quả thật là mơ tưởng. Nhưng giả sử, có việc xảy đến cho cả thiên hạ tai cùng nghe, mắt cùng thấy. Thì tôi dám chắc thiên hạ dù có gan lớn đến đâu chăng nữa, cũng không dám cả gan tiếp tay với giặc ngoài để hại cả giống nòi đâu?

- Vậy ngài định để cho cả thiên hạ thấy việc gì, nghe điều gì để bảo cả thiên hạ cùng ngồi im một chỗ, thôi tranh giành nhau được nào?

Quân sư lại trầm ngâm, rồi sau mới đáp:

- Thiên hạ xưng hùng, ai lại chẳng cho là mình hay mình giỏi, ai lại không cho mình làm là đúng? Đã thế, thì bảo cả thiên hạ ngồi im là điều khó khăn! Các Sứ quân bây giờ là cái họa của dân Giao Châu ta. Sứ quân nào cũng tự cho mình là hơn cả, ai cũng mơ tưởng đến cái ngai vàng ở Cổ Loa. Nhưng chẳng ai biết rằng mình chỉ là quân giặc, là họa của trăm dân! Đã thế, thì dù có mắt thấy tận nơi, tai nghe đủ mọi việc chưa chắc những phường hại nước hại dân ấy lại chịu mở mắt, ngừng tay làm bậy đâu! Loài ngựa ngửi mùi phân cọp thì biết sợ mà chạy trốn, giống rắn rết thấy hương vị cay thì bỏ đi tránh xa, con voi to lớn như vậy thế mà khiếp hãi con kiến nhỏ bé. Bọn Sứ quân trong tay có binh có tướng, lại cho mình làm việc phải chứ có ai cho là mình làm bậy. Thế thì nói chưa chắc có ai nghe. Nhưng tôi dám chắc một điều là: cả các Sứ quân ở Giao Châu ta lúc này toàn những phường tăm tối, coi trăm dân không bằng một đấu vàng vụn. Bọn chúng muối mặt hại dân, nhưng lại là bọn tham tàn khiếp nhược. Bây giờ ta đập trúng chỗ nhược của chúng là ta được việc ngay! Đây là cái việc “cây mục giữa thân không còn cách chữa, chỉ còn có cách đẵn hẳn cả cây” mới xong đây!

Động chúa nghe Quân sư nói, cũng vẫn chưa hiểu làm thế nào để đập trúng chỗ nhược của bọn tham tàn hại dân, đành im lặng đợi Quân sư nói thêm, Quân sư ngẫm nghĩ thêm một lát nữa rồi ngửng cao đầu:

- Giả sử bảo cho bọn Sứ quân biết rằng: Bắc phương sắp đề binh xuống Giao Châu làm cỏ cả bọn. Trước là giết hết các Sứ quân để khỏi vướng bận công việc kinh lý phương Nam. Sau là mở rộng đường đem Giao Châu vào cuộc Bắc thuộc lâu dài. Nói như thế ắt bọn Sứ quân co cổ rút đầu lo sợ, không dám hung hăng để tránh tội mai sau, tất cả đành ngồi im thủ thế. Nhờ đấy mà ta ra tay dàn xếp trong ngoài mới xong được!

Động chúa gật gù nói:

- Ngài nói như thế tôi không thấy có chỗ nào là không phải, tôi cũng tin những lời ngài nói là đúng cả. Nhưng cũng còn có chỗ thắc mắc!

- Bẩm, có phải Động chúa thắc mắc ở chỗ: dù là bọn tham tàn khiếp nhược chăng nữa, nhưng đám Sứ quân đã chắc gì không có kẻ dám chống trả Bắc phương? Do đó, thế nào cũng có Sứ quân cưỡng lại kế của ta phải không?

Động chúa mỉm cười:

- Đúng thế! Tôi không tin hẳn là tất cả các Sứ quân chịu khoanh tay ngồi im! Bọn đó thế nào cũng có kẻ lăm le đợi đón Bắc phương tự nguyện làm trâu ngựa cho ngoại địch. Có kẻ thu xếp lặng lẽ lẩn trốn, cũng có kẻ ngu dại không tự lượng sức hung hăng hão để mong được chiêu hàng đấy! Vậy thì nếu ta ra kế, thì có thể tạm thời bắt bọn đó phải ngồi im, nhưng đợi để ta ra tay quét sạch cả thì tôi chắc là không được!

Quân sư mặt tươi tỉnh:

- Bẩm, Động chúa nói như thế chẳng có chỗ sai, nhưng còn có điều chưa đủ hết! Bọn Sứ quân cho đến bây giờ đã tranh giành xâu xé nhau bao nhiêu lâu rồi, thế mà có kẻ nào tỏ ra là có cái chí gồm thâu thiên hạ đâu! Tất cả, rặt một phường tham lợi, ích kỷ chỉ lo làm sao sung sướng oai quyền một mình, coi trăm dân như đám ruồi muỗi, xem thủ hạ như bầy tôi tớ trong nhà để sai bảo. Thậm chí, lại còn có Sứ quân như Kiều Thuận ở Hồi Hồ tham tàn quá đỗi, ngày đêm chỉ lo xây “cung điện” cho nguy nga. Có Sứ quân lại chỉ một mực tôn phò đám nhà chùa, hò hét bắt dân ba nhà phải xây một kiểng chùa, ba họ phải có năm người làm sư sãi! Có Sứ quân thì lại quên hẳn cả dân tộc để cổ vũ cho phong tục Bắc phương, xem tổ tiên như cỏ rác. Đám Sứ quân ấy, ta ra tay chỉ một phen là đạp nát được hết! Nhưng, không phải chỉ có bọn ăn hại ấy mà thôi, đám Sứ quân ấy ta chẳng coi ra gì. Nhưng có điều, Giao Châu ta lắm người tài, thủ hạ các Sứ quân cũng có nhiều người giỏi. Trong cuộc đánh dẹp các Sứ quân để thu thiên hạ của ta, ta sẽ gặp phải chẳng ít vất vả với những người tài đâu! Tôi tin chắc là: cái danh đại nghĩa để thâu cả thiên hạ, bọn Sứ quân chẳng dựng được! Danh không chính, thì lời chẳng thuận. Cái thế lớn để trong thì ổn định được việc nước, ngoài cản được ngoại cường, Sứ quân nào dựng nổi! Thế ấy không dựng được, thì hành động chỉ là manh động. Thế ấy Sứ quân nào dựng nổi! Nếu có Sứ quân hùng tài, thì ngày Nam Tấn Vương đại bại ở Đằng Châu phải chạy về, tất không còn mạng để về Cổ Loa được. Thế mà nào có Sứ quân nào dám ra binh cản đường để thừa cơ hội quý báu mà dựng việc trọng đại đâu. Tất cả chỉ một mực sự ta, sợ vu vơ thêm các mặt! Như vậy, thì cái chí của các Sứ quân chẳng có, kẻ không có chí có khác gì có cây mọc hoang tự nhiên không! Như thế, phòng với cái họa Bắc phương thì làm gì có kẻ nào dám quên mình để nghĩ đến cuộc tranh hùng! Bọn ấy chỉ là bọn ngu phu bất dũng mà thôi! Bất tài, vô chí, vô dũng, làm sao dám đảm đương được đại nghiệp cứu dân giữ nước!

Động chúa gật gù, rồi chợt hỏi:

- Được, tôi tin lời nói của ngài! Vậy thì bây giờ ngài tính việc Bình Kiều với Đằng Châu như thế nào?

Quân sư vừa ngửng đầu lên chưa kịp trả lời Động chúa, đã thấy quân vào xin trình việc gấp. Tay người quân hầu lại còn cầm một phong thư.

Chưa biết lại có việc gì quan trọng, có phong thư của ai, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—