Hồi Thứ Tám Mươi Sáu Nam Tấn Vương trúng tên thiệt mạng
Bạch Hổ mượn binh trị Đằng Châu
Nghị sảnh vừa im lặng lại để Quân sư thay Động chúa phát lệnh. Quân sư chưa kịp nói thì đã có tin trình vào: “Tế sứ Bắc Tế xin vào trình tin khẩn cấp!”.
Thường thì đoàn không bao giờ lại tình tin ngay trong hội nghị, Quân sư có lệnh: “Bắc Tế hoạt động bí mật, vì thế khi trình tin bao giờ cũng phải là kín đáo trình lên một mình Quân sư biết.” Nay tế sứ Bắc Tế lại xin trình tin gấp ngay trong lúc hội nghị thế này khiến Quân sư nghe báo thì cau mày. Động chúa đã biết hoạt động của đoàn Bắc Tế, nay nghe trình thì cũng ngạc nhiên.
Quân sư cho lệnh tế sứ vào nghị sảnh trình việc. Quân sư không thể không nhận tin ngay, mà cũng không thể nhận tin ở nơi nào khác được!
Tế sứ Bắc Tế vào nghị sảnh, thấy quang cảnh thì hiểu ngay tình thế, nhưng tế sứ vẫn bình tĩnh tiến lại trước Động chúa vòng tay hành lễ, rồi quay sang Quân sư. Tế sứ chưa kịp nói gì, Quân sư đã ra hiệu cho tế sứ cứ tự nhiên trình tin. Tế sứ kính cẩn trình ra một phong thư lớn, rồi nói:
- Bẩm, tôi vâng lệnh gấp trình Quân sư, lại được dặn là: dù giữa đêm cũng phải trình để Quân sư biết ngay!
Quân sư giữ thái độ thản nhiên đỡ phong thư lớn, lệnh cho tế sứ đi ra. Các tướng im lặng nghiêm trang chờ đợi. Quân sư thong thả mở phong thư, chỉ một thoáng là Quân sư liền trình phong tin thư cho Động chúa. Tay Quân sư chỉ cho Động chúa nhìn dòng chữ đầu tiên của tin trình về. Động chúa chăm chú đọc. Các tướng im lặng nhìn hai nhân vật một văn một võ của Hoa Lư, chờ đợi.
Động chúa hơi nhíu mày rồi ngửng đầu nhìn Quân sư như thể hỏi điều gì. Quân sư lại đứng lên đi lại phía Đinh lão, và Đinh lão cũng được Quân sư chỉ cho xem dòng chữ gì trong tin thư trình về. Cả ba người đầu tiên được biết tin thì chỉ một mình Quân sư Lê Thảo là vẻ mặt thật bình thản. Thái độ và hành động của Quân sư khiến các tướng băn khoăn. Có việc gì hệ trọng lắm thì Quân sư mới dem trình cho Động chúa biết ngay, lại trình để Đinh lão cùng biết liền. Các tướng tin là thế nào Quân sư cũng sẽ nói cho biết về tin này, ông nào cũng tỏ ra nóng ruột.
Quân sư yên chỗ ngồi, phong thư lớn vẫn cầm trong tay, Quân sư hướng ánh mắt nhìn về phía các tướng, rồi cất tiếng. Lần này giọng nói của Quân sư không còn hùng hồn như mới đây nữa, nhưng thật rõ ràng và thật chậm rãi, Quân sư nói:
- Các tướng, các ông vừa thấy Động chúa cũng như Đinh lão đây vừa nhận tin trình. Bây giờ tôi xin nói ngay để các ông biết rằng: mối lo ngày đêm của Hoa Lư ta về Nam Tấn Vương, nay đã thành sự thật! Hoa Lư ta lo lắng về việc Nam Tấn Vương sau khi thất bại trong việc chinh phục Hoa Lư ta, thì sau một thời gian lại liên tiếp mang quân đi đánh dẹp các đảng giặc cướp nhỏ. Ý hẳn Nam Tấn Vương cũng hiểu được cái thế và lực của mình, cho nên hi vọng “dẹp được hết giặc nhỏ, để có đà dẹp giặc lớn là đám Sứ quân”. Hành động ấy của Nam Tấn Vương càng làm cho uy thế của triều nhà Ngô thêm suy tàn, nó chứng tỏ là lực của triều đình không đủ để dẹp được một Sứ quân nào, lực ấy chỉ có thể đương cự được với những đảng cướp vặt mà thôi! Tuy nhiên, việc chinh chiến không như con nước lên xuống có ngày nhất định, cho nên thắng bại không thể nào quyết chắc cả trăm phần được. Những bất ngờ dù chỉ một chút con con cũng đều có thể làm cho thắng trở thành bại được, đang nguy có thể lại trở thành an. Nam Tấn Vương cùng kế, không thể làm khác được. Lại thêm chắc chắn Nam Tấn Vương không biết, mà dù có biết cũng không làm thế nào được, ấy là mối họa phương Bắc. Cho nên Nam Tấn Vương liên miên đem quân đi đánh dẹp các đám giặc cỏ ở khắp nơi...
Quân sư nói một hơi dài, tới đây thì ngừng lại, Quân sư mở phong tin thư thật dày, mắt liếc đọc nhanh vài trang, rồi ngửng đầu lên. Quân sư tiếp với giọng thật chậm rãi, thật rõ ràng:
- Tin trình về cho ta hay: hạ tuần tháng Chín, năm nay Ất Sửu (956). Nam Tấn Vương thân cầm quân dẹp đám giặc ở hai thôn Đường Nguyễn và Thái Bình, Sơn Tây. Do Chu Thái là tên đầu đảng, nhà vua đã bất cẩn lại khinh địch, khi vua bỏ thuyền lên bộ, đã bị trúng tên phục binh của giặc chết ngay tại đại bản doanh!
Tin Nam Tấn Vương tử trận, các tướng vừa nghe Quân sư đọc cho nghe, hết thảy đều bàng hoàng!
Quân sư đọc tin báo cho các tướng nghe xong thì lặng lẽ đọc tiếp, cả nghị sảnh im lặng. Các tướng không ai bàn tán một lời, không khí có phần nặng nề nghiêm trọng.
Đọc đến trang chót bản tin trình. Quân sư nhẹ thở dài, ngừng đầu lên, vẻ mặt nghiêm trọng. Quân sư hướng về phía Động chúa nói:
- Thưa Động chúa, Nam Tấn Vương trúng tên tử trận, như thế là ở ngôi được mười lăm năm, không có người thừa kế! Tình cảnh này, là một nguy hiểm vô cùng cho Giao Châu ta! Cho đến lúc này, tế tác Bắc Tế của ta mới chỉ trình gấp về tin ở Cổ Loa, chứ chưa có tin gì ở phương Bắc. Chúng ta được tin sớm trước tất cả các nơi, chắc chắn là các Sứ quân cũng như phương Bắc chưa được biết về tin hệ trọng này, đây là một điều ta cần phải biết. Tuy thế, khi binh triều đình triệt thoát khỏi mặt trận Sơn Tây, thì thế nào hai thôn Thái Bình cũng như một số các vùng chung quanh sẽ biết tin Nam Tấn Vương chết rồi. Bọn giặc ở nơi ấy làm gì lại chẳng cho là mình có cái lực đoạt được Cổ Loa, làm cho việc vỡ lở ra. Cả cõi Giao Châu ta sẽ biến loạn lớn, tới lúc ấy thì Bắc phương quyết định thế nào, làm sao ta cản được!?
Tức thì Động chúa lên tiếng ngay, giọng thật quyết liệt:
- Trước tình cảnh nguy hiểm này, ta không thể để cho bọn giặc cướp nghỉ là mình tranh được mệnh trời để lấy Cổ Loa, vậy lệnh của ta là: Ngay bây giờ, Quân sư hãy hành động ngay, trước tất cả là phải chế ngự được bọn Sơn Tây, ổn định việc Cổ Loa. Gấp rút hành động ra ngoài thiên hạ, chậm trễ là Hoa Lư ta có tội lớn với dân tộc đất nước!
Quân sư đứng dậy, tay sửa lại vành khăn văn sĩ, chỉnh lại tà áo, rồi nghiêm trang đáp:
- Bẩm Động chúa, đấy là mệnh lệnh tuyệt đối, chính là hành động Hoa Lư ta chọn đúng với mệnh trời, hợp với tình thế, tôi xin được nhiệm mệnh hành động!
Quân sư vừa nói xong, đến lượt Động chúa đứng lên, ngài nói:
- Trước thế nước đang hồi nguy ngập, biến động đẩy trăm họ vào khổ cực đã hiện ra, tai họa mất nước vì thế đang tiến đến. Ta quyết định thay đổi kế hoạch hành động lâu dài, để gấp rút ổn định việc lớn Giao Châu! Lệnh đầu tiên của ta trong giai đoạn nghiêm ngặt này là: Quân sư hãy xem lại kế sách, các tướng chuẩn bị nghe lệnh vào trận!
Các tướng cùng đứng cả lên, Quân sư trịnh trọng:
- Tôi xin lĩnh mệnh Động chúa hành động! Các tướng hãy nghe lệnh, các ông hãy tự hẹn với lòng mình là lần này ra khỏi Hoa Lư, công đại định Giao Châu phải hoàn thành. Để trong là cứu muôn dân, ngoài hóa giải nạn Bắc thuộc. Bây giờ, các ông được về sửa soạn dàn xếp việc riêng, sáng mai ta bắt đầu đại cuộc!
Thế là buổi hội kết thúc. Quân sư một mình lặng lẽ suy tính, đón nhận tin tức các nơi liên miên trình về. Đến chiều tối, Quân sư cho gọi tướng Lưu Cơ đến bảo:
- Ông hãy gấp rút lên đường, đến hai thôn Đường Nguyễn, Thái Bình ở Sơn Tây. Trước là triệt hạ cho được tên đầu đảng giặc Chu Thái, sau phao tin lên là: “Đại binh triều đình có tướng Hoa Lư giúp, sắp mang binh triệt hạ cả hai thôn ấy.” Làm như thế cốt để cho chúng không còn dám nghĩ đến việc nhòm ngó Cổ Loa. Xong việc ở đấy, ông phải gấp đường tới Cổ Loa, tìm cho được tướng Hồ Song Đao ngày trước bị ông Đinh Liễn bắt, kín đáo cho ông ấy biết tình thế, lại bảo: “Hãy cố gắng tụ tập các quan văn võ, cố giữ cho triều đình đừng tan rã, làm sao để dù có việc vua băng hà nhưng ngoài mặt việc triều chính vẫn bình thường. Chỉ trong vòng một năm thôi là Hoa Lư đại định thiên hạ, lúc ấy sẽ chỉnh đốn lại việc triều chính. Có thế mới không làm cho Giao Châu ta bị Bắc phương thôn tính”. Ông cứ ở lại Cổ Loa, sử dụng đoàn tế tác Bắc Tế của ta đưa tin về Hoa Lư không được thiếu sót, tế tác Bắc Tế sẽ tự tìm được ông. Giao Long Trủy Thủ giúp ông ban phát mệnh lệnh, rồi ông hãy đợi chờ cùng triều đình đón tiếp Động chúa Hoa Lư ta ở đấy!
Quân sư dặn dò Lưu Cơ thật kỹ mọi việc, rồi thu xếp để tướng Lưu Cơ có phương tiện ta đi lâu ngày, lại trao cho con ngựa Á Lôi, cây Giao Long Trủy Thủ làm hiệu lệnh thay Động chúa phát lạc.
Lưu Cơ lĩnh mệnh, ngay trong đêm hôm ấy ra đi, trong lòng bâng khuâng xen lẫn xúc động, trọng trách của ông là thay cho cả Hoa Lư để khiển xử mọi tình thế, đợi ngày Hoa Lư đại định thiên hạ kéo về Cổ Loa!
Trong đêm hôm ấy, Quân sư một mình bên án thư tính toán công việc. Lại cho gọi tế tác đến bảo gấp mang mật lệnh đến cho năm tướng Hoa Lư ở Đằng Châu, dặn dò kế hoạch hành động. Mãi đến lúc trời gần hứng sáng mới đi nghỉ.
Vào giữa giờ Thìn hôm ấy, Quân sư hội hết thảy các tướng tại đại sảnh, lại mời cả Động chúa cùng Đinh lão đến dự. Vào hội, Quân sư nói:
- Bẩm Động chúa, suốt đêm hôm qua tin phía Bắc liên miên đưa về báo cho hay: Cổ Loa vẫn giữ kín việc nhà vua đã chết, việc triều chính tất sẽ bối rối lắm. Để dàn xếp các mặt, tạm giữ yên việc Cổ Loa. Tôi đã nhiệm mệnh Động chúa để ông Lưu Cơ đi kinh lý việc ở đấy rồi, mặt Sơn Tây, Cổ Loa ta có thể được tạm yên. Tôi tin là ông Lưu Cơ không làm hỏng việc. Rồi đây ta sẽ có tin trình về. Các nơi khác chưa một Sứ quân nào biết việc Cổ Loa, ta nhân đất ra tay thật nhanh mới được!
Động chúa hỏi ngay:
- Có phải như thế là Quân sư đã thay đổi kế sách cũ?
- Bẩm đúng thế! Vả chăng lệnh của Động chúa là ta phải ra ngay ngoài thiên hạ. Trong ngày hôm nay, năm tướng của ta ở Đằng Châu sẽ nhận được lệnh hành động của Hoa Lư ta gửi đến từ đêm hôm qua. Bây giờ đến các mặt khác!
Cả nghị sảnh kinh ngạc về dàn xếp của Quân sư? Chỉ trong một đêm, bốn nơi Sơn Tây, Cổ Loa, Bình Kiều, Đằng Châu đều đã có bàn tay của Quân sư can thiệp khiển xử, trong ngoài vẫn im lặng chẳng ai hay!
Động chúa vẻ mặt hân hoan, ngài bảo:
- Hay lắm! Hôm nay tất Quân sư sẽ nói về kế tiến quân của ta?
Câu hỏi của Động chúa cũng là câu hết thảy mọi người muốn hỏi nơi Quân sư. Quân sư mỉm cười đáp:
- Bẩm, chính thế! Nhưng, có một điều tôi phải nói trước, sau mới nói đến kế sách tiến ra ngoài thiên hạ được! Việc này, là điều ta phải làm trước tất cả. Trước khi Động chúa dẫn dắt cho các tướng ra khỏi Hoa Lư ta! Việc ấy là việc “chính danh trước khi hành động”, danh chưa chính thì chưa thể hành động được!
Đinh lão bật cười ngất, tay ông vuốt chòm râu đen nhánh, rồi bảo:
- Quả thật chưa có ai làm việc lại không biết mình làm việc gì, thân phận mình trong công việc ấy là thế nào? Chính danh rồi, mới thuận cho hành động là đúng lắm. Bao nhiêu năm nay Hoa Lư ta chỉ mới loanh quanh ở một vùng, ta không xưng hùng, chẳng tự ghép mình vào hàng các Sứ quân. Không mưu đồ gian đảng để cầu hưởng riêng tư. Nay, đến lúc vươn vai đứng dậy, mang chí lớn đại định thiên hạ, cứu nước an dân, thì không thể không tự cho mình một cái danh trước đã! Vậy, Quân sư định chọn cho Hoa Lư ta cái danh nào?
Các tướng bây giờ mới nghĩ đến việc này thật từ trước đến tận lúc này. Quả thật Hoa Lư chưa hề nêu danh gì với thiên hạ trong mọi hành động, địa vị của Động chúa vẫn chỉ được gọi là Động chúa Hoa Lư. Trước sau vẫn chỉ là một danh hiệu của một hào mục địa phương tầm thường!
Quân sư nghe Đinh lão hỏi, thì đáp:
- Bẩm, ngày nay Hoa Lư ta vươn vai đứng dậy, thực sự rộng chân bước vào thiên hạ, giương cao cờ đại nghĩa, vì lẽ ra ta phải tự khoác cho mình cái danh hiệu lớn lao, địa vị của Động chúa nhất định không thể nào vẫn cứ là Động chúa được! Tuy nhiên, để cho đại nghĩa của Động chúa Hoa Lư ta được sáng tỏ, tôi xin Động chúa ngay bây giờ chưa xưng một danh nào khác, vẫn giữ danh xưng cũ. Đợi khi binh tướng của ta đã vào sâu trong thiên hạ, cả cõi Giao Châu này thảy đều nghe biết. Lúc ấy các tướng sĩ của ta sẽ tôn xưng danh hiệu lớn lên Động chúa, như thế thì cái danh của ta mới là cái danh của bậc hào kiệt không tự chọn cho mình. Từ đấy uy đức của bậc minh chủ càng thêm sáng tỏ!
Cả nghị sảnh hào hứng, các tướng lao xao bàn tán, Động chúa giữ im lặng trang nghiêm. Đinh lão lại nói:
- Quân sư luận việc như thế, quả thật là làm cho ta sáng tỏ được cái nghĩa vì “đại nghĩa dân tộc”, chứ không vì một tham vọng riêng tư nào? Tuy thế, người nhìn xa ắt thấy trước được đến lúc nào thì nên có danh xưng rồi?
Quân sư đáp:
- Bẩm, tôi nghĩ: sau khi xong Đằng Châu, Bình Kiều, dứt Tây Phù Liệt; xong việc Siêu Loại; trước khi vượt Bát Vạn, Bồ Sơn, Đồng Lư với Bạch Hạc; phá thủy trại Đỗ Động Giang, quay sang phía Tây dứt nốt mấy Sứ quân. Là lúc các tướng sĩ của ta tôn xưng danh hiệu lên Động chúa. Để từ đấy, Động chúa của ta có chính danh mà bước mạnh tới Cổ Loa!
Cả hội sảnh bừng bừng niềm vui, nhìn ra Động chúa ngồi thật thẳng trên ghế lớn bọc da hổ, vóc dáng Động chúa quả thật hùng vĩ, tướng Phạm Cự Lượng nói to lên:
- Thưa Quân sư, Hoa Lư ta xuất động, bỏ nơi rừng rú bước vào thiên hạ. Trong lòng đã mang sẵn chủ trương cứu trăm dân, gìn giữ giang sơn của tổ tiên để lại. Thì cho dù ta chưa ra khỏi cứ địa, tôi tưởng ta nêu cao danh xưng, cũng như trương cáo cờ đại nghĩa, vẫn là việc làm phải. Cần gì phải đợi đến khi quay sang phía Tây trước khi dẹp nốt các Sứ quân mới dám làm công việc ấy chứ?
Ý nghĩ của Phạm Cự Lượng, cũng là ý nghĩ của nhiều người. Quân sư đáp:
- Đúng thế, ông Lượng nói chẳng phải là sai. Chẳng phải là ta hành động nhằm tranh đua với thiên hạ để mưu cầu sung sướng riêng tư, thế thì việc làm của ta cốt là nhằm vào đại nghĩa cứu trăm dân. Vậy ta hãy để cho nhân dân thấy rõ được việc làm của ta mà tự ý xếp định cho ta danh xưng trước dân tộc đất nước. Ta không xảo quyệt “muốn ăn lại đợi người gắp hộ”, nhưng ta muốn một khi đã hành động thì cái thế chính thống của Cổ Loa không còn điều gì ngăn cản được ta. Trăm dân chẳng thể nào bảo được là ta có hành vi xóa bỏ một triều đại, tiếm quyền phế bỏ một vương triều. Triều đại nhà Ngô, đến đây suy tàn không thể cứu vãn được. Ta chỉ tuyên cáo sự thể ấy ra ngoài thiên hạ khi binh ta tỏ cho cả thiên hạ thấy hành động của mình, và cái thể của Giao Châu ta trước tai họa lệ thuộc Bắc phương. Vì thế, ta mới phải chậm lại công việc nhận một danh xưng rõ ràng là vì vậy.
Động chúa từ nãy vẫn lắng nghe Quân sư nói, có lúc Động chúa trầm ngâm. Có khi chợt nhíu mày ra chiều chăm chú về một điều gì, đến đây thì bỗng hỏi:
- Tôi nghe Quân sư nói thoáng qua về con đường tiến ra thiên hạ của ta, thì dường như Quân sư có ý phân chia thiên hạ ra làm hai phần Đông Tây thì phải?
Quân sư cười thật tươi rồi đáp:
- Bẩm, quả thật đúng thế!
- Tại sao Quân sư lại phân chia như thế, ngài định chiến sách của Hoa Lư ta ra sao?
- Bẩm, hiện giờ ta còn mười một Sứ quân. Dòng Xích Đằng, Bạch Hạc chia lãnh địa ra hai phần. Phần phía Đông có Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du là hùng liệt hơn cả, phần phía Tây có Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm là đáng để ý hơn cả về sức mạnh binh bị. Nay, ta dứt phần phía Đông để vừa mở mang được thế lực của ta ra ngoài xa, vừa đề phòng sau lưng ta là mặt biển lỡ ra có biển giặc đánh lén. Xong phía Đông không mấy khó khăn, ta không nhìn lên phía Bắc để vào Cổ Loa ngay, mà quay binh sang phía Tây. Phải vượt cho được Đồng Lư, Đan Phượng, sau mới đến các nơi khác.
Động chúa hỏi tiếp:
- Sau phần phía Đông, nếu ta vào ngay Cổ Loa thì việc có dễ hơn hay khó hơn chút nào không?
- Bẩm, nếu ta vào ngay Cổ Loa như thế, tôi nghĩ là ta gặp khó khăn nhiều hơn là dễ dàng trôi chảy. Khó trước hết, có thể Bắc phương lấy cớ ta làm việc thoái nghịch tranh cướp ngôi vua, để sai một tướng xuống nước ta. Dù rằng đạo quân ấy chỉ là đạo quân nhỏ cấp thời xuống nước ta để tranh thế mở đường cho đại quân tiếp theo sau. Như vậy có phải là ta có thể gặp phải nguy cơ đầu tiên không? Nguy cơ khó khăn thứ nhì, ấy là đám Sứ quân còn lại, võ có lực đáng nể, văn có mưu sĩ Điền Bạc của Phong Châu. Đám Sứ quân với binh tướng ấy nhìn việc ta thu phục phía Đông tất không thể không lo sợ. Nếu ta vào Cổ Loa, ấy là bảo cho bọn ấy không còn chia rẽ nữa mà liên kết hợp lại để chống lại ta. Bảo rằng ta ỷ sức làm việc bạo nghịch là cướp ngôi vua. Lúc ấy có phải ta tự chuốc lấy cái khó, làm cho thiên hạ kết lại với nhau, phá mất cả công lao của ta vất vả mới làm cho thiên hạ chẳng nhìn mặt nhau được nữa không? Ta đến gần Cổ Loa, thế như che trúc đập ngói, đường ta đi từ Tiên Du đến Cổ Loa thênh thang chẳng có gì cản trở. Có khác nào như đi du ngoạn hay không? Thế mà ta không vào Cổ Loa, hành động ấy cả thiên hạ không thể không thấy đại nghĩa của ta. Từ đấy trăm họ tất đã quay đầu nhìn cả vào ta rồi, xong việc phía Tây ta vào Cổ Loa nào có thiệt thòi gì, chỉ có thêm lợi mà thôi! Hành động ấy của ta, Triệu Khuông Dẫn ở Bắc phương cho dù có muốn đề binh mượn cớ này nọ để vào nước ta, tôi chắc cũng không dám. Không dám cả ở hai mặt chính nghĩa và quân bị. Đến khi ta vào Cổ Loa rồi, thì Triệu Khuông Dẫn chỉ còn lập thế để vớt vát được ở chỗ lại như lệ cũ gửi chiếu phong cho ta mà thôi. Nhưng lúc ấy ta đã vững chỗ ngồi rồi!
Quân sư luận cuộc thế, giọng có lúc rắn rỏi, có lúc sôi nổi, làm cho cả nghị sảnh như mê man trong cuộc thế đang xảy ra thật. Chúng hào kiệt Hoa Lư bỗng thấy hào hứng quá.
Mọi người chăm chú nghe Quân sư nói. Đinh lão gật gù, rồi hỏi:
- Hành động như thế, Quân sư liệu định Hoa Lư ta sẽ sử dụng đến uy lực hay là đạo đức để thu thiên hạ?
Quân sư đáp ngay:
- Bẩm, Hoa Lư ta dàn xếp bao nhiêu năm, mong muốn được lấy đức để chỉnh lại thời cho thật đúng mà thu thiên hạ. Sau vì có những mưu đồ biến động của phương Bắc làm cho ta phải gấp ra tay, tức là phải cầu viện đến sức mạnh binh bị. Đến nay, sau khi Nam Tấn Vương qua đời, thì ta không còn con đường nào khác là phải hết sức mau lẹ thu thiên hạ bằng sức mạnh kết hợp với mưu trí. Gặp trường hợp phải xuống tay là ta không ngần ngại, không còn để chậm trễ mất thì giờ nữa. Lúc ấy Hoa Lư ta có thể ra tay thật quyết liệt, không khoan thứ, dẹp bỏ tất cả mọi cản trở để đạt cho được mục đích càng nhanh càng tốt. Như thế hậu quả của binh biến mới không vì cái kết quả ấy mà sinh chuyển hướng gây tai họa!
Thế là Hoa Lư phải thực sự bước vào cuộc tranh hùng chém giết, không còn trường hợp nương tay để thi ân đức nữa!
Đinh lão lại hỏi:
- Lão hỏi thêm, tới giai đoạn ấy, Quân sư bảo ta nên chọn danh xưng nào?
Câu hỏi của Đinh lão quả thật quan trọng, từ Động chúa xuống đến các tướng thảy đều muốn được biết rõ. Quân sư nghiêm giọng:
- Con đường đi đến của ta, là Cổ Loa, là địa vị thống quản đất nước này. Để trong thì cứu muôn dân, ngoài vững được thế và lực để nêu cao được quyền tự chủ của dân tộc đất nước Giao Châu này trước Bắc phương. Đã thế, ta không thể không hành xử theo đạo làm của bậc Đế vương! Lúc còn lận đận dàn xếp mọi mặt, ta hãy để cho trăm họ thấy được địa vị của ta chính là địa vị của bậc hào kiệt ra tay gìn giữ non sông, dựng lên một thời đại mới. Khi công thành đại định ta nên ngầm bảo cho Bắc phương biết tinh thần độc lập tự chủ của ta là ở ngôi Đế! Ta không thể là lệ thuộc của họ, ta là ngôi chủ tể ngang hàng với họ?
Cả hội sảnh hừng hực khí thế của những hào kiệt sắp bước vào thế chiến đấu giành lấy quyền sống cho cả dân tộc mình. Hừng hực khí thế dựng nước với một danh xưng có ý nghĩa lớn lao của một thời đại tự chủ mới, thời đại của bậc Đế!
Quân sư lại tiếp:
- Ngôi vị của ta đối với Bắc phương đã là như thế, không thể khác được! Đế ấy, ngự trị trên giang sơn nào? Dân tộc ta vốn đòng Bách Việt, giống Âu Lạc, vì những hoàn cảnh lịch sử phải bỏ phương Bắc xuống dựng nước riêng ở trời Nam này. Giang sơn của ta hùng vĩ, tuy rằng so với phương Bắc chẳng đáng vào đâu, nhưng cái nghĩa của giang sơn đất nước này thì thật là vĩ đại. Do đó, quốc hiệu của ta mai sau phải làm sao cho xứng đáng với một thời của bậc Hoàng đế trị vì. Danh xưng ấy phải biểu lộ được hình ảnh lớn lao của tộc Việt, chứa đựng được sức hùng vô cùng của nòi giống trong thế tự chủ mãi mãi!
Trăm tướng trong hội sảnh bật hô lớn:
- Tộc Việt muôn năm! Việt Đế trường tồn!
Chính vì những lời nói của Quân sư Lê Thảo hôm nay, chính vì những tiếng hô của các tướng trong hội sảnh đầy hào khí buổi hôm ấy! Cuối năm Ất Sửu (965), mà sau này khi lên ngôi trị vì đất nước. Động chúa Đinh Bộ Lĩnh xưng là Đinh Tiên Hoàng Đế, lấy quốc hiệu là Đại Cồ Việt!
Và đây là những việc mai sau.
Ngay sau đấy, lệnh của Động chúa sang Đằng Châu cho năm tướng kết thúc việc Bình Kiều, chuẩn bị lấy Đằng Châu. Lệnh của Động chúa gửi đi, kèm theo cả lời mật dặn dò của Quân sư cho các tướng hiểu rõ tình thế cùng quyết định của Hoa Lư.
Quân sư lại gọi Tôn Phủ Nghi đến bảo:
- Mới đây, các tướng ở bên Đằng Châu trình tin về cho biết, vì Sứ quân Bạch Hổ đi chơi Hoa Lư lâu ngày, bên trong sinh biến, một số các thuộc tướng của Sứ quân làm phản. Bên trong chiếm giữ phủ đường, bắt giết những ai không chịu cùng theo làm phản. Các tướng ấy lại đưa thủy quân ngược Xích Đằng lên lấy Bình Kiều để rộng đất tung hoành. Các tướng Hoa Lư khuyên can không được, lại thất thế ở chổ binh giữ bên ngoài không dám xâm phạm nội bộ Đằng Châu, cho nên gấp trình về Hoa Lư xin lệnh. Nay, ông có muốn về Đằng Châu một phen, thu thập các tướng, rồi giữ lấy Đằng Châu không?
Tôn Phủ Nghi nghe Quân sư nói mừng quá, nhưng rồi lại e ngại ngập ngừng bảo:
- Thưa Quân sư, tôi về Đằng Châu đã hẳn là có ngài giúp đỡ sau lưng, nhưng không hiểu tình hình bây giờ ra sao. Liệu tôi về có nói được các tướng ấy phải nghe lời hay không?
Quân sư nghiêm nghị đáp:
- Ông về đã hẳn là một mình mà làm nên việc được, tự nhiên là phải có các tướng trung thành với Sứ quân nghe lời ông. Vì lúc ấy ông là người thay mặt cho Sứ quân để chỉ xử mọi việc, dàn xếp các mặt. Xong việc ông ở lại Đằng Châu mà thay thế Sứ quân là xong!
Nghe Quân sư nói, toàn là những sự tình thuận buồm xuôi gió, chẳng thấy có chỗ nào là khó khăn nguy hiểm. Tôn Phủ Nghi chẳng phải e ngại. Quân sư biết ý, lại bảo:
- Tôi sẽ đưa ông vào trước Sứ quân, để chính Sứ quân ra lệnh cho ông về Đằng Châu, như thế thì không còn gì phải e ngại nữa nhé!
Đến đây thì Tôn Phủ Nghi quả thật hết e ngại, lại nôn nao trong dạ: “giấc mộng năm xưa nay quả nhiên đến ngày ứng nghiệm!”.
Quân sư đi gặp Động chúa nói cho biết, rồi tiếp:
- Như thế, Động chúa cứ bảo Phạm Phòng Át trở lại Đằng Châu, tôi sẽ dàn xếp để vợ chồng y không trở về được nữa!
Động chúa vui vẻ, bảo:
- Vợ chồng Phạm Phòng Át ở chơi Hoa Lư ta cả ngần ấy năm, nay lên đường trở về đất cũ, ta cũng nên có tiệc tiễn đưa mới phải!
Rồi Động chúa chọn ngày Mười Sáu tháng Mười, tức ngày Đinh Mão, tháng Kỷ Hợi. Mở đại tiệc chiều hôm ấy để đãi vợ chồng Sứ quân Phạm Phòng Át.
Tiệc tiễn đưa Sứ quân trở lại Đằng Châu xem ra thật huy hoàng, trên từ Động chúa đến hàng các tướng không ai lại không có vẻ mặt hân hoan vui vẻ, rõ ra là cảnh “hội anh hùng chiêu đãi hào kiệt”! Vào tiệc, Động chúa vui vẻ nói:
- Thưa Sứ quân, thưa Tiên nương. Hoa Lư tôi nhiều núi lắm rừng, người thì tính tình cục mịch không hiểu biết nghi lễ của bậc trưởng giả. Cho nên suốt ngần ấy năm trời được ở gần Sứ quân với Tiên nương mà xem ra chẳng có ai học được những cách thanh tao cao đẹp ấy! Hôm nay, tôi mở đại tiệc trước là để trình Sứ quân rõ về mọi việc, sau để tùy Sứ quân quyết định! Có gì sơ suất xin Sứ quân với Tiên nương lượng thứ!
Suốt ngần ấy năm bị Hoa Lư hết viện cớ này đến công việc nọ cầm giữ không cho trở về Đằng Châu, biết bao nhiêu lần Sứ quân với Tiên nương ngỏ ý xin về đều không được. Nhiều lúc hai vợ chồng Sứ quân chẳng khỏi e ngại là Hoa Lư mưu tính việc gì chứ chẳng thể không, cho nên bóng gió tỏ ý, nhưng lần nào cũng bị Hoa Lư biện bạch chẳng làm sao cãi cho lại. Muốn trốn về thì nhìn ra tuy Hoa Lư chẳng thấy có ai theo dõi, thế mà mỗi cử động của hai vợ chồng đều không thoát được tai mắt Hoa Lư. Những lúc ấy Hoa Lư lại khéo léo xa xôi nhắn nhủ vừa có ý tỏ cho là đã biết toan tính của vợ chồng Sứ quân, lại như vừa có ý ngầm đe dọa. Vợ chồng Sứ quân sợ cũng có, uất ức cũng có. Thế mà ngoài mặt vẫn phải tươi cười, âm thầm nhẫn nhục mong chờ cơ hội. Nhìn quanh, chỉ thấy có văn sĩ mặt trắng Tôn Phủ Nghi là theo đến cùng ở với vợ chồng Sứ quân tại Hoa Lư. Nhưng Phủ Nghi lại liên miên theo hết Quân sư đến Động chúa trăm công nghìn việc. Cho nên thầy trò chẳng có lúc nào than thở được với nhau. Bao nhiêu tin tức về việc thiên hạ vợ chồng Sứ quân đều không hay biết, lúc nào Hoa Lư cũng chỉ bảo “khắp nơi vẫn yên ổn, những việc vặt vãnh trong thiên hạ sao lại để bận lòng Sứ quân với Tiên nương khi đang lúc thăm viếng nghỉ ngơi ở Hoa Lư!”. Thế là, vợ chồng Sứ quân sống tuy chẳng rõ là cảnh “cá chậu chim lồng” mà hóa ra còn hơn cả là tù giam lỏng! Lúc này thì họ Tôn lại đang ở Đằng Châu xem xét công việc cùng các tướng Hoa Lư, thành thử vợ chồng Sứ quân cảm thấy cô đơn quá ở đất Hoa Lư này!
Nay, bất thần Hoa Lư mở tiệc bảo là để chiêu đãi, ắt là thế nào cũng có âm mưu gì đây! Hai vợ chồng Sứ quân vui ngoài mặt, trong lòng lo lắng vô cùng. Bây giờ vào tiệc, nghe Động chúa nói như vậy, thì Sứ quân liền nói:
- Đa tạ Động chúa tiếp đãi vợ chồng tôi quá trọng hậu suốt ngần ấy năm trời, lại tránh không để việc thiên hạ làm vướng bận chuyến nghỉ ngơi thăm viếng Hoa Lư của vợ chồng tôi! Chẳng biết bây giờ có việc gì mà Động chúa phải nói là cho vợ chồng tôi rõ mọi việc, lại còn để chúng tôi quyết định nữa là thế nào?
Lời nói của Sứ quân có phần gay gắt, Động chúa vẫn không mất vui vẻ trên gương mặt. Quân sư thay Động chúa trả lời:
- Bẩm Sứ quân, thưa Tiên nương, quả thật Hoa Lư chúng tôi chẳng bay giờ lại muốn để chuyến đi chơi thăm Hoa Lư của Sứ quân với Tiên nương lại bị quấy động vì những việc thiên hạ. Cho nên Động chúa chúng tôi có lệnh cho tất cả mọi người là không được đem những việc chẳng làm vui lòng Sứ quân với Tiên nương, mà trình lên Sứ quân với Tiên nương trong thời gian Sứ quân với Tiên nương còn đang vui chơi ở Hoa Lư này. Lại lệnh rằng: Hoa Lư có những thú vui gì đều phải hết sức đem ra trình để Sứ quân với Tiên nương thưởng thức. Tiếc rằng thú vui ở đời này nhiều lắm. Hoa Lư chúng tôi dâng trình Sứ quân với Tiên nương chưa đủ, thì đành phải xin lệnh Động chúa để hôm nay mở tiệc mừng Sứ quân với Tiên nương. Sau nữa là để trình lên Sứ quân vài việc trong thiên hạ, cầu mong Sứ quân minh tuệ thần trí xét xử!
Quân sư nói một thôi dài, rõ ràng là rào trước đón sau nhưng lại tỏ ra chế nhạo Sứ quân với Tiên nương. Thành ra Tiên nương ngồi nghe mà thấy bực tức trong lòng, liền lên tiếng:
- Thưa Động chúa, ngày trước Quân sư Hoa Lư cưỡi mây đem lệnh của Động chủ tới Đằng Châu chúng tôi để dàn binh. Lại kể chuyện thành cháy người mổ bụng, đích thân Động chúa lại phải ra trước quân để giữ cho Đằng Châu chúng tôi được yên ổn. Tình nghĩa công ơn thật lớn, vì vậy vợ chồng tôi sang Hoa Lư để tạ ơn. Quân sư lại không làm việc của người phò chủ gấp đường trở về lầu Minh Phụng, lại đem đủ thú vui ra giữ chúng tôi ở Hoa Lư ngần ấy năm trời! Bây giờ, bảo là có việc nói ra, ắt là việc Đằng Châu vắng chủ lâu ngày có biến chứ chẳng sai!
Không ai lại chẳng khiếp phục Hồi Chúc Tiên nương quả nhiên là người sắc sảo thông tuệ đáng nể vì lắm. Quân sư nghe Tiên nương nói vậy thì thừa hiểu là ngần ấy năm bị giữ ở lại Hoa Lư vợ chồng Tiên nương chẳng thiếu gì lúc hậm hực tính toán đủ điều, liền đáp:
- Bẩm, Tiên nương quả là người Tiên trên trời xuống thế, biết việc như thần! Ngày trước sang Đằng Châu đầu lệnh Sứ quân với Tiên nương dàn xếp công việc, quả thật tôi có kể Sứ quân với Tiên nương nghe chuyện lạ xứ người, dạo ấy Tiên nương có hỏi và tôi có thưa là: “… giả thử Đằng Châu có loạn, tôi xin được đến như Địch Vũ vào lầu Minh Phụng, còn lúc Đằng Châu thái bình, tôi xin được làm Sa Điền lãnh chúa ở chốn dân gian.” Nay Đằng Châu vì vắng chủ có vài tướng nhìn thiên hạ liền muốn làm loạn, toan tính lấy Đằng Châu của chủ để xưng hùng một cõi. Các tướng Hoa Lư làm công việc giữ nhà cho Sứ quân với Tiên nương dù có hết sức đến đâu, thì thân phận cũng vẫn không ra ngoài cái nghĩa “người ngoài không vượt được phần ngoại nhân”. Để trở thành bồi thần thiệp vào việc riêng nội bộ được, vì thế mà Đằng Châu lúc này biến loạn. Chỉ có Sứ quân với Tiên nương mau trở về mới mong ổn định được tình hình, lúc này tôi xin được làm Địch Vũ vào lầu Minh Phụng cho đúng với lời nói ngày trước!
Hồi Chúc Tiên nương bây giờ tuổi không còn là thật trẻ trung như ngày trước, nhưng cuộc sống thật đế vương ở Hoa Lư giúp Tiên nương nhan sắc chẳng hao mòn mà còn có phần diễm lệ hơn nữa ở cái tuổi sắc đẹp đang thật rực rỡ. Lòng xuân phơi phới xen lẫn cảm phục những hào kiệt ở động Hoa Lư, nhất là được nhìn tận mắt công việc cùng tài năng của Quân sư Hoa Lư. Nay trong hội tuy lòng lo lắng bực bội về tình hình Đằng Châu. Nhưng tai nghe Quân sư Lê Thảo nói như vậy thì vừa bồi hồi thắc mắc lại vừa lo ngại lắm về tình hình Đằng Châu, nên Tiên nương nói ngay:
- Suốt ngần ấy năm trời ở lại Hoa Lư, vợ chồng tôi chẳng bao giờ lại được nghe nói là Đằng Châu có loạn. Mà luôn luôn là an bình tốt đẹp, nay bất thần Quân sư lại bảo là Đằng Châu có biến lớn, là thế nào? Quân sư muốn đến Đằng Châu như Địch Vũ vào lầu Minh Phụng, thì Nhược Hồng lúc ấy có ở lầu Minh Phụng không?
Động chúa cùng hết thảy các tướng chẳng ai hiểu gì về những điều bí mật lầu Minh Phụng với Nhược Hồng cùng Sa Điền, Địch Vũ, là thế nào. Nên tất cả vẫn im lặng đợi chờ Quân sư trả lời Tiên nương.
Quân sư tươi nét mặt đáp:
- Thưa Tiên nương, quả có thế thật! Trước, kẻ tôi tớ Địch Vũ thừa biết có Thạch Chiêu Dương âm thầm mưu tính, nhưng phận làm tôi làm gì hơn được là chỉ cắp gươm theo hầu chủ. Phải đợi đến khi có ngọn lửa ở lầu Minh Phụng, thì lúc ấy Địch Vũ mới có cơ hội để xả thân đền ơn chủ, thổ lộ mối tình âm thầm. Nay, Đằng Châu quả nhiên có những kẻ phản chủ như Thạch Chiêu Dương, tất Sa Điền phải trở về để kiếm sĩ Địch Vũ có cơ hội chứ!
Quân sư với Tiên nương giữa hội nói chuyện xưa bóng gió với nhau chỉ hai người là hiểu được việc, nhưng những người khác cũng chỉ lờ mờ hiểu việc mà thôi, thành ra mọi người vẫn im lặng quan sát. Nghe đến đây thì Sứ quân Phạm Phòng Át nóng ruột hỏi:
- Thôi thôi, mặc kệ việc Sa Điền với lầu Minh Phụng, việc Đằng Châu ta ngày nay ra sao, Quân sư mau nói rõ đi?
Quân sư không để cho Tiên nương nói gì thêm, tiếp lời Sứ quân ngay, đáp:
- Bẩm, ngày trước Sứ quân có cho Hoa Lư chúng tôi mượn mấy nghìn binh, bốn tướng. Trong số đó có tướng có dịp vào trận, có tướng được an nhàn. Rồi ở phủ đường lại có người sợ người khác được công hơn mình, ngấm ngầm tranh giành nhau. Chia bè kết đảng đánh nhau, có người lại đưa thủy quân lên đánh chiếm Bình Kiều, làm cho Sứ quân Cảnh Thạc cũng phải đem quân phòng bị. Rồi Lữ Đường ở Tế Giang đang gây sự với Đỗ Động Giang cũng vội lui binh. Tiếp đến là Lý Khuê ở Siêu Loại đem binh đánh Tiên Du thắng trận mà cũng vội chạy về giữ nhà, cả một vùng náo động. Các tướng làm phản thắng thế to, các tướng Hoa Lư thân cô thế cô, binh ít, cố gắng dàn xếp không được, chắc cũng sắp phải chạy về rồi!
Sứ quân với Hồi Chúc Tiên nương nghe Quân sư nói thì sửng sốt. Trước cũng có nghe nói vài Sứ quân đem binh đánh nhau, mà Hoa Lư thì lúc nào cũng bảo là tình hình Đằng Châu yên ổn. Nay không ngờ sự thể lại nghiêm trọng đến như thế! Sứ quân có ý trách:
- Thưa Động chúa, tôi mải vui chơi, việc nhà vẫn tưởng là yên ổn, Hoa Lư trước sau vẫn bảo là Đằng Châu an bình, rồi bỗng nhiên hôm nay lại có sự thể như thế. Có phải là Hoa Lư giấu việc làm cho tôi gặp khó không?! Trước, Đằng Châu mang binh tướng giúp Hoa Lư, nay tôi lại xin Hoa Lư cho binh tướng giúp theo tôi về Đằng Châu xem xét mọi việc có được không?
Động chúa Hoa Lư vui vẻ:
- Thưa Sứ quân, quả thật Hoa Lư tôi có lỗi, ấy cũng chỉ vì muốn để Sứ quân với Tiên nương được thanh thản thăm Hoa Lư. Hoa Lư tôi tự biết trách nhiệm của mình, âm thầm trộm phép Sứ quân để dàn xếp việc Đằng Châu. Ý những muốn là giữ được cho mọi sự tốt đẹp để đợi Sứ quân về. Nay chỉ vì các tướng làm loạn, lại thêm các Sứ quân khác khởi binh. Một đạo binh nhỏ của Hoa Lư chẳng thể nào xử lý được hết mọi việc, tình hình nguy cấp các tướng trình về là có khi phải lui về. Nay, Sứ quân muốn đem binh Hoa Lư về chỉnh lý việc nhà. Hoa Lư tôi thật rất vui lòng để Sứ quân về Đằng Châu xét việc! Tuy thế, tôi nghĩ là việc quân phải cẩn thận, trước khi xuất binh tất phải biết rõ tình hình, sau mới có thể hành binh được tốt đẹp!
Những lời nói của Động chúa thật chân thành, phép ra quân rõ ràng là đúng với khuôn phép hành xử của người làm tướng. Sứ quân Phạm Phòng Át bằng lòng lắm, còn Hồi Chúc Tiên nương mặt hoa rạng rỡ, đáp:
- Đằng Châu chúng tôi thật cảm tạ Động chúa hết lòng với chúng tôi, việc xuất quân thế nào tất Quân sư cũng như các tướng sẽ định sau.
Quay sang Quân sư Lê Thảo, Tiên nương tủm tỉm cười rồi bảo:
- Như thế, rồi đây binh Hoa Lư sang Đằng Châu, việc can qua khó tránh được. Quân sư liệu có chỗ nào là lầu Minh Phụng không, để Quân sư được làm Địch Vũ lên lầu mở bụng không?
Quân sư chưa kịp trả lời, bên ngoài sảnh có tiếng vó ngựa gấp chạy tới, rồi quân canh hấp tấp vào trình trước Động chúa:
- Bẩm trình Động chúa, có tin thượng khẩn ở Đằng Châu trình về. Chúng tôi bảo là đang có hội quan trọng không vào được, tế sứ nói rằng: có khẩn trình của Đằng Châu, chậm trễ thì cả năm tướng Hoa Lư ở Đằng Châu khó toàn tính mạng!
Cả sảnh đường sửng sốt, Quân sư thay Động chúa ra lệnh cho tế tác đem tin vào ngay. Tê tác vào trước Động chúa trình:
- Bẩm trình Động chúa, chúng tôi được lệnh của tướng quân Lê Hoàn ở Đằng Châu trình tin khẩn cấp lên Động chúa là: Các tướng Đằng Châu nổi loạn lớn, chia phe đem binh trấn giữ các nơi, hầm hè toan tính đánh nhau. Việc đầy đủ thế nào đã nói rõ trong thư trình Động chúa!
Tế tác nói xong, luồn tay vào trong ngực áo lấy ra một phong thư dầy niêm phong kín, bên ngoài lại có thủ bút của tướng quân Lê Hoàn. Dấu niệm bằng sáp vàng óng có in chuôi kiếm báu Thu Thiên, tế tác kính cẩn trình phong thư lên Động chúa.
Động chúa nhận thư trao ngay cho Quân sư. Quân sư nhận thư mở niêm liền. Thư thật dài, Quân sư đọc nhanh một hai tờ, rồi ngừng lại, nhìn Động chúa rồi nói:
- Thưa Động chúa, tình hình ở Đằng Châu rối ren quá, các tướng hầm hè chém giết nhau khiến cho năm tướng của ta lâm nguy đang xin lệnh để triệt binh. Xin đợi lệnh Động chúa!
Động chúa hơi nhíu mày, hỏi lại:
- Rõ ràng thì tình hình lúc này thế nào?
- Thưa, phủ đường thì chưa phe nào chiếm giữ được hẳn, hai bên tranh nhau mấy ngày rồi. Máu đổ thịt rơi đã nhiều, nay vẫn còn thủ thế. Tôi xin đọc tiếp rồi sẽ thưa trình lại sau.
Rồi Quân sư lại lặng lẽ đọc nhanh xấp thư trình. Nghị sảnh im lặng, không tướng nào nói khẽ một tiếng. Sứ quân Phạm Phòng Át hết nhìn Tiên nương lại nhìn Động chúa, rồi nhìn Quân sư đang đọc vội xấp thư. Nhiều lúc Quân sư hơi nhíu mày, còn Tiên nương mặt hoa hơi tái. Tiên nương chắc đang suy nghĩ lung lắm.
Bỗng Quân sư ngửng đầu, nói:
- Thưa Sứ quân, Tiên nương, thưa Động chúa, đoạn thư trình này đáng chú ý lắm, tôi xin đọc lên để mọi người cùng nghe.
Rồi không đợi ý của Động chúa hay Sứ quân, Quân sư cao giọng đọc:
“.. Phe nổi loạn thì do tướng tuần canh Triệu Đường Hùng chủ trì, nói rằng: Sứ quân cùng với vợ đi chơi Hoa Lư, mê cảnh sợ người, cho nên theo về Hoa Lư rồi. Vì thế Hùng chiếm giữ Đằng Châu để chống lại Hoa Lư, Hùng thu thập được nhiều người, thuyết phục được cả tướng Trấn giang Nghi Bá Tường. Lôi kéo được tướng Tổng quản Đằng Châu, rồi đem binh chực vây bắt năm tướng Hoa Lư làm cho các tướng ấy khó lòng được yên ổn. Cho nên xin lệnh để được trở về Hoa Lư gấp!”.
Quân sư ngưng đọc, quay sang Sứ quân Phạm Phòng Át mà rằng:
- Thưa Sứ quân, tình thế Đằng Châu nguy ngập cho các tướng Hoa Lư thế này, nay chỉ còn có cách Sứ quân trở lại ngay Đằng Châu thì mới mong ổn định được tình hình!
Nghe Quân sư Lê Thảo đọc đoạn tin trình. Sứ quân Phạm Phòng Át trong lòng cả kinh. Đến khi nghe Quân sư nói khuyên mình nên về ngay Đắng Châu thì hoang mang kinh sợ. Sứ quân lắp bắp:
- Bây giờ ta về Đằng Châu, làm sao được? Tiên nương nghĩ sao?
Tiên nương cũng bối rối chưa biết tính sao, liền nói:
- Việc này, chẳng qua là vì ta ở Hoa Lư lâu quá mà sinh chuyện!
Quay sang Động chúa, Tiên nương nói:
- Thưa Động chúa, tình thế đã như vậy, liệu Động chúa có chịu mất công giúp Đằng Châu chúng tôi hay không?
Động chúa đáp ngay:
- Thưa Tiên nương, giúp gì được Sứ quân với Tiên nương là Hoa Lư chúng tôi xin làm ngay. Như thế thì xin Tiên nương cứ nói!
- Thưa, Động chúa có thể cho chúng tôi mượn binh tướng để về Đằng Châu được không?
Động chúa vui vẻ chưa kịp nói, đã lại có tin trình vào khẩn cấp: “Tướng quân Lê Hoàn khẩn trình; các tướng Đằng Châu mời các tướng Hoa Lư hội bàn việc Đằng Châu. May tướng Lê Hoàn bất thần lâm bệnh cũ cho nên không tới dự hội được, bốn tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Chu Kỷ Toàn tới hội đã bị các tướng làm loạn cầm giữ. Vì thế Lê Hoàn đã phải mang quân bản bộ theo tướng Trấn Giang để tạm yên thân, xin trình về để Động chúa rõ”.
Nghe xong, Động chúa nghiêm nghị nói:
- Các tướng phản loạn lại dám cầm giữ bốn tướng của ta, Quân sư định liệu thế nào?
Từ khi nghe tế tác trình tin. Quân sư nhíu mày suy nghĩ lung lắm, đến khi nghe Động chúa hỏi, liền đáp:
- Như thế, tình thế bốn tướng của ta nguy lắm, tướng Lê Hoàn chạy đến tướng Trấn Giang Nghi Bá Tường để xin tá túc, sao cho khỏi bị nguy như bốn tướng kia! Giải được mối nguy này, họa may chỉ có Sứ quân về gấp mới xong!
Hồi Chúc Tiên nương tiếp lời:
- Lúc này tình hình nguy cấp, chẳng nghe các tướng trung thành với Sứ quân có cử động gì! Sứ quân về làm sao được? Trừ phi Hoa Lư giúp cho quân đông, tướng nhiều thì mới xong!
Động chúa đáp ngay:
- Hoa Lư chúng tôi xin được giúp Sứ quân. Vậy, Sứ quân cần bao nhiêu binh tướng?
Sứ quân lại nhìn sang Tiên nương như có ý hỏi ý kiến. Tiên nương đáp thay Sứ quân:
- Thưa Động chúa, tôi không quen việc quân bị, như Động chúa nghĩ thì trong việc này ta phải cần bao nhiêu quân tướng mới đủ?
Động chúa suy nghĩ một chút rồi đáp:
- Đằng Châu binh đông tướng nhiều, nay hầu hết các tướng cùng nhau làm phản, muốn dẹp được tất phải huy động hết cả sức lực của Hoa Lư mới đủ! Quan trọng hơn cả là chính Sứ quân phải thân về Đằng Châu mới được. Còn nếu lấy binh Hoa Lư đi dẹp loạn e rằng loạn càng thêm lớn!
Động chúa không nói dứt khoát là Hoa Lư sẽ đem bao nhiêu binh đi giúp Sứ quân, mà lại bảo là chính Sứ quân phải đích thân trở về mới là quan trọng. Làm cho Sứ quân đã hoang mang lại càng hoang mang hơn nữa chẳng biết nói sao. Hồi Chúc Tiên nương lại nói:
- Động chúa nói như vậy, thì Đằng Châu chúng tôi thật khó nghĩ! Nay phải huy động đến hết cả binh tướng của Hoa Lư đi mới mong được việc, thì tôi e rằng làm như thế sẽ khiến cho cả thiên hạ náo động. Các Sứ quân ở chung quanh sẽ lại phải ra binh đề phòng, lúc ấy ta tính sao đây?!
Động chúa chưa biết trả lời ra sao, đã lại thấy quân tình vào: “Văn sĩ Đằng Châu vừa mới về tới Hoa Lư, xin được gấp vào trình tin!”.
Tôn Phủ Nghi vào nghị sảnh trên nét mặt còn lộ vẻ sợ hãi. Văn sĩ đi thẳng lại trước ghế Sứ quân khom mình làm lễ rồi mới quay sang phía Động chúa, văn sĩ thưa:
- Bẩm trình Sứ quân, tôi phải gấp theo đường sông chạy lên phía Bắc nương thân nơi ông Nghi Bá Tường, đến nơi tôi mới biết là ông Tường cũng có ý theo bọn làm phản. May nhờ trong quân còn có tướng Lê Hoàn của Hoa Lư nên Tường chưa dám động thủ, tôi phải nhờ ông Lê Hoàn đánh tháo cho mới thoát được về đến đây!
Nói rồi, văn sĩ rơm rớm nước mắt làm cho Quân sư phải kín đáo mỉm cười. Động chúa, Sứ quân, Tiên nương, cùng hết thảy các tướng nghe Tôn Phủ Nghi nói ai cũng kinh hãi. Như thế thì Đằng Châu đã mất hẳn vào tay bọn phản loạn rồi, dù bây giờ Hoa Lư có dốc hết binh tướng theo Sứ quân Bạch Hổ về Đằng Châu để trị đám loạn tướng cũng chưa chắc đã xong!
Nghe Tôn Phủ Nghi thưa như vậy, Sứ quân và Tiên nương còn chưa hết kinh hãi. Quân sư đã nghiêm trang nói:
- Như thế, thì quả thật chỉ còn có Sứ quân phải gấp về ngay may ra mới chấn chỉnh lại được mọi việc, chậm e không còn cách gì nữa!
Nghị sảnh im phăng phắc, tình thế có phần nặng nề không ai còn biết nêu ý kiến ra sao nữa. Sứ quân thì vốn nhu nhược, lại thêm nhiều năm chỉ biết có an nhàn hưởng thụ mọi thú vui ở Hoa Lư. Cuộc sống êm đềm lại được trọng vọng càng làm cho Sứ quân thêm ủy mị chẳng còn muốn ganh đua với ai nữa. Nay thì tình thế xem ra chẳng còn hi vọng gì thì lại càng chán nản, nhưng lại chẳng biết phải làm sao bây giờ. Tiên nương thì vốn sắc sảo, không dễ gì chỉ một khó khăn đã khuất phục được tinh thần quật cường của Tiên nương, vì thế Tiên nương hỏi Quân sư:
- Thưa ngài, ngài bảo là Sứ quân phải gấp về Đằng Châu, như thế thì ngài nghĩ phải cần mượn bao nhiêu binh tướng Hoa Lư mới mong xong việc được?
Quân sư đáp ngay:
- Thưa Tiên nương, bình thường thì binh Hoa Lư có thể chế ngự được tình thế Đằng Châu, nay thì việc lại khác! Bao nhiêu vị trí chắc chắn là bị mất cả, binh ngoài vào tất thế nào cũng bị thất bại! Tướng Đằng Châu làm gì mà lại chẳng đề phòng Sứ quân mang binh Hoa Lư và phục hồi lãnh thổ. Như thế thì chiến trận chắc chắn sẽ náo nhiệt lắm. Hao thiệt binh tướng chẳng phải là nhỏ, giao chiến nhất định phải lâu dài chứ không thể mau chóng được! Tuy thế, tôi nghĩ Sứ quân cứ gấp thử trở về xem sao, binh Hoa Lư xin tuân lệnh Sứ quân để thử nghiệm tình hình xem thế nào?
Sứ quân nghe Quân sư nói thì lại càng chán nản, những lời nói của Quân sư chẳng phải là không có lý. Nhưng Tiên nương thì thấy rằng Quân sư có ý dọa Sứ quân, cố tình nói ra vẻ không còn cách gì để phục hồi được Đằng Châu. Đến khi nghe Quân sư bảo là Sứ quân cứ nên về, có binh tướng Hoa Lư đi theo, thì liền bảo:
- Tình hình tuy có khó khăn, nhưng nếu như có binh tướng Hoa Lư chủ trì thì tôi nghĩ là cái thế của Hoa Lư có thể dễ dàng khắc phục được hoàn cảnh. Vậy, theo như Quân sư tính toán, thì liệu bao giờ Sứ quân tôi có thể lên đường được?
Quân sư ra vẻ suy tính đôi chút rồi đáp:
- Thưa Tiên nương, việc cứu binh như cứu lửa, binh tướng Hoa Lư thu xếp để xuất doanh cần ra thì chậm nhất cũng chỉ đôi ba ngày, nhanh thì chỉ trong một ngày là được. Như thế, kể từ lúc này, khi nào Sứ quân, Tiên nương sửa soạn xong muốn lên đường, là binh tướng Hoa Lư xin theo hầu được ngay!
Thật là bất ngờ! Tiên nương những tưởng là khi hỏi Quân sư như thế thì thế nào cũng khiến cho Quân sư bị lúng túng không thể trả lời được. Tiên nương thấy nhất định Quân sư Hoa Lư sẽ tìm cớ thoái thác để trì hoãn không chịu giúp binh tướng cho Sứ quân trở về Đằng Châu. Nào ngờ Quân sư lại chân thành xin gấp cho binh tướng Hoa Lư đưa Sứ quân về, đến lượt Tiên nương ngỡ ngàng, không biết như thế thì Hoa Lư mưu tính gì đây?
Tiên nương liền đáp:
- Tôi xin thay lời Sứ quân tạ ơn Động chúa Hoa Lư hết lòng giúp đỡ, tôi cũng xin ghi nhớ công lớn của Quân sư dàn xếp hộ việc khó. Có khi nào đây là cơ hội để Địch Vũ vào lầu Minh Phụng không?! Tôi cũng thay Sứ quân cảm ơn các tướng vì Đằng Châu chúng tôi mà phải vào nơi chẳng được bình yên.
Quay sang Động chúa, Tiên nương nói luôn:
- Vậy, chúng tôi xin Động chúa cho lệnh binh tướng lên đường ngay, trong ngày mai thì càng tốt!
Tiên nương muốn làm cho Hoa Lư không còn thời gian để tìm cách trì hoãn được việc xuất quân, và vợ chồng Sứ quân sớm thoát khỏi bị Hoa Lư quản thúc.
Tiên nương mong được sớm trở lại Đằng Châu bao nhiêu, thì văn sĩ Tôn Phủ Nghi nghe Quân sư và Tiên nương nói trong lòng càng lúc càng thêm kinh hãi bấy nhiêu, liền nói:
- Bẩm Tiên nương, chúa công về sớm được thì hay lắm, tuy nhiên tôi cũng phải xin trình là: “Bổn phận của tôi phải trình lên Sứ quân và Tiên nương rõ tình hình”. Rồi khuyên rằng: Trước khi lên đường trở về nhà cũ, xin Chúa công với Tiên nương hãy thận trọng. Tôi biết tình thế lúc này thật vô cùng khó khăn, ta về được bình yên thì đây là nhờ ở đại phúc của chúa công mà thành. Còn vạn nhất việc không xong hay kéo dài ngày, lúc ấy chẳng lẽ ta để cho binh tướng Hoa Lư cứ phải thiệt thòi mãi không biết đến bao giờ mới hết! Riêng về phần chúa công với Tiên nương, tính việc đi cũng nên phải tính ngược lại. Giả thử ta rời Hoa Lư để về Đằng Châu mà không về được, thì lúc ấy Chúa công với Tiên nương sẽ ra sao?
Quân sư nói ngay:
- Ông Tôn lo lắng tính việc đường xa như thế thì thật là tinh tế, việc thành thì chẳng có gì phải nói, còn vạn nhất sức người chẳng thắng được ý trời. Thì tôi tin là chủ chúng tôi là Động chúa chẳng đắn đo gì mà lại không để Sứ quân với Tiên nương tùy nghi sử dụng Hoa Lư như là nhà riêng của mình!
Động chúa ngồi nghe hết Quân sư nói, lại nghe Tiên nương đối đáp, rồi đến văn sĩ Đằng Châu biện bạch. Mới đầu Động chúa nghe Quân sư nói thì lấy làm hạ lắm. Sau thấy Quân sư cứ thành thật hứa là Hoa Lư sẽ cử binh tướng đi giúp Sứ quân về Đằng Châu thu phục giang sơn, thì cho rằng Quân sư có kế hay gì đây. Liền tiếp lời Quân sư mà rằng:
- Thưa Sứ quân, thưa Tiên nương, việc quả thật cũng nhiều khó khăn đúng như lời ông Tôn nói, nhưng không phải vì thế mà Hoa Lư tôi lại ngồi im chẳng giúp Sứ quân! Việc binh thắng bại là thường, vạn nhất việc không thành thì tôi xin giao cho Sứ quân Hoa Lư này để ngài tùy nghi sử dụng!
Thật là bất ngờ lớn nữa.
Tất cả các tướng đều kinh ngạc. Đinh lão tay không ngừng vuốt chòm râu đen. Rõ ràng là tiên sinh đang thắc mắc lắm. Còn Quân sư trước thì vẫn thản nhiên, có vẻ thành thật lắm, đến khi nghe Động chúa nói như thế thì tủm tỉm cười bồi thêm vào:
- Thưa Sứ quân, như vậy thì Sứ quân cứ đem binh Hoa Lư về Đằng Châu để dàn xếp mọi việc. Còn Tiên nương, thưa Tiên nương: Nếu như binh Hoa Lư theo chân Sứ quân thì ắt Tiên nương cũng cùng về Đằng Châu. Lúc ấy trong lầu Minh Phụng không có nàng Nhược Hồng, thế là kiếm sĩ Địch Vũ không có cơ hội để được mở bụng cho chủ nhân thấy mối tình của mình rồi!
Tiên nương không ngừng thắc mắc về những sự việc liên tiếp xảy đến, càng kinh ngạc hơn nữa với những lời lẽ của Động chúa và thái độ của Quân sư Lê Thảo, Tiên nương liền lại thay Sứ quân nói:
- Thưa Động chúa, Sứ quân của tôi lúc này ở vào cái thế bơ vơ bên ngoài, may được Động chúa đức rộng bao la chẳng quản bất cứ điều gì để giúp đỡ Đằng Châu. Sứ quân tôi xin được nhớ mãi ơn sâu này, tuân lời Động chúa xin được cậy nhờ các tướng Hoa Lư cùng về Đằng Châu ngay ngày mai!
Động chúa vui vẻ, truyền các tướng phải sửa soạn mọi điều cần thiết, gấp rút điểm quân để sẵn sàng lên đường được ngay. Chính Động chúa cũng bảo là ngài cũng sẽ tham dự việc quân. Rồi Động chúa cho lệnh bãi hội.
Lúc tất cả mọi người đã rời nghị sảnh, lúc ấy Quân sư mới bảo Tôn Phủ Nghi:
- Bây giờ việc xoay chuyển bất ngờ. Sứ quân cứ nằng nặc đòi về lại xin nhờ binh tướng Hoa Lư đi giúp chiếm lại Đằng Châu, thật tôi bí quá chẳng còn kịp suy tính gì cả! Ông có kế gì không?
Trong hội, văn sĩ Tôn Phủ Nghi lo sợ quá chừng về việc Sứ quân Bạch Hổ đòi về. Động chúa lẫn Quân sư đã chẳng tìm cách ngăn cản thì chớ, lại còn dễ dàng cho mượn bình tướng. Như thế thì mưu đồ của họ Tôn làm sao thành được! Vả chăng, các tướng Đằng Châu làm loạn ấy cũng chỉ vì Tôn Phủ Nghi đi lại giữa Đằng Châu với Hoa Lư thay cho Sứ quân truyền đạt mệnh lệnh nhưng lại nói sai lạc cả. Khiến cho các tướng bị lừa dần dần sinh oán ghét Sứ quân là người khiếp nhược muốn theo về với Hoa Lư. Các tướng nghe Tôn Phủ Nghi luận bàn cuộc thế như nước chảy mây trôi, lẻo mép nói Đông thành Tây, việc Nam nói thành ra Bắc, chẳng hiểu sự thật ra sao. Nhưng nước chảy mãi cũng xói mòn được đất đá khơi thành mạch, các tướng bị họ Tôn mê hoặc lúc nào cũng không hay! Tôn Phủ Nghi nhờ ở Hoa Lư, lại thường được nghe Quân sư Lê Thảo luận việc, liền nhớ những điều Quân sư nói rồi đem ra khoe hiểu biết việc thiên hạ của mình làm cho các tướng nghe mãi thấy nể phục Tôn Phủ Nghi lắm!
Nay, việc gấp rút chỉ trong một hai ngày nữa là Sứ quân kéo binh Hoa Lư về chấn chỉnh lại nội bộ Đằng Châu, lúc ấy cái thế của họ Tôn tự biết là nguy hiểm vô cùng. Trong lòng vừa hoang mang không hiểu Quân sư Hoa Lư có tính toán gì không, lại vừa lo lắng tính toán việc riêng sao cho thoát được thân. Nghĩ mãi chẳng được gì, Tôn Phủ Nghi năm lần bảy lượt mới xin được gặp Quân sư.
Vừa thấy mặt họ Tôn, Quân sư đã lo lắng bảo:
- Bây giờ ông tính thế nào? Tôi bù đầu tìm đường ngăn cản Sứ quân mà không được!
Tôn Phủ Nghi ngẩn người, thì chẳng chính Quân sư cứ một mực mời Sứ quân Bạch Hổ đem binh Hoa Lư về dàn xếp nội bộ Đằng Châu là gì? Bây giờ Quân sư lại nói như thế là thế nào? Thà