← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Tám Mươi Lăm Thần Tiêu giữ yên bờ cõi
Định kế thu phục Bình Kiều

Quân vào trình việc, hai tay kính cẩn trình lên một phong thư. Quân sư đỡ lấy phong thư rồi cho quân lui. Ngay trước mặt Động chúa, Quân sư ung dung mở thư. Té ra là thư của Lê Hiền, Thống đốc Thủy bộ binh Bình Kiều. Quân sư đọc nhanh phong thư, rồi vẻ mặt tươi tỉnh, quay sang Động chúa:

- Bẩm, người anh tôi ở Bình Điều cho tôi hay là: từ ngày Sứ quân Ngô Xương Xí thất bại việc binh ở ngoài thì chán nản không có cách gì cứu vãn được. Rồi bị bệnh mà qua đời, anh tôi cố giữ mọi việc, cầm quyền chấp chưởng cho các mặt không dám tranh giành đâm chém nhau. Sau vài năm thì anh tôi cũng bỏ đi nốt thành ra Bình Kiều bỏ hoang, đến nay thì có thể sinh họa lớn. Anh tôi có nói: Hoa Lư trước dàn xếp nên mọi việc, thì nay cũng lại nên dàn xếp để trong giữ cho được yên, ngoài đương cự với Bắc phương sắp đổ xuống. Bẩm, như vậy thì quả nhiên ý nghĩ của anh tôi cũng chẳng khác gì với ý nghĩ của Hoa Lư ta.

Động chúa hỏi ngay:

- Ý nghĩ của ta không khác với ông Lê Hiền như thế nào?

- Bẩm, lúc nãy tôi có nói rồi, là phải lấy Bình Kiều trước, sau nương theo cái thế mạnh ấy mà thu phục nốt Đằng Châu.

Động chúa hỏi thêm:

- Ta sẽ lấy Bình Kiều ra sao?

- Bẩm, thật ra các tướng của ta ở Đằng Châu vẫn thường đi lại ở cả Bình Kiều, các ông lấy cớ Bình Kiều bỏ ngỏ nên phải đi lại trông nom, đề phòng giữ cho Đằng Châu được yên ổn. Nhưng kỳ thực đã dàn xếp được các việc trông nom trăm dân ở Bình Kiều rồi...

Động chúa tiếp:

- Việc ấy thì tôi biết, các Sứ quân chung quanh tức ta không ít nhưng đành ngồi im. Nay ông định lấy hẳn Bình Kiều như thế nào?

Quân sư đáp ngay:

- Bẩm, tôi xin Động chúa cùng một lúc đưa thủy quân ngược dòng Xích Đằng lên để phòng giữ mặt sông chống lại Phù Liệt, Tế Giang với Đỗ Động. Phòng các Sứ quân ấy muốn ra binh tranh giành với ta. Một mặt, các tướng của ta xuất quân công khai lấy hẳn Bình Kiều. Cứ lấy cớ là Bình Kiều bỏ hoang dễ sinh loạn, lại thêm Thống đốc Lê Hiền trước kia lúc bỏ đi có nói là đem Bình Kiều sát nhập với Hoa Lư. Thế là binh ta lấy Bình Kiều mà không Sứ quân nào dám hó hé cả!

Động chúa hân hoan hỏi thêm:

- Tất việc tiến binh lấy hẳn Bình Kiều ngài đã ước lượng các mặt cả rồi chứ? Liệu có xảy ra những việc rắc rối gì không?

Quân sư trang nghiêm:

- Bẩm, trước hết ta lấy Bình Kiều, sau thu phục Đằng Châu đã hẳn là thế nào cũng làm cho các nơi rung động, vì thế dễ sinh biến loạn! Do đó, ta cũng phải dàn xếp trước cốt giữ cho các biến loạn ấy chỉ đến độ xao động nho nhỏ là được, để còn đủ thời giờ mà phòng giữ Bắc phương. Đối với bên trong, việc ta giữ Giao Châu yên ổn được ngần ấy năm là quá rồi. Bây giờ ta cố giữ thêm ít ngày nữa để thu phục Bình Kiều với Đằng Châu rồi mới ra tay được. Riêng với Bắc phương, mối họa đời nào cũng có của nước ta, thì đoàn Bắc Tế của ta vẫn lặng lẽ làm việc. Tôi cũng đã trộm phép Động chúa dàn xếp mọi việc, bây giờ là lúc phải ra tay ngăn cản. Mọi việc tôi xin được nhiệm mệnh Động chúa để phát lạc, xin Động chúa chú hết tâm vào việc thu phục các Sứ quân sắp tới!

Động chúa vui vẻ lắm, liền lệnh cho Quân sư tùy nghi hành động làm sao để trong giữ yên Giao Châu, lấy lợi thế thu phục Bình Kiều với Đằng Châu. Ngoài chống đỡ với Bắc phương. Quân sư lĩnh mệnh lui về hổ tướng để dàn xếp mọi việc.

Thế là vào ngày Mậu Dần, tiết Hàn Lộ. Quân sư xin Động chúa hội hết thảy các tướng trong ngoài lại để nghe nói về việc lớn khởi sự bình thiên hạ.

Vào hội, Quân sư nói:

- Bẩm Động chúa, ngày nay Hoa Lư ta quyết định bước ra ngoài thiên hạ, nhưng việc của ta lại chưa hẳn là công khai, vì thế ta chưa đạt đến chỗ khiến cho cả thiên hạ phải đinh tai nhức óc. Chặng này là ta lặng lẽ dàn xếp, rồi sau khi cuộc dàn xếp của ta thành rồi, lúc ấy mới là lúc “giữa ban ngày trời nắng thấy có sấm dậy, giữa nửa đêm thấy mặt trời rực rỡ.” Bây giờ ta cùng bắt tay vào việc nhưng không phải là đánh gục cả thiên hạ, mà là trói tay chân thiên hạ, bắt ngồi yên để ta hành động trước!

Tướng Phạm Cự Lượng nghe Quân sư nói cao hứng quá giữ không nổi miệng, bật kêu lên:

- Hay lắm! Trước khi dẹp tan thiên hạ, lại còn có việc trói chặt tay chân thiên hạ! Quân sư cho tôi đi trói thiên hạ nhé!

Các tướng cùng cười ồ, Động chúa cũng vui vẻ mỉm cười mà rằng:

- Ông Lượng dạo này ngồi im mãi một chỗ, xem ra ngứa ngáy tay chân thì phải lên ngựa ra trận. Chứ cầm dây đi trói thiên hạ thế nào được! Ông cứ thủng thẳng, thế nào cũng có việc lớn cho ông mà!

Quân sư tiếp lời Động chúa:

- Tình thế Giao Châu ta sắp có biến động lớn, việc còn dài bây giờ tôi thấy chưa cần phải nói rõ cho các tướng biết. Thế nào cũng có lúc tôi nói rõ cả, lúc ấy là lúc Hoa Lư ta vươn vai đứng dậy. Còn bây giờ, tôi chỉ xin vắn tắt là: Hoa Lư trước hãy chính thức lấy Bình Kiều, sau thu phục Đằng Châu rồi thừa thế mà ra ngoài thiên hạ. Việc ta lấy Bình Kiều không có gì khó khăn, nhưng làm cho cả thiên hạ rung động. Lúc này còn mấy Sứ quân lục đục với nhau, ta ra tay lấy Bình Kiều cũng là một điều để họ phải tạm dừng tay kinh hãi. Nhưng làm như thế cũng chưa đủ sức để giữ cho hết thảy các Sứ quân chịu ngồi im. Vì thế, Hoa Lư ta lại phải ra kế để lúc ta lấy Bình Kiều cũng là làm cho các Sứ quân đành thở dài mà thôi mới được!

Những lời Quân sư nói ra, lâu lắm rồi các tướng mới lại được nghe, ai cũng thấy hào hứng lắm. Quân sư tiếp:

- Ta lấy Bình Kiều là chính thức báo cáo cho cả thiên hạ biết việc làm từ lâu của ta, việc làm ấy ai còn chưa biết? Duy có một điều: lúc ta chưa chính thức lấy Bình Kiều, thì dù thế nào chăng nữa cái thế của ta cũng chưa lộ hẳn. Bây giờ ta đoạt Bình Kiều thì lại là nhẽ khác, các nơi tất có thể có động đậy! Họ động đậy ta không sợ, nhưng ta phải làm sao bắt được họ chỉ xao động thôi chứ không được vọng động. Có thể cùng một lúc ta mới có thể tạm giữ yên được cả trong lẫn ngoài.

Động chúa hỉ hả, Đinh lão vuốt chòm râu đen nhánh vui vẻ nói:

- Định việc như vậy thật không ai là không phục, lẽ ra cái sức của ta lúc này thừa đủ để xuất quân chinh phạt các nơi. Nhưng ta chưa cho binh ra ngoài tất là có tính toán kỹ. Hoa Lư ta bây giờ còn mạnh, còn thịnh vượng, kỷ cương hơn cả Cổ Loa. Quả thật nếu được vài ít năm nữa thì việc thu thiên hạ không cần phải xử đến binh đao thật! Tiếc thay! Tuy vậy, thời loạn mà ta lấy thuần “Đức” để thu thiên hạ thì một là không thể được, hai là chẳng thức thời khiến làm trò cười cho thiên hạ nữa là khác. Như thế, thì thời loạn trước hết phải biểu hiện ra được cái uy đã, lấy uy mà bình thiên hạ, sau mới lấy đức để an thiên hạ. Uy thiếu đức thì là bạo lực, đức thiếu uy là nhu nhược mở đường cho loạn hiện ra. Uy ta có sẵn, đức ta có thừa, ta đợi thời trong lúc dựng thế nhưng thời cấp bách giữa lúc thế coi như đã vẹn toàn. Thì dù có phải ra tay hành động non hơn một chút tất thế nào cũng xong đại nghiệp. Có tiếc là tiếc trăm họ còn phải trải qua một thời máu lửa nữa mà thôi, nhưng Quân sư có lần nói rằng: ta ra tay, cố gắng trong vòng một năm trời là bình xong thiên hạ, như thế nạn nước cùng lắm cũng chỉ một hay hai năm nữa là cùng. Lịch sử một dân tộc không tính bằng năm, mà tính bằng hàng chục chiều dài cuộc đời. Vậy Hoa Lư ta chấp nhận cuộc phấn đấu sinh tử này, các tướng có ai còn điều gì muốn bài bác hay không?

Lập tức, hết thảy các tướng đứng dậy nhất tề tung hô Hoa Lư, thảy đều hăng hái mong được mau đem binh ra ngoài thiên hạ, sẵn sàng nghe lệnh Động chúa để góp sức thi hành đại kế của Quân sư cứu muôn dân, dẹp nạn nước.

Động chúa hân hoan, ngài đứng dậy, vóc dáng Động chúa ở vào cái tuổi trung niên trông cực kỳ oai dũng. Hai vai Động chúa mở rộng, khuôn mặt vuông rắn rỏi, cặp mắt lúc nào cũng dữ dội ngay cả lúc hân hoan sung sướng, cũng như tóe hào quang làm cho ai phạm phải tia nhìn của cặp mắt ấy cũng đều thấy rùng mình ghê sợ. Động chúa ôn tồn, giọng vẫn rổn rảng như chuông đồng khua mà rằng:

- Này các tướng, Hoa Lư ta tụ lại với nhau chẳng phải là để mưu tìm sung sướng cho riêng bản thân, chẳng phải cùng với phường giặc nước họa hại thi nhau đầy ải trăm họ. Cũng lại chẳng phải chỉ nhằm vào cái ngai vàng ở Cổ Loa làm lý tưởng hành động. Mà Hoa Lư ta đứng lại với nhau chỉ vì dại nghĩa “cứu dân cứu nước.” Thế thì tuy có thể nói được rằng thắng bại chẳng đáng quan tâm, nhưng thực ra ta không thể bại được. Ta không được phép bại, ta lại tức là đưa cả trăm họ vào vòng cùng khổ. Ta bại có khác gì cùng với phường giặc cướp tự xếp ngang hàng, tiếp tay với thiên hạ làm cho cái họa sát dân diệt tộc càng đến mau, càng thảm khốc hơn nữa không! Đã thế, ta đứng lên là phải đại thắng hoàn toàn, một phen ra tay là phải rửa sạch được nhọc nhằn cho trăm họ, làm rạng ngời được quê hương Giao Châu này! Ước vọng ấy, một cánh tay dũng mãnh không thể làm được, mà còn cần phải có hùng tài thao lược ra tay dàn xếp, hùng tài ấy ta đã có! Ta đã mấy phen nói về hùng tài thao lược ấy rồi, bây giờ có nhắc lại cũng bằng thừa. Bao phen Hoa Lư ta đem sức hùng ra để dựng lên cái thế hôm nay, chính là lúc để Hoa Lư vươn vai đứng dậy giương cao cờ đại nghĩa, cứu dân giữ nước. Hôm nay ta tụ hết các anh em lại đây, chính là để cùng nghe cái kế “bình thiên hạ, an định việc lớn”. Ta lĩnh trách nhiệm trông nom anh em cùng ra sức, thì ta cũng lại đã trao nhiệm vụ dàn xếp cho Quân sư Lê Thảo, đấy là cái lẽ “trọng hiền, nghe theo ý dẫn của người hiền.” Chứ không phải là nhu nhược phó thác công việc cho người khác, cũng chẳng phải là nhắm mắt nghe càn lời xúi bẩy! Các anh em đã nhiều phen thấy tận mắt, bản thân vào chốn gian nguy mà vẫn đi ra được an toàn thắng lợi. Như thế thì cái lẽ trọng hiền nghe hiền ở đây chính là thái độ của bậc trượng phu biết nén cái tự ái vu vơ xằng bậy để đón nhận cao kiến định quốc an dân, không phải là hành động của đứa ngu phu. Khăng khăng với thiên kiến chẳng thức thời đến nỗi chết mà vẫn không biết vì sao mình chết. Đã vậy, ta có nhắc lại thêm nữa cũng chẳng ích gì, bằng chứng là anh em cho đến bây giờ không một ai tỏ ra chẳng phục Quân sư của ta. Không ai lại chẳng hăng hái xin đi vào nơi nguy hiểm, bởi chính mọi người đều biết rằng: Quân sư của ta một lần đã định mưu tính kế là phải đạt thành công. Gian nguy trước mặt nhưng nhất định sẽ tạo được bình an, ra đi là chỉ có vinh quang trở về cho nên ai cũng muốn tranh đi là vì thế! Các anh em đã tin chắc như vậy, trăm người như một đều tin tưởng nơi Quân sư của ta đem anh em vào nguy hiểm, nhưng thế nào cũng đi ra trong vinh dự toàn thắng. Việc khó đỡ hẳn là khó, nhưng sức dũng mãnh của ta được vận dụng đúng chỗ, lý tưởng của ta đã được rỡ ràng trong mỗi hành động. Khí thế ấy ta đủ san bằng được núi, lấp kín được sông. Nay mai đây, anh em sắp được đem niềm tin của mình vào đại cuộc, chính vì thế mới có buổi hội hôm nay. Ta để Quân sư nói cho các anh em nghe mọi việc!

Động chúa dứt lời, giọng nói còn âm vang, hùng khí tưởng như còn đang thoát ra từ trăm vật chung quanh. Những lời nói ấy như luồng gió mạnh thổi tung núi rừng, các tướng lặng người. Quân sư Lê Thảo tiếp lời Động chúa ngay, giọng khoan thai:

- Bẩm Động chúa, các anh em, hôm nay là ngày khởi đầu để Hoa Lư ta thực sự vươn tay ra ngoài thiên hạ. Bao nhiêu năm sửa soạn chắc chắn không phải là những năm nghỉ ngơi, cũng chẳng phải là ngần ấy năm Hoa Lư bồi đắp cho sung sướng của riêng mình, mà chính là để đợi ngày hôm nay. Giao Châu ta đang ở vào lúc khởi đầu đại loạn từ Bắc phương, chúng đã cho người xuống dòm ngó Cổ Loa, nghe ngóng các thế lực. Cổ Loa thì sắp đến ngày tàn. Cổ Loa đổ, nếu ta không kịp ra tay chống đỡ thì cả Giao Châu ta không thoát khỏi lại bị Bắc phương thuộc trị. Như thế, mỗi bước Hoa Lư ta bước đi là một bước có liên hệ đến vận mạng dân tộc, mỗi việc Hoa Lư ta làm đều mang cái lẽ sống hay chết của nòi giống ta. Đại nghĩa vì thế được sáng tỏ, trí nhân là mạch nguồn để ta huy động được sức hùng của cả dân tộc mà đưa vào đại cuộc! Cả dân tộc ta đang lặn ngụp trong cái họa binh đao của các Sứ quân, trong cái u tối tan rã của Cổ Loa. Ai là người đưa được trăm dân ra khỏi nước lửa, ai là người chống đỡ được cho Giao Châu ta đứng vững trước một tay Triệu Khuông Dẫn ở Bắc phương đang chiến thắng loạn Thập Quốc? Các Sứ quân chăng? Hay Cổ Loa? Những kẻ ấy chẳng qua chỉ là đàn muỗi vo ve lúc trời chiều chạng vạng, chứ không thể là con đại bàng vươn cánh bay lên đỉnh núi cao một buổi sớm lúc mặt trời mới mọc được! Bắc phương có hùng dũng đến đâu chăng nữa, nhất định cũng sẽ phải chùn bước trước dân tộc ta lúc trăm vạn người như một, lúc đại nghĩa được trí nhân nâng đỡ, lúc tinh thần quật cường của tổ tiên ra từ ngàn năm trước đang bừng bừng trong mạch máu con tim mỗi người Giao Châu chúng ta hôm nay.

Quân sư dừng lại, ánh mắt sắc sảo nhìn khắp các tướng một lượt, rồi lại khoan thai tiếp:

- Suốt trong mấy năm qua, các anh em tuân lệnh Động chúa, lúc đi xa, lúc đi gần, không ai ở yên một chỗ. Ở Đằng Châu, ta còn năm tướng vất vả, xa Hoa Lư đến gần chục năm trời. Tất cả những công việc ấy chẳng phải Động chúa rỗi thời giờ sai các anh em đi vô ích, mà mỗi việc đều là sắp xếp cho ngày đại nghĩa vươn cao. Bây giờ, Hoa Lư ta phải đứng dậy sớm một đôi năm, cái thể “thu phục thiên hạ trong bình lặng” không thể thi hành được nữa, mà phải lập theo cái thế “giữa lúc trời nhá nhem, một cơn gió lốc nổi lên quét sạch lá vàng cát bụi”. Thế là binh đao nhất định phải xảy ra, loạn nước phải lấy sức mạnh mà dẹp mới xong rồi!

Các tướng nghe nói ai cũng hừng chí, hội nghị lao xao bàn tán. Hồi lâu, Đinh lão nói lớn lên:

- Các anh em, Động chúa đã nói ra công việc phải làm, Quân sư đã nói ra cái thế phải nhận, các anh em thảy đều tin ở sức cánh tay mình, lại càng tin hơn nữa ở mệnh lệnh của Động chúa, tin vào xếp đặt của Quân sư. Hoa Lư ta đứng dậy phen này là thế nào cũng có cảnh núi rung sông chuyển, máu đổ thịt rơi không thể tránh được. Nhưng núi rung sông chuyển không phải vì rùng mình kinh hãi về các hành động của ta, các hành động ấy chẳng phải là những hành động như của đám Sứ quân khiến cho sông nước cũng phải cau mày oán hận, khiến cho núi non cũng phải run rẩy căm hờn. Các Sứ quân ấy là những đảng giặc lớn làm hao kiệt cả sức lực của dân tộc đất nước, mở đường cho ngoại địch có cơ hội tốt để thôn tính Giao Châu ta. Còn các hành động của ta, là đại nghĩa kết hợp với trí nhân, vằng vặc như trăng sao trên trời cao. Đại nghĩa của ta là cứu nguy cho đất nước, giữ vững giang sơn, đưa trăm dân ra khỏi vòng nước lửa. Như thế, thì máu đổ thịt rơi chính là vinh quang chiến địa của các anh em, chứ không phải là trăm dân bị chém giết khốn cùng như bọn Sứ quân đang làm! Núi rung sông chuyển, ấy là cả cõi Giao Châu cùng cựa mình hưởng ứng đứng dậy với ta. Ta làm được cho cả non sông bừng dậy, ấy là ta đạt được cái sức mạnh không cùng của dân tộc ta trong cuộc phấn đấu hùng liệt này! Ai trong số các tướng ở đây không muốn cùng non sông đứng dậy? Ai trong số các tướng ở đây lại muốn tiếp tay với đám Sứ quân để dìm thêm dân tộc ta xuống cực khổ hơn nữa? Nếu không có ai, thì Hoa Lư ta đứng dậy phen này nhất định là làm rạng danh dân tộc. Sử sách nghìn vạn đời sau còn bàn đến hành động hùng liệt của ta hôm nay đấy!

Đinh lão vừa dứt lời, các tướng nhất tề đứng dậy, thảy đều thét lớn một tiếng “Chiến!”. Tiếng thét vừa dữ dội vừa dậy hào khí. Chỉ một tiếng thét mà tưởng đến bất cả gốc núi, đảo ngược cả triền sông. Khí thế dũng mãnh chưa từng có như vậy bao giờ. Thét xong các tướng lại trang nghiêm lặng lẽ ngồi cả xuống, trên mặt người nào cũng lộ vẻ trang nghiêm quan trọng.

Tiếng thét “chiến” của các tướng làm cho cả Hoa Lư rung động, thế là chỉ mới có ba lời nói của Động chúa, Quân sư. Rồi tiếp theo sau là Đinh lão sẽ đủ kết chặt trăm dân Giao Châu thành một khối để trong cùng quét cho sạch nạn nước, ngoài đồ họa Bắc phương!

Ngay trong chiều hôm ấy, Động chúa truyền hội các tướng để nghe Quân sư phân định mọi việc. Quân sư nói:

- Việc lớn các tướng đã biết đại thể thế nào rồi, nay đến lúc tất cả cùng ra tay. Tuy rằng như vậy, nhưng cũng chưa phải là lúc gươm đao ra khỏi vỏ, mà còn là giai đoạn để ta “mượn sức gió vật ngã cây to, dẹp cho quang đãng để thấy đường trước mặt”. Vậy thì, trong giai đoạn này cùng một lúc ta vừa ra quân lại vừa dùng mưu trí để an bài các mặt. Trước hết, là nói về mưu trí an bài các mặt đã!

Quân sư ngừng lại như thể để cho ý nghĩa lời nói ngấm thêm nữa vào lòng các tướng, rồi mới tiếp lời:

- Nếu bây giờ để nước biến động lớn, là mời Bắc phương xuống tay chinh phục Giao Châu ta, mà cũng là làm cho các Sứ quân hỗn loạn. Trước hết, ta hãy giữ cho các Sứ quân ngồi im đã! Các tướng ở đây, hiểu tình hình các Sứ quân như thế nào?

Quân sư hỏi, các tướng lao xao bàn tán, rồi tướng Lưu Cơ đứng dậy nói:

- Bẩm Động chúa, thưa Quân sư, từ sau khi Hoa Lư ta đem binh đánh đuổi Nam Tấn Vương trở về, quả thật các tướng còn liên tục theo lệnh đi khắp các nơi, khuấy động cả Giao Châu. Các dàn xếp ấy mỗi người chỉ biết được phần việc của mình, hiểu việc khó cũng chỉ là lờ mờ, nhưng thảy đều hiểu rằng đây là Quân sư định kế dàn xếp các mặt cho đến lúc này. Như vậy thì tình hình các Sứ quân dù có biết chăng nữa cũng chỉ là biết từng mảng nhỏ, chứ không biết hết được các mặt. Hiện nay, các Sứ quân giao tranh với nhau, có người thua có người được, nhưng không ai có thể bước tới Hoa Lư được. Gần đây nhất, là Siêu Loại cử binh đi đánh Tiên Du là náo nhiệt hơn cả, quân hai bên tranh hùng Siêu Loại có phần thắng thế, nhưng chưa biết kết cuộc ra sao? Sau Tiên Du với Siêu Loại, hoặc có khi cùng một lúc các Sứ quân khác còn đánh nhau như thế nào, thì chúng tôi không được biết. Như thế, nếu theo lời Quân sư thì trước hết phải làm sao để Tiên Du với Siêu Loại ngưng đánh nhau, có thế mới không làm kinh động đến các nơi khác!

Các tướng nghe Lưu Cơ nói, thảy đều gật gù ra chiều tán thưởng. Quân sư cũng vui vẻ gật đầu mà rằng:

- Quả nhiên ông Lưu Cơ nói không sai! Các Sứ quân trúng kế của Hoa Lư ta hầm hè chém giết nhau gần mười năm nay. Sức lực có người bị hao mòn, cũng vì Hoa Lư ta không để cho họ làm quá khiến sinh oan khổ cho dân chúng nhiều. Tuy thế, cũng có Sứ quân chính vì dàn xếp của ta mà cơ đồ tan rã, đấy là Sứ quân Ngô Xương Xí ở Bình Kiều. Có Sứ quân sắp bị thu phục, đấy là Sứ quân Đằng Châu Phạm Bạch Hổ. Có những Sứ quân thì lại ung dung xây đắp “cung điện” tưởng mình vững thế, sắp là vua đến nơi! Nhưng, quan trọng hơn cả là: tất cả các Sứ quân đều hục hặc với nhau, nặng nhẹ thì chưa biết ai thù oán nhau nhiều hay ít. Nhưng có điều chắc chắn là: mai đây khi Hoa Lư ra tay thu thiên hạ, các Sứ quân lần lượt bị tiêu diệt, trước cái nguy ấy tất thế nào cũng có kẻ nghĩ đến cái thế “đàn dê yếu phải cùng hợp lực với nhau để chống lại con cọp dữ”. Nhưng vì những oán thù chém giết cũ thành ra các Sứ quân không thể nào cùng ngồi với nhau một chiếu, chẳng thể nào nhìn mặt nhau được. Như thế thì còn làm gì có việc các Sứ quân cùng chung sức chống lại với một mình Hoa Lư ta nữa!

Động chúa nghe Quân sư nói thì vui vẻ lắm, Đinh lão ngửa cổ, tay vuốt chòm râu đen nhánh cười thật lớn, rồi bảo:

- Hay! Hay lắm! Thì ra cái kế độc khuấy động thiên hạ một phần nhỏ là nhắm vào làm hao sức thiên hạ, nhưng trọng đại hơn cả là làm cho các Sứ quân không còn cái thế mai sau, không còn có thể ngồi lại với nhau được nữa! Ác liệt thật!

Rồi ông lại ngửa cổ cười vang lần nữa, các tướng sảng khoái lắm. Quân sư tiếp:

- Bẩm Động chúa, thưa lão bá, các tướng, chính nhờ ở chỗ các Sứ quân không còn nhìn mặt nhau được nữa mà hiện giờ ta mới có thể thi hành được ý muốn bắt cả thiên hạ phải ngồi yên. Trong lúc này, quả thật phương Bắc đang nhòm ngó Giao Châu ta, nếu Giao Châu ta loạn lớn thì là cái cớ để cho Bắc phương đem quân đánh chiếm ngay. Cổ Loa mất hết uy quyền đã dành, nhưng triều đình vẫn còn đó. Bắc phương cũng có thể còn dè dặt phần nào. Nhưng giả sử, chinh chiến làm cho Nam Tấn Vương thiệt mạng, thì lúc ấy Giao Châu ta mới thật là khốn đốn. Cũng vì cái cớ ấy mà Hoa Lư ta tha cho Nam Tấn Vương được yên ổn rời khỏi Đằng Châu năm xưa. Nay, Hoa Lư lu mờ, dù Nam Tấn Vương còn ở ngôi, nhưng lại là lúc Hoa Lư ta phải lần lần bước ra ngoài thiên hạ. Ta bước đi, thiên hạ tất náo động, thế nào chẳng có kẻ muốn chống lại ta. Bởi vậy ta không thể bước đi mà không dọn sạch đường cho quang đãng, cản không cho thiên hạ làm sằng khiến cho đại cuộc gặp khó khăn. Hoa Lư ta bước đi nhất định không để cho vì thế mà Giao Châu bị Bắc phương đánh chiếm!

Động chúa liền hỏi:

- Như vậy, Quân sư định dụng đại kế gì trói tay chân các Sứ quân không cho vọng động, giữ cho cả thiên hạ ngồi yên dây?

Cả hội đường im lặng, ai cũng muốn được nghe cái kế tuyệt vời ấy nhưng không dám hỏi, bây giờ nghe Động chúa hỏi thì ai nấy đều chăm chú lắng đợi nghe. Quân sư khoan thai:

- Bẩm, giả sử Nam Tấn Vương ngồi ở Cổ Loa có ban chiếu lệnh cho các Sứ quân phải ngồi im, chắc là lệnh vua bây giờ cũng không ai nghe! Vua là ngôi cao nhất nước mà bảo thần dân còn không được, thì không có một ai lại bảo thiên hạ ngồi im được! Nhưng chính cái mạng sống, chính cuộc sống sung sướng xa hoa uy quyền bất lương của các Sứ quân nó ràng buộc họ, nó làm cho họ phải sợ sệt lo lắng tìm mọi cách để cố gìn giữ lấy. Nhưng, thế lực nào có thể lấy mạng sống của họ được, thế lực nào có thể tước đoạt được cuộc sống xa hoa uy quyền của họ được? Ở Giao Châu ta lúc này, nếu đám các Sứ quân ấy có sợ thì chỉ sợ một mình Hoa Lư ta, sợ nhưng họ cũng vẫn dám chống cự lại ta. Chống cự lại ta lúc này ta chưa muốn, mà thật ra là: Lúc này ta không chấp nhận cho họ chống lại ta, họ phải ngồi im. Muốn họ ngồi im, ta lại phải nhờ đến cái họa Bắc phương mới xong!

Mọi người nghe Quân sư nói thì lạ lùng lắm! Tại sao lại phải nhờ đến cái họa Bắc phương? Làm sao nhờ được Bắc phương bảo các Sứ quân ngồi im cho một mình Hoa Lư ra tay được. Hội đường nhúc nhích, mọi người nhìn nhau. Quân sư hiểu ý, liền tiếp:

- Không phải là Hoa Lư ta cậy nhờ Bắc phương đem binh xuống đánh dẹp các Sứ quân, việc ấy là việc của đám người bán dân tộc. Có bao giờ Hoa Lư ta lại chịu rước bệnh ngoài, mượn sức mạnh chém giết bên ngoài và dày xéo quê hương?! Nhưng giả sử Bắc phương đem binh xuống Giao Châu, ắt các Sứ quân không còn đất sống. Trong đó có cả Hoa Lư ta cũng cùng chung số phận với họ! Nhưng, giả sử Bắc phương kéo quân xuống, cả Giao Châu cùng một lòng chống lại, thì chắc chắn Bắc phương không thể làm nên trò trống gì được. Nhưng với những con người như đám các Sứ quân chỉ hơn phường giặc cướp một bực, thì còn có những kẻ lựa hơi đón gió chờ để quỳ lạy giặc ngoài mong được còn mạng sống. Hay may hơn chút nữa là còn được làm tôi tớ cho giặc mà thôi. Như vậy, thì cái sợ của đứa tiểu nhân làm sao lại có thể là cái lo “hùng” của bực đại nhân vì đại nghĩa được?!

Các tướng vẫn im lặng nghe, Động chúa lại hỏi:

- Tôi không cãi việc đám Sứ quân chỉ là bọn tiểu nhân, nhưng vẫn chưa thấy chỗ nào trói được bọn họ bắt ngồi yên cả?!

Các tướng tủm tỉm cười, Đinh lão lặng là suy nghĩ lung lắm, tay ông vuốt vuốt bộ râu gật gù. Quân sư cũng mỉm cười đáp:

- Bẩm, chính phải nói rõ bản chất của các Sứ quân để giải thích được cái kế Hoa Lư ta sẽ thi hành, cho nên tôi mới nói dài như vậy! Bây giờ tôi lại xin nói thêm chút nữa về vài việc để dẫn đến mưu kế sau, có thế mới là vẹn toàn mọi mặt!

Quân sư ngừng nói, bây giờ thì mọi người đều không còn nóng lòng hậm hực nữa. Quân sư tiếp:

- Giao Châu ta có nhiều báu vật của Tổ Tiên thất lạc. Bắc phương bao phen đô hộ xứ ta vẫn tìm đủ mọi cách để cướp các báu vật ấy, có khi họ cướp được một ít, có khi chẳng được gì. gần đây nhất, là hồi Thái Thú Tô Định tham tàn quá sức, vơ vét châu báu là bề ngoài, nhưng bên trong thì lại muốn thu hết báu vật của dân tộc ta. Trước là để tiêu diệt những chứng tích về nguồn gốc dân tộc ta, sau muốn nhân đấy biến dân ta thành một bộ lạc của Bắc phương. Vì thế, anh hùng xứ ta mới chống lại, làm cho xuất hiện hai Bà họ Trưng. Trước nữa, Cao Biền bao phen vất vả đi khắp nơi để trấn yểm phong thủy xứ ta cũng là muốn dìm dân tộc ta không cho ngóc đầu lên được. Báu vật của Tổ Tiên ta thì nhiều, nhưng thất lạc thì không ai biết về đâu. Mới đây, ở Giao Châu ta có một ẩn sĩ không gốc gác, chỉ xưng là Chu Giao Chỉ cốt hàm cái ý: trong người ông ta là châu quận Giao Chỉ. Ông ta chu du rất nhiều nơi, lang thang mấy chục năm ở vùng Hồ Động Đình để tìm di tích Tổ Tiên ta. Quả nhiên, sau ông ta tìm được ba báu vật: Một là chiếc cung của Lạc Long Quân; Hai là chiếc áo khoác của bà Âu Cơ bằng da hải báo trong lót lông chim Hồng; Ba là một phiến đá khác bản thần tiêu “Âu Lạc cầu duyên”. Ba báu vật này Chu Giao Chỉ toan tính đem về Giao Châu ta nhưng chẳng may bị lộ tung tích. Người Bắc phương ra sức đoạt báu vật, Chu Giao Chỉ cùng đường phải hủy mất chiếc cung với áo khoác. Còn bản thần tiêu thì ông ta học được hết cho nên dù có hủy phiến đá ấy rồi thì bản thần tiêu vẫn còn. Người Bắc phương tức giận vì không đoạt được báu vật, nhưng lại tìm cách để bắt Chu Giao Chỉ để ép lấy bản thần tiêu. Chu Giao Chỉ lui về ẩn ở núi Chung Sơn, người Bắc phương tìm không được nhưng chắc là còn đang ra sức tìm nữa. Bản thần tiêu “Âu Lạc cầu duyên” không phải là nhạc tấu lên để tiêu khiển, mà đại dụng của nó mang cả một trời huyền nhiệm ở trong, tấu lên phải có một tiêu một địch mới xong được!

Nghị sảnh im phăng phắc, mọi người lắng hết tinh thần để nghe Quân sư kể truyện quên hẳn là Quân sư đang nói về mưu kế để làm cho cả thiên hạ ngồi yên.

Động chúa bật hỏi:

- Đại dụng của bản thần tiêu là huyền nhiệm, ắt hẳn nghệ thuật phải ghê gớm lắm! Bỏ qua phần nghệ thuật ấy, liệu bản thần tiêu có mãnh lực làm cho cả thiên hạ nghe rồi thì ngồi im chăng?

Nghị sảnh vẫn im phăng phắc, nhưng mọi người xao động vì câu hỏi của Động chúa. Quân sư thản nhiên tiếp:

- Bẩm, Chu Giao Chỉ từ lúc về ẩn ở Chung Sơn, thì chưa hề bao giờ tấu khúc thần tiêu ấy cả, mà dù có tấu lên cũng chỉ mới được có một nửa, còn thiếu phần hòa tấu của một cây địch nữa mới trọn vẹn được. Vả chăng, một mình Chu Giao Chỉ học được bản thần tiêu, học xong cũng phải mất mấy năm trời ra sức luyện tập, tinh thần lại phải đạt đến chỗ yên tịnh hoàn toàn mới phổ được hết tâm tư vào bản tiêu. Vì thế, Chu Giao Chỉ có muốn hòa tiêu địch cũng dành chịu, không làm sao tìm ra được người biết bản thần tiêu ấy. Nhưng, Chu Giao Chỉ không biết cái chỗ: nghệ thuật vốn là tinh hoa của Trời Đất tự nhiên mà cấu thành. Chẳng khác nào như mắt ta ngẩng lên là thấy trong đêm tối trời cao có ngàn sao. Vậy thì nếu Chu Giao Chỉ tấu khúc thần tiêu mà có người nghệ thuật có tinh thần đặc biệt có thể vì nghệ thuật mà cảm thông được với Trời Đất, nghe nghệ thuật giao thiệp được với cả huyền nhiệm vạn nghìn năm về trước, trăm nghìn năm về sau. Thì dù không biết bản thần tiêu “Âu Lạc cầu duyên” cũng có thể nương theo tiếng tiêu mà bòa tấu tiếng địch được!

Động chúa bật hỏi:

- Quân sư nghe họ Chu tấu tiêu mà rung động, rồi hòa địch được chăng?

Cả hội bật cười, Quân sư vui vẻ:

- Bẩm, nghệ thuật bao trùm khắp cả, trên thế gian này làm gì có người biết hết được! Tôi chỉ biết gảy đàn chứ không thạo thổi tiêu!

Động chúa lại bảo:

- Quân sư còn không biết thổi tiêu đề hòa bản thần tiêu ấy, thì Giao Châu này còn có ai là người biết nghệ thuật được nữa!

Quân sư đáp:

- Bẩm nghệ thuật chưa chắc chỉ ở chốn cung son mới là nghệ thuật, người làm nghệ thuật chưa chắc phải là người khác người, nghệ thuật ở khắp mọi nơi, ai cũng có thể dung dưỡng nghệ thuật trong lòng được. Như thế, thì nghệ thuật có thể ở nơi cao sang, mà cũng có thể ở nơi nghèo khó. Nghệ thuật đã tụ lại được ở người thanh tao thì nghệ thuật cũng lại có được ở người mộc mạc. Giao Châu ta lắm người tài, hiếm một nỗi người tài không được người đời biết tới thành ra đành chịu mai một! Việc tìm người thổi tiêu thổi địch cũng thế. Giao Châu ta quả thật có nhiều người giỏi về thổi sáo lắm chứ chẳng phải là chỉ có một mình Chu Giao Chỉ, nhưng họ Chu là người duy nhất học được bản thần tiêu mà thôi.

Đinh lão tiếp lời hỏi:

- Người giỏi thổi tiêu ở Giao Châu ta thì nhất định là có nhiều, nhưng tìm ra được người thứ hai biết bản thần tiêu để cùng tấu với Chu Giao Chỉ thì làm sao mà có được!

Quân sư trầm ngâm:

- Bẩm, quả đúng thế! Một mình Chu Giao Chỉ biết bản thần tiêu nhưng nếu tìm được người Nghệ Thuật thì có thể nghe bản thần tiêu mà dẫn nghệ thuật theo được. Nhờ đấy có thể tấu xong được bản tiêu! Bẩm, tôi được biết ở Siêu Loại có một văn sĩ mặt mày xấu xí, tính tình giảo quyệt, tên Du Hải Tang. Có điều lạ là y lại là người nghệ thuật. Y rất giỏi về phép thổi tiêu, hiểu đến chỗ tinh thâm nhất của cái lý nghệ thuật, có thể xuất hồn cùng với nghệ thuật gắn bó. Nếu nay được y cùng Chu Giao Chỉ tấu tiêu hòa địch ắt xong được bản thần tiêu “Au Lạc cầu duyên”!

Động chúa lại hỏi:

- Được! Thế bây giờ làm cách nào để Chu Giao Chỉ đến Siêu Loại mà thổi tiêu, lại làm cách nào để cho văn sĩ giảo quyệt mặt xấu xí Siêu Loại chịu hòa địch? Vả lại, trong việc dẹp các Sứ quân, chống đỡ với phương Bắc thì cần gì đến một bản tiêu, tại sao lại phải tấu khúc “Âu Lạc cầu duyên” là thế nào?

Câu hỏi của Động chúa, làm cho mọi người chăm chú đợi nghe Quân sư trả lời, ai cũng thắc mắc như Động chúa.

Quân sư đầu hơi cúi xuống nghĩ ngợi, rồi ngửng lên khoan thai đáp:

- Bẩm, đã hẳn lúc này không phải là lúc ta thưởng thức nghệ thuật âm nhạc, nhưng bản thần tiêu này vốn là báu vật của nòi giống ta, người Bắc phương vẫn hết lòng muốn tìm kiếm rồi chiếm giữ. Lúc này tế tác Bắc Tế của ta cho hay là Bắc phương dồn người bí mật xuống Giao Chỉ ta nhiều lắm, giả sử tung tích bản thần tiêu lộ ra, ắt Bắc phương thế nào cũng ráo riết hoạt động để chiếm đoạt. Có khi phải đổ máu lớn nữa cũng không chừng...

Đinh lão ngắt lời Quân sư:

- Như thế, Quân sư có e rằng bản thần tiêu ấy bị lọt vào tay người ngoài không? Giao Châu ta mất nhiều báu vật, bây giờ còn bản thần tiêu linh hồn dân tộc, lại mất nốt thì sao? Vả chăng, tấu tiêu hòa địch như thế có phải là mở đường cho Bắc phương đưa binh xuống Giao Châu ta không?

Cả hội trường đã im lặng lúc này lại càng im lặng, câu hỏi của Đinh lão quả thật nghiêm trọng. Quân sư trang nghiêm đáp:

- Bẩm, khi tung tích bản thần tiêu lộ ra, ắt Chu Giao Chỉ khó lòng an toàn được. Bắc phương thế nào cũng tìm cách để bắt cho kỳ được y, thành ra như thế là Chu Giao Chỉ đem tính mệnh để cất giấu báu vật của giống nòi. Nhưng cuối cùng cũng vẫn để báu vật mất vào tay người ngoài, lại thêm tính mệnh họ Chu ắt cũng không toàn được. Chính nhờ ở chỗ nguy hiểm ấy, ta có thể dàn xếp cho bản thần tiêu xuất hiện rõ ràng. Một mặt dụng được cái thế “trời sáng không có bóng ma, thiên hạ cùng biết tất không có kẻ dám chiếm đoạt”. Để giữ cho bản thần tiêu, lại bảo đảm được tính mạng họ Chu, một mặt khiến cho bọn người của Bắc phương phải ra tay. Nhờ đấy ta có cơ hội tiêu diệt cho kỳ hết, triệt hạ hết bọn tiên phong dò đường của Bắc phương. Việc ta sẽ làm thật âm thầm nhưng lại để cho tất cả các Sứ quân cùng biết. Tới lúc ấy, dù Bắc phương chưa đưa quân xuống, ta cứ việc phao lên là quân Bắc phương sắp tràn vào bờ cõi Giao Châu. Để trước là tru diệt các Sứ quân, sau giúp nhà Ngô thống trị Giao Châu. Sự thể rành rành, quả thật có nhiều người của Bắc phương bị ta tiêu diệt, quả nhiên có những bằng cớ rằng Bắc phương sắp tràn xuống. Liệu đám Sứ quân có dám huênh hoang nữa hay không? Còn việc bản thần tiêu có mất vào tay người Bắc phương hay không, thì đây là vấn đề của Chu Giao Chỉ một phần. Một phần nữa là thuộc về cái tinh thần bảo trọng linh hồn Tổ Tiên, quý quốc bảo của dân tộc ta. Giả sử, ta có cố gìn giữ tính mạng của Chu Giao Chỉ để rồi chung cuộc họ Chu mang theo bản thần tiêu xuống mồ. Thì công lao gìn giữ của ta cũng thành uổng cả, chẳng được ích lợi gì. Nay, nếu Chu Giao Chỉ tấu khúc thần tiêu cho thiên hạ cùng nghe, biết đâu lại chẳng có người ghi lại được. Như thế thì dù cả Giao Châu ta có kém về âm nhạc chăng nữa không giữ được bản thần tiêu, thì dân tộc ta cũng đã được một lần nghe tiếng nói của Tổ Tiên. Được chứng kiến Tổ tiên hiện lên trong tiếng nhạc để nhắn nhủ giống nòi, lúc ấy mọi người đều chứng thật được rằng dân tộc ta quả là có bản tiêu có một không hai trên thế gian này. Vả chăng, bây giờ là lúc Hoa Lư ta sắp bước ra thu cả thiên hạ, đưa trăm dân ra khỏi cảnh khốn cùng nước lửa. Một mặt dụng đại kế để cản Bắc phương không cho thôn tính Giao Châu ta, thì nếu ta dùng một bản tiêu mà có thể cứu được dân, giữ được giang sơn thì tại sao ta lại chẳng dùng bản tiêu ấy một phen?

Hội đường vẫn lặng lẽ, những lời của Quân sư nói ra thật nghiêm trọng, rõ ràng một bên là vật báu của Tổ Tiên, một bên là tương lai của dân tộc đất nước, hai đường cùng hệ trọng. Đinh lão chậm rãi:

- Giả sử phải đành mất một báu vật, nhưng trước khi bị mất mà người Giao Châu ta được một lần chiêm ngưỡng thưởng thức báu vật ấy, để đổi lấy đại cuộc cứu dân giữ nước, thì cũng nên đánh đổi thật. Từ trước đến giờ, Quân sư thiết kế chưa bao giờ để xảy sơ hở khiến đại cuộc bị hư hại. Vậy thì lần này Quân sư đã quyết định hi sinh một báu vật để dựng lại nghiệp cho dân tộc, tất không ai lại chê trách!

Quân sư tiếp luôn:

- Bẩm, chẳng nói gì đến ngàn đời sau, mà ngay trong lúc này chắc hẳn cũng có những người sẽ quy trách nhiệm cho Hoa Lư ta để mất báu vật của Tổ Tiên. Những người ấy chẳng nhìn thấy cái thế nước, không hiểu về “quốc thị” của Hoa Lư ta lúc dốc lực tận dụng đại nghiệp. Thế nào cũng có những chê trách không thể nào tránh được! Giữ một bản tiêu để rồi bản tiêu ấy cũng hoàn toàn mai một chẳng được ích lợi gì, thì dù bản tiêu ấy có đáng giá đến thế nào chăng nữa cũng trở thành thứ vô dụng. Đã thế dân không cứu được, nước bị mất, hóa ra bản thần tiêu quốc bảo ấy lại đáng bị coi là “quốc họa” mới đúng! Người làm việc lớn, sao lại còn tiếc một báu vật không có cũng không làm cho dân tộc ta bị điêu đứng, Giao Châu ta không bị Bắc phương cai trị?

Bây giờ thì các tướng thảy đều hân hoan, không ai còn thắc mắc về việc phải đem một báu vật của tổ tiên ra để làm cái kế dựng đại nghiệp. Nhưng Động chúa lại hỏi:

- Chúng ta không ai chối lời Quân sư, không ai bảo những biện luận ấy là sai lầm. Chúng ta sẵn sàng hi sinh dù cả tính mạng của chính mình cũng được, nhưng phải chắc chắn là cứu được dân ta, giữ được nước ta. Duy có điều tôi cần phải hỏi Quân sư có thật là khi ta để lộ tung tích của bản thần tiêu, thế nào cũng lừa được Bắc phương, trói được tay chân các Sứ quân hay không? Mà tại sao ta không lấy báu vật khác ra để dử Bắc phương làm con cọp dữ giúp ta đe dọa các Sứ quân. Chẳng hạn như gươm báu A Đằng của họ Địch, Quái Quyền của họ Bạch có được không?

Quân sư hùng hồn:

- Bẩm thật ra báu vật thì Giao Châu ta có nhiều, mất cũng nhiều rồi. Duy có điều, các báu vật ấy chỉ là những báu vật của một người một dòng họ, hoặc cùng lắm là của riêng một vùng mà thôi, chứ thật ra chưa có được cái giá trị nghìn đời của một nước! Bản thần tiêu “Âu Lạc cầu duyên” có từ thời Lạc Long gặp Âu Cơ có muôn chim ca hót đón mừng, có nghìn dã thú mở hội, rừng cũng tụ tập, núi cũng dự cuộc múa ca ngợi cuộc tình duyên tuyệt diệu sinh ra cả một tộc vĩ đại. Bản thần tiêu ấy do chính tay Lạc Long Quân dùng đùi đá nhọn khắc lên đá, lại được chính Âu Cơ trau chuốt rồi giữ làm báu vật lưu truyền của nòi giống. Bản thần tiêu ấy là tinh hoa của nòi giống ta, là kết tinh của núi rừng, của muôn vật trên giải đất Giao Châu ta. Tôi có nghe nói bản thần tiêu ấy thường được Lạc Long và Âu Cơ dùng tiêu địch khoét bằng xương sườn loài lôi long hóa thạch ở mãi phương Bắc, quanh năm tuyết đóng mà hòa tấu. Vì thế, khi bản tiêu địch hòa lên còn mang cả hình ảnh của thời xa xưa không thể nào dùng lời lẽ mà nói cho cùng cái tuyệt diệu của nó được. Người phương Bắc hiểu cái giá trị vĩ đại của bản thần tiêu đối với dân tộc ta. Vì thế mà họ cố sức dò tìm bản thần tiêu ấy để thu đoạt, hoặc cùng nữa là hủy diệt nó đi. Chủ trương ấy của họ, có thể là để tiêu diệt hay ít ra cũng là kìm hãm một dân tộc mai sau ắt vinh quang lớn. Cho nên vì vậy mà vùng đất bao la phương Bắc so với Giao Châu ta xa xôi quá bé nhỏ ở mãi phương Nam chẳng đáng bằng một quận huyện của họ. Mà đời nào họ cũng phải bận tâm cố đánh chiếm, là thế nào? Chủ trương ấy ta hay không cần biết nhiều làm gì, nhưng ta nên vận dụng nó để tạo dựng đại nghiệp cho dân tộc là hơn. Một khi bản thần tiêu xuất hiện, thế nào Giao Châu ta cũng có những chuyển động lớn lao. Tuy thế, với tất cả những xếp đặt trước của Hoa Lư ta, thì mọi biến động cũng không thể nào sinh cuồng phong được. Mà phải giúp vào với mưu kế của ta để trì hoãn được phần nào thời gian, trước khi ta tiến ra ngoài mà thu thiên hạ!

Những lời nói của Quân sư, khiến cho hết thảy mọi người bàng hoàng. Cả hội sảnh im lặng, lát sau Động chúa mới hỏi:

- Như vậy, thì khi bản thần tiêu xuất hiện, Bắc phương có thể ra tay thật. Nhưng, nay biết tìm Chu Giao Chỉ ở đâu rồi làm cách nào để khiến y thổi tiêu được? Lại thêm, cần phải có văn sĩ ở Siêu Loại cùng tấu địch mới xong, làm thế nào được bây giờ?

Quân sư trầm ngâm, cả hội đường không ai lên lời. Lát sau Quân sư mới ngửng đầu mà rằng:

- Chu Giao Chỉ ẩn thân lấy tính mạng để gìn giữ bản thần tiêu, ắt khó lòng tìm ra nơi y ẩn nấp, nhưng tôi biết chắc hiện giờ y vẫn ở trong núi Chung Sơn. Chung Sơn ở Lạng Sơn, là một trong những quả núi lớn ở cách huyện Thất Sơn ba mươi lăm dặm về phía Bắc, thế núi hùng dũng cao cả. Là chỗ địa giới với châu Thạch Lâm, tỉnh Cao Bằng, rừng ở đây lại thật dày đặc. Chu Giao Chỉ chọn nơi ấy ẩn thận, có ý tìm nơi địa thế thông đi được nhiều ngả, phòng khi bị săn đuổi thì có đường trốn tránh. Một con người như y, thì không thể đem lợi hay danh ra mà mê hoặc được. Nhưng nếu làm cho y thấy được lại nghĩa và sự sống còn hưng vong của dân tộc, tất thế nào cũng đem được y ra khỏi Chung Sơn, sai đến Siêu Loại tấu bản thần tiên!

Đinh lão nói ngay:

- Đại nghĩa dân tộc thì chính Chu Giao Chỉ đã chứa ở trong lòng, cho nên y mới hết sức trốn tránh mong bảo toàn tính mạng để cố lưu giữ lại bản thần tiêu rồi. Như vậy, thì bảo y đem bản thần tiêu ra tấu cho cả thiên hạ cùng nghe, ta e không làm nổi!

Bây giờ thì cả hội sảnh đều lao xao bàn tán, không làm sao tìm thấy chỗ nào để khiến cho Chu Giao Chỉ phải thân đến tận Siêu Loại thổi tiêu để cho người khác hòa địch.

Hồi lâu, Quân sư mới nói, giọng Quân sư vững chãi, thật rõ ràng mà rằng:

- Đúng thế, nếu nay ta đem hết thảy lợi lộc ra khuyến dụ, thì chắc chắn Chu Giao Chỉ không bao giờ chịu ra khỏi Chung Sơn, mà có lấy bạo lực để cưỡng ép thì chắc chắn y cũng sẽ vui vẻ chịu chết chứ chẳng bao giờ chịu đi thổi sáo cả. Chỉ còn một cách là thế nào Chu Giao Chỉ cũng vội vàng đi Siêu Loại ngay, lúc ấy y lại còn mang ơn ta lớn lao vô cùng nữa là khác!

Cả hội đường im phăng phắc lạ lùng, không ai hiểu lời Quân sư nói là thế nào cả. Động chúa nóng lòng giục:

- Chu Giao Chỉ tại sao lại phải mang ơn lớn của ta, ngài nói mau đi?

Quân sư giọng như truyền lệnh:

- Bây giờ, trước hết Hoa Lư ta lấy Bình Kiều bằng sức mạnh quân sự, lại một mặt gấp quảng bá cho cả thiên hạ biết rằng: “Chu Giao Chỉ ở núi Chung Sơn cất giấu bản thần tiêu “Âu Lạc cầu duyên” khiến cho Triệu Khuông Dẫn phải lấy cớ đề binh xuống giải quyết việc Cổ Loa, nhưng kỳ thực là để bắt Chu Giao Chỉ độc chiếm bản thần tiêu quốc bảo của nòi Âu Lạc cõi ta. Bản thần tiêu ấy còn thiếu một nửa. Nếu Chu Giao Chỉ biết tìm đến Siêu Loại cho nhanh mà tấu bản tiêu thì thế nào cũng có văn sĩ ở phủ Siêu Loại cùng hòa tấu, tới lúc ấy bản thần tiêu đã hợp được cả hai phần. Nó trở thành tâm hồn của dân ta thì không còn một ngoại lực nào có thể chiếm đoạt được nữa. Chu Giao Chỉ để chậm là làm hại cả giống nòi! Việc Hoa Lư ta phải gấp lấy Bình Kiều là để có thế mà chống đỡ với phương Bắc. Giải quyết việc Chu Giao Chỉ ngu muội không biết đem bản thần tiêu ấy đặt vào lòng dân tộc! Thế là Chu Giao Chỉ phải gấp rút rời chỗ ẩn nấp ở Chung Sơn đến Siêu Loại ngay!

Hội nghị vui mừng, các tướng tranh nhau gật gù khen diệu kế của Quân sư, Động chúa lại hỏi:

- Nếu Chu Giao Chỉ tới Siêu Loại chịu thổi sáo rồi, còn văn sĩ của Siêu Loại ta làm thế nào để bảo y thổi sáo cùng hòa tấu được?

Quân sư đáp ngay:

- Việc ấy ta không cần phải lo đến! Người Nghệ Thuật thấy Nghệ Thuật ắt không thể nào nhắm mắt bưng tại được. Vả lại, bản thần tiên có một không hai nhiều đời người chưa chắc đã được nghe tới, thế mà bây giờ có cơ hội cùng được dự cuộc hòa tấu. Hỏi người Nghệ Thuật nào lại chẳng muốn chiếm cái vinh dự tột cùng ấy! Chu Giao Chỉ muốn tấu khúc thần tiêu, phải tự tìm đến Siêu Loại mà mời văn sĩ cùng hòa tấu. Hoa Lư ta không phải bận tâm dàn xếp việc thổi sáo ở Siêu Loại. Việc ta làm, là trước hãy lấy Bình Kiều đã!

Bây giờ thì cả hội đường không ai còn thắc mắc gì nữa, ai cũng hân hoan vui mừng, lại thêm chộn rộn vô cùng về quyết định “tiến binh lấy Bình Kiều để Hoa Lư ta có thể bước ra ngoài thiên hạ!”.

Quân sư chưa kịp nói thêm, Đinh lão đã hỏi:

- Giả sử ta làm cho Chu Giao Chỉ phải rời núi Chung Sơn tìm đến Siêu Loại. Việc vỡ lở ra, nhỡ Bắc phương cho người theo dõi bắt mất Chu Giao Chỉ có phải là làm lỡ việc không?

Câu hỏi của Đinh lăn quả thật hữu lý, mọi người đều cho là rất phải, Quân sư vẫn ung dung:

- Chu Giao Chỉ ẩn nấp gần cả đời y mấy người biết mặt mũi y ra sao được! Việc ta giấu tung tích y không khó, việc bảo vệ tính mệnh cho y cũng không khó. Chỉ cần một tướng của Hoa Lư ta ngầm theo dõi y là được. Chu Giao Chỉ rời Chung Sơn là người của Bắc phương thế nào cũng biết ngay, vả lại ta còn phải làm cho họ biết thêm nữa mới được. Nhưng họ sẽ biết ở phương Đông, còn Chu Giao Chỉ sẽ sang phương Tây mà tới Siêu Loại. Ta đợi cho lúc bản thần tiêu tấu lên rồi là ra tay bắt hết bọn tiên phong tế tác của Bắc phương, như thế vừa triệt hạ được Bắc phương, vừa dằn mặt được các Sứ quân. Báo được cho cả thiên hạ biết rằng: Bắc phương toan tính dòm ngó Giao Châu ta, nhưng đã bị Hoa Lư ta ra tay triệt hạ.

Động chúa vui vẻ, hỏi nữa:

- Thế Quân sư ngài định sai khiến Chu Giao Chỉ phải ra khỏi Chung Sơn như thế nào?

Quân sư đáp:

- Chu Giao Chỉ sống không có ai trên đầu y, chỉ một mục cố tìm cách giữ báu vật của giống nòi. Y như mây trên đỉnh núi, như gió thổi qua mặt sông rộng chẳng vướng bận chút nào, thì việc sai y ra khỏi Chung Sơn chẳng phải là dễ. Vả chăng, tôi chỉ biết lúc này y còn ở Chung Sơn chứ không biết đích y ở khang động nào. Vậy thì, trước hết tướng Lưu Cơ hãy mang ba mươi quân lên ngay Chung Sơn, giả làm tiều phu đi lấy củi phá rừng. Ra sức tìm cách phao đồn rằng: “Bắc phương biết Chu Giao Chỉ sống ở Chung Sơn, một mặt cất quân xuống để sai khiến Cổ Loa, một mặt nhân cơ hội mà bắt Chu Giao Chỉ đoạt bản thần tiêu để trừ mối họa nòi Giao Chỉ mai sau. Hiện giờ ở Siêu Loại có văn sĩ được người đời gọi là “Địch Vương” nhờ ở thông cảm được với trời đất dân tộc mà có thể tấu được một nửa bản thần tiêu “Âu Lạc cầu duyên”. Địch Vương văn sĩ Siêu Loại đang muốn tấu khúc tiêu thần để gọi hồn dân tộc, làm cho Bắc phương không còn dám ra tay cướp đoạt báu vật của giống nòi. Chu Giao Chỉ là người hạnh ngộ kỳ duyên, học được bản thần tiêu ấy nhưng lại phản giống nòi. Chui vào hang động ở Chung Sơn để đợi ngày dâng hiến bản thần tiêu cho Bắc phương mà cầu được khoác áo công hầu vương tướng!”. Ta vu lên như vậy, thế nào họ Chu cũng phải ra mặt, tới lúc ấy Hoa Lư ta sẽ đưa một tên tay sai của Bắc phương ta đối chất với y. Ta cứ bảo là: “Hoa Lư nhất định không tin Chu Giao Chỉ lại mang tâm địa thú vật đi phản lại giống nòi, cho nên Hoa Lư ta đã ra tay giết hết đoàn tiên phong tê thám của Bắc phương để bảo toàn tính mạng cho họ Chu và gìn giữ bản thần tiêu. Hoa Lư ta chỉ tiếc một điều là bản thần tiêu ấy lọt vào tay kẻ ngu muội không biết mau mau đem phổ biến ra ngoài dân gian để cả dân tộc ta cùng chung sức gìn giữ”. Ta nói như vậy, thế nào họ Chu cũng gấp bước đến Siêu Loại để thổi sáo cho mà xem! Khi việc thổi sáo thực hiện được rồi, cả thiên hạ mắt thấy tai nghe những việc lớn lao tất không ai còn nghi ngờ việc Bắc phương với Giao Châu ta đang ngấm ngầm cầm cự với nhau. Lúc ấy, các Sứ quân tất phải run sợ ngồi im đợi ta ra tay dàn xếp các việc khác nữa!

Đại kế của Quân sư tuy có hay, nhưng vẫn còn những chỗ mơ hồ chưa chắc chắn. Nhưng cả hội nghị không ai biết phải dàn xếp thế nào cho hơn được, nên phải chấp nhận.

Thế là, Quân sư nhiệm mệnh Động chúa mà phân phó mọi việc, một mặt sai Lưu Cơ đến núi Chung Sơn, một mặt cử các tướng lo việc Bình Kiều trước.

Quân sư nói:

- Như lúc trước tôi đã nói rồi, Bình Kiều tuy chưa thuộc hẳn vào Hoa Lư ta, nhưng thực ra coi như đã là lãnh thổ của ta rồi. Bây giờ, ta công khai chiếm giữ tuy chẳng có gì là quá đáng, nhưng ta cũng phải tốn ít sức lực, mang tiếng đôi chút. Vì vậy, binh Hoa Lư ta chưa ra ngoài thiên hạ, hãy để cho binh thiên hạ chiến đấu hộ ta. Sau ta mới đến nhận tự trong trong tay thiên hạ lạy ta mà dâng hiến. Có thế, việc ta thu phục Đằng Châu mới không làm cho thiên hạ lồng lộn lên, mà phải xem đây là việc Đằng Châu không thể nào tránh được. Lại còn phải nhớ ơn Hoa Lư ta ra tay mới giữ được cho các mặt yên ổn!

Động chúa vui vẻ:

- Quân sư muốn dùng binh thiên hạ để lấy Bình Kiều cho ta, có phải là ngài định sai Nguyễn Siêu ở Phù Liệt, Cảnh Thạc ở Đỗ Động, Lữ Đường ở Tế Giang, các sứ khác nữa ở xa cùng góp binh đi lấy Bình Kiều dâng ta chăng?!

Quân sư cũng cười vui vẻ, đáp:

- Bẩm, phải chi các Sứ quân ấy đều là người nhà tay chân của ta, thì ta sai bảo được ngay, hiềm một nỗi họ lại là thù địch chưa ra lời của ta. Họ muốn xâu xé ta thì có, làm gì còn có việc họ đổ sức đi lấy đất hộ ta nữa! Binh thiên hạ đi lấy đất hộ ta, chính là binh Đằng Châu đấy!

Đến lượt Đinh lão hỏi:

- Quân sư định sai năm tướng của ta ở Đằng Châu mượn binh Đằng Châu đi lấy Bình Kiều đấy chăng?

Quân sư lắc đầu:

- Tôi đã nói là các tướng của ta chưa phải vất vả, quân của ta chưa phải đi vào chiến trận, binh thiên hạ sẽ làm giúp ta việc ấy đã. Như vậy, thì chính binh tướng Đằng Châu sẽ tự đi lấy Bình Kiều cho ta!

Câu nói của Quân sư làm cho tất cả mọi người ngạc nhiên, các tướng Đằng Châu tại sao lại cất quân đi lấy Bình Kiều cho ta được?

Quân sư giải thích:

- Giả sử có việc các Sứ quân Nguyễn Siêu ở Phù Liệt, Lữ Đường ở Tế Giang, Lý Khuê ở Siêu Loại, có thái độ tỏ ra là muốn nhân cơ hội Bình Kiều không có chủ, đem binh đánh chiếm. Thì chắc hẳn binh tướng Đằng Châu cũng không chịu khoanh tay ngồi im. Nhưng, các Sứ quân mỗi khi ra quân lại không phải là không lo đến cái họa Sứ quân khác ở đằng sau lưng, vì thế mà ta đã được thấy kế gây chiến của ta làm cho các Sứ quân đánh lẫn nhau, bây giờ thì các nơi đều sợ mà ngồi im cả. Do đó, ta bảo cho các tướng ở Đằng Châu biết mà mau mau đem binh đi thu phục Bình Kiều. Ta giúp ngầm cho các tướng ấy, rồi ta lại bảo cho Sứ quân Phạm Phòng Át biết việc làm của các tướng thuộc hạ của ông ta: Là muốn nhân lúc ông ta vắng mặt kéo bè kết đảng toan tính giành đất lập cơ nghiệp riêng, lại muốn thôn tính cả giang sơn của chủ nữa. Như thế, ta vừa xong được Bình Kiều, vừa có cơ hội để dứt Đằng Châu, giải quyết xong việc Phạm Phòng Át!

Cả hội nghị bật kêu “Ồ”, tất cả đều thích thú về những lời nói của Quân sư. Nhưng Quân sư lại tiếp:

- Việc thật lớn, nhiều chỗ rắc rối mà dài lắm, tôi thấy chẳng cần phải nói ra làm gì, xin chỉ vắn tắt là: Đằng Châu thay ta lấy Bình Kiều, thế nào cái mối bất hòa bên trong Đằng Châu cũng lớn thêm. Tới lúc ấy, ta cứ việc nói ầm lên để Sứ quân Phạm Phòng Át về thu xếp mọi việc của ông ta. Thế nào các tướng theo ta cũng kinh hãi, các tướng chống lại Hoa Lư ta thì mừng rỡ, hai bên tất phải chuẩn bị để chém giết nhau. Ta cứ mặt kệ giặc và giúp Sứ quân Phạm Phòng Át trở về Đằng Châu để dồn các tướng Đằng Châu đã theo ta phải năn nỉ van lạy ta đừng cho Phạm Phòng Át về. Ta sẽ dàn xếp để Phạm Phòng Át không thể về được nữa, nhưng bên trong Đằng Châu đại loạn. Các tướng Hoa Lư ta còn ở bên đó lúc ấy mới ra tay chỉnh đốn mọi mặt, những kẻ chống lại ta cũng chết. Mà kẻ theo ta cũng không đạt được cái chỗ mong muốn của họ. Phạm Phòng Át mà về tất không còn tính mạng, đành là phải xin nương náu ở Hoa Lư ta. Ta lại dồn Phạm Phòng Át đến chỗ phải về Đằng Châu, họ Phạm không thể về được thế nào cũng xin theo về với Hoa Lư. Đằng Châu sáp nhập Hoa Lư, thế là ta chỉ mất công dàn xếp để cho thiên hạ chém giết nhau, ta ngồi ở chỗ bình an mà hưởng lợi lớn. Đấy là cái kế “Đem miếng thịt ngon dử đàn chó đói khiến cho cả bọn tranh ăn mà hại lẫn nhau”.

Cả hội nghị mừng rỡ, thì ra cái kế đoạt Đằng Châu là vậy, Động chúa hỏi thêm:

- Năm tướng của ta ở Đằng Châu liệ