Hồi Thứ Tám Mươi Bảy Xuyên Ngư mưu sát Sứ quân
Bạch Hổ quy hàng Động chúa
Tôn Phủ Nghi vội vàng đến nơi Động chúa Hoa Lư dành làm chỗ ở cho hai vợ chồng Sứ quân Bạch Hổ xin gặp Sứ quân gấp.
Tôn Phủ Nghi thưa:
- Bẩm Chúa công, như thế là Hoa Lư giúp Chúa công xuất binh về Đằng Châu khôi phục phủ đường, việc gấp chỉ nay mai là Chúa công đã lại ngồi ở nơi cũ để sai bảo chúng tướng văn võ được rồi. Tuy thế, nay Chúa công trở về lại có binh tướng Hoa Lư kéo theo nhiều quá, tất ư không thể tránh được náo động trong dân gian. Làm cho đám các loạn tướng vội đem binh ra cự chiến, tới lúc ấy thì mọi việc đều đảo lộn cả. Vậy tôi xin đi trước Chúa công, trở về Đằng Châu dàn xếp các tướng không theo phe giặc sẵn sàng ở bên trong. Đợi khi Chúa công về đến nơi thì trong ngoài cùng hành động, có thế mới dễ dàng khống chế được bọn phản loạn.
Sứ quân cho là phải, nhưng Hồi Chúc Tiên nương tuy không nói ra, nhưng suốt thời gian hai vợ chồng Tiên nương bị giữ lại ở Hoa Lư bao nhiêu hành động của Tôn Phủ Nghi. Tiên nương đều thận trọng theo dõi, tuy không phát giác ra được điều gì nhưng Tiên nương vẫn cẩn thận canh chừng họ Tôn. Nay nghe họ Tôn nói như vậy, Tiên nương hỏi lại:
- Ông về Đằng Châu, không sợ bọn phản loạn giết hay sao? Ông đã phải bỏ chạy suýt chết một lần rồi sao không biết sợ? Giả thử về được Đằng Châu rồi, ông làm sao gặp gỡ các người không theo bọn làm loạn được?
Tôn Phủ Nghi đáp ngay:
- Thưa Tiên nương, thuộc hạ nếu cứ thế này mà trở về, thì quả thật bọn phản loạn sẽ xé xác thuộc hạ ra. Nhưng thuộc hạ có cách, ấy là giả trang thành người khác rồi tìm gặp những tướng trung thành với Chúa công, như thế tất là được. Xin Tiên nương yên lòng! Chỉ xin Chúa công với Tiên nương cho tôi ít ra là được một hai ngày để kịp thu xếp với các tướng bên Đằng Châu.
Tiên nương bảo:
- Cho dù Hoa Lư hết lòng xuất quân giúp ta, thì nhanh ra cũng phải đội ba ngày may ra quân mới xuất doanh được. Hoa Lư giúp ta, nhưng cũng phải đợi đến khi quân ra khỏi doanh, tướng lên ngựa, ta mới tin được là Hoa Lư thật lòng! Ngần ấy năm ở lại Hoa Lư này, ta đã rõ Hoa Lư là thế nào rồi! Hoa Lư muốn thu cả thiên hạ, thay nhà Ngô mà trị quốc, thế thì giúp ta để lấy lại Đằng Châu có phải là Hoa Lư tự mình lại buộc dây vào chân mình không? Trong việc này, ta thấy còn nhiều điều nghi ngờ!
Sứ quân Bạch Hổ vốn dã nhu nhược, nay trước tình hình khó biết trước được sẽ ra sao, chung quanh chẳng có các thuộc hạ. Quanh đi quẩn lại chỉ có một mình văn sĩ mặt trắng Tôn Phủ Nghi thì hành tung cũng lại nhiều lần bất minh. Thành ra Sứ quân chẳng làm sao biết được tình hình thực sự là thế nào. Nay nghe Tiên nương nói, thì bảo:
- Quả thật có thế, nhiều lúc ta cũng thấy nghi ngờ, để tâm dò xét thì chẳng làm sao biết được. Việc Đằng Châu ta chỉ nghe Hoa Lư nói, may còn có văn sĩ của ta nhờ đi lại mà biết được sự thể, lại bản thân suýt bị nguy vì bọn phản loạn. Thế thì việc nghi ngờ của Tiên nương quả thật là đúng! Nay, ông Tôn về Đằng Châu, phải hết sức cẩn thận, ta trông mong ở ông, việc thành hay bại của chuyến đi ta nghĩ nó ảnh hưởng đến cả cuộc đời sự nghiệp của ta đấy!
Rồi Sứ quân tháo chiếc nhẫn ngọc Yêm La đeo ở ngón tay út trao cho Tôn Phủ Nghi. Sứ quân nói:
- Ta trao cho ông nhẫn Yêm La để các tướng của ta nhìn đấy mà vâng lệnh, ông đừng phụ lòng ta nhé!
Tiên nương không nói gì, nhìn Sứ quân trao nhẫn cho Tôn Phủ Nghi trong lòng suy nghĩ nhiều điều lắm.
Nhẫn Yêm La là viên ngọc lạ, có người tiều phu vào núi Tử Trầm đốn cây. Lưỡi rìu chém vào gần đến giữa thân cây cổ thụ thân không lớn lắm, nhưng lại cao tưởng đụng đến mây xanh. Thì chạm phải vật gì có vẻ cứng lắm làm cho lưỡi rìu thép cứng bị mẻ một miếng lớn. Tiều phu lấy làm lạ lắm, loay hoay cố hạ cây lớn, hóa ra rìu chém vào một tảng nhựa cây đóng cứng. Tảng nhựa cây lớn bằng cả bàn tay, màu vàng óng, nặng lắm. Tiều phu không hiểu là cục nhựa gì liền để một bên rồi ngồi nghỉ. Đến lúc mặt trời lên cao, nắng qua khoảng trời trống nơi cây vừa hạ xuống, thì tiều phu thấy như có ánh lửa chói vàng một khoảng trên mặt đất. Lấy làm lạ bới lá tìm xem, hóa ra cục nhựa cây. Tiều phu cầm cục nhựa lên, nắng không chiếu vào nữa thì sắc chuyển thành màu tím thẫm đẹp lạ kỳ.
Tiều phu đem cục nhựa về, có người thợ ngọc ở tận châu Vũ Nga (Thái Nguyên) hay đi tìm ngọc lạ, nghe lời đồn liền tìm đến đem cả trăm lạng bạc đổi cho kỳ được cục nhựa cây lạ. Thợ ngọc đem nhựa về, dùng dao bằng gỗ thân cây cau già trăm tuổi, lưỡi dao gỗ cau cứng còn hơn cả thép nguội gọt lên cục nhựa cứng như gọt vào trái cây mềm. Bên trong cục nhựa quả nhiên có hòn ngọc màu tím than. Thợ ngọc bảo: “Đấy là tinh hoa của “Mộc Vương” hấp thu khí âm dương của trời đất mà cấu thành tinh hoa của rừng già. Ngọc ấy vốn từ cây sinh ra, thì phải gọt thành hình trái cây chứ không được theo hình khác. Vậy phải gọt thành hình trái xoài (Yêm La) là vua của các loại trái cây”. Vì thế mộc ngọc mới có tên là ngọc Yêm La. Ngọc Yêm La là tinh hoa của cây ngàn năm, giữ cho cây dù trải qua thời tiết nào cho dù có khắc nghiệt đến đâu cũng vẫn xanh tươi, khỏe mạnh. Tinh hoa ấy nằm giữa cục nhựa che chở, nay ra ngoài ánh sáng rồi được gọt dũa thành ngọc quý. Người nào có ngọc ấy thì bệnh gì cũng không xâm phạm được đến cơ thể, tai nạn nào cũng qua khỏi được. Ngọc Yêm La hấp thụ khí âm dương của trời đất cả nghìn năm, cho nên người có đức giữ ngọc ấy trong mình sẽ được nhờ khí âm dương của trời đất giúp kéo dài tuổi thọ, tai nạn nào cũng qua khỏi được. Người đức mỏng, đeo ngọc Yêm La trong người lâu ngày thì dù khi đem bỏ đi, cũng còn được dư khí của ngọc có thể giữ cho bản mệnh được an toàn trong vòng một trăm ngày mới hết hẳn khí thiêng!
Người thợ ngọc ở châu Vũ Nga lúc đi khắp đất trời thì tới Đằng Châu, được Sứ quân trọng dụng, liền dâng ngọc quý Yêm La cho Sứ quân. Sứ quân quý ngọc ấy lắm, sai người thợ ngọc khắc trên mặt viên ngọc một chữ “Phạm” theo kiểu chữ triện. Trên mỗi văn thư Sứ quân đều in dấu ngọc để làm bằng. Nay, đem ngọc Yêm La trao cho Tôn Phủ Nghi thì cũng có nghĩa là Sứ quân trao cả sự nghiệp của mình vào tay họ Tôn, vì thế Tôn Phủ Nghi cảm động lắm!
Rồi Tôn Phủ Nghi cáo từ Sứ quân ra đi, mấy lần ngập ngừng toan đến gặp Quân sư Lê Thảo. Cuối cùng nghĩ thế nào lại thôi, một mình hấp tấp cải trang ra đi. Nhưng Tôn Phủ Nghi lại không biết là mỗi cử động của Tôn đều bị Quân sư biết cả, tế tác theo dõi Tôn chẳng còn thiếu việc gì lại chẳng trình báo lên để Quân sư rõ!
Ở phía Bắc huyện Hiệp Sơn (Hải Dương) khoảng một dặm đường, có rặng núi An Phụ. Núi cao chừng một trăm hai mươi ba trượng. Địa thế ở đây thật đẹp, các núi ở Chí Linh và Đông Triều la liệt phía Tây Bắc, các sông ở hai huyện Thủy Đường và Kim Thành quanh bọc phía Đông Nam, địa thế này người đời có câu minh rằng: “Chí Linh tây lãnh, Thủy Đường đông dương, Đông Triều bắc lãnh, Kim Thành nam phương (có nghĩa: núi Chí Linh phía tây, biển Thủ Đường phía đông, núi Đông Triều phía bắc, sông Kim Thành phía nam). Người xưa cho rằng hình núi đứng sững đối nhau với núi Yên Tử, vẻ đứng đắn lại hơn vẻ cao chót vót thì không bằng. Như thể người phụ lão đứng trước, kẻ tráng sĩ đứng sau. Cho nên còn đặt tên nữa là Phụ Sơn. Đỉnh núi có tảng đá như cái cột gọi là cột Kình Thiên. Sườn núi có ai gọi là Thiên Trì, có tiếng gọi là Thiên Tỉnh nước trong, nước đục khác nhau (giếng và ao hai cái đối nhau). Chính tại nơi ao với giếng này ngày trước Sứ quân Phạm Bạch Hổ lúc chưa xưng hùng cát cứ một nơi còn là một hào phú nhiều thế lực đã phạm tội đại ác ở đời.
Nhân một buổi đem gia nhân lên ngoạn cảnh vùng này mà sinh chuyện. Nguyên trong đám gia nhân có tên hảo hán Mã Sơn Thành người gốc Hán tộc. Nghe đâu là tay vũ dũng tung hoành ở phương Bắc, sau thất thế phiêu bạt xuống Nam đến sống ở nơi này. Nương nhờ cửa nhà hào phú Phạm Bạch Hổ, họ Mã đem theo gia đình gồm vợ với hai con một trai một gái. Gái là lớn tuổi lúc ấy mới mười lăm, tên là Mã Phương Bảo. Phương Bảo nhan sắc hơn người, lại thêm đám gia nhân nịnh chủ bảo rằng: “gái dòng tộc Hán vừa đẹp vừa đa tình, chốn phòng the rất tài hoa”. Khiến tay hào phú Bạch Hổ cầm lòng không được liền lập kế gọi là “thu nhận dòng Hán vào danh môn”, mở tiệc khoản đãi họ Mã để nhận Mã vào hàng đệ tử của mình. Trong tiệc Bạch Hổ thấy nhan sắc của Phương Bảo tuyệt vời bao nhiêu thì lại càng sững sờ với vợ của Mã Sơn Thành bấy nhiêu! Vợ họ Mã tuy trọng tuổi, nhưng dung nhan lại ngầm chứa đựng những nét kiêu sa của người quý phái, dễ làm xiêu lòng người.
Mã Sơn Thành lòng ngay thẳng, trên đường phiêu bạt tưởng gặp được tay hào phú trọng nghĩa ở đời. Nào ngờ trong tiệc quá chén đến mê man, Bạch Hổ thừa cơ hãm hại Phương Bảo, lại chẳng tha mẹ cô bé. Thế là hai mẹ con đều bị Bạch Hổ làm nhục. Mã Sơn Thành thân bị giam cầm khổ sở, đau đớn về việc bị hại. Sau vượt ngục trốn thoát đem đứa con trai trốn biệt tích. Tới lúc ấy thì Bạch Hồ đã chán chường chuyện ong bướm với hai mẹ con Phương Bắc, lại lo sợ họ Mã trả thù. Liền ngầm sai gia nhận đem hai mẹ con lên đỉnh núi An Phụ mà thủ tiêu, mẹ thì dìm xuống ao Thiên Trì, con thì quăng xuống giếng Thiên Tỉnh.
Hai mẹ con Mã Phương Bảo chết uất hận sau hiển linh thường biến thành dải mây dài bay đi quấy phá, người đời mới lập một ngôi chùa đặt tên là Trường Vân làm nơi cúng Phật mà cũng làm nơi cho hai vong hồn uổng tử đến nương nhờ bóng Phật để giải mối hờn. Đến đời Hoằng Định nhà Lê sau này (1601-1618) có phát tiền công gia cho thiền sư Nam Nhạc sửa lại chùa, nay di tích vẫn còn.
Mã Sơn Thành trốn tránh, Tôn Phủ Nghi vốn vẫn ôm giấc mộng đế vương, đón về bí mật nuôi dưỡng, đối đãi như đối với bậc trượng phu ở đời. Đợi chờ cơ hội để nhờ Mã Sơn Thành giúp đỡ nhưng chưa biết dùng vào được việc gì.
Nay, Sứ quân Bạch Hổ mượn được binh Hoa Lư để trở lại Đằng Châu làm cho Tôn Phủ Nghi sợ hãi, nghĩ là phải làm sao giết cho được Phạm Phòng Át. Nhìn quanh chợt nhớ ra họ Mã, liền hấp tấp đến bảo:
- Sứ quân mượn binh Hoa Lư về dẹp Đằng Châu, nếu để y đưa được binh sang sông thì mọi mưu đồ của ta đều hỏng cả! Ông có dám vì ta mà ra tay một phen không?
Mã Sơn Thành khóc mà rằng:
- Ơn nghĩa lớn của ngài bổn phận tôi là phải làm sao đền đáp cho được. Tôi bơ vơ lạc lõng ở phương trời Nam này, vợ con bị hại. Nay được ngài ra tay cứu mới còn mạng, như thế thì mạng này là thuộc về ngài quyết định. Lại thêm, vợ con tôi chết thảm về tay tên giặc Bạch Hổ, thân nam nhi đứng trong trời đất đến việc vợ con cũng không che chở cho được để đến nỗi chết nhục như thế. Nay có cơ hội để trả ơn chủ, rửa thù cho vợ con, đòi lại nợ riêng, sao tôi lại tiếc gì chút công sức! Xin ngài cứ sai bảo!
Thế là hai thầy trò bàn bạc với nhau tìm cách giết Sứ quân Bạch Hổ. Xếp đặt xong xuôi, Tôn Phủ Nghi lại gấp lên đường sang Đằng Châu. Trước hết tìm đến tướng Lê Hoàn ở trong doanh thủy trại của Nghi Bá Tường. Tôn Phủ Nghi bảo với Lê Hoàn:
- Tôi vâng lệnh Quân sư gấp sang đây gặp tướng quân, đưa lời dặn của Quân sư cho tướng quân là: Sứ quân Bạch Hổ mượn binh Hoa Lư mang về Đằng Châu, phải hợp sức cùng các tướng khác cản không cho Bạch Hổ sang sông. Vậy tướng quân hãy cùng với tướng Nghi Bá Tường thi hành lệnh ấy!
Rồi Tôn Phủ Nghi lại xuống Nam phao đồn tin: Sứ quân Phạm Phòng Át mê mải vui chơi, nay đã một lòng đem Đằng Châu dâng cho Hoa Lư để cầu được ân sủng mai sau rồi! Thế là nội bộ Đằng Châu tan nát, Tôn Phủ Nghi gấp rút họp bàn với những tướng cùng mưu việc cướp ngôi Sứ quân phao lên là: “Tôn Phủ Nghi chẳng quản gian nguy, nhận lời các tướng tôn lập lên thay Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu. Tướng quân Nghi Bá Tường đã vâng lệnh đem thủy quân trấn giữ không cho Phạm Phòng Át đem binh Hoa Lư vượt Xích Đằng rồi”.
Các tướng Đằng Châu nghe tin, thảy đều hoang mang, đến khi thấy tướng Nghi Bá Tường đem thủy quân cùng tướng Lê Hoàn của Hoa Lư dàn ra trên sông đón chặn Phạm Phòng Át, thì các tướng tin là thật. Lại chẳng đề phòng các tướng Hoa Lư, nghĩ rằng các tướng này vâng lệnh Động chúa Đinh Bộ Lĩnh trấn giữ cho Đằng Châu được yên ổn.
Còn các tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Chu Kỷ Toàn của Hoa Lư thì đã được Quân sư báo cho biết tình thế. Lại được tin của Lê hoàn ở phía Bắc cho hay: Tôn Phủ Nghi muốn cướp ngôi Sứ quân, đánh lừa các tướng Đằng Châu để cản Phạm Phòng Át. Vì thế bốn tướng tới gặp các tướng Đằng Châu nói rằng: “Sứ quân di vắng lâu ngày, bây giờ lại có việc ông Tôn Phủ Nghi, chưa biết đích là thế nào, vậy nên đề phòng là hơn”. Rồi bốn tướng đem quân nói là giúp các tướng phòng giữ nhưng kỳ thực là kèm chặt một bên để chờ đợi. Các tướng Hoa Lư lại ngầm sai tế tác ra sức liên lạc với Lê Hoàn ở mặt Bắc, với Hoa Lu ở bên kia sông. Các tướng tuy ở xa đường đất nhưng chẳng lúc nào lại cảm thấy xa Động chúa với Quân sư Lê Thảo, lệnh đưa tới chỉ dẫn thật khít khao chẳng việc gì lại không biết.
Ngay sau khi có hội lớn để Sứ quân Phạm Bạch Hổ mượn binh Hoa Lư về chỉnh lý nội bộ ở Đằng Châu, tin loan truyền đi chẳng đâu là không biết. Nhưng trong dân gian thì lại nói rằng: Sứ quân Bạch Hổ về với Hoa Lư, nay Hoa Lư mang binh vào Đằng Châu, dứt Bình Kiều, lập thế lớn với thiên hạ chống lại quận Bắc phương sắp kéo xuống Giao Châu. Chẳng mấy chốc các Sứ quân đều nghe tin, khắp nơi hoang mang tính việc Giao Châu nhưng lại hầm hè nhau, ai cũng sợ các người chung quanh thừa cơ mình ra quân (chẳng biết đánh ai!) bất thần đánh lén sau lưng. Vì thế cả thiên hạ loạn mà vẫn không một Sứ quân nào dám đem quân xuất chiến ngoại biên!
Hai ngày sau khi Hoa Lư đại hội, thì Động chúa Hoa Lư mở đại tiệc tiễn Sứ quân Bạch Hổ với Tiên nương trở lại Đằng Châu. Tiệc tiễn mở ở trong doanh, lại theo lối người xưa tiễn trọng khanh bằng ba chén rượu trước quân. Bá tính đến xem Sứ quân Bạch Hổ chia tay với Hoa Lư, ai cũng trầm trồ khen ngợi Sứ quân là người có cốt cách hơn người. Chỉ phải trượng phu mà miệng lại xinh xắn chúm chín như miệng con gái!
Sứ quân Bạch Hổ mượn được năm nghìn binh Hoa Lư, năm tướng cầm quân theo lệnh Sứ quân, tất cả lên đường. Động chúa nói là còn phải thu xếp việc Hoa Lư, nên sẽ cùng với Quân sư lên đường sau. Quân sư chỉ tiễn vợ chồng Sứ quân Bạch Hổ ra khỏi đại doanh thì dừng bước.
Quân sư nói:
- Thưa Sứ quân, việc đời lên xuống thịnh suy là lẽ thường, nhưng mắt trần vẫn mở to mà lại không trông thấy trước được! Nay, Sứ quân vất vả việc quân, binh tướng Hoa Lư được lệnh phải hết lòng bảo vệ Sứ quân, cho dù phải hi sinh đến tính mạng cũng không được lui bước. Vậy tôi cầu mong Sứ quân được yên lòng trở lại Đằng Châu!
Quay sang Hồi Chúa Tiên nương, Quân sư vái một vái mà rằng:
- Thưa Tiên nương, mây bay trên trời, gió thổi dưới đất, thoáng lát đã mấy năm trời! Địch Vũ cắp gươm theo hầu Sa Điền lãnh chúa âm thầm với hình bóng Minh Lệ Nhược Hồng, phải đợi đến khi có ngọn lửa ở lầu Minh Phụng thì lòng mới rộng mở được! Năm xưa tôi kể chuyện hầu Tiên nương, có nói là mong được có ngày đến Ngọc Đồng để tìm Tiên trên trời xuống, nay thì tôi cho là thế nào tôi cũng có phen được tới Ngọc Đồng. Lúc ấy xin Tiên nương giúp tôi nói với các cô Tiên bạn nhé!
Rồi Quân sư chẳng đợi Hồi Chúc kịp nói gì, đã phát lệnh cho tướng cai quản tiền quân là Phạm Hạp cho quân lên đường ngay.
Tiền quân do tướng Phạm Hạp cai quản trước hết kéo đến đóng ở Khắc Cân, sửa soạn thuyền bè để đại quân vượt dòng Sinh Khuyết trước, rồi thông báo để Sứ quân với Tiên nương được biết. Sứ quân với Tiên nương bằng lòng lắm.
Chiều hôm ấy, binh tướng Hoa Lư bắt tay vào việc chuẩn bị độ giang, cả một vùng Khắc Cân tấp nập quân binh Hoa Lư, bá tính đến xem lại còn đông hơn cả quân đang làm việc.
Tiên nương Hồi Chúc cùng Sứ quân theo binh rời Hoa Lư, sự thể rành rành là Động chúa Hoa Lư với Quân sư Lê Thảo thật lòng cho mượn binh tướng. Nhưng trong lòng vẫn cứ thắc mắc nghi hoặc bàn mãi với nhau vẫn không làm sao hiểu nổi! Bảo rằng đây là âm mưu quỷ kể gì của Quân sư Lê Thảo, thì phải giải thích việc quân hành này như thế nào? Vả chăng, Động chúa hay Quân sư không theo quân cùng đi, rõ ràng là Hoa Lư để cho Sứ quân toàn quyền sai bảo binh tướng, muốn hành động ra sao tùy ý. Không thể bảo được rằng Hoa Lư có mưu mô gì xấu cả!
Bây giờ, quân đóng trại, sửa soạn sang sông. Sứ quân với Tiên nương không có việc gì liền đi xem binh tướng Hoa Lư sửa soạn sang sông.
Thời tiết cuối năm vừa dứt mùa mưa, khí hậu mát mẻ, trời đất quang đãng nhưng mây thấp, lâu lâu nắng chợt bừng lên, một làn gió đông thổi tới mát lạnh, trời sắp vào Đông.
Sứ quân cùng với Tiên nương đem theo quân hầu lững thững ra khỏi doanh. Tin báo tới lập tức tướng cai quản tiền quân là Phạm Hạp tới lạy chào, rồi ủy cho tướng Hồ Tường Thụy đi theo để hộ tống. Cả bọn ra khỏi doanh nhắm hướng ngã ba Gián Khẩu tiến tới.
Ngã ba Gián Khẩu là nơi có một dòng từ sông Sinh Khuyết chảy lại, một ngã từ ngã ba Đồng Đinh chảy tới, cả hai hợp lại với nhau đổ xuống ngã ba Non Nước. Phong cảnh ở đây thật hữu tình, êm ấm, cảnh sắc cuối thu tuy cây cối vẫn còn tiêu điều nhưng vẻ hoang sơ lại đẹp như trong tranh vẽ. Nếu như người nhàn lương chẳng bận việc đời tới chỗ này nghỉ ngơi di dưỡng thì thật là thần tiên. Ngã ba Gián Khẩu có quán “Thông Thiên” của đạo sĩ tên tuổi không ai biết, chỉ biết đạo hiệu là “Thông Thiên đạo sư”. Đạo sư nhà có mái lợp bằng cỏ thi, giường nằm cũng lót cỏ thi, đến ghế ngồi để tiếp khách cũng bọc cỏ thi. Đạo sĩ bảo: ở huyện Yên Mô có rặng núi Bạch Bát, trong núi cỏ thi mọc như mây trời mùa thu. Cỏ ấy hiền triết đời xưa dùng để bói quẻ cầu trời đất chỉ bảo cho biết thiên cơ, nay đem về làm nhà, lót giường, bọc ghế ngồi. Ấy là để cho trời đất theo cỏ thiêng mà thấm vào tận tim óc, có thế mới nhìn thấy hết mọi huyền cơ ở đời.
Đạo sĩ ngồi trong nhà cỏ thi mà xem quẻ giúp thiên hạ không nhận bạc vàng đồ lễ cúng gì cả. Chỉ đòi: đàn ông phải đem đến nộp bảy nắm cỏ thi, đàn bà nộp chín nắm. Cỏ ấy đạo sĩ một nửa lót giường nằm, một nửa để ban cho những người nào đạo sĩ bảo là người hiền ở đời. Dân quanh vùng sông nước chỗ ngã ba Gián Khẩu xuống đến tận ngã ba đò quan Non Nước kính trọng đạo sĩ lắm. Hàng ngày đem hoa quả đến dâng cúng đạo sĩ, đạo sĩ chỉ lấy đủ ăn trong ngày còn thì đem cho hết thiên hạ.
Đạo sĩ Thông Thiên bói cỏ thi khác người, mỗi lần có người đến hỏi, chẳng nói là bởi việc gì. Ông lẳng lặng thầm khấn trời đất, rồi bảo khách lấy từ các bó cỏ đem đến nộp lệ mỗi bó một cọng, đem những cọng cỏ ấy mỗi tay giữ một ít. Sau trình ra cho đạo sĩ xem. Đạo sĩ xem số ngọn cỏ trong mỗi tay, hợp luận với sao trên trời vận hành trong ngày hôm ấy, lại xét đến giờ trong ngày, hỏi tuổi, vấn hướng nhà. Rồi đạo sĩ định thần sau bảo là vân du lên tận thiên đình nhờ xem sổ Trời để nói ra bí mật của thiên cơ. Có điều đạo sĩ không nói nhiều, bao giờ cũng chỉ nói một hai lời, việc nào hệ trọng nhất mà thôi. Như có người đến hỏi vóc vạc to lớn khỏe mạnh đạo sĩ chỉ nói: “sắp chết” thì người ấy trong vòng đôi ba ngày là cùng, thế nào cũng chết. Có người đạo Sĩ chỉ nói: “yên” thì cho dù gia đạo đang tan nát cũng cứ yên lòng thế nào cũng được yên ổn...
Lúc Sứ quân cùng Tiên nương ra ngoài doanh. Sứ quân quay lại nói với Tiên nương:
- Hoa Lư nhiều cảnh đẹp, lại lắm chuyện kỳ! Ta từng nghe ở bến Gián Khẩu có đạo sĩ bói cỏ thi biết việc trên thiên đình, dưới âm ti. Nay nhân lúc đi gần Gián Khẩu ta cũng nên đến hỏi việc đạo sĩ một lần cho biết!
Tiên nương vốn ưa thích những chuyện trên Trời huyền bí cho là phải, tướng quân Hồ Tường Thụy thưa:
- Thưa Sứ quân, thưa Tiên nương, tôi nghĩ người ta ở đời tuy trên đầu có trời cao thật, nhưng việc là do mình nghĩ mình làm thì cứ tính cho kỹ là có thể biết được thành hay hỏng. Còn việc bói toán chẳng qua là điều mơ hồ chẳng nên tin. Sứ quân với Tiên nương đi thăm cảnh Gián Khẩu là điều nên làm, còn đến thăm đạo sĩ trốn việc đời thì tôi nghĩ chẳng nên mất công!
Tiên nương nói ngay:
- Ấy việc đời mù mịt, người trần chẳng thấy được cho nên mới phải hỏi bực Thông Thiên, sao tướng quân lại nói thế!
Hồ Tường Thụy mỉm cười đáp:
- Thưa Tiên nương, thì ngay như đạo sĩ ấy cũng chỉ là người thường có khác gì ai đâu. Chẳng qua là ông ta nói ra những điều không ai biết cả, cho nên thiên hạ vội tin là đúng đấy!
- Chỉ mình ông ta nói ra được điều chẳng ai biết, rõ ràng ông ta là người biết việc trời đất chứ!
Hồ Tường Thụy không cãi thêm nữa, lẳng lặng cho ngựa theo hầu Sứ quân với Tiên nương. Cả bọn đi chưa được mấy khoảng đường, quan lộ quang đãng, bá tính thấy Sứ quân vi hành thì dẹp cả ra hai bên đường nhường lối. Bỗng nhiên con ngựa của người lính hầu theo sau Sứ quân quỳ gối như thể đạp phải chỗ hố sâu, hất văng người lính, suýt chút nữa thì va cả vào Sứ quân. Việc chộn rộn vừa xong, cả đám tiếp tục đường đi, ngựa của tướng Hồ Tường Thụy vừa dậm bước sắp đặt vó lên chiếc cầu gỗ nhỏ bắc qua khe Tinh Thủy nơi đầu chợ Bồ Đề dựa quan lộ. Khe nước chảy yếu thật êm bỗng dưng cuốn ngay cầu gỗ trôi đi, làm cho con ngựa hụt bước suýt rơi xuống khe.
Hồ Tường Thụy may kịp kìm ngựa, cả đám dừng bước xôn xao về việc lạ. Thụy sai quân có dân giúp tay gấp sửa lại cầu để Sứ quân đi. Cầu bắc xong, cả bọn yên lặng chẳng ai nói lời nào, trong lòng người nào cũng thấy băn khoăn về việc lạ. Đường đi theo quan lộ, đến trước chợ chiều thưa thớt người, thì ngôi nhà lớn giữa chợ cất bằng gỗ xuyên ti chẳng có gió bỗng nhiên sụp đổ. May không ai bị nạn! Lần xảy việc lạ này thì hết thảy mọi người đều thấy bồn chồn lo lắng, đến như tướng Hồ Tường Thụy cũng phải lên tiếng xin Sứ quân trở về, Thụy nói:
- Thưa Sứ quân, việc bói toán là điều không tin được, vậy xin Sứ quân chỉ nên đi xem phong cảnh là hơn. Tôi xin được dẹp đường để Sứ quân hồi doanh!
Mấy việc lạ xảy ra làm Sứ quân cũng cảm thấy bồn chồn không yên trong lòng. Khi nghe Hồ Tường Thụy nói như vậy thì Sứ quân đã chực nghe theo lời mà quay trở lại, nhưng Tiên nương đã cười mà rằng:
- Lúc này, tướng quân bảo việc bói toán là điều không tin được, nay thì những việc tình cờ xảy ra tại sao tướng quân lại tin là thực để lo lắng như thế? Ta cứ đi đến Gián Khẩu xem sao!
Tướng Hồ Tường Thụy chưa biết nói sao, phía sau đã thấy có một kỵ sĩ giục ngựa chạy đến, kỵ sĩ đến trước ngựa Hồ Tường Thụy thưa:
- Trình tướng quân, ông Phạm Hạp sai tôi gấp thưa tướng quân hộ tống Sứ quân trở về doanh ngay! Đằng Châu có loạn lớn, các tướng giết nhau, tình hình nguy cấp lắm, xin tướng quân trở về ngay!
Kỵ sĩ trình tin ai cũng nghe thấy cả. Hồ Tường Thụy nhìn sang Sứ quân có ý đợi chờ Sứ quân quyết định. Sứ quân lại nhìn sang Hồi Chúc Tiên nương như thể để hỏi ý kiến. Hồi Chức khoan thai nói:
- Chính vì việc Đằng Châu có loạn, cho nên mới phải có việc binh Hoa Lư theo ta ra đi, thế thì việc các tướng làm loạn chém giết nhau có gì là lạ! Ta thấy càng nên phải đi hỏi đạo sư mới được! Ở nơi này các tướng làm loạn hại gì được ta?
Rồi quay sang Hồ Tường Thụy, Tiên nương bảo:
- Tướng quân đừng lo lắng gì cả, việc Đằng Châu đã có dàn xếp, ta tiếp tục đến Gián Khẩu!
Giọng nói của Tiên nương êm đềm mà có uy quyền vô cùng, Hồ Tường Thụy đáp:
- Thưa Tiên nương, tôi xin vâng theo ý của Tiên nương! Chỉ e việc đi hỏi đạo sĩ uổng công mà thôi!
Tiên nương cười không nói, cả bọn lại tiếp tục đường đi. Đường quan lộ không rộng, đến đây là địa giới phân chia hai xã Át Lỗ và Yên Đăng, cảnh trí có phần hoang vu. Quan lộ nối hai xã giáp nhau bằng một cây cầu, gọi là cầu Yên. Vượt cầu Yên đi khoảng tàn hai cây hương là tới ngã ba Gián Khẩu. Đường không xa nhưng là nơi giáp ranh hai xã cho nên nhà cửa thưa vắng, cây cỏ hoang mọc rậm, nhiều đường mòn nhỏ chạy đi các ngả. Nhìn quang cảnh ấy Hồ Tường Thụy chẳng khỏi e ngại trong lòng, giữa lúc khắp nơi tao loạn. Dù rằng nơi này là vùng Hoa Lư trông coi, làm sao quyết chắc được là chẳng có giặc cướp! Vả lại, nhớ đến mấy việc lạ có khác gì điềm gở báo trước, thì Hồ Tường Thụy vốn là võ tướng cương cường tin ở tài mình cũng vẫn cảm thấy lo lắng vu vơ.
Lo thì lo nhưng Hồ Tường Thụy vẫn phải cho ngựa tiến lên trước mở đường. Nghe chung quanh chẳng có tiếng người, cũng chẳng thấy có tiếng chim muông hay thú vật. Trời chiều sắp chạng vạng, cây cối rậm rạp khiến cho như nơi này tối hẳn lại.
Hồ Tường Thụy cho ngựa thận trọng qua cầu Yên. Cầu ghép bằng tre không rộng, chia quan lộ thành ranh giới hai xã. Quan lộ trước mặt chạy vòng ở xa rồi ngoặt sang bên phải mất hút phía sau các rặng cây bụi rậm. Dưới cầu không có nước chảy, chỉ thấy có cây bụi um tùm chạm cả đến sàn cầu. Hồ Tường Thụy vượt khỏi cầu, đám quân hầu theo sát phía sau.
Lúc ngựa của Sứ quân đặt vó lên cầu, thì dưới gầm cầu nghe “soạt” một tiếng thật mạnh. Tiếp ngay sau đây là có tiếng thét lớn, rồi một bóng người vọt lên như một vệt khói đen nhằm phía Sứ quân vọt tới.
Việc xảy ra quá nhanh, chính nhờ tiếng thét rồi bóng người vụt xuất hiện vọt từ dưới lên. Một đằng làm cho con ngựa của Sứ quân kinh hoàng giật mình dựng ngược hai vó trước, hất tung Sứ quân khỏi yên cưỡi. Sứ quân thoát khỏi đường dao như chớp giật của thích khách.
Tiếng thét như có sức mạnh giật ngược tướng Hồ Tường Thụy quay trở lại, kịp thấy Sứ quân văng khỏi lưng ngựa. Thụy hồn vía lên mây, đã tưởng là Sứ quân bị hại rồi, lại thấy có bóng người vút đi giữa đám quân hỗn loạn. Thụy không kịp cho ngựa chạy tới, nhưng tay cũng đã mau lẹ dị thường phát đi một đường tên nhanh hơn sao xẹt. Đúng lúc ấy nghe “chát” một tiếng, mũi tên đã bắn trúng lưỡi dao của người lạ vừa vung lên đuổi theo, toan đâm tới Sứ quân.
Người lạ hụt nhát đâm, lưỡi dao trong tay vuột mất vì đường tên thần kỳ. Liền thét lên tiếng nữa vọt mình tới phóng ra một ngọn cước chân, nhằm giữa ngực Sứ quân kích tới cực mạnh. Tới lúc ấy thì quân hầu có người đã tĩnh trí liền tung cây giáo chặn thích khách lại. Ngọn giáo đón đúng mũi giày của thích khách “rắc” một tiếng gãy làm hai. Đà đi của ngọn giáo gãy ào tới đủ mạnh để vẫn đâm ngập vào vai bên phải của Sứ quân. Nhờ có cây giáo gãy đâm trúng hất Sứ quân bật ngửa ngã xuống. Tránh được ngọn cước của thích khách vẫn tiếp tục lướt tới.
Sau khi phát đường tên đánh bật dao của thích khách, Hồ Tường Thụy vừa giục ngựa chạy tới, tay cung lại phát đi mũi tên thứ hai. Đường tên thứ hai này bay đi đúng vào lúc thích khách đá hụt Sứ quân vì ngọn giáo cản bộ. Thích khách dốc hết trí lực vào việc sát hại Sứ quân nên không đề phòng chung quanh. Ngọn tên của Hồ Tường Thụy nhanh còn hơn tia chớp bay tới đâm ngập vào giữa lưng thích khách, lúc ấy còn chưa kịp hạ xuống đất.
Thích khách như trái cây chín rụng xuống, quân hò hét toan đâm chém thì Hồ Tường Thụy đã thét lớn:
- Không được giết!
Cùng với tiếng thét, Hồ Tường Thụy đã vọt tới rồi tung mình khỏi lưng ngựa chạy đến đỡ Sứ quân dậy. Thụy thấy Sứ quân da mặt vốn trắng nay nhợt nhạt như xác chết rồi. Máu từ chỗ mũi giáo vẫn cắm trên vai rỉ ra. Thụy quan sát vết thương, rồi nâng cánh tay Sứ quân lên, một tay Thụy chấn vào huyệt trấn thống trong nách, một tay Thụy nhổ ngọn giáo ra. Giáo đâm không mạnh lắm chạm vào xương đòn gánh thì dừng lại, may xương không bị gãy. Hồ Tường Thụy xé vạt chiến bào nhẹ của mình ra tạm buộc vết thương cho Sứ quân, rồi đỡ Sứ quân lên ngựa.
Việc xảy ra nhanh vô cùng, từng ấy việc diễn ra chưa đủ lâu để Hồi Chúc Tiên nương có thể kịp có phản ứng gì. Bây giờ Tiên nương mới thốt lêu lên được hai tiếng “Trời ơi!” Thì lảo đảo trên lưng ngựa. Hồ Tường Thụy vọt tới kịp giữ cho Tiên nương khỏi ngã xuống. Thụy vươn tay vỗ nhẹ vào lưng Tiên nương mấy cái gọi tỉnh Tiên nương ngay.
Sự thể chộn rộn náo động thế là hết. Quân đã hè nhau đè thích khách xuống trói chặt lại, rồi dòng đến trước tướng Hồ Tường Thụy. Sau lưng thích khách mũi tên còn cắm ngập.
Thích khách là một hán tử vóc người to lớn, mặt đẹp hiên ngang, rắn rỏi. Thích khách nhìn Sứ quân thì có vẻ tức giận lắm, hai hàm răng nghiến chặt vào nhau. Vừa uất hận, vừa đau đớn vì mũi tên sau lưng đâm ngập vào giữa xương sống.
Hồ Tường Thụy hỏi:
- Ngươi là ai, sao lại muốn sát hại Sứ quân Bạch Hổ?
Thích khách có nhếch mép cười mà không được, hổn hển đáp:
- Tên giặc Bạch Hổ có nợ lớn hãm hại giết vợ con ta, toan giết nốt cả ta để trốn tội, tiếc rằng trời chẳng tựa ta!
Sứ quân Bạch Hổ nghe thích khách nói, hơi giật mình nheo mắt gượng đau nhìn thích khách. Thích khách cố thu tàn lực ưỡn ngực nói:
- Bạch Hổ, mi đã thấy rõ mặt Xuyên Ngư Mã Sơn Thành ta chưa?
Bây giờ thì Sứ quân đã nhìn rõ, việc xưa hốt nhiên vụt hiện về. Sứ quân đã nhớ cả, ngài chưa kịp lên tiếng thì thích khách nhũn người ra rũ xuống. Thế là bí mật lại hoàn toàn bí mật, chẳng một người nào biết chuyện ngày xưa!
Tới đây, chuyến đi chơi Gián Khẩu của Sứ quân đành bỏ dở. Hồ Tường Thụy đưa Sứ quân trở về doanh, rồi gấp đưa trở lại Hoa Lư để nhờ Thần y xem xét vết thương. Việc quân thế là đành phải hoãn lại, nhưng chỉ có việc Sứ quân Bạch Hổ hoãn về Đằng Châu chứ không có việc thiên hạ chuyển động bị đình trệ!
Sứ quân vừa về đến Hoa Lư, việc chộn rộn vì Sứ quân bị mưu sát chưa yên. Đã thấy tể tác gấp tới trình: Đằng Châu đã bị các tướng chiếm giữ, binh tướng Hoa Lư án binh không thể hành động để cản được loạn. Các tướng đã truất phế Sứ quân, lúc này còn đang tranh giành nhau chưa định tôn xưng hẳn một ai lên thay Sứ quân. Tôn Phủ Nghi bị tướng quân Phác Đức Giật giết chết rồi!
Sứ quân nghe tin, lại thêm vết thương đau tấy, làm cho tinh thần Sứ quân càng thêm sa sút. Ngài thiêm thiếp trên giường bệnh, mặc cho Thần y muốn nạo rửa đắp thuốc thế nào cũng chẳng buồn cựa quậy. Còn Tiên nương, cho đến lúc ấy cũng chưa hết kinh hoàng khiếp đảm. Tiên nương như người lạc thần ngơ ngác, các tỳ nữ đưa vào phòng riêng thì vật xuống, rồi thiếp đi như người quá mệt mỏi ngủ say.
Hồ Tường Thụy kể hết mọi việc cho Động chúa, Quân sư cùng các tướng nghe, nghe xong Động chúa quay sang hỏi Quân sư:
- Quân sư có biết Xuyên Ngư Mã Sơn Thành là người thế nào không?
Quân sư đáp:
- Thưa Động chúa, ngày trước trên đường từ Cổ Loa xuống Hoa Lư. Khi đi qua vùng chợ xã Dị Sử trong huyện Đường Hào, châu Thượng Hồng (Hải Dương). Tôi có nghe người ở đấy khẩu truyền với nhau về một nhân vật hào kiệt phương Bắc lánh nạn đến ở nơi kẻ chợ này. Nhân vật ấy danh tiếng với mỹ hiệu là Xuyên Ngư Thần. Có tài lặn dưới nước đuổi theo cá phóng một chiếc xiên tre dài khoảng hai sải tay, cho đến khi xiên ấy xuyên đầy cá, không còn chỗ chứa mới ngoi lên mặt nước. Xuyên Ngư Thần đến châu Thượng Hồng. Đúng vào dịp huyện lệnh Đường Hào mở đại tiệc mừng thọ. Sai dân chài sống chung quanh hai nhánh sông Đạo Khê; nhánh phía Tây huyện trải dài qua ba mươi lăm dặm đến tận xã An Xá, Kim Quan, Trữ La, Trường Kỳ vào sông Mao Điền. Nội một ngày mười hai tháng Năm năm đó phải nộp đủ cho huyện quan mười nghìn con cá lình. Sai lệnh thì cứ ba định lấy một đem đánh đủ trăm roi, phạt vạ ba mươi ngày công ích. Một giải sông dài mênh mông, làm sao nội một ngày mà lưới được ngần ấy con cá! Dân chài vạch trời chẳng tới, chắc là thế nào cũng bị họa lớn không tránh được!
May lúc ấy, Mã Sơn Thành đi qua, nghe biết việc liền tình nguyện một mình xuống sông bắt cá cứu dân chài. Mã Sơn Thành xuống nước, đuổi bắt cá suốt từ sáng đến khi mặt trời đứng bóng cũng chỉ xuyên được có hơn một trăm con cá lình. Vùng sông ở đây chẳng nhiều giống cá ấy! Nghĩ tình cảnh khốn cùng của trăm dân, nào có khác gì tình cảnh ở nơi quê xa phương Bắc. Họ Mã liền nảy mẹo: đuổi bắt cá đối có nhiều ở đoạn sông này, thay cho cá lình. Hai loài cá khác nhau, nhưng cá đối rất béo. Mã Sơn Thành chẳng mấy lúc đã đuổi và xiên được đủ số cá huyện lệnh đòi hỏi. Dân đem nộp lệnh quan, xét chỉ có hơn trăm con cá lình, còn thì toàn là cá đối, thôi thì việc lễ mừng như vậy cũng tạm cho là được. Sai thưởng cho Mã Sơn Thành một cân bạc vụn. Dân chài nhớ ơn muốn lưu Thành lại để đãi đằng tạ ơn. Thành không nhận, dân chài mới tặng Mã Sơn Thành mỹ hiệu là Xuyên Ngư Thần là thế. Thành nhận thưởng của huyện lệnh xong, thì lập tức đem vợ con lánh xa ngay nơi ấy. Gấp đường xuống Nam vào Đằng Châu, theo phù phú hào Phạm Phòng Át. Rồi bị Át đoạt vợ con lại toan giết Thành để trừ hậu hoạn, nhưng Thành trốn thoát chẳng biết lưu lạc về đâu. Hóa ra nay lại hiện ra ở đây để chục giết Sứ quân Bạch Hổ trả thù cũ!
Sở dĩ Mã Sơn Thành phải bỏ Đường Hào đi gấp, là vì giống cá đổi ở đoạn sông này có độc không ăn được. Sợ rằng khi huyện lệnh biết như thế thì thế nào cũng không thoát nguy. Không biết số cá đối ấy huyện lệnh đem mở tiệc mừng thọ có sinh tai họa nào không thì không biết!
Trải qua nhiều năm sau, có danh sĩ Nguyễn Trãi đời nhà Lê cũng có nói rõ rằng: “Cá đối huyện Đường Hào có độc, không thể ăn được”.
Nghe Quân sư thuật, bây giờ mọi người mới hiểu nguyên do vì đâu Sứ quân Phạm Bạch Hổ lại suýt chết vì bị người mưu sát, mà thích khách gốc gác là người thế nào?
Quân sư tiếp:
- Thưa Động chúa, trong việc này tôi chắc là có Tôn Phủ Nghi can dự! Trước tôi chỉ thấy những hành vi của Tôn, rồi nghi ngờ cho người theo dõi thì chỉ biết Tôn có nuôi giấu trong nhà một nhân vật là phương xa. Rồi khi đem xét với những việc ở Đằng Châu thì quả nhiên: Đằng Châu chẳng có loạn gì lớn lao, mà chỉ có việc Tôn đi lại xúi bẩy các tướng. Lại lên tận thủy trại của Nghi Bá Tường để gặp ông Lê Hoàn, nhờ Hoàn với Tường đem thủy quân dàn ra. Một mặt đánh tiếng sắp tiến đánh lấy Bình Kiều, một mặt có ý đe dọa các tướng trung thành với Sứ quân. Phao lên rằng: Sứ quân theo về với Hoa Lư, nay đem binh Hoa Lư về triệt hạ các tướng để tỏ ý trung thành với Hoa Lư. Tôn Phủ Nghi làm như thế, để đợi đến khi tình thế hỗn loạn, các tướng chém giết nhau, là Tôn đứng ra dàn xếp. Lại có ý đợi các tướng trước tình hình nguy ngập sắp bị Hoa Lư triệt hạ thì phải gấp mời Tôn lên thay Sứ quân để bên ngoài thì giữ hòa với Hoa Lư, bên trong thì ổn định tình hình. Tới lúc ấy, Sứ quân không còn đường về, hoặc giả Sứ quân cứ mang binh Hoa Lư ta về Đằng Châu thì tôi chắc là các tướng lúc ấy càng tin theo họ Tôn hơn nữa. Binh tướng của ta sẽ nói là “không can thiệp vào Đằng Châu” để mặc Sứ quân quyết định!
Động chúa hỏi:
- Thế giả thử Sứ quân cứ quyết về Đằng Châu thì sao?
- Thưa, Phạm Bạch Hổ vốn nhu nhược, vào việc trước tiên hay hỏi Hồi Chúc, rồi đến các tướng văn võ. Nay Sứ quân trúng thương suýt chết, nhất định tinh thần chẳng còn, làm gì còn dám dấn thân vào nơi nguy hiểm nữa! Còn Hồi Chúc thông minh có thừa, nhưng lại chỉ dùng được thông minh ấy lúc an bình, vào việc lớn không có đởm lược. Cứ xem lúc Sứ quân bị thích khách bất thần ám hại, Hồi Chúc lúc ấy ra sao?
Động chúa gật gù, bảo:
- Vậy lúc này ta nên đối xử với Phạm Phòng Át như thế nào?
- Ta cứ bắt ông ta phải nằm yên một chỗ mà dưỡng thương, nhưng lại có ý muốn Sứ quân gấp về Đằng Châu. cho thấy việc Đằng Châu là nguy hiểm và ngầm bảo ý ta là không muốn xâm phạm Đằng Châu. Khi nào Sứ quân sợ hãi, chán nản theo về hẳn với ta thì lúc ấy ta mới nói rõ cho cả thiên hạ biết. Rồi giải quyết Đằng Châu ngay cùng một lúc với Bình Kiều!
Động chúa hài lòng lắm, liền đem Quân sư cùng các tướng đi thăm vợ chồng Sứ quân Phạm Phòng Át.
Gặp Sứ quân, hỏi han xong, Động chúa hỏi:
- Tướng Hoa Lư thật kém, để cho Sứ quân phải kinh hãi! Thôi thì ngài nghỉ ít ngày cho khỏe hẳn rồi ngài lại lên đường về Đằng Châu thu xếp mọi việc!
Sứ quân cảm tạ, lại hỏi Quân sư:
- Thưa Quân sư, việc bây giờ thế nào?
Sứ quân chẳng hỏi rõ vào một việc gì. Quân sư mừng là chưa biết nên ngỏ lời thế nào thì Sứ quân đã hỏi, liền đáp:
- Thưa Sứ quân, việc binh Hoa Lư theo ngài về Đằng Châu thì vẫn đang đợi chờ. Còn việc bên Đằng Châu thì tôi thấy lúc này Sứ quân còn đang mệt, chưa nên đề cập tới e rằng không tốt!
Sứ quân mệt mỏi hỏi lại:
- Việc thế nào mà không nên nói ra lúc này? Quân sư cứ cho tôi nghe!
- Thưa, tôi nghĩ những việc như thế trình Sứ quân vào lúc như thế này không yên!
Sứ quân rất bình tĩnh, giọng rắn rỏi bảo:
- Ông cứ nói!
Quân sư ngập ngừng đôi chút, rồi nói:
- Vâng lệnh Sứ quân trình việc, thật tôi nghĩ chẳng nên nói việc lúc này. Sứ quân chỉ nên nghỉ thì hơn...
Quân sư chưa nói hết, tế sứ đã bước vội vào, chân cố đi cho thật nhẹ. Động chúa nhìn ra nheo nheo mắt có vẻ khó chịu. Tế sứ có phần sợ sệt thì Quân sư đã bước nhanh ra đón, hai người cách giường nằm của Sứ quân chừng vài bước chân dài. Quân sư ra hiệu cho tế sứ trình việc thật khẽ riêng một mình Quân sư nghe mà thôi. Tế sứ thì thầm, Quân sư lắng nghe nét mặt nhiều lúc thật gay cấn, căng thẳng. Tế sứ thì thầm cũng với vẻ mặt thật khẩn trương. Rồi tế sứ cao giọng bình thường:
- Việc khẩn trình Quân sư định liệu!
Quân sư vừa ra hiệu cho tế sứ đi ra, vừa bảo:
- Tiếp công việc, hết sức chú trọng!
Tế sứ đi ra, Quân sư nhìn nhanh Động chúa. Sứ quân đã hỏi ngay:
- Có tin gì khẩn cấp?
Sứ quân không đắn đi gì nữa, giọng thật rõ ràng:
- Thưa trình Sứ quân, Động chúa, Đằng Châu đã xuất quân, tất cả các cửa ngõ, lỵ sở quan trọng đều phong bế cả rồi! Tướng trấn thủy quân Nghi Bá Tường đem thủy quân một phần xuống Nam tiếp trợ cho phủ đường. Một phần lớn chuẩn bị kéo lên phía Bắc, rời Bằng Nho để trợ chiến cho quân bộ sắp vào Bình Kiều. Tướng Trấn Giang lại đem theo cả tướng Hoa Lư là Lê Hoàn lên soái thuyền, có ý cầm giữ Hoàn không cho liên lạc với bốn tướng nữa của Hoa Lư!
Thế là Đằng Châu thật sự bị mất, Sứ quân chẳng còn đường về, các tướng Đằng Châu quyết liệt phản lại Sứ quân Phạm Bạch Hổ! Việc Quân sư vừa trình ra, không ai là không kinh hãi. Động chúa vẻ tức giận, cố giữ cho giọng không lớn, bảo:
- Bọn phản loạn dám cầm giữ cả tướng của ta! Không ra tay ngay còn đợi đến lúc nào?
Quay sang Sứ quân lúc ấy nằm im như chẳng xúc động gì, ngài đã kiệt quệ cả tinh thần lẫn sức khỏe. Nghe trình tin thì hoang mang chẳng biết nên phải thế nào. Đến khi nghe Động chúa nói thì tiếp lời có phần vu vơ:
- Phải, phải hành động ngay!
Động chúa tiếp liền:
- Phải, ngài nên cố về ngay Đằng Châu dàn xếp mọi việc! Hoa Lư tôi không thể làm việc này thay ngài được!
Sứ quân như chợt giật mình, cố ngóc dậy mà rằng:
- Không phải! Tôi nói là phải hành động ngay là hành động việc khác! Còn về Đằng Châu thì sức tôi e không kham nổi rồi!
Quân sư hỏi:
- Thưa, Sứ quân ngài nói hành động việc khác ngay là việc gì?
Sứ quân lại nằm xuống, mệt nhọc, rồi chậm chậm nói:
- Tôi vẫn biết dưới trướng có những kẻ muốn làm phản, tranh giành ngôi vị của tôi! Nay chỉ vì tôi đi chơi lâu ngày thành ra bọn chúng có cơ hội làm phản cũng phải! Thế gian này chẳng của riêng ai, nhiều lúc tôi nghĩ ngợi: Ngần ấy người hùng cứ cõi Giao Châu ta. Nhưng thật ra chẳng có nơi nào đáng mặt! Tôi được ở Hoa Lư lâu ngày, lại được Động chúa chẳng ghét bỏ đối đãi trong hậu. Lại nhiều lần cho được dự cả vào việc lớn, đã thấy hết được chí cả sức hùng của Hoa Lư. Từ lâu đã muốn theo về với Hoa Lư mà chưa có cơ hội. Nay, trên giường bệnh, sức mòn mỏi, tài hèn. Nếu mượn binh Hoa Lư về tranh lại Đằng Châu, một là chưa chắc đã thành, hai là mang tiếng với thiên hạ là mượn tay người ngoài để giết người nhà, ba là làm cho Hoa Lư mang tiếng mang binh vào ngoại thổ xâm lấn người khác. Vì thế, chi bằng đem Đằng Châu để Hoa Lư chỉ xử. Vợ chồng tôi xin được theo hầu dưới trướng Động chúa kể từ đây!
Động chúa Hoa Lư ngẩn người, không biết ngài nghĩ thế nào, thì Quân sư đã vội đáp:
- Chết nỗi! Sứ quân nói thế có khác nào để cho Động chúa Hoa Lư tiếng ác hay không?
Sứ quân nhíu mày, cặp môi chúm chím mấp máy, hỏi lại:
- Thế nào là ta đổ tiếng ác cho Động chúa Hoa Lư?
- Thưa, giữa lúc Sứ quân gặp khó khăn, giang sơn lại nhiễu loạn. Nay nếu như ý lành của Sứ quân chẳng được thiên hạ hiểu thấu, chỉ nhìn việc bên ngoài mà xét theo lòng nhỏ nhen thường tình. Thì tránh sao chẳng quy cho Động chúa chúng tôi là nhân lúc Sứ quân gặp bĩ mà xử mẹo dùng mưu chiếm đất hay không? Vả chăng, cũng lại chưa thấy có dạy bảo gì của Tiên nương cả!
Giả thử như Sứ quân không nói rõ ra cho mọi người nghe về ý định của mình thì chẳng sao. Nhưng Sứ quân đã trót nói ra trong tình thế như bây giờ. Việc đến nông nỗi này làm cho Sứ quân không thể không tiến tới, lui không được nữa. Sứ quân bảo:
- Lúc đuổi binh triều chạy qua lãnh thổ của ta, xong việc Động chúa về ngay, binh Hoa Lư lui về cả. Còn năm tướng với binh Hoa Lư còn ở lại Đằng Châu suốt ngần ấy năm trời. Trước sau vẫn giữ đúng như lời nói là: giúp cho Đằng Châuyên ốn, bất kỳ lúc nào ta muốn thì binh tướng Hoa Lư cũng ra khỏi lãnh địa của ta ngay. Như thế chẳng phải là ý lành của Hoa Lư đã hiển hiện khắp thiên hạ đều rõ cả rồi sao? Ấy cũng vì thế, cả thiên hạ không trách gì Hoa Lư, nể nang hào khí ấy cho nên Đằng Châu chẳng bị ai xâm phạm. Nay ta nhìn thấy Hoa Lư theo đuổi việc lớn đất nước, lấy đại nghĩa để thu thiên hạ. Thì việc ta hưởng ứng việc làm của Hoa Lư có gì là sai trái. Đã thế ta nghĩ: được Hoa Lư thuận cho theo là một vinh dự mới phải, chứ sao lại là đổ tiếng ác cho Hoa Lư!
Sứ quân nói một hơi dài có vẻ mệt nên ngừng lại để nghỉ, tất cả mọi người im lặng. Quang cảnh có vẻ nghiêm trọng, nhìn ra thấy Quân sư vẻ băn khoăn. Còn Động chúa lộ vẻ không yên lòng, các tướng thì có người ghé tai người khác thì thầm điều gì có vẻ gay cấn.
Sứ quân không nhìn ai, ngài tiếp:
- Còn ý kiến của Tiên nương, thật ra ta có hay hỏi ý kiến Tiên nương về nhiều việc, nhưng ta mới chính là người quyết định. Vậy ta chẳng có gì để phải bị ngăn trở cả, ý ta đã quyết như thế rồi, ông nào cho người đi mời Tiên nương đến đây hộ ta!
Quân sư không nói gì đưa mắt nhìn Phạm Cự Lượng khẽ gật đầu. Lượng hiểu ý liền đi ra ngoài. Lát lâu, Hồi Chúc Tiên nương có hai thị tỳ theo hầu tới nơi. Thấy đông người qua lại có cả Động chúa với Quân sư, thì lại tưởng là Sứ quân làm sao rồi. Tiên nương hấp tấp bước tới, các tướng tránh cả ra nhường lối cho Tiên nương đi.
Tiên nương vòng tay thi lễ với Động chúa, rồi quay sang Sứ quân, nàng hỏi ngay:
- Tướng công thế nào?
Sứ quân làm ra bộ khỏe mạnh, bình yên, đáp:
- Ta chỉ bị đau một chút, nghỉ vài ngày là hết. Có việc trọng cho nên cho mời phu nhân đến nói cho hay...
Rồi Sứ quân nói lại ý trước, lại nói rõ về cái thế của Hoa Lư trong việc này. Cốt ý biện bạch để Hoa Lư chẳng bị mang tiếng. Sứ quân bảo:
- Ý ta là như vậy, đây là chính nghĩa! Có người sợ rằng làm như thế là ta đổ tiếng ác cho Động chúa, thiên hạ có thể dị nghị. Thế còn ý của phu nhân thế nào?
Hồi Chúc Tiên nương chậm rãi đáp:
- Việc thiên hạ đất nước, nhất định chẳng thể cứ mỗi người một chỗ tranh giành xâu xé nhau mãi như lúc này được. Giả thử như triều đình thịnh vượng, thì Giao Châu ta tất được an bình, trăm dân chẳng khổ. Nay, triều định suy nhược, khắp nơi trộm cướp. Các Sứ quân cát cứ mỗi người một vùng nhỏ tự cho rằng đây là giang sơn của riêng mình, thi nhau hưởng lạc giữa lúc trăm họ lầm than, sao cho là phải được! Thiếp là phận đàn bà, nhưng cũng hiểu được là: tình hình này, thế nào cũng sớm thấy triều đình biến động. Anh hùng cứu nước cứu dân sẽ xuất hiện, một triều đại mới thế nào cũng xảy ra. Giả thử tướng công tự cho mình đủ sức, đủ tài để đứng ra nhận lãnh cả thiên hạ mà chăn dắt trăm dân thay cho Cổ Loa. Thì thiếp xin có ý kiến, còn như tướng công hiểu sức mình, biết thế của mình, quyết ý theo về với Hoa Lư thì có nghĩa: Hoa Lư chính là anh hùng thay thế Cổ Loa mai sau, thiếp không thấy có gì phải phiền lòng cả!
Những lời nói của Hồi Chúc Tiên nương thật rõ ràng, không ai lại chẳng cảm thấy cảm phục người đàn bà sắc sảo diễm lệ này. Động chúa đăm chiêu, Quân sư tươi hẳn nét mặt. Sứ quân như bỗng khỏe hẳn lên, ngài cố ngồi dậy, tướng quân Mạc Sa Cảnh đứng gần vội đỡ Sứ quân. Ngài ngồi thẳng trên giường, hướng về phía Động chúa trịnh trọng nói:
- Tôi tiếc là trong mình không được khỏe để được lạy chào minh chủ, xin ngài đại xá!
Động chúa chưa kịp đáp, Sứ quân đã nói ngay:
- Vậy, Hồi Chúc Tiên nương hãy thay ta kính lễ Động chúa, từ đây ngài chính là người ta xin theo về để phò tá!
Tiên nương không nói gì, nàng khoan thai đến trước Động chúa trang trọng quỳ xuống, vòng hai tay trước trán, đầu hơi cúi. Cất tiếng trong như tiếng hót họa mi mà rằng:
- Thay cho phu tướng tôi, xin Động chúa nhận lạy này để vợ chồng tôi từ đây được theo về dưới trướng Hoa Lư. Thành kính xin Trời Đất chứng giám, cầu mong minh chủ sớm hoàn thành đại nghiệp!
Rồi Tiên nương lạy sát đầu xuống tận đất. Động chúa Hoa Lư lần đầu tiên trong đời gặp phải cảnh ngộ như thế này. Ngài lúng túng rồi giơ tay đỡ Tiên nương đứng lên, Động chúa bảo:
- Tôi cảm ơn Tiên nương, Hoa Lư mừng được vợ chồng Tiên nương đem trí lực theo về giúp rập!
Nhìn ra, vẫn thấy Quân sư vui thì có vui nhưng trong nét mặt ấy vẫn còn có điều gì băn khoăn chưa thể nói ra. Vì thế Quân sư vẫn đứng im chẳng lên tiếng hay có hành động gì.
Sứ quân Phạm Bạch Hổ thấy Tiên nương lạy Động chúa xong, thì vui vẻ bảo:
- Phu nhân nói phải lắm, minh chủ ta thế nào cũng sớm hoàn thành đại nghiệp! Việc này, phải tuyên cáo ra cho cả thiên hạ biết mới được!
Hồi Chúc Tiên nương mỉm cười, quay sang Quân sư Lê Thảo. Giọng nửa như nũng nịu thánh thót mà rằng:
- Quân sư văn tài lỗi lạc, xin được giúp phu tướng tôi thảo ngay bài cáo để sớm loan cho thiên hạ biết. Ổn định việc Đằng Châu ngay nhé!
Bây giờ thì Quân sư mới thật tươi tỉnh, vẻ băn khoăn không còn nữa, Quân sư đáp:
- Lệnh của Tiên nương sai bảo, Lê Thảo tôi xin thi hành ngay! Tôi xin thay mặt cho hết thảy các tướng Hoa Lư, lạy chào đón người hào kiệt cùng Tiên nương Đằng Châu đến với Hoa Lư!
Quân sư trịnh trọng hướng về Sứ quân Phạm Phòng Át vái một vái. Rồi quay sang Tiên nương Quân sư cũng vái một vái.
Với Tiên nương xong, Quân sư vui vẻ!
- Thế là Địch Vũ không cắp gươm lên lầu lửa, mà lại là văn sĩ Lê Thảo cầm bút viết kịch truyền để thiên hạ rõ việc thành Hoa Lư rạng rỡ, chứ không phải là thành Mạc Liêu ngập lửa máu!
Vẫn chỉ một mình Hồi Chúc hiểu những lời Quân sư nói, mặt hoa có vẻ bàng khuâng. Các tướng chẳng ai hiểu gì nhưng tất cả cùng một lúc tiến lại lần lượt chào và chúc mừng Phạm Phòng Át và Tiên nương.
Ngay trong chiều hôm ấy. Động chúa Đinh Bộ Lĩnh truyền mở đại tiệc, lại sai gióng trống để báo cho khắp nơi biết hảo sự.
Động chúa xuống lệnh, Thần y được đón đến, mặt vẫn lạnh lùng. Ông xem mạch cho Phạm Phòng Át, rồi lẳng lặng mở đãy lấy thuốc đưa cho Lê Thảo. Thần y nói:
- Vết thương không có gì, không hiểu trong người ông này có báu vật gì mà tai nạn không xâm phạm được. Cho ông ta uống viên thuốc hồi lực này là được!
Báu vật ấy, chính là dư lực thần tiên của ngọc quý Yên La, ngọc này Phạm Phòng Át đã trao cho Tôn Phủ Nghi rồi.
Thuốc chỉ có một viên màu đỏ như máu tươi, viên thuốc thơm ngào ngạt nhưng lại cực nhẹ nhàng như hương thơm “thiết mộc căn”. Quân sư đem thuốc cho Phạm Phòng Át uống ngay, rồi cáo từ ra về. Thấy Quân sư không nói gì, Động chúa cũng không hỏi.
Việc Xuyên Ngư Mạc Sơn Thành mưu hành thích Sứ quân Phạm Phòng Át chẳng mấy chốc cả Hoa Lư đều biết. Rồi chẳng nơi nào là không rõ chuyện. Cũng từ buổi ấy, không thấy bóng Tôn Phủ Nghi ở đâu, có người nói là họ Tôn lúc về Đằng Châu đã bị các tướng giết. Cũng lại có người quả quyết là Tôn Phủ Nghi lúc nhận nhẫn Yêm La của Sứ quân Phạm Bạch Hổ lên đường về Đằng Châu. Dọc đường bị người của Sứ quân theo dõi ám hại rồi. Vì Sứ quân có lần nói: Chính Tôn Phủ Nghi cho Mạc Sơn Thành bí mật nương náu trong nhà riêng, rồi lại mật cho Mạc biết việc Sứ quân đi chơi để hành thích. Việc không thành Tôn lẳng lặng trốn về Đằng Châu rồi có người mách cho các tướng biết việc làm của Tôn, vì thế nên Tôn đã bị giết.
Quân sư lui về văn phòng, sai mài mực viết bài tuyên cáo. Quân sư vừa cầm bút thì quân hầu vào trình: có Đinh lão gia tới.
Quân sư vội ra tận cửa đón Đinh lão. Chủ khách an vị xong, Đinh lão bảo:
- Quân sư gớm thật, cho người hành thích Phạm Phòng Át lại không báo trước cho các ông Phạm Hạp với Hồ Tường Thụy biết, lỡ ra không kịp cứu thì sao?!
Quân sư vội đáp:
- Thưa lão gia, quả thật tôi không làm việc này!
- Quân sư không làm, Quân sư cũng không biết?
- Thưa lão gia, biết thì tôi chỉ biết phong thanh mà thôi, chứ biết thật rành rõ thì quả thật là không?
- Quân sư biết phong thanh như thế nào?
- Thưa, Sứ quân Phạm Phòng Át trao cho Tôn Phủ Nghi việc làm gì thì tôi không biết. Trước, mỗi khi hành động hay có sai bảo của Sứ quân, là thế nào Tôn Phủ Nghi cũng tìm đến bàn bạc với tôi. Lần này, y vội vã ra đi, cử chỉ có nhiều khác thường, lại thêm ít lâu nay y hay về Đằng Châu nói là Sứ quân sai đi. Nhưng tôi dò hỏi thì mới hay là Sứ quân không sai