Hồi Thứ Tám Mươi Tám Phù Liệt quyết đánh Hoa Lư
Động chúa xuất chinh mở trận
Việc đời như nước chảy mây trôi không thể nào lường hết trước được. Cho nên Quân sư Hoa Lư là Lê Thảo cho dẫu tài trùm thiên hạ, tính toán công việc đến chỗ rốt ráo của vấn đề. Cũng vẫn không thể nào ước định được hết mọi khúc mắc!
Trước, Quân sư Lê Thảo định đem binh tướng vượt Xích Đằng, rồi tiến lên phía Bắc thu phục Lữ Đường ở Tế Giang, Lý Khuê ở Siêu Loại, Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du. An định cho xong vùng lớn phía Đông để lập thế an toàn, sau đó quay sang phía Tây dẹp các Sứ quân còn lại. Cuối cùng là đến bước Cổ Loa dựng đại nghiệp sẵn sàng đương cự với Thiệu Khuông Dẫn ở phía Bắc. Kế sách thật hùng vĩ, chúng hào kiệt Hoa Lư thảy đều hăm hở lên ngựa sẵn sàng nghe lệnh vào chiến trường. Nhưng, nước chảy xuôi dòng không thể quyết chắc được là chẳng có đá ngầm cản trở. Mây trôi trên trời chẳng thể đi mãi theo một hướng lại chẳng có gió bất thần đổi chiều được. Vì thế mới có thịnh sự không đợi mà xảy đến!
Vì thế, sau khi Sứ quân Phạm Phòng Át quy hàng Hoa Lư, đưa tuyên cáo ra ngoài thiên hạ. Thì cả cõi Giao Châu rung động. Có nơi Sứ quân lo lắng ngồi im nhìn sự việc trôi chảy. Có nơi Sứ quân họp binh tướng sôi nổi bàn việc tương lai. Có người lại muốn phải xuất binh ngay mới được, đấy là ý của Sứ quân Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt.
Buổi ấy, tiết đầu xuân ấm áp, tin từ phía Nam đưa về phủ đường cấp báo cho Sứ quân Nguyễn Siêu biết việc Đằng Châu với Hoa Lư. Sứ quân vội sai thiết đặt đại hội chúng tướng tại đại sảnh.
Nhân lúc ngày tháng đầu xuân, cõi Giao Châu còn diễm lệ trong cảnh sắc xinh tươi. Sứ quân truyền phải trưng bày đại sảnh thật tráng lệ, thiết đặt bàn thờ lớn gọi là bàn thờ các tế trời đất. Rồi ghế ngồi của Sứ quân phải thay bằng ghế gỗ thẩm soan bọc da mèo rừng vùng núi Tam Đảo. Tạm bỏ ghế khổ luyện mộc cũ, các tướng ngồi ghế bọc da hổ theo kiểu các hào kiệt thời Nam Tống. Đèn treo bảy mươi hai ngọn cho hợp với thất thập nhị huyền của đạo gia. Quân hầu trong sảnh phải đủ một trăm lẻ tám người, cho ứng với một trăm lẻ tám vị tinh tú trên trời.
Vào hội, Sứ quân mặc áo vóc đại hồng tay áo rộng thùng thình. Sứ quân bảo kiểu áo ấy là của Thái Tổ Hán triều bên Tàu ngày xưa, mặc kiểu áo ấy là mai sau sẽ gồm thâu thiên hạ. Theo hầu sau lưng Sứ quân có hai mươi tám thiếu nữ xinh đẹp, xiêm y son phấn mang các vật dụng thường dùng của Sứ quân như tráp trầu, bình trà, khay chén... Phảng phất như tiên trên trời. Sứ quân gọi đám con hầu này là “nhị thập bát tú” của phủ đường Siêu Loại. Gọi như thế cho ứng hợp với hai mươi tám vị tiên hiền sánh với hai mươi tám vị sao sáng trên trời ngày xưa ở Trung Quốc!
Khai hội, Sứ quân truyền giáng sáu hồi khánh đồng lớn, gọi là Lục Giáp Khánh Lôi. Âm thanh có thanh có đục, có cao có thấp. Sứ quân bảo những âm thanh ấy là lấy theo khánh ngọc của Cung Đâu Xuất trên Trời. Khánh đánh cả thảy bốn mươi chín tiếng cho ứng với phép “bảy bảy bốn chín” là huyền nhiệm của Đạo phái phía Bắc. Hương trầm ngào ngạt, đèn sáp lung linh, đại sảnh phủ đường Siêu Loại uy nghiêm rực rỡ như chốn triều đường thời Bắc Hán bên Tàu là triều đại Sứ quân ca tụng nhất.
Sáu hồi khánh đồng dứt. Sứ quân đi lại trước bàn thờ lớn, tướng hầu đứng bên cạnh vội thắp hương kính cẩn dâng trình Sứ quân. Ngài cầm hương trịnh trọng bước vào chiếu điều, in hình âm dương hội tụ vàng chói. Ngài dâng hương rồi khấn lớn tiếng:
- Thần, Siêu, vâng lĩnh ý Trời cao, nghe theo tiếng kêu khóc của trăm dân. Lại tuân lệnh hiền liệt thánh, vâng theo ý của tiên hiền, dốc một lòng noi gương tam hoàng ngũ đế. Đứng quay mặt về hướng Bắc để tưởng nhớ đến chư thánh, nhận một cõi giang sơn để hưng nghiệp cả. Nay, bốn phương thịnh trị, trăm họ thảnh thơi, thoắt lại có giặc ngoài muốn xâm phạm bờ cõi. Thần tham lam chẳng thể theo được các bậc thánh xưa nhường đất cho kẻ khác, lại chẳng thể bỏ trăm họ không cai quản. Cho nên hôm nay dù rằng đầu xuân mà vẫn phải tố cáo trời đất tiên hiền, xin lệnh để hưng binh đuổi giặc, đại định thiên hạ! Vạn tạ hiền thánh, xin đem phúc đến cho Phù Liệt, gieo họa cho giặc ngoài! Cung bái!
Rồi Sứ quân kính cẩn lạy trước bàn thờ chín lạy, tiếp đến lần lượt các tướng vào lạy bàn thờ trời đất.
Tế cáo trời đất xong, Sứ quân ngồi nghiêm chỉnh trên ghế thảm soan bọc da mèo rừng Tam Đảo. Ngài đưa mắt nhìn khắp văn võ thuộc hạ một lượt, rồi khoan thai khai hội, ngài nói:
- Này các ông, Giao Châu ta an bình lâu ngày, rảnh rỗi mãi thế nào cũng sinh tật xấu, hiền thánh thời xưa đã dạy như thế. Quả nhiên nay bọn giặc Hoa Lư không biết an phận, trước lừa đảo Sứ quân Phạm Phòng Át để cướp đất, sau lại định rộng cẳng bước ra bên ngoài. Ý là muốn theo gương Tào Thừa Tướng ngày xưa ở nước Ngụy muốn gồm thâu thiên hạ! Thánh hiền xưa dạy rằng: Chẳng lo cái lo nhỏ ở gần, thì thế nào cũng gặp phải cái lo lớn mai sau. Chính vì thế mà ngày xuân ta chẳng được hưởng thanh bình an lạc, nhìn thấy được cái lo gần để tránh mối lo lớn mai sau. Hoa Lư lấy Đằng Châu, các ông thấy thế nào?
Sứ quân Nguyễn Siêu nói như nước chảy mây trôi rõ ra là bậc hào kiệt mang chí cả ở đời, nhưng kỳ thực Sứ quân chỉ nhớ rồi nói lại những lời người xưa ở phương Bắc. Góp nhặt những lời hay ý đẹp, có lúc nói lộ ra những mơ ước thấp kém của mình.
Sứ quân Nguyễn Siêu chiếm giữ Tây Phù Liệt (Diên Châu) được nơi đất rộng người đông, ruộng đồng phì nhiêu giàu có, sông nước thuận lợi. Những tưởng là hưởng được khoái lạc lâu dài ở đời, tự bưng tai bịt mắt không hiểu việc lớn thiên hạ. Khư khư với những mơ màng của mình, yếu hèn mà lại muốn ngự ở ngôi cao. Không biết tìm cách liên minh với các Sứ ở chung quanh đề phòng khi hữu sự. Năm xưa, đã một phen náo loạn thiệt tướng hại quân vì kế hiểm của Hoa Lư. Đến khi được tạm yên thì lại quên mất việc cũ, làm sao cai quản được thiên hạ? Sứ quân Nguyễn Siêu tuy là người như thế, nhưng lại được trời ban cho dưới trướng một vài người tài tận trung. Nhờ thế mà Sứ quân mới được yên ổn lâu đến lúc này. Nay, trong hội nghe Sứ quân hỏi, có người lên tiếng thưa:
- Bẩm Chúa công, Phù Liệt ta sông dài chắn phía ngoài, ruộng đồng bát ngát ở bên trong, người đông nước giàu. Thịnh đức của Chúa công chẳng khác tiên hiền thánh nhân, vì thế mà Phù Liệt đứng được giữa cõi Giao Châu bình yên. Phù Liệt ta, so với Đông Ngô thời xưa ở bên Tàu nào có khác gì, thế của ta thì vạn đại vững vàng. Công thì ắt vào sâu được thiên hạ! Nay, Chúa công xuất binh chinh phạt Hoa Lư là điều đúng lắm, nhất định chẳng có ai lại chẳng muốn lên ngựa ra trận!
Người ấy nói vừa dứt, lập tức có tiếng mạnh như trống đồng gióng lên:
- Chẳng phải! Làm việc lớn không thể nào tự dối mình được! Chúa công đừng nên nghe những lời hùa vào lấy lòng như thế mà xét việc!
Người “hùa vào lấy lòng” là chức văn sĩ hầu sự Đồng Vũ. Vũ đọc sách lõm bõm chưa thông nhưng lại hay hùa theo ý của Sứ quân để nịnh bợ. Nay trong hội nhìn quang cảnh nghiêm trang. Nghe Sứ quân nói, thì vội lên lời trước để tranh công, nào ngờ bị người khác phản đối. Người vừa phản đối chính là tướng Phạm Trường Sơn.
Phạm Trường Sơn là tướng giỏi xử ngọn giáo dài, tính tình điềm tĩnh rất được mọi người yêu mến. Nay trong hội nghe Đồng Vũ nói thì dù tính tình điềm tĩnh cũng không chịu nổi cho nên nói như vậy.
Sứ quân chưa kịp nói gì, Phạm Trường Sơn lại tiếp:
- Bẩm Chúa công, Phù Liệt ta có sông dài phía Đông thật, nhưng phía trên lại có Cảnh Thạc, bên kia sông còn có Tế Giang. Hai nơi ấy có khác nào như hai quả núi ngày đêm đè xuống đầu ta. Lại thêm Bình Kiều không có chủ bị mất vào tay Hoa Lư. Cái thế của ta có khác nào bị chung quanh bao vây, họa lớn không ở riêng một phía nào. Nay, Hoa Lư xuất quân mưu tính việc lớn, xét thế và lực của các nơi chung quanh, ta chưa hơn được. Thế thì so với Hoa Lư là thế nào? Việc quân bị không thể hồ đồ hấp tấp được. Việc năm xưa làm ta thiệt đại tướng Địch Hồng Hà, lại thêm tay thần quyền đệ nhất danh gia họ Bạch cũng mạng vong. Chung quanh ta cũng náo động, binh biến ồn ào khắp nơi thiệt hại. Rút cuộc đều là trúng hiểm kế của Hoa Lư! Hoa Lư có Quân sư tuổi trẻ tài lớn, bao nhiêu việc còn rành rành, sao ta lại hấp tấp như thế! Xin Chúa công minh quyết!
Những lời nói của tướng Phạm Trường Sơn chẳng phải là sai, thêm việc năm xưa Siêu Loại đi đánh Đường Lâm. Đường đi mới gặp một dải Đồng Lư đã đại bại, thế thì việc quân lúc này ắt hẳn là cũng không dễ dàng gì.
Nghe Phạm Trường Sơn nói như thế, tức thì văn sĩ Đức Mạnh Khanh ứng tiếng, nói:
- Đúng! Bẩm Chúa công, các võ tướng thường hay nóng tính, ưa việc xuất chiến mà chẳng nghĩ đến những lời dặn của hiền thánh thời xưa. Cho nên ngày trước mới có việc ta thiệt tướng hại quân để chẳng được ích lợi gì! Nay, Hoa Lư sang sông, vào Đằng Châu, rồi kéo lên Bình Kiều, ấy là nó muốn nhòm ngó Tế Giang. Muốn nhổ cái gai Tế Giang để bước nhanh đến Cổ Loa, sao ta lại đem cái thế vướng víu của mình ở đây để tranh giành với nó! Thưa Chúa công, nếu xét việc thì ta nên xét đến đường tới Cổ Loa. Tranh hơn với Hoa Lư chứ không phải là xuất binh đánh Hoa Lư!
Văn Sĩ Đốc Mạnh Khanh vừa dứt lời, thì tướng Phạm Trường Sơn lại lên tiếng ngay:
- Ông Đốc nói như thế, tôi nghĩ cũng chỉ đúng có một phần, phần ấy là phần nhìn tới Cổ Loa, nhưng lại quên mất chính mình đấy!
Đốc Mạnh Khanh gằn giọng, hỏi:
- Thế nào là quên mất chính mình?
- Nhìn lại việc cũ, Phù Liệt ta đã chẳng một lần xuất quân viễn chinh. Lần ấy chẳng phải một người kém cỏi cầm quân, mà đích thân lão tướng Địch Hồng Hà tiết chế binh tướng. Vậy mà mới chỉ chiến với một tướng ngồi trên đỉnh Đồng Lư của Đường Lâm là đủ để táng mạng. Kéo theo tướng tài số một của Giao Châu ta là Bạch Khai Thành, thêm hai tướng Lý Vân Long và Vương Trụ. Những tướng ấy mấy người ở đây sánh được! Nay, ta xuất quân chiến với Hoa Lư, Đường Lâm sánh với Hoa Lư thì thế nào. Có khác gì con đom đóm sánh với trăng rằm vằng vặc hay không? Như thế là hấp tấp quên mất chính mình, chẳng biết người, nhắm mắt mà làm không phải chỉ chết vài người dâu. Có khi chẳng còn một ai, hãy xem gương Nam Tấn Vương đi chinh phạt Hoa Lư rồi đến việc Đằng Châu thì rõ! Vả lại, đừng quên rằng Hoa Lư Quân sư tuổi trẻ đại tài có thể ngồi yên trong hang động mà biết được việc ngoài ngàn dặm. Chứ không phải là thứ Quân sư tay cầm quạt mo chuyên nghề bẻm mép dâu!
Những lời nói của tướng Phạm Trường Sơn quả thật không sai làm cho cả hội sảnh hoang mang im lặng. Văn sĩ Đốc Mạnh Khanh tức tối lại hỏi:
- Như vậy, là ông bảo ta nên khoanh tay đợi quy hàng Hoa Lư như Đằng Châu, hay là thế nào? Quân sư Hoa Lư tính việc thiên hạ chắc đã bảo cho ông biết cả rồi chắc!?
Đốc Mạnh Khanh ác độc dùng đến những lời lẽ nặng nề đến thế để cố dìm tướng Phạm. Nhưng Phạm Trường Sơn vẫn điềm tĩnh đáp:
- Quân sư Hoa Lư chẳng thích nói hùa bẻm mép, nhìn việc như thần, ông ta không nói nhưng chẳng riêng tôi mà ai cũng biết. Lần lượt các nơi sẽ mất cả vào tay Hoa Lư. Cứ xem như cách đây chẳng lâu, khắp nơi đem binh đánh lẫn nhau chỉ vì những duyên cớ vu vơ chẳng có thật. Ai cũng hăng hái đem binh đánh lẫn nhau, rút cục có ai làm gì được ai. Chẳng ai được một tấc đất nào, chẳng ai mất một tấc đất nào. Chỉ riêng một mình Hoa Lư là bình yên rồi thảnh thơi lấy được Đằng Châu, thừa đà thu nốt Bình Kiều chẳng tốn một mũi tên. Binh tướng người ngựa chẳng phải đổ một giọt mồ hôi nào! Sao ta lại bỏ qua không xét đến những việc hệ trọng ấy để nhắm mắt hành động vội vàng như vậy!
Đến đây thì Sứ quân Nguyễn Siêu cảm thấy thật sự kinh sợ trong lòng. Hơn hai chục năm cát cứ một giang sơn, quy tụ dưới trướng binh tướng văn võ. Tự cho mình là người vương giả nhất ở Giao Châu, nhiều lúc cũng dám nghĩ đến chiếc ngai vàng ở Cổ Loa. Những tưởng việc ngồi trên ngai vàng ấy cũng dễ dàng như ngồi ghế gỗ thẩm soan ở đây. Nay vào việc lớn chẳng thể lùi bước, chẳng phải là xuất binh chỉ để đánh dẹp một bọn cướp vặt. Mà là đương cự với những con người từng bị thất thế lại đả bại được binh triều, ép vua phải lui về theo lệnh sai bảo!
Câu hỏi này của văn sĩ họ Đốc quả thật gay go. Phạm Trường Sơn đáp:
- Ta còn binh còn tướng, chưa dễ gì ai ăn thịt được ta, nhưng ta phải hiểu rõ tình thế. Hiểu cách hành động thì mới mong sống còn được!
Sứ quân hỏi:
- Ta hiểu tình thế như thế nào, ta hiểu cách hành động như thế nào? Các văn sĩ của ta toàn là những người thông kim quán cổ, nhớ rõ việc xưa, thuộc hàng vạn lời dạy của thánh hiền, sao lại không ai biết?
Sứ quân hỏi như thế có ý vừa trách các mưu sĩ văn sĩ, lại vừa có ý không tin nhận định thời thế của võ tướng chỉ quen việc chiến trận.
Đồng Vũ lại nói:
- Nay, Hoa Lư đưa đại quân xuất chiến rộng ra thiên hạ, ý đồ đã hơn là nhòm ngó chiếc ngai vàng ở Cổ Loa. Phù Liệt ta đất rộng binh tướng chẳng thiếu, ta lên phía Bắc đường gần hơn Hoa Lư nhiều. Vậy ta cứ nhường cho Hoa Lư vất vả lận đận với cái gai Tế Giang, ta theo đường bộ lên phía Bắc. Đường đi tuy có qua lãnh địa của Đỗ Cảnh Thạc thật, nhưng địa thế núi rừng mù mờ lấy gì để Thạc cấm ta đi! Như vậy, ta nhân Hoa Lư xuất chiến vừa phải đương cự với Tế Giang, Tiên Du, Siêu Loại. Ba nơi ấy lại phải lo đến cái họa Hoa Lư, thế là ta yên ổn đến Cổ Loa mà chẳng bị vướng bận gì!
Đến lượt tướng thủy chiến Bạc Cẩm Nhung lên tiếng:
- Như thế, văn sĩ Đồng Vũ lấy xong Cổ Loa, lên ngôi chí tôn ban chiếu chiêu an trăm họ được rồi! Nhưng, trước hết, văn sĩ có cách nào để vượt được thủy trại lẫy lừng của Cảnh Thạc ở Đỗ Động hay không? Chứ thủy quân của tôi thấy muốn ngược dòng Xích Đằng làm thế trợ chiến cho văn sĩ vào Cổ Loa xem ra khó lòng lắm!
Đốc Mạnh Khanh lại hùng hồn:
- Ông Bạc coi thủy quân, tất phép thủy chiến ông phải giỏi rồi. Vậy ông quên mất việc Cảnh Thạc năm xưa đưa thủy quân đi đánh Đường Lâm đã bị tan nát chết cả tướng tan hết quân rồi sao? Thế thì Cảnh Thạc nào có giỏi giang gì, chẳng qua thiên hạ chỉ sợ bóng sợ vía Thạc mà thôi chứ ai lại sợ thủy quân của y! Còn đường bộ, thì danh tướng của Thạc cũng lại mang bại quân chạy về, chung cuộc binh hồi doanh lại gánh theo cả quan tài tướng tiết chế. Như thế phỏng tài của Cảnh Thạc có ra gì! Ta gấp tiến binh lên phía Bắc là hay nhất, nhưng ta cũng lại chia một đạo quân làm ra vẻ sắp đón đánh Hoa Lư để nó bị lừa rồi chậm chân giương mắt nhìn ta vào Cổ Loa là thượng sách đấy!
Các tướng chưa kịp biện giải gì thêm, thì Sứ quân Nguyễn Siêu lên tiếng:
- Này các tướng văn võ, ta xuất thân từ hàng vương giả, hiểu cách sống của bậc đế vương, quen với những nghi thức triều đình các triều phương Bắc. Trong lòng chứa vạn lời dạy của thánh hiền, cho nên chẳng phải ta chỉ muốn cứ ngồi im mãi ở một nơi này! Hơn hai mươi năm chờ đợi, bây giờ là lúc tốt đẹp nhất để gấp bước tranh nhanh với thiên hạ vào Cổ Loa đấy! Các ông hãy tính việc ra quân, hành động, ý ta đã quyết!
Cuối cùng, lão nguyên soái Từ Ngọc Tỉnh lên tiếng:
- Bẩm Chúa công, lời nghị luận của ngài văn sĩ Đốc Mạnh Khanh cũng như Đồng Vũ quả thật xác đáng. Tuy thế những lời nói của hai ông Phạm Trường Sơn với Bạc Cẩm Nhung chính là những lời lẽ người cầm quân trước khi vào trận cần biết. Nay, ta lên phía Bắc cùng một lúc cả hai đường thủy bộ, nếu như chẳng xâm phạm đến Đỗ Cảnh Thạc thì có thể Thạc cũng không gây khó dễ gì cho ta. Nhưng, giả sử đường ta đi được thong thả đến tận Cổ Loa, thì liệu ta phải chiến với Nam Tấn Vương như thế nào đây?
Lại vẫn văn sĩ Đốc Mạnh Khanh lên tiếng, ông nói:
- Lão tướng lại quên những việc của ông vua kiệt sức này ở Hoa Lư rồi! Binh tướng của Cổ Loa như thế, ta có gì mà phải sợ! Hoa Lư thắng được Nam Tấn Vương, ta không sợ Hoa Lư, lẽ nào ta lại không hơn được Nam Tấn Vương hay sao? Ông làm tướng, sao lại e dè sai chỗ như thế!
Lời nói của Đốc Mạnh Khanh là những lời nói chết người như không, chỉ bởi vì ông ta vốn là đạo sĩ tu tiên. Ngày đêm mơ màng được như Lão Đam chẳng cần làm gì bận thân mà vẫn có thể cưỡi mây gọi gió chu du khắp vũ trụ. Nay trong hội đang hồi quyết liệt tranh hùng thì nghĩ rằng: “Dù Sứ quân Nguyễn Siêu có thành công hay không thì cũng không bận gì đến Khanh. Siêu thắng thì Mạnh Khanh trở thành quốc sư. Siêu bại thì Mạnh Khanh sẽ lại theo gió theo mây bay vào vũ trụ, đạo tiên vẫn chẳng mất gì”. Bởi thế Đốc Mạnh Khanh tùy hứng mà khuyến dụ xúi bẩy Sứ quân Nguyễn Siêu làm theo sở thích của mình. Khi nghe việc Hoa Lư đưa đại quân vào thiên hạ. Sứ quân Nguyễn Siêu chẳng hiểu sức mình chẳng biết rõ người, muốn xuất binh tranh hùng với Hoa Lư. Đốc Mạnh Khanh chẳng phải là không biết những việc ngày trước, nhưng thấy hào khí bốc cao. Đạo tiên của đạo gia bay đâu mất cả, chỉ thấy cái ghế “quốc sư” trong truyện sử sách Bắc phương thì lấy làm thích lắm. Cho nên mới nằng nặc xúi Sứ quân xuất binh.
Nghe Đốc Mạnh Khanh nói như vậy, Sứ quân Nguyễn Siêu cũng thấy là phải lắm. Rõ ràng Nam Tấn Vương lúc này đã kiệt lực, ngay cả việc đánh dẹp mấy đám giặc cướp nho nhỏ cũng chẳng xong, thì làm sao chống lại với binh tướng của Phù Liệt được! Thế là Sứ quân phán:
- Nay, Cổ Loa đổ nát, Ngô vương chẳng phải là hiền minh quân có thể theo gương tiền thanh xưa trao ngôi báu lại cho họ khác. Vả lại hiền thành xưa có dạy: “Nước triều lên không biết giong buồm là bỏ mất chuyến ra khơi. Thời đến để lỡ thì chỉ là chí của kẻ ngu phu làm mất sự nghiệp ngàn năm.” Bởi thế ta muốn theo gương Hán đế từ Ba Thục tiến ra, trước là thu phục Cổ Loa. Sau đánh dẹp các nơi khác mà lên ngôi tôn vĩnh cửu. Ý ta đã quyết, lại được lời các tiên hiền chư liệt thánh dạy bảo ta còn nhớ cả. Nhìn chung quanh ta thấy cũng có nơi giỏi nơi kém, nhưng sức ta đủ để vào thiên hạ, vì thế ta quyết định ra binh. Trước là cản đường làm cho Hoa Lư chậm bước để cho ta vào được Cổ Loa trước, sau là làm cho các Sứ quân khác ở chung quanh chẳng dám cử động đành ngồi đợi ta ban lệnh. Vậy, các tướng văn võ của ta hãy cùng nhau bàn mưu tính kế gấp đưa binh lên Bắc ngay!
Thế là Tây Phù Liệt sửa soạn ra quân. Giang sơn của Phủ đường Phù Liệt rộng gồm mười tổng, bảy mươi chín xã thôn từ Đông đến Tây rộng mười bảy dặm, từ Nam lên Bắc dài hai mươi sáu dặm, dựa sông Xích Đằng (tức sông Nhị Hà). Giang sơn của Sứ quân Nguyễn Siêu mờ mịt lan ra các phía chẳng có định mốc gì làm bằng, phút chốc náo nhiệt trăm họ. Có người nô nức có người lo lắng, thế là chiến tranh sắp xảy ra!
Cũng chính trong náo nhiệt này, tế tác của Hoa Lư đã báo trình ngay về cho Động chúa và Quân Sư Lê Thảo biết.
Động chúa bảo:
- Nay, ta sắp sang sông, Tây Phù Liệt lại xuất binh, ý của Nguyễn Siêu muốn tranh hùng với ta. Ta nghĩ: Siêu không phải là kẻ ta phải sợ, nhưng nếu y động binh tất làm cho Cảnh Thạc, Lữ Đường cũng phải động thủ, như thế tất cũng có phiền phức cho ta. Cùng một lúc ta phải chia sức đương cự với cả hai mặt. Một sang sông rồi lên phía Bắc, một cự chiến đánh dẹp Nguyễn Siêu. Quân sư thấy thế nào?
Quân sư từ tốn đáp:
- Bẩm Chúa công, việc ta sang sông ta cứ gấp tiếp tục, con đường lên Bắc của ta không có gì thay đổi. Nay thêm việc Phù Liệt gây rối, ta chỉ phải thêm một lộ quân nữa mà thôi. Tuy nhiên, tin chưa được biết đích xác là Nguyễn Siêu động binh hướng về đâu...
- Quân sư nghi Siêu tiến về hướng nào?
- Siêu chắc không tiến về phía Đồng Lư của Đường Lâm, phía ấy có lần Siêu đã đại bại. Đánh Cảnh Thạc ở Đỗ Động thì thủy quân của Siêu không thắng được. Nhưng nếu Siêu đi ven dòng Xích Đằng tiến lên phía Bắc, đường đi im lặng không xâm phạm đến Thạc thì có thể được yên ổn. Nhưng nếu tiến lên Bắc mà không xâm phạm đến Thạc thì rõ ràng là Siêu muốn nhòm ngó Cổ Loa, nếu đúng như thế thì có thể Siêu bị Thạc cản đường. Bên kia sông Lữ Đường cũng ra tay. Còn nếu Siêu không lên Bắc, vượt Xích Đằng là có ý muốn tranh giành Đằng Châu, Bình Kiều với ta.
- Cả hai đường đi ấy, giả sử Siêu đều làm cả, ta đối phó với y thế nào?
- Bẩm, cả hai đường đi ấy của Siêu, ta đều không thể để cho y hành động được. Một là y phải ở yên một chỗ đợi ta sau khi thu phục xong phía đông sẽ quay sang phía Tây. Hai là ta sẽ ra tay trước tiến vào Phù Liệt. Con đường thứ hai này, thật ra ta không muốn vì bị chia lực, nhưng nếu Siêu hành động thì ta không thể nương tay. Ta sẽ lấy nốt Phù Liệt trong khi binh ta vẫn ở bên kia sông tiến lên phía Bắc.
Động chúa ngẫm nghĩ, rồi hỏi:
- Lúc này ta được hơn thiên hạ ở chỗ nhiều năm yên ổn tạo lực, quân đông tướng giỏi. Lại thêm binh tướng Đằng Châu, Bình Kiều, lẽ ra sức mạnh của ta dồn vào một hướng thì quả thật dữ dội. Nay phải chia lực ra như thế Quân sư có thấy bị thiệt thòi gì không?
- Bẩm, Phù Liệt đất rộng thật, người giỏi cũng có, ta không xem thường ai cả nhưng ta không sợ một Sứ quân nào. Vì thế việc ta phải chia lực tôi nghĩ nếu ta khéo dàn xếp thì cũng chẳng thiệt thòi gì.
Thế là, Hoa Lư lẽ ra chỉ sang sông vào Đằng Châu, thì lại phải chia lực đối phó với Tây Phù Liệt. Quân Sư Lê Thảo gặp Đinh lão bàn:
- Thưa lão bá, việc này lại làm ta phải tính lại đôi chút kế sách vào thiên hạ. Nay, tế tác của ta tin về cho hay: Nguyễn Siêu sắp xuất binh, chưa được rõ y sẽ hành động ra sao, vì thế tôi đã xin Động chúa cứ đưa binh sang sông, một mặt ta phải tính thêm việc Phù Liệt. Ở mặt Phù Liệt, tôi xin lão bá giúp đỡ mới xong!
- Quân sư muốn ta phải làm gì?
- Bẩm, dù Nguyễn Siêu thế nào chăng nữa, ta cũng phải đề phòng khi ta tiến quân. Việc bình thắng bại là thường, tướng nào của ta tiết chế mặt này cũng phải có người trông coi giúp đỡ cho mới được.
- Quân sư bảo ta phải đề phòng gì?
- Bẩm, khi ta giao chiến với Siêu, thắng bại không thể xác quyết ngày một ngày hai được. Vả chăng Siêu dưới trướng cũng có những người tài, việc chém giết chẳng nên coi thường, tránh được đến đâu đỡ cho dân ta đến đó. Lại nữa, khi Phù Liệt ra quân, tất Cảnh Thạc phải đề phòng lỡ ra Siêu tiến lên phía Bắc. Rồi khi giả sử ta thắng thể làm cho Siêu nguy ngập, liệu lúc ấy Thạc có thừa cơ hội để tiến xuống Phù Liệt vừa để kiếm lời vừa tranh thế phòng cự lại ta hay không?
- Như thế, Quân sư tính mặt Phù Liệt như thế nào?
- Khi binh ta đã tiến lên rồi, không thể không dứt cho xong Phù Liệt, dứt xong Phù Liệt thì Thạc phải lo...
- Thế còn Lữ Đường ở Tế Giang?
- Lúc ấy, Lữ Đường đang lo phải chống nhau với ta, bên kia sông từ Bình Kiều trở xuống ta an toàn. Chỉ còn ba sứ Lữ Đường ở Tế Giang, Thủ Tiệp ở Tiên Du, Lý Khuê ở Siêu Loại là ba nơi ta phải tranh hùng.
- Quân sư định giao mặt Phù Liệt cho tướng nào?
- Bẩm, trước ta không định như thế, nhưng nay tuy chỉ đánh một mình Phù Liệt thật, nhưng lại làm cho các Sứ quân Cảnh Thạc, Nhật Khánh phải kinh động, lan đến cả Kiều Thuận ở Hồi Hồ, Nguyễn Khoan ở Tam Đái, và cuối cùng thì là Kiều Công Hãn ở Phong Châu. Như thế, mặt phía Tây mới đầu ta không đặt thành chỗ tranh hùng, chỉ xem là nơi tạm yên chỉ cần phòng ngự. Nay chỉ vì Phù Liệt bất thần hành động thành ra rung động cả thiên hạ, mặt phía Tây do đó mà trở thành hệ trọng. Ta cần phải có người tiết chế lớn mới được!
- Động chúa đi mặt phía Tây, để Quân sư đi mặt Đông Bắc được không?
- Bẩm, mặt Đông Bắc tuy chỉ có ba Sứ quân, nhưng lại gần và tiện đường tới Cổ Loa, vì thế mặt này quan trọng lắm không thể khinh xuất được. Tôi thấy, đích thân Động chúa phải cầm quân ở mặt này, tôi xin đi theo Động chúa. Còn phía Tây, thì để cho trưởng tử của Động chúa là Đinh Liễn cai quản, lão bá đi bên cạnh trông nom cho Liễn là tốt nhất!
Đinh lão cả cười, ông vuốt chòm râu đen loáng thoáng ít sợi bạc mà rằng:
- Quân sư thật cẩn thận, định kế bày mưu đã kỹ, đến việc danh nghĩa lại càng cẩn thận hơn nữa! Có cần phải như thế không?
- Bẩm, lão bá giúp rập cho cháu để dựng nghiệp lớn, ắt nhìn thấy đường xa. Một mai, Động chúa lên ngôi, thì Đinh Liễn là người thế nào? Lúc này việc quân là hệ trọng, sao ta lại không tạo cho Liễn cái thế của trưởng tử kế nghiệp mai sau?
Đến đây thì Đinh lão lại cười lớn, ông bảo:
- Gớm thật, hiếm có người lại nhìn xa đến như Quân sư! Thế cũng tốt! Quân sư nhìn việc ở mặt Tây này thế nào?
- Bẩm, tôi đợi tin tế tác rồi sẽ quyết định. Tuy nhiên, có thể ta không cần phải ra quân. Đấy là khi Nguyễn Siêu thấy ta xuất binh hai mặt như thế mà e sợ chịu ở yên thì thôi. Còn nếu y muốn nhân cơ hội ta dốc lực vào trong thiên hạ để bất thần đánh lén Hoa Lư, thì lúc ấy binh ta thực sự phải tiến đến tận phủ đường Phù Liệt!
- Giả sử ta tiến nhanh được đến phủ đường Phù Liệt, đuổi được Nguyễn Siêu rồi. Binh ta trấn lại hay tiến thêm nữa đi đâu?
- Bẩm, Nguyễn Siêu là kẻ vô chí, chỉ giỏi kể việc người phương Bắc. Chẳng có tinh thần dân nước, thì làm sao mà tồn tại cho được! Tuy nhiên, ở đời nhiều khi kẻ ngu lại hay được trời cho hưởng lộc, cho nên dưới trướng của Nguyễn Siêu cũng có nhiều tướng giỏi. Vì thế, nếu binh ta vào được phủ đường Phù Liệt, đuổi được Nguyễn Siêu đi rồi. Tôi nghĩ cũng không phải là dễ, vả chăng khi ấy các sứ khác ở chung quanh tất phải chuyển động chứ không thể ngồi im được. Cho nên tôi thấy: tốt hơn cả là binh ta dừng lại ở Phù Liệt, binh tướng vừa được nghỉ ngơi, ta vừa có cơ hội để hồi sức. Binh tướng ta mạnh, lại ung dung dưỡng quân, tất các sứ chung quanh chẳng dám vọng động. Tuy thế, khi binh ta tiến lên phía Bắc cả hai bên bờ Xích Đằng như thế, thì riêng mặt phía Tây tôi nghĩ có thể có bất ngờ đấy!
- Quân sư thấy có thể có bất ngờ gì?
- Bẩm, triệt hạ một Phù Liệt, rõ ràng là ta muốn tiến tới nữa chứ không phải là chỉ đến Phù Liệt thì ngưng hẳn. Thế nào năm Sứ quân còn lại cũng hoặc đơn độc chống lại ta, hoặc là lập thành liên sứ để cự ta…
- Quân sư thấy họ chọn đường nào?
- Bẩm, Cảnh Thạc vốn là mệnh quan của triều đình, y chiếm giữ Đỗ Động. Lập căn cứ thủy quân to lớn, tin là mình đủ sức đứng vững, khinh thiên hạ chẳng ra gì. Y chắc chẳng chịu đứng chung với ai. Còn bốn Sứ kia thì ba Sứ vốn có thù cũ với nhau. Tuy thế còn có Điền Bạc ở Phong Châu là tay du thuyết lợi hại, chẳng thua gì những tay thuyết khách xưa ở thời Xuân Thu Chiến quốc phương Bắc. Y có thể thuyết cho các sứ đứng chung lại với nhau để tranh hùng với ta, lúc ấy ta tất vất vả!
- Vậy, nếu ta lấy được Phù Liệt rồi, thì Quân sư khuyên nên tạm dừng lại để đợi Động chúa tới?
- Bẩm đúng thế, phía Bắc bên kia sông ta gặp nhiều danh tướng của Lữ Đường, Lý Khuê, Nguyễn Thủ Tiệp. Vượt được ba Sứ ấy cũng phải lâu dài. Lúc ấy mặt phía Tây ta dừng binh, thiên hạ yên ổn thế nào cũng ở yên cho đến khi ta quay sang phía Tây. Lại vượt Xích Đằng trở về, phá xong Đỗ Cảnh Thạc, sau đó hợp binh vượt Đồng Lư, thì lúc ấy mới phải lo đến bọn Điền Bạc. Hoặc có khi các Sứ quân tăm tối kèn cựa nhau, tự cho là mình đủ tài sức chẳng phải liên minh với ai, thì ta được nhẹ nhàng công việc!
Thế là, Hoa Lư quyết định vẫn vượt Xích Đằng vào Đằng Châu.
Động chúa Hoa Lư Đinh Bộ Lĩnh thống suất binh tướng chuẩn bị vượt sông Xích Đằng vào Đằng Châu.
Động chúa truyền hội tất cả các tướng lại, sai tướng Lê Hoàn mang cờ tiên phong, ra lập giáo trường ở Bình Lục. Hoàn vâng lệnh gấp cho quân dọn dẹp, lập ra giáo trường sát ven sông. Giáo trường dựng lên náo động cả nhân gian, người người nô nức kéo đến xem đại quân Hoa Lư xuất chinh.
Bá tánh đang an bình hưởng lễ xuân, chẳng ai lại tỏ ra lo sợ việc chinh chiến. Tất cả rùng rùng kéo về Bình Lục đông chật đất. Ai cũng tin là Động chúa hùng liệt của họ một phen đã đem binh tướng ra ngoài thiên hạ, thì thế nào công tại định cũng thành. Cho nên trăm họ rủ nhau đi xem lễ xuất quân của Hoa Lư trong lòng thơ thới như đi xem hội lớn, chẳng chút nào lo ngại về việc chiến chinh.
Lê Hoàn theo lời chỉ dẫn của Quân sư Lê Thảo, lập giáo trường quay về hướng Đông theo hình bát giác. Chung quanh mở ra bốn cửa chính trấn bốn phương trời, lại trổ bốn cửa phụ cũng lớn ngang cửa chính. Mỗi cửa nối liền hai phương lại với nhau, như vậy giáo trường hình bát giác chiếu theo phương hướng và cách xếp đặt tấm cửa của Bát Quái trận. Tượng đài làm mãi ở tận cùng mé Nam, cao một trướng sáu thước, tám tấc. Chia làm hai phần, phần phía dưới thấp hơn phần trên một chút nhưng hẹp, phần trên lùi lại phía sau ba bộ dài và rộng. Phía trước giữa giáo trường hơi lệch về bên phải một chút là kỳ đài cao đến hai trượng, chín thước, chín tấc. Cột cờ kết bằng trúc hoa, lấy ở hai huyện Cẩm Thủy và Thụy Nguyên. Đây là loại trúc chỉ riêng đất Ái Châu (Thanh Hóa) mới có: trúc dài, lớn, thẳng, người ta thường dùng làm đòn cáng. Nay Quân sư sai quân lấy về rồi kết lại thành một cây cột cờ lớn, phần gốc lớn bằng một người ôm, lên cao nhỏ dần. Trúc hoa ấy lại lấy dây song Nông Cống chẻ ra lấy vỏ cuốn ở bên ngoài. Thành ra cột cờ trúc hoa thẳng tắp vững vàng vô cùng. Trên đỉnh cột cờ cao ngất ấy, Quân sư bảo làm một chiếc khoen đồng lớn bằng miệng chén uống nước để kéo đại kỳ của Động chúa lên. Ở phía Bắc đối diện với tướng đài ở mãi xa xa, là “Lôi Cổ Khánh Đài”. Làm theo thế chữ Nhất, đài này dựng cao hơn mặt đất giáo trường khoảng hai đầu người, có bực đất để đi lên. Trong đài bên trái đặt chín cỗ trống đồng, bên phải bày chín cỗ khánh đá thật lớn.
Giáo trường rộng mênh mông, lại ngăn ra thành tám khu. Mỗi khu thông vào một cửa, chính giữa giáo trường lại có đài cao, trên đỉnh đài đặt sẵn vạc lớn chứa đầy nhựa thông, trộn lẫn nhiều hùng hoàng chu sa, không biết để làm gì. Bên ngoài giáo trường, mỗi phía cửa cho trồng hai mươi bảy cột cờ. Tám cửa tổng cộng hai trăm mười sáu cột, mỗi cột treo một lá cờ lớn của Hoa Lư.
Chính Ngọ ngày hai mươi tháng Giêng năm Đinh Mão (967). Hoa Lư Động chúa và hết thảy các tướng phò tá, rời đại doanh kéo vào giáo trường. Động chúa hôm nay không vận chiến phục. Ngài khoác thổ y bằng da gấu nâu Vũ Nga dài đến gần đầu gối, hai tay để trần. Quần Thái Huyền vải hùng bố hoa cúc chìm màu xám tro, thứ vải quý chỉ sản xuất ở hai xã Triều Dương huyện Thanh Miện và xã Xạ Sơn huyện Giáp Sơn (Hải Dương). Động chúa đi giày da con rái thần ở Vũng Lâm thuộc hai thôn Phú Vĩnh và Tân Định, phía Bắc huyện Đồng Xuân mãi trong miền Nam heo hút (nay là Bình Định). Giày thật mềm đi vào tưởng như đi chân đất, nhưng vào nước nước không thấm, dẫm lên lửa không bị cháy. Động chúa đầu quấn khăn Vạn Thọ gần giống khăn kiểu chữ Nhân, nhưng có miếng che sau gáy bằng thứ vải “sa bích”, mềm còn hơn lụa nhưng dai hơn cả dây chỉ mun. Động chúa không mang trên người đồ trang sức hay vũ khí nào, hai cánh tay để trần lực lưỡng như hai khúc mình trăn gió núi Điệp Thạch [→2] .
Động chúa cưỡi chiến mã Ô Truy nhưng lại có khoang trắng ở cổ, con ngựa cao lớn thật xứng với chủ có vóc dáng thật hùng vĩ.
Theo ngay phía sau Động chúa là tướng Mạc Sa Cảnh cưỡi chiến mã, lưng treo trường kiếm. Tay phải giữ vững lá cờ lớn lụa vàng thêu một chữ Đinh chỉ đỏ thật lớn ở giữa. Đấy là cờ soái của Đinh Động chúa. Đằng sau ngựa của Cảnh, là ngựa của Quân sư Lê Thảo. Quân sư cưỡi con ngựa sắc lông nâu. Con Á Lôi, Quân sư đã giao cho tướng Lưu Cơ cùng ngọn trủy thủ lúc tướng này nhận mật lệnh đi Cổ Loa rồi. Quân sư mặc áo văn sĩ gấm xanh trong lót lớp bông mềm, làm bằng lông tơ giống thiên nga nâu đậm ở Kim Động (Hưng Yên). Quần lụa mỡ gà, sản phẩm ở xã Tống Thỏ huyện Thanh Quan (Nam Định ngày nay). Xã này chuyên về dệt vải trắng nhưng lại đặc biệt có dệt ít loại lụa mỡ gà mặt thật mịn, đẹp lắm. Chỉ có các người sang cả mới dám dùng, hoặc để tiến cống vào cung vua dùng cho các người trong hoàng cung. Quân sư đội khăn văn sinh sa đen bọc búi tóc vừa phải phía trên đầu phía sau, mặt trắng đẹp lồ lộ. Lúc này Quân sư đã qua thời thanh niên bước vào tuổi trung niên, thần sắc phiêu phiêu như thần tiên, đẹp mà trang nghiêm lắm.
Đi cùng hàng với Quân sư là Đinh lão, ông tuy cao tuổi nhưng vóc dáng vẫn vững vàng, chắc chắn. Chòm râu đen loáng thoáng điểm trắng. Đinh lão mặt tròn vành vạnh, ngài đội khăn xếp chữ Nhân, nước da nâu rắn rỏi. Trông ngài chẳng ai lại cho là một ông già ở vào tuổi ngoài bảy mươi.
Sau ngựa Quân sư và Đinh lão là các tướng, người nào cũng vận chiến bào nhẹ vải cực bền, có người chiến bào màu đen, có người màu xám, lại có người chọn màu chàm rừng núi.
Cuối cùng đám các tướng, cách xa một quãng là tướng quân Lê Hoàn. Hoàn cưỡi ngựa trận, vận chiến bào vàng nhạt, lưng đeo thanh gươm báu “Thụ Thiên” đúc bằng thép lấy từ núi Khâu Hoắc. Khác với các tướng, Hoàn dầu đội võ cân cũng bằng sa vàng có thêu nơi trán hình mặt trời đỏ rực. Lê Hoàn đi giày trận da lưng voi vùng rừng núi Hà Duy (Lâm Ấp, Phú Yên ngày nay). Giày trận da voi nhưng nạo mỏng thành ra thật mềm mại, bền lắm.
Đi sau ngựa Lê Hoàn nửa mình ngựa, là tùy tướng Đỗ Tuấn Kiệt cưỡi con ngựa trắng. Dựng cao ngọn cờ tiên phong lớn lụa đỏ thêu chữ “Lê” vàng chói. Sau ngọn cờ tiên phong của Lê Hoàn, là cả một đội lệnh kỳ đủ màu đủ sắc nhiều có đến gần trăm cái.
Và, sau đoàn lệnh kỳ, mới là các đội ngũ hai binh mã bộ. Binh Hoa Lư sau nhiều năm chiêu mộ, rèn luyện, Động chúa theo lời Quân sư phân binh ra thành Đạo, Quân, Lữ, Tốt, Ngũ. Mỗi Đạo mười Quân, mỗi Quân mười Lữ, mỗi Lữ mười Tốt, mỗi Tốt mười Ngũ, như vậy mỗi đạo đúng ra phải đông đến mười vạn người (một trăm ngàn người). Nhưng lúc này xuất trận, binh lấy nghĩa bình thiên hạ, từ rừng núi đi ra tuy được bá tánh kéo theo hưởng ứng. Cũng không thể nào chịu nổi một đạo quân đông đến như thế. Cho nên quân danh thì vẫn giữ như vậy nhưng thực số thì ít hơn nhiều. Vậy mà binh mã bộ theo ngựa tướng tiên phong kéo vào giáo trường từ lúc xế Ngọ một chút. Cũng phải đến tàn Mùi sang đến đầu giờ Thân mới vào hết giáo trường.
Sau này, lúc lên ngôi hoàng đế, Đinh hoàng đế vẫn giữ phép tổ chức binh đội này. Đưa binh đội của ngài lên đến mười Đạo trao vào tay tướng Lê Hoàn với chức Thập Đạo Tướng quân. Có ý sẵn sàng sức mạnh để thắng Bắc phương!
Quân sư đứng trên tướng đài bên cạnh Động chúa và Đinh lão, chú ý nhìn cờ hiệu nhẩm tính số quân theo cờ “Đạo” ước lệ rút thấp. Tổng cộng là hai mươi bảy nghìn người. Con số quân này so với lúc Hoa Lư mới khởi nghiệp thì bây giờ đông gấp mười lần.
Lúc ấy trời chiều ngày mới đầu xuân còn lạnh, gió từ ngoài sông rộng thổi vào, lẽ ra khí lạnh còn hơn nữa. Nhưng giáo trường quân đông, lại thêm bá tánh kéo đến đông nghẹt, cho nên hơi người đủ sức đánh bạt giá rét!
Trên tượng đài, Động chúa oai nghiêm ngồi trên chiếc ghế có tay ngai làm bằng gỗ xuyên tâm để mộc. Bóng dáng ngài cùng chiếc ghế lớn hiện ra như tượng thần, cả một vùng rộng lớn chập choạng sắp tối im lặng. Cho tới lúc tướng quân Lê Hoàn điều hết binh tướng vào giáo trường, tướng lên tượng đài. Quân vào đúng vị trí ở tâm khu Bát Quái trận, mỗi cửa trận như thế là trấn ba nghìn quân. Còn lại ba nghìn thì trấn chính trung tâm nơi vòng Âm Dương trung trận. Lúc ấy Lê Hoàn mới cho ngựa tiến đến trước tượng đài, kỳ hiệu tướng tiên phong cũng theo sát phía sau.
Tới trước tượng đài, tướng quân Lê Hoàn trụ ngựa, ngửng cao đầu hô lớn:
- Lê Hoàn, tiên phong đại binh Hoa Lư xuất chinh trình Động chúa: binh tướng đã an vị, Động chúa khai lệnh!
Tiếng hô của tướng quân Lê Hoàn nghe khoan thai đầm ấm, thật rõ. Hô trình xong, tướng quân cho ngựa đi lại bên kỳ đài.
Trên tướng đài, Đinh Bộ Lĩnh, Động chúa Hoa Lư thong thả đứng lên. Vóc dáng ngài trên đài cao thật to lớn, ngài giơ tay ra hiệu. Tất cả giáo trường không hiểu ngài ban lệnh gì, nhưng có một người thì biết rõ, người ấy ứng tiếng hô lớn:
- Tuân lệnh!
Hồ Tường Thụy bước tới, cây cung thiết đằng lớn treo ở lưng. Thụy bước xuống hẳn dưới sân giáo trường bước tới bảy bước thì dừng lại, quay mặt lên tướng đài. Thụy kính cẩn cúi đầu vái một vái, rồi hạ cung lắp tên.
Hồ Tường Thụy bật hồng tung lên cao, rồi một ngọn tên phóng đi trong cái im lặng lạ lùng của cả giáo trường. Ngọn tên mũi quấn bùi nhùi bay trúng mồi lửa vừa tung lên thì bén cháy ngay, tên bay nhanh kéo một đường dài như sợi đây vàng rực rỡ bay lên tháp cao giữa giáo trường. Đường tên lửa bay lên rồi rơi trúng vạc lớn dầu nhựa thông pha lẫn hùng hoàng chu sa.
Tức thì vạc dầu nhựa thông trộn hùng hoàng chu sa bừng cháy rừng rực, đỏ thắm chu sa và hừng hừng mùi thơm nồng thật nóng ấm của hùng hoàng. Cùng lúc hàng vạn ngọn đuốc trong và ngoài tám cửa trận cũng bừng sáng. Tướng tiên phong Lê Hoàn ra hiệu, trống trận khắp nơi nhất tề đập vang. Xen trong tiếng trống lớn da trâu là những tiếng trống “tâm hư mộc cổ” nghe âm u rờn rợn như tiếng nước vỗ mạnh vào bờ ghềnh. Cả giáo trường như bừng dậy. Cùng với tiếng trống giục rung chuyển cả núi rừng vùng Bình Lục, trăm họ chợt hò reo ầm ầm. Ở xa nghe tiếng trống với tiếng người hò reo chẳng khác nào như sóng biển giữa lúc bão lớn, cực kỳ hùng hậu khủng khiếp!
Hai mươi bảy ngàn binh mã bộ cảm thấy máu chảy cực mạnh trong huyết quản, quân kỷ cực nghiêm. Nếu không thì cả đạo binh lớn này thế nào cũng tiếp sức cùng trăm họ để thét vang!
Bóng chiều tối hẳn giạt mãi ra xa, cả một vùng giáo trường mênh mông sáng chói với cả vạn ngọn đuốc cùng cháy với vạc dầu nhựa thông trên cao ở giữa sân. Quang cảnh quá ư hùng vĩ, chưa từng bao giờ lại thấy như thế ở cõi Giao Châu này.
Đứng trên tướng đài, Động chúa im lặng ngắm quang cảnh hiếm thấy. Vóc đáng ngài sừng sững trong ánh lửa đuốc rực trời, cặp mắt một mí hơi xếch sắc như kiếm báu của ngài long lanh ánh lửa đuốc. Mỗi lần ngài khẽ quay đầu nhìn đi hướng khác thì cặp mắt ấy dội ánh sáng long lanh như có những tia sao sáng bắn ra. Cặp môi dày, chiếc miệng rộng mím chặt. Động chúa dường như cũng xúc động.
Đợi hồi lâu cho tiếng hò reo lắng xuống, trống trận lúc này chỉ giục đều đều âm âm chứ không đập từng tiếng lớn rành mạch. Tướng quân tiên phong Lê Hoàn chợt thét vang lệnh khua Lôi Thạch Khánh. Với chày gỗ quân ra sức dập vào tám mươi mốt chiếc khánh đá lớn phát ra âm thanh thật trong, sắc, thật cao, rộn ràng truyền đi rất xa. Khánh tám mươi mốt chiếc là vì thời ấy người Giao Châu rất kính trọng đạo Phật, và Động chúa Hoa Lư cũng tôn kính đạo Phật lắm. lúc mới khởi nghiệp, Động chúa được một cao tăng từ xa đến, nói là ở mãi tận chặng đầu của rặng núi Phan Xi-Păng (tức rặng Fansipan). Đến độ giảng Phật pháp cho nghe, Đinh Bộ Lĩnh sùng đạo Phật từ đấy. Cao tăng giảng về tám mươi mốt cảnh thế ở đời rồi khuyên Đinh Bộ Lĩnh làm tám mươi mốt chiếc khánh đá để mỗi khi thỉnh tiếng khánh lên là nhắc nhở đến những vướng bận của cuộc đời. Vì thế, Đinh Bộ Lĩnh mới cho thuộc hạ lặn lội lên tận núi Tản Viên chuyển về Hoa Lư những phiến đá lớn, rồi đẽo gọt thành những chiếc khánh. Mỗi chiếc rộng khoảng chiều cao một người lớn, cao gần phân nửa chiều dài, và dày bằng một phần ba chiều cao. Khánh đá chạm trổ nhiều cảnh sinh hoạt của người dân Giao Châu thời ấy. Sau, khi Lê Thảo tới Hoa Lư phò Động chúa Đinh Bộ Lĩnh thì dần dần thuyết phục Động chúa tạm rời xa các nhà sư. Chỉ thỉnh đệ tử của Phật đến để nghe thuyết pháp giữ cho lòng được trong sạch chứ không để bàn việc quân nước. (Sau này, khi Bộ Lĩnh đại định được thiên hạ, lên ngôi chí tôn xưng đế, thì rất sùng đạo Phật. Dùng cao tăng để bàn việc nước, và đấy là việc ngày sau). Rồi việc quân bận rộn, việc thiên hạ chuyển biến chẳng lúc nào ngừng, thành ra khánh đá bị bỏ quên không được dùng đến.
Nay, trong lễ hội quân trước khi xuất chinh, Quân sư cho đem khánh đã giàn ra với trống đồng. Có ý nhắc nhở khách chinh phu hãy dốc lòng vì nước vì dân, gạt bỏ tất cả mọi mê say cám dỗ ở đời để thản nhiên bước vào chiến địa.
Khánh đá gióng lên chậm nhưng âm kéo dài mãi chẳng dứt thành ra âm nọ như dính vào âm kia thành một dải âm thanh. Tiếng trong thanh thật nhưng lại như xé màng tai, mạnh mẽ xuyên thủng mây trời đầu xuân bay lên tận tít trời xanh nghe như tiếng sét lớn nổ liên hồi.
Khánh đá đánh hết một lần ba trăm hai mươi bốn tiếng, tức mỗi khánh đánh bốn tiếng tượng trưng cho bốn mùa trong năm. Mà cũng là bốn cảnh cuộc đời theo mắt nhìn của nhà Phật là Sinh Lão Bệnh Tử. Tiếng đá vang dội kéo dài mãi chẳng hết.
Dứt tiếng khánh đá sấm sét, đến lượt cổ đồng Ngọc Lũ gióng lên. Ngược hẳn với khánh đá, tiếng trống đồng một giàn chín chiếc lớn không đánh bằng chày, bằng vồ, mà do chín lực sĩ vạm vỡ mình trần, đóng khố da beo, dầu quấn khăn mào gà bằng da trăn. Ra sức đập tay không vào mặt trống. Trống phát ra âm thanh trầm mà hùng hậu dị thường, ầm ì như tiếng sét lớn nổ dư âm còn lăn mãi trên trời cao. Chín cỗ trống đồng, tượng trưng cho chín phương trời trong ý nghĩ của người Giao Châu. Bên cạnh mười phương của nhà Phật trong khánh đá. Thế là khánh và trống là Trời và Phật trong lòng người ở cõi Giao Châu đã lên tiếng!
Trống đồng gióng một hồi vang dội cả giáo trường, âm thanh hùng mạnh nghe ở gần có thể bị rách màng tai. Chín lực sĩ vận lực nện trống, mười tám cánh tay còn lớn hơn cả những chiếc chày lớn đập xuống mặt trống. Chín lực sĩ đập trống một hồi đến vã mồ hôi giữa chiều đầu xuân có gió lạnh từ ngoài sông lớn thổi vào.
Rồi tiếng trống cũng dứt. Giáo trường như thể còn bàng hoàng với những âm thanh giữa một quang cảnh tuyệt kỳ vĩ đại. Trên tướng đài cao, Động chúa Hoa Lư phất tay ra hiệu, phía dưới tướng tiên phong Lê Hoàn lập tức hô:
- Đại kỳ!
Các tướng, chúng binh, và bá tánh chẳng một ai hiểu hiệu lệnh cho việc gì, đã thấy tướng Hồ Tường Thụy bước ra. Thụy vận chiến bào khinh hùng bố màu chàm, đầu dội võ cân buộc giải sau gáy, chân đi chiến hài da gấu đen. Cây cung lớn treo ở sau lưng, ống tên dài nhô lên ở sau vai trái. Thụy đi đầu hai tay trịnh trọng bưng một lá cờ lớn gấp lại. Sau Thụy là bốn quân kỵ đi chạm vào nhau, bốn cánh tay cùng cầm một cuộn dây mây lớn
Thụy đến trước kỳ đài thì dừng lại. Quân kỵ không xuống ngựa chia nhau trấn ở bốn góc chung quanh kỳ đài; vẫn ngồi ở trên yên, đón lá cờ Thụy trao cho thoăn thoắt buộc lá cờ vào dây. Rồi lại trang nghiêm bốn người cầm bốc góc lá cờ lớn buông chùng.
Thụy bước tới, hàng vạn cặp mắt chăn chú theo dõi cử chỉ của Thụy trong ánh lửa rực trời. Hồ Tường Thụy với tay ra sau lưng rút một mũi tên. Thụy cột sợi dây cờ vào cánh tên, hai tay trịnh trọng nâng cây tên lên đợi lệnh. Cung lớn vẫn treo trên vai sau lưng.
Bây giờ thì các tướng đã hiểu, giáo trường im phăng phắc, người không ho một tiếng, ngựa chẳng dậm chân. Tất cả đợi xem tướng Hoa Lư làm cách nào để leo lên đỉnh cột cờ cao chót vót mà treo lá cờ lớn!
Trên tướng đài, Động chúa Hoa Lư giơ thẳng một cánh tay, ngài ban lệnh. Phía dưới, tướng tiên phong Lê Hoàn thét to oai nghiêm:
- Thượng kỳ!
Hồ Tường Thụy hô vang:
- Tuân lệnh!
Cùng với tiếng hô, Thụy vươn tay hạ cây cung bước tới mười lăm bộ thẳng ngay trước kỳ dài, kéo theo sợi dây vỏ mây chẻ nhỏ bện lại chỉ lớn bằng ngón tay út cực mịn. Ở xa mắt không nhìn thấy sợi dây ấy, nhưng trên đài cao thì các tướng đã thấy rõ. Bá tánh ở gần cũng trông thấy sợi dây, nhìn rõ được cử chỉ của tướng Hoa Lư.
Hổ Tường Thụy dừng bước, quay lại nhìn kỳ đài, sợi dây buộc vào cánh tên ngậm ở miệng. Ông ngửng đầu nhìn lên đỉnh cột cao ngất, mắt Thụy cực tinh tường thế mà trong ánh lửa giáo trường cũng chỉ thấy lờ mờ vòng khoen trên đỉnh cột. Phía sau là khoảng trời bát ngát tối đen. Cột cờ tuy cao, nhưng với sức đi của mũi tên thì lại là khoảng cách gần, không thể nào dụng đến tên lửa được.
Hồ Tường Thụy đặt tên vào cung, tay phải giữ cả cung lẫn tên, tay trái đánh lửa đốt mồi, mồi lửa trong tay Thụy cháy không lớn. Cánh tay Thụy chậm chậm giơ cao, mồi lửa theo gió bạt về một phía.
Bất thình lình Hồ Tường Thụy tung mồi lửa lên cao. Ngay sau đó cả giáo trường nghe thấy dây đồng “phừng” một tiếng thật mạnh. Dây cung buông cực nhanh, Hồ Tường Thụy đã phóng mũi tên đi rồi. Ngọn tên trên mũi có quấn bùi nhùi bén lửa cực nhạy, bay trúng mồi lửa bắt cháy ngay, kéo đi một vật lửa như ánh sao băng vèo lên đỉnh kỳ đài.
Dù đứng ở gần, từ Động chúa đến hết thảy các tướng, sĩ tốt. Không một ai nhận thấy mũi tên lửa cháy bay đi cực nhanh lọt qua khoen đồng, kéo theo sợi dây cờ bằng mây bện. Sợi dây dài thành ra nặng, cản không cho mũi tên bay đi xa, phải rơi xuống cách cột cờ chẳng xa. Hổ Tường Thụy rảo bước đi lại, ngọn tên còn cháy. Thụy cởi dây ở cánh tên ra rồi trở lại kỳ dài.
Tiên phong lại hô lệnh:
- Cổ đồng, thạch khánh!
Tiếng hô âm vang có phần khoan hòa, ở tận đầu đằng kia phía Bắc giáo trường, đám lực sĩ và người gióng khánh cũng nghe thấy. Tức thì trống đồng lại đập vang, khánh đá lại khua như sét rít.
Tiên phong cho ngựa bước lên mười bước trước kỳ đài rồi quay lại trụ ngựa.
Hồ Tường Thụy chậm chậm kéo sợi dây, đưa lá cờ rời khỏi tay bưng của bốn quân kỵ mà lên cao, lên cao nữa. Gió ngoài sông rộng thổi vào tung lá đại kỳ lụa điều xã Việt Yên, huyện La Sơn (Nghệ An) mở rộng. Cờ lụa dày ở giữa thêu một chữ Đinh lớn chỉ vàng.
Tiên phong Lê Hoàn rút gươm Thụ Thiên chỉ thẳng ra phía trước làm lễ bái kỳ.
Lá cờ lớn chậm chậm lên cao giữa tiếng trống đồng, khánh đá rộn ràng chen lẫn hùng hậu. Rồi cờ lên đến đỉnh cột cao trúc hoa bện. Tiên phong Lê Hoàn hạ gươm tra vào vỏ, ông cho ngựa trở lại trước tượng đài. Trống đồng khánh đá cũng ngừng tiếng. Tới trước tượng đài, Lê Hoàn thẳng người trên yên ngựa, lên tiếng:
- Trình, lễ thượng kỳ đã hoàn tất!
Lúc ấy, tướng Hồ Tường Thụy cũng đã trở lại. Giáo trường hốt nhiên bừng bừng hào khí, trăm họ hò reo, chúng quan hô lớn vạn lời chen nhau chỉ loáng thoáng hai tiếng “Vạn tuế! Vạn tuế!...”.
Động chúa Đinh Bộ Lĩnh vẫn đứng nghe tướng tiên phong trình, Quân sư đứng bên khẽ nói:
- Xin Động chúa ban hiểu thị!
Động chúa bước tới, ngài ra hẳn bên ngoài tướng đài nhìn xuống giáo trường. Chúng quân sĩ mã bộ chợt nhất tề hô vang: “Vạn tuế! Vạn tuế!” Trăm họ đứng quanh giáo trường cũng nhất loạt hô theo, cả một vùng trời Bình Lục rung chuyển. Có người bảo rằng tiếng hò reo ấy làm cho mặt nước Xích Đằng rung rinh nổi sóng, mãi tận Đằng Châu còn nghe rõ mồn một.
Trong đám chúng tướng ở tướng đài phía trên, không ai để ý thấy Thần Y Hồ Xích Tú mặt lạnh như băng. Bên cạnh nàng Thi Lạc Phượng đẹp mê hồn, như đang mê đi giữa cảnh sắc nhiều đời người cũng khó thấy. Rồi cách đấy mấy bước, là Sứ quân Đằng Châu trước kia là ngài Phạm Phòng Át đang bâng khuâng. Dường như Phòng Át vừa nhận ra rằng: “Chậm một chút, thì sức mạnh khủng khiếp này của Hoa Lư tất đâm tan Đằng Châu, một mạng Phòng Át nhất định chẳng còn được!”.
Và, trong ánh lửa chiếu chẳng tỏ nơi này, Hồi Chúc Tiên nương lặng lẽ để cho dòng lệ lăn xuống gò má diễm lệ. Tiên nương nhìn bóng dáng Động chúa hùng vĩ như tòa núi lớn bên cạnh vóc dáng thư sinh thanh tú của Quân sư. Tiên nương cảm thấy trong lòng nôn nao, không định rõ là những xúc cảm gì! Nhìn sang bên, là bóng dáng ông già chú của Động chúa. Ông già tuổi cao nhưng lưng vẫn thẳng, thẳng như dân cõi Giao Châu vẫn đứng thẳng đội trời trên cao, đạp đất rộng dưới chân mà chống trả mọi hiểm họa trong ngoài.
Động chúa đứng im nhận những lời tung hô của trăm họ, của sĩ tốt hồi lâu, đợi cho tiếng hò reo lắng xuống. Ngài giang rộng hai tay, ra hiệu cho trăm họ im lặng, sĩ tốt nghiêm chỉnh lại. Ngài lên tiếng, tiếng nói mạnh chẳng thua gì tiếng trống đồng khánh đá, ngài hiểu dụ bá tánh, trăm dân, cùng sĩ tốt. Ngài nói đến việc xứ Giao Châu hơn hai chục năm loạn lạc, triều đình đổ nát, khắp nơi giặc cướp nổi lên. Nặng nề hơn cả là cái nạn các Sứ quân mỗi người cát cứ một nơi, tự cho mình quyền được sinh sát, coi trăm họ như cỏ rác. Xem giang sơn Giao Châu như của riêng mình tha hồ tự cung tự tác, ra sức vơ vét của cải của trăm họ, chia nhau xâu xé giang sơn của tổ tiên để lại. Đẩy trăm dân vào vòng lầm than không sao nói hết được. Giữa khi ấy thì cái họa Bắc phương đang rình rập để chực lại tràn xuống. Nạn Bắc thuộc lại sắp xảy ra, chẳng Sứ quân nào biết nghĩ, chẳng Sứ quân nào có nổi lực để đứng ra chống đỡ cho giang sơn, cứu nòi giống. Vì thế Hoa Lư nép mình mấy chục năm trời tuy được hưởng kế thừa của Trần Lãm mà vẫn không xưng Sứ quân ở Bố Hải. Dưỡng sức mộ quân, chiêu tiền tập sĩ, vì thế Nam Tấn Vương đến là phải bại mà về, Giao Châu mù mịt trong hỗn loạn.
Giáo trường im phăng phắc, vạn chúng lắng nghe từng lời hiểu dụ của Hoa Lư Động chúa, vạn chúng cảm thấy máu chạy mạnh trong huyết quản. Hừng hừng khí thế át cả hơi lạnh chiều muộn dầu xuân. Nhiều người để cho nước mắt cứ trào ra, như thể đang trút ra được những nỗi niềm đau khổ phải im lặng chịu đựng đã mấy mươi năm. Giờ đây những lời của Động chúa như khơi cho dòng đau khổ có lối thoát trào ra.
Động chúa tiếp:
- Chính bởi thế, nay ta quyết định bước ra khỏi Hoa Lư, đưa binh tướng đi bình định thiên hạ. Trước là cứu lấy kỷ cương của đất nước, đem muôn dân ra khỏi lầm than, an định cuộc sống của trăm họ. Dựng lại đời sống ấm no cho toàn dân, sau là kịp dàn xếp để chống giặc ngoài sắp tràn vào bờ cõi ta. Vì những lẽ ấy, binh ta là binh nhân nghĩa, tiên là phải thắng, dừng bước là giang sơn đã đại định. Binh của ta là binh khởi tự trăm họ mà ra, cầm gươm lên ngựa là để bênh vực trăm họ. Vì thế trăm họ theo về, vì thế sức ta là sức vạn thắng. Trên đường ta