Hồi Thứ Chín Mươi Đinh Liễn thất thế lui quân
Tuổi già Đinh lão về trời
Tế tác xuống ngựa trình:
- Bẩm trình tướng quân, Quân sư truyền gấp mang lệnh đến tướng quân: đưa quân lên phía Bắc, thế nào cũng lấy xong Tây Phù Liệt!
Đinh Liễn ngạc nhiên, hỏi:
- Ta thất thế ở chỗ này, không hiểu tại sao binh tướng Phù Liệt đang thắng thế lại gấp chạy về là thế nào? Ta chẳng hiểu tình thế hiện ra sao. Quân sư có dặn thêm điều gì không?
- Bẩm, Quân sư dặn trình với tướng quân: mọi việc ở Phù Liệt, quân ta đã biết từ trước. Hiện giờ tướng quân Phạm Cự Lượng đang tiến đến gần Phù Yên, tướng quân Lưu Cơ đã dồn quân xuống sát phía Bắc huyện Gia Lâm. Binh dừng lại ở bờ Bắc sông lớn cùng một lúc đe dọa cả Tế Giang lẫn Đỗ Động Giang...
Đinh Liễn kêu lên:
- Sao lạ vậy? Ông Phạm Cự Lượng trấn binh ở phía Tây binh ta làm thế yểm trợ, sao bây giờ lại ở phía Bắc là thế nào? Ông Lưu Cơ sao lại ở bên kia Xích Đằng? Ta chẳng hiểu gì cả?
Tế tác bẩm:
- Bẩm, Quân sư dặn tin cho tướng quân biết như vậy. Chỉ khoảng chiều hôm nay là ông Phạm Hạp cũng trở về đây, lão tiên sinh thì đang được Thần y xem xét.
Đinh Liễn nghe trình hoang mang vô cùng. Như vậy, quân ở đại doanh biết tất cả! Làm sao Đinh Liễn biết được!
Lúc rời giáo trường đến đại doanh Bình Lục. Quân sư gặp Động chúa ngay, Quân sư nói:
- Thưa Động chúa, đại binh ta sang sông lên phía Bắc, các Sứ quân khác một là sợ nhau nên ở im một chỗ, hai là chẳng có chí lớn cho nên không dám hành động gì, do đó ta tiến binh không phải e ngại gì. Tuy nhiên, ta cũng nên đề phòng trường hợp có thể có Sứ quân gây loạn lớn!
Động chúa hỏi:
- Ngài thấy có Sứ quân nào gây loạn lớn, tại sao lại thế?
- Bẩm, việc các Sứ quân e ngại nhau cho nên không dám cất quân vào thiên hạ, thì ta có thể thấy rõ. Còn việc có Sứ quân gây loạn lớn, thì tôi nghĩ: chỉ có một mình Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt là ta nên đề phòng. Siêu ngày trước trúng kế của ta đem binh đi đánh Đường Lâm đại bại. Sau nhiều năm yên ổn có thể quên món nợ cũ chẳng để phòng Đường Lâm. Cũng lại chẳng lo Cảnh Thạc ở phía Bắc, cho nên Siêu có thể có hành động gây khó cho ta.
- Quân sư có được tin gì về Nguyễn Siêu không?
- Bẩm, ngay khi binh ta sửa soạn để xuất doanh, tế tác của ta đã cho hay: Nguyễn Siêu hội nghị các tướng văn võ bàn việc, có thể Siêu xuất quân một là để sang Bình Kiều tranh giành với ta, hai là để lên phía Bắc nhòm ngó Cổ Loa. Chính vì thế ta mới có đạo quân của ông Đinh Liễn gấp đường lên Tây Phù Liệt. Tướng của ta dũng mãnh, lại có lão bá ở bên cạnh thế nào cũng xong việc, mặt ấy ta không cần phải lo nữa. Tuy thế ta vẫn phải đề phòng những việc bất ngờ xảy ra. Tế tác của ta vì thế mà lúc này bí mật do tin tức rất gấp ở phủ đường Tây Phù Liệt, có thế nào ta sẽ có tin sau.
Động chúa hỏi:
- Quân đánh lên Tây Phù Liệt của ta trao cho Đinh Liễn thống quản, ta có thể yên lòng được không?
- Đinh Liễn cai quản mặt trận bên ấy ta có thể yên lòng. Vả chẳng ta còn lão bá trông nom cho việc quân cơ, ngoài ra còn ba hổ tướng nữa. Quân ba nghìn tuy không đông nhưng Liễn vẫn có thể tranh thắng dễ dàng được.
- Như vậy, ngài đã biết rõ mọi việc ở Phù Liệt?
- Thưa, tôi còn đợi thêm tin, nhưng việc Nguyễn Siêu ra quân tiếng là để nhân lúc ta vắng nhà toan đánh cướp Hoa Lư. Nhưng tôi không tin là đúng như thế. Tế tác của ta chỉ mới cho hay: Nguyễn Siêu còn một đạo quân lớn nữa đang gấp sửa soạn chưa biết sẽ mở trận ở đâu?
- Quân sư nghĩ đạo quân lớn ấy có thể đi đâu?
- Thưa, tôi có nói với lão bá cùng các tướng đánh Phù Liệt là: có thể Nguyễn Siêu muốn nhòm ngó Cổ Loa!
Động chúa kinh ngạc:
- Nguyễn Siêu lại muốn nhòm ngó Cổ Loa?
Quân sư luận tình hình cho Động chúa nghe, rồi bảo:
- Một mặt ta cần phải được thêm tin tức, một mặt tôi đã có một kế gấp gửi tới cho ông Lưu Cơ ở Cổ Loa rồi. Như Động chúa đã biết, ông Lưu Cơ cùng với tướng triều đình là Hồ Song Đao ngay từ lúc Nam Tấn Vương lâm nạn thọ tử đã dẹp xong đám giặc Sơn Tây, ổn định được tình thế. Vì vậy Cổ Loa tạm yên để đợi ta đến. Nay, vì Nguyễn Siêu hành động, cho nên ta phải ra tay trước. Tôi đã bảo ông Lưu Cơ bí mật cùng tướng Hồ Song Đao tức tốc xuống Nam. Theo một kế của ta cho phao tin là: binh triều xuất chiến xuống Nam đánh Phù Liệt, vì Phù Liệt mật tư thông với phương Bắc muốn cướp Cổ Loa. Nhờ thế mà Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động, Lữ Đường ở Tế Giang yên lòng...
Động chúa nóng lòng hỏi:
- Bây giờ Lưu Cơ đang ở đâu?
- Bẩm, việc khẩn cấp, Lưu Cơ đã xuống đến Gia Lâm, phía Bắc sông lớn sửa soạn để vượt sông xuống phía Nam.
- Có thể nào Lưu Cơ một mình bị gặp khó không?
- Bẩm, tôi chắc là không. Cho đến lúc này, thì triều đình Cổ Loa đã le lói hiểu tình hình, ta không phải lo gì nữa. Tất cả là đánh dẹp các Sứ quân, bình định mọi chỗ, việc lớn này ta đang khởi sự. Tôi đã phát lệnh của Động chúa cho tướng thủy chiến Nghi Bá Tường của Đằng Châu đưa thủy quân rời đại doanh Chu Diên lên hẳn phía Bắc, lấn vào giang sơn của Lữ Đường ở Tế Giang. Nhưng thật khôn khéo tỏ ra là không xâm phạm gì đến Tế Giang, rồi đưa quân thủy chiến lên bộ dựa mé sông đón hai tướng Lưu Cơ và Hồ Song Đao.
- Binh thủy chiến của Tường như vậy là cùng một lúc xâm phạm cả Tế Giang lẫn Đỗ Động, hai sứ ấy khoanh tay ngồi im sao?
- Bẩm, binh của Tường không ở lâu một chỗ, đợi Lưu Cơ tới thì chuyển quân xuống Nam dưới cờ hiệu của Cổ Loa. Thành thử như thế hai sứ ấy không thấy lo sợ là binh ngoài mưu toan đánh phá lãnh địa cát cứ của mình.
- Vậy, binh của Tường là binh Đằng Châu vừa về với ta, tất ông Lưu Cơ phải có cách?
- Bẩm đúng thế! Chính hổ tướng Hồ Song Đao là người lĩnh mệnh biến binh thủy chiến của Tường thành quân của triều đình!
Thì ra vậy!
Quân sư mật sai Lưu Cơ một mình lên Cổ Loa chống đỡ mọi mặt. Bảo tướng tế sứ của Hoa Lư là Mạc Sa Cảnh cho người đi lại giữa Cổ Loa với Hoa Lư, không ngày nào lại chẳng có tin. Vì thế Lưu Cơ tuy ở xa một mình mà hóa ra lúc nào cũng như có Quân sư ở bên cạnh chỉ vẽ cho mọi việc. Bây giờ Lưu Cơ cùng tướng Hồ Song Đao xuống Nam, vào địa phận châu Gia Lâm thì được tế tác đến cho hay: “Tướng Nghi Bá Tường đã đưa quân thủy rời Chu Diên lên phía Bắc đang đợi”.
Nghi Bá Tường đã mấy lần gặp Lưu Cơ cho nên bây giờ hai tướng gặp nhau chẳng thấy có gì xa lạ. Lưu Cơ theo đúng lời dặn của Quân sư, nói với Nghi Bá Tường:
- Quân thủy của ông kéo lên tận đây, hai sứ ở Tế Giang với Đỗ Động chẳng thấy có rục rịch gì, thế là tốt lắm. Ta không nên ở yên mãi đây. Quân sư có dặn: đem quân thủy ngụy trang thành binh triều đình, rồi tướng quân Hồ Song Đao gấp đem binh ấy xuống Nam vào Tây Phù Liệt.
Nghi Bá Tường hỏi:
- Binh ta rời sông lên bộ, kéo xuống Nam để đánh Nguyễn Siêu. Liệu một mình binh của ta có thể nào xuống sâu Phù Liệt được không?
Lưu Cơ đáp:
- Một mình binh ta, chắc không được. Nhưng, Quân sư có dặn: phải gấp tiến xuống càng nhanh càng tốt. Phía Nam đã có tướng Đinh Liễn cầm trọng binh tiến lên, như thế là ta hai mặt đánh kẹp Nguyễn Siêu vào giữa. Thế nào cũng xong. Vả lại, phía Đông là dòng sông lớn Xích Đằng, tuy ông đưa quân lên đây nhưng vẫn chưa hết quân còn trấn ở Chu Diên. Như thế ta còn một mặt binh nữa để phòng hờ.
Ba tướng còn đang nghị sự, tế tác vào trình:
- Ở phía Nam, tướng Đinh Liễn đã vào sâu lãnh thổ Tây Phù Liệt, đang gấp đánh lấy thành thứ tư là Phù Yên. Quân sư lệnh cho các tướng ở đây xuống Nam ngay để trợ chiến.
Thế là ba tướng thay đổi quân kỳ, cho thủy tinh Đằng Châu ăn mặc giả làm binh triều rồi kéo xuống Nam ngay.
Tạm gác việc chinh chiến trên đất Tây Phù Liệt. Kể đến trọng binh của Đinh Bộ Lĩnh sang Đằng Châu. Cờ tiên phong trao vào tay tướng quân Lê Hoàn, sửa soạn thuyền bè để đại quân sang sông. Lúc mọi việc sửa soạn đã xong. Quân sư thưa với Động chúa:
- Bẩm, ngày trước quân ta mở trận ở vùng Bình Lục này, oanh liệt đuổi binh triều vang dội khắp cõi Giao Châu. Ngày ấy một tướng của ta là ông Đoàn Phúc Hải vì nghĩa cả cứu bạn nên chịu mạng vong, ngày ấy cả Hoa Lư ta thương tiếc người hào kiệt trong hồi lận đận. Ngày nay, quân ta bước vào thiên hạ, mưu đồ đại định cứu nước cứu dân, hào kiệt đi về Cổ Loa rồi đây có người còn người mất. Giao Châu từ đây dây hào khí, trước lúc lên đường tôi nghĩ ta cũng nên đi viếng ông Đoàn Phúc Hải trước là để vẹn tình nghĩa. Sau là để nhắc nhở các tướng cũng là điều hay.
Động chúa cho là phải, liền mang hết thảy các tướng xuống Ngọc Lũ.
Buổi ấy tiết đầu xuân, khí trời êm dịu, nắng vàng đẹp mà êm vô cùng. Trong cái lạnh dầu xuân, mồ Đoàn Phúc Hải nằm trơ trọi trên đỉnh gò cao, cây cỏ rậm rì xem ra có phần hoang vắng. Xa xa về phía Tây, thành nhỏ Ngọc Lũ bị hỏa thiêu nay chỉ còn là một đống gạch đá hoang tàn, cảnh vật có phần thê lương.
Quân sư tự tay đốt bó hương lớn, rồi Động chúa vào trước mồ Đoàn Phúc Hải. Động chúa im lặng cúi đầu, chẳng biết ngài khấn cầu điều gì, chỉ thấy hồi lâu hai hàng lệ bỗng đổ xuống. Hết thảy các tướng cố giữ im lặng, rồi Động chúa bước ra nét mặt thương cảm lắm.
Lần lượt các tướng vào lạy mồ Hải, có người xụt xịt, có người lặng lẽ cố nuốt xúc động. Đến lượt tướng Đỗ Mậu Đại, Đại khóc rống lên mà rằng:
- Ông Hải đi, năm xưa vì cứu tôi mà ông mạng vọng, ân ấy cả chục năm tôi chưa trả được cho ông. Thêm thù cũ vẫn chưa đòi được, mai này về đến Cổ Loa. Xin ông phù hộ cho tôi, để tôi trọn được lời thề năm trước nhé!
Rồi Đại lại khóc, các tướng nhiều người cũng khóc theo. Quân sư là người cuối cùng bước vào, vái mồ Hải một vái mà rằng:
- Hành vi của hào kiệt năm xưa vì đại nghĩa xả thân, cả cõi Giao Châu rung chuyển. Nghìn năm sử sách sẽ còn kể mãi đến truyện năm xưa. Hôm nay, Hoa Lư lại xuất động, hào kiệt cùng nhau đi thu thiên hạ, đại định núi sông, cứu muôn dân khỏi cảnh lầm than. Chỉ một mình ông là ở lại nơi này coi giữ giang sơn, chẳng cùng anh em đi vào gian khổ. Ông nằm ở đâu, nhìn ra thành cũ bén lửa năm xưa, sức nóng như còn quyện lấy cỏ cây, tiếng quân reo như vẫn còn vương trên ngọn cỏ cánh hoa. Hào kiệt một lần đi chẳng bao giờ trở lại, ông thanh thản chẳng vướng bận gì, nhưng hào kiệt Hoa Lư thì còn đang nặng gánh non sông. Lúc sống ông dậy hào khí, lúc về trời chẳng hề luyến tiếc một mảy may, nhưng ở chốn linh thiêng chắc ông cũng nhìn thấy tiền đồ của cõi Giao Châu. Cảm biết được nỗi niềm trách nhiệm của anh em trong chuyến đi này mà theo quân phù hộ. Mai đây, Hoa Lư ta dứt xong nạn nước, về đến Cổ Loa, ấy là lúc công thành đại định. Lúc ấy anh em người còn ở lại, cũng có người lại theo ông, thảy đều nhớ đến những chuyện ngày xưa mà bồi hồi cảm động! Chinh phu ngày xưa bảo: “Nhất khứ vĩnh bất hồi”, một lần ra đi thề chẳng trở lại, ấy là lúc hào khí lên cao quyết quên thân vì đại cuộc. Ngày nay anh em Hoa Lư ra đi, tôi tin chắc là ông sẽ che chở cho hết thảy anh em còn có ngày về đầy đủ cả, để kể chuyện ông nghe! Thế mới biết, hào kiệt không coi nặng việc tử sinh, đi có về hay không cũng là điều nhỏ. Chỉ có nghĩa cả mới buộc được lòng chinh phu. Ông nằm lại đây, dõi nhìn anh em sang sông, hẹn sẽ có ngày trở lại! Thương thay!
Quân sư vái một vái nữa rồi bước ra, mấy tướng đứng gần thấy rõ hai mắt Quân sư đỏ hoe. Trong không gian tĩnh lặng cái nắng xuân thật dịu đẹp như mơ ấy, âm vang giọng nói của Quân sư dường như vẫn còn vướng vít đâu đây, êm mà cảm động.
Các tướng không ai bảo ai cùng nhau giơ tay nhổ cỏ, bứt cành, sửa sang lại chung quanh mồ Đoàn Phúc Hải cho quang đãng sạch sẽ. Đến khi mặt trời đã ngả bóng, mọi người còn nhìn mồ Hải lần nữa trước khi xuống gò ra về, thì ở phía Bắc chợt có một luồng gió mạnh thổi đến. Luồng gió lạ mạnh đến nỗi bao nhiêu cây cảnh và có các tướng dọn nhổ ở quanh mổ Đoàn Phúc Hải đều tung cả lên. Gió cuốn bay đi ào ào mù mịt cả một khoảng đỉnh đồi cao, các tướng kinh hãi vội quay lưng lại chiều gió tránh đất cát cuốn đi cùng cây cỏ.
Việc lạ xảy ra, ai cũng lo tránh gió, chỉ một mình Quân sư thấy điềm lạ, tâm linh chợt chuyển. Quân sư không quay mặt tránh gió, vì thế còn được thấy trong luồng gió mạnh ấy ở trên trời cao phảng phất như có những lá cờ đen ngày nào binh tướng Hoa Lư dàn ra trong lễ táng Đoàn Phúc Hải. Quân sư lấy làm lạ nheo mắt nhìn cho kỹ. Lạ một điều là gió thổi mạnh cuốn đất cát cùng cỏ cây ào ào tưởng đến nghẹt thở. Thế mà không một hạt cát, không một cọng cỏ nào bay vào cặp mắt Quân sư!
Gió lạ cuốn đi như thế chẳng lâu, cả một vùng lại quang đãng yên tĩnh, ai cũng lấy làm lạ xôn xao bàn tán với nhau. Đỗ Mậu Đại bỗng quay lại bước nhanh đến trước mồ Đoàn Phúc Hải. Đại vái một vái thật rộng, rồi lớn tiếng kính cẩn:
- Quả nhiên ông sống khôn chết thiêng, ông đã hiển linh về chứng giám cho lòng anh em. Ông ở lại đây hay theo anh em sang sông, ở đâu anh em cũng vẫn có ông!
Đại vái lần nữa rồi đứng lặng để cho hai dòng nước mắt đổ xuống.
Bây giờ thì mọi người theo chân Động chúa xuống đồi, mỗi người mang nặng tâm tư chẳng ai nói với ai, cả đám lẳng lặng bước đi. Thời tiết trong sáng buổi đầu xuân trời mới bắt đầu về chiều, thế mà bỗng nhiên mây ở đâu kéo tới đen mịt mù, trời sắp chuyển mưa lớn. Thời tiết thay đổi khác thường hiếm khi thấy. Động chúa có vẻ ngại ngùng, quay sang hỏi Quân sư Lê Thảo:
- Hôm nay là ngày thế nào mà sao thời tiết lại thay đổi bất thường thế này?
Từ lúc xảy cơn gió lạ đến bây giờ, Lê Thảo vẫn lặng lẽ. Đến khi thấy trời bỗng nhiên kéo mây đen thì Quân sư lại càng cảm thấy nôn nao trong dạ. Có điềm gì không hay? Đến khi nghe Động chúa hỏi, Lê Thảo chậm rãi đáp:
- Bẩm, thời tiết đầu xuân cũng thường có mưa lớn, việc ấy chẳng có gì là lạ!
Ở phía sau, lại có tiếng tướng Đỗ Mậu Đại gióng lên:
- Gió thổi mạnh lúc ấy, rõ ràng là ông Đoàn Phúc Hải hiển linh. Bây giờ trời chợt thay đổi chuyển cơn mưa lớn, có khi ông Đoàn muốn giữ ta ở lại chăng?
Câu nói của Đỗ Mậu Đại chẳng qua chỉ là vu vơ, chẳng ai tin là đúng thật, nhưng Quân sư lại nghĩ khác. Quân sư đang lo lắng trong lòng. Trời đất thay đổi thời tiết là lẽ thường, nhưng vào việc lớn thì những điềm lạ xảy ra trong trời đất, người ở ngôi cai quản vạn binh trăm tướng tất phải lưu tâm.
Về đến Bình Lục thì trời tối hẳn, các tướng ai vào việc nấy của mình. Quân sư vừa ngồi xuống thì tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh đã hấp tấp vào trình:
- Khẩn trình Quân sư, binh Bắc phạt của ta do ông Đinh Liễn cai quản liên tiếp hạ thành Tây Phù Liệt, bây giờ đang tiến lên thêm nữa!
Quân sư nghe trình tin vui thế mà trong lòng vẫn không hết được nỗi băn khoăn về các điềm lạ hồi chiều. Quân sư hỏi tướng Mạc Sa Cảnh:
- Ông Liễn tiến binh liên tiếp hạ thành địch, tướng quân thấy thế nào?
Mạc Sa Cảnh đáp ngay:
- Bẩm, việc binh thắng là một điều mừng...
- Thế còn phía địch?
- Bẩm, cho đến lúc này vẫn là các thành ngoại biên tự lực chống cự. Chưa thấy có gì tỏ ra là binh Tây Phù Liệt từ phủ đường ra trận.
- Như thế, thì ta phải nghĩ là: ông Đinh Liễn tiến binh không thận trọng. Một là gấp đường hạ thành lấy thế lợi, hai là đang vào sâu trong cạm bẫy của địch mà không biết! Binh tiến đã khó, lui càng khó gấp bội. Giả sử Tây Phù Liệt tràn binh xuống Nam chẹn đường rút lui của ông Liễn, lại tuyệt hết đường lương thực, thì liệu khi ấy ông Liễn có tiến lên được nữa không? Lui về thì phải tính làm sao?
Mạc Sa Cảnh lộ vẻ lo lắng, Lê Thảo tiếp:
- Trước, ông có cho hay Tây Phù Liệt đưa một đạo quân lớn lên phía Bắc, danh tướng Âu Nam Dương cai quản đạo binh ấy, mặt phía Nam trao binh vào tay tướng già Từ Ngọc Tỉnh. Rõ ràng là Nguyễn Siêu đều coi hai mặt quân là hệ trọng. Ông Liễn vào sâu trọng địa, không khéo lại bị thất thế mất, nhưng ta còn có Đinh lão đi theo chỉ dạy cho Liễn cho nên cũng yên lòng. Nhưng Liễn đối phó với Từ Ngọc Tỉnh không phải là điều dễ. Ta không thể không gấp ra tay giúp ông Liễn được!
Rồi Quân sư sai tướng Mạc Sa Cảnh gấp đưa tin đi cho Đinh Liễn bảo “Cứ thế... cứ thế mà làm”. Một mặt, lại cho gấp đưa lệnh lên phía Bắc trao cho các tướng Lưu Cơ, Nghi Bá Tường, Hồ Song Đao, cũng bảo “Cứ thế... cứ thế... mà làm”. Quân sư phát lệnh đi gấp rút, vẻ vẫn thanh thản ung dung nhưng kỳ thực trong lòng lo lắng lắm.
Đến gần nửa đêm, trước khi cởi bỏ khăn áo đi nghỉ. Quân sư còn lững thững ra ngoài xem thiên văn. Nhìn về phía Nam, trời trong trẻo, không gian đục mờ, sao chẳng sáng lắm, không có gì đặc biệt. Quay sang hướng Đông, trời cũng trong sáng, nhưng ở xa xa lại thấy có dải mây giăng dài một vệt như một dải lụa mỏng vắt ngang chạy dài từ Bắc xuống Nam. Quân sư giật mình nhìn dải mây ấy rồi quay vội sang hướng Tây quan sát, trời trong suốt chẳng một gợn mây. Nền trời tối thẫm lấm tấm những ngôi sao nhỏ rải rác trông không rõ. Quân sư như thấy nhẹ trong lòng, chậm chậm quay nhìn hướng Bắc, Quân sư quan sát hồi lâu rồi trở lại trướng sư ngồi suy nghĩ.
Hồi lâu, Quân sư sai quân hầu gọi tướng Mạc Sa Cảnh đến, bảo rằng:
- Lúc nãy, tôi quan sát thiên văn, lúc ấy là tàn Hợi sắp bước sang Tý, trời quang đãng, ở hai hướng Tây nam trong sáng, nhưng phía Đông có dải mây gọi là “vượng khí vân”. Một dải giăng dài từ Bắc xuống Nam ở phương Đông, là có vượng khí ở phía Bắc dòng sông lớn, người xưa lập quốc hay xuất binh đại chiến nếu gặp điềm thiên văn này ở đất địch, thường cho đem ngọc quý để yểm trấn vượng khí ấy. Nay thiên văn hiện rõ thế này cũng có thịnh sự ở đạo quân phía Bắc của ta đi đánh Tây Phù Liệt. Ta không đem ngọc mà chôn, nhưng phải ra tay hành động mới được! Vậy, tướng quân gấp cho người đi xem việc Đinh Liễn, việc Cổ Loa ta đã có lệnh, nay tướng quân làm sao đưa tin đi bảo ông Lưu Cơ: Trong một hai ngày là cùng, phải thi hành xong lệnh trước, không chờ đợi gì nữa!
Mạc Sa Cảnh vâng lệnh lập tức dùng phép “hỏa tiễn thư truyền tin cho tế tác, lại cho người gấp đuổi theo tế tác đã đi rồi. Một trạm thay một ngựa, hai trạm thay một tế tác, không kể ngày hay đêm cũng phải đi ngay.
Quân sư cho lệnh đi rồi, trong lòng vẫn băn khoăn ngủ không được. Trằn trọc mãi đến tận lúc trời sắp sáng mới ngủ thiếp đi được. Quân sư ngủ chỉ một thoáng rồi bật dậy ngay, bước ra ngoài Quân sư kinh hãi: Tinh mơ buổi sáng trời mùa xuân khí trời lạnh, trời trong đẹp. Bỗng nhiên có tiếng cò trắng kêu vang ở phía Tây một hồi dài. Quân sư vội quay vào trường, chỉnh lại khăn áo, rồi cho quân hầu mời ngay Động chúa Đinh Bộ Lĩnh.
Mới tinh mơ Động chúa đã được tin Quân sư mời, lấy làm lạ cho là có việc khẩn cấp. Liền đem các tướng cùng đi.
Quân sư ra cửa trướng doanh đón Động chúa, Động chúa hỏi ngay:
- Có việc gì, Quân sư gọi ta gấp như vậy?
Quân sư mời Động chúa vào, rồi thưa:
- Bẩm, nửa đêm hôm qua tôi xem thiên văn thấy thiên tượng báo điềm: “Bắc phương vượng khí, ngoại nhân giả vong”. Đây là điềm mây thành giăng dài ở phương Đông, người xưa thường phải đem ngọc bích, ngọc khuê yểm trấn để tránh binh vào nơi vượng khí ấy thì tàn vong. Cho nên tôi đã có lệnh đi Cổ Loa, lại đưa lệnh lên Chu Diên để tướng thủy chiến Nghi Bá Tường đem quân lên Bắc ngay. Sáng hôm nay, lại có điềm “Bạch Hạc Hoài Minh” cò trắng kêu vang ở phía Tây. Đấy là điều báo trước binh ta không lợi, có người đang nguy hiểm. Vì thế tôi cũng đã cho lệnh gấp lên Chu Diên lần nữa…
Quân sư còn định nói tiếp, Động chúa nóng lòng hỏi ngay:
- Như thế, việc binh của ta ở Tây Phù Liệt không có lợi rồi. Đinh Liễn làm hỏng thế lớn của ta rồi chăng?
- Bẩm, cũng chưa hẳn là thế! Điềm thiên văn, điềm loài vật, chẳng qua chỉ là thiên tượng báo trước cho ta việc lành hay dữ. Còn phải tùy thuộc ở ta trong những thiên tượng ấy, ta vẫn ở ngôi chủ động, vẫn có thể chuyển nguy thành an được. Vì vậy ta phải hành động theo ý ta mà vẫn không quên thiên tượng điềm báo. Có thế mới tranh giành với thiên nhiên để vẫn vững địa vị nhân thần được.
Động chúa cũng như các tướng nghe Quân sư nói tuy cũng có phần yên lòng, nhưng vẫn nhiều thắc mắc lắm. Quân sư chẳng quan tâm đến những thắc mắc của mọi người, nói tiếp:
- Thưa Động chúa, kế thu thiên hạ của ta vẫn phải thực hiện cho thật nhanh. Vài trở ngại bất thần ta vẫn kịp giải quyết. Vì vậy ngay ngày hôm nay xin Động chúa phát lệnh tiến binh vượt Xích Đằng ngay!
Động chúa nghe lời, lệnh cho tướng tiên phong Lê Hoàn cho quân sang sông.
Nắng vừa lên cao, binh Hoa Lư lục tục xuống thuyền qua sông. Động chúa cùng Quân sư và các tướng đứng cả trên bờ xem quân ra đi, thì phía đằng sau có tiếng cất lên thánh thót êm như mật quyện mà rằng:
- Đại quân lên đường thu thiên hạ, sao Quân sư chẳng gọi mây sai gió đưa binh tướng đi cho nhanh để nhân gian chiêm ngưỡng phép màu một phen!
Chính Hồi Chúc Tiên nương nói, đứng trong đám người tiễn quân sang sông, nàng chợt nhớ đến chuyện ngày xưa Lê Thảo “cưỡi mây” cùng tướng quân Đinh Điền đêm trăng sáng để vào Đằng Châu. Kỳ sử ấy lúc nào cũng như đọng lại trong ký ức Tiên nương, kỳ sử mở đầu cho những biến động càng ngày càng kỳ lạ ở phương trời Nam với con người lạ lùng này. Tiên nương cầm lòng không được nên thốt ra như thế!
Quân sư cũng như Đinh Điền chưa kịp nói gì, Động chúa đã nói trước:
- Thưa Tiên nương, thật ra chính ta cũng mong có phen được Quân sư gọi mây xuống cưỡi đi chơi, nhưng xem ra phép thần của Quân sư chỉ linh nghiệm khi nào một mình Quân sư đi gặp người tiên mà thôi!
Động chúa thừa biết Quân sư ngày trước sang sông như thế nào, và việc Tiên nướng tặng Quân sư ngọc Hỏa Lựu để lưu tình ra sao. Nay nghe Tiên nương nói thì Động chúa vui vẻ như thế để ngầm nhắc lại nỗi lòng Tiên nương trước vị Quân sư của ngài.
Các tướng nghe Động chúa nói thì cười vang. Tiên nương bẽn lẽn bên cạnh “thượng khanh” của Động chúa là Phạm Phòng Át. Nàng chưa kịp đáp lời Động chúa, thì từ xa tướng quân Mạc Sa Cảnh, tế sứ của Hoa Lư đã giục ngựa cho bay đến trước ngựa Động chúa. Cảnh hấp tấp trình:
- Trình, lão bá đột nhiên bệnh nặng. Đinh Liễn phải cho tướng quân Phạm Hạp gấp đưa về Hoa Lư!
Động chúa kinh hãi, Quân sư trụ ngựa ngay bên cạnh liền bình tĩnh phát lệnh:
- Bây giờ Lão bá ở đâu?
- Bẩm, tướng quân Phạm Hạp đang trên đường trở lại Hoa Lư!
Quân sư quay sang Động chúa, nói với:
- Điềm mây giăng cò hét quả nhiên ứng nghiện! Còn nữa!
Rồi Quân sư bảo Mạc Sa Cảnh:
- Ông đi đón ngay!
Quân sư lại quay sang Động chúa, bảo:
- Xin Động chúa yên lòng, tiếp tục cho quân sang sông. Tôi về doanh có chút việc.
Rồi Quân sư gật đầu gọi tướng Đỗ Mậu Đại cùng đi. Ngựa của Quân sư và ngựa của Đại tung bụi gấp quay trở lại doanh, để lại sau lưng Động chúa cùng hết thảy các tướng băn khoăn lo lắng nhiều bề.
Về đến doanh, Quân sư bảo Đỗ Mậu Đại gấp đường vượt dòng Sinh Khuyết đón ngay Thần Y, lại dặn:
- Đinh lão bá tuổi cao mệt nhọc mấy chục năm nay. Tiết đầu xuân bỗng nhiên ngã bệnh, ấy là điềm sức khỏe suy tàn, ông nhắc để Thần Y liệu đem theo thuốc hồi lực nhé!
Đỗ Mậu Đại vâng lệnh lên đường ngay. Quân sư một mình ngồi trong doanh suy nghĩ, tính toán lung lắm. Nhiều lúc Quân sư có vẻ băn khoăn, sau một hồi nhíu mày suy nghĩ thì nét mặt lại rạng rỡ như thể khó khăn đã vượt qua được rồi. Cứ thế, Quân sư ngồi ở doanh cho đến gần giữa trưa thì tin trình vào: “Tướng quân Phạm Hạp sắp về đến nơi”. Quân sư nóng lòng ra vào cửa doanh mấy lần có ý chờ đợi, chưa thấy tướng Phạm Hạp đâu đi lại thấy tế tác giục ngựa như tên bắn bay đến. Quân sư hồi hộp lắm, lại có tin gì khẩn cấp đây!
Tế tác tung cương xuống ngựa lạy Quân sư. Quân sư đã giơ tay cản lại hấp tấp nói:
- Có việc gì, trình ngay?
Tế tác hổn hển:
- Bẩm Quân sư, tướng quân Mạc Sa Cảnh sai mật trình Quân sư: tướng quân Đinh Liễn vào sâu giang sơn Tây Phù Liệt, chiếm ba thành. Hãm thành Phù Yên không được, bị binh Phù Liệt bọc lấy phía Nam, ông Đinh Liễn thất thể phải liên tiếp lui binh. Tình cảnh nguy ngập chỉ trong vài ba ngày không còn lương thực, mất đường về, có thể bị tan quân!
Quân sư đón tin trong lòng có lo lắng, nhưng ngoài mặt vẫn thản nhiên, bảo tế tác:
- Trở lại gặp tướng Mạc Sa Cảnh ngay, bảo ông ấy lên hẳn phía Bắc tận phủ đường Phù Liệt đón tin các nơi!
Tế tác vâng lệnh, quay ngựa đi ngay. Thế là điềm mây giăng, cò thét lại một lần nữa hiển linh. Quân sư thở dài quay vào doanh.
Vừa vào đến doanh, quân đã vào trình:
- Bẩm, Động chúa một mình trở lại doanh!
Quân sư vội ra đón Động chúa vào doanh. Động chúa bảo:
- Ta thấy có nhiều điều khó khăn, quả nhiên những điểm thiên tượng ông nói lúc sáng đều ứng cả rồi! Tình hình bây giờ thế nào, ta lo quá! Chú ta vẫn chưa về tới!
Quân sư không cần giấu giếm, đáp:
- Bẩm, quả thật vượng khí ở phương Bắc ứng vào việc Nguyễn Siêu lợi hơn ta phương Nam. Cho nên tin lại vừa trình về là: ông Đinh Liễn vào sâu được giang sơn của Siêu, đoạt ba thành, vây thành Phù Yên chưa lấy xong. Binh của Siêu đã lén bọc phía Nam của binh ta, làm cho ông Liễn thất thế phải liên tiếp lui binh, tình cảnh nguy ngập vì trong vài ngày nữa là cạn lương!
Động chúa giật mình:
- Liễn tan quân chăng? Quân ta mới ra ngoài thiên hạ đã đại bại như thế, liệu làm nên trò trống gì được ở bên kia sông?
Quân sư đáp:
- Động chúa bình tĩnh, ngài lo lắng là phải! Sáng tôi có nói: người xưa đem ngọc yểm trấn vượng khí ấy, ta không yểm ngọc nhưng dùng trí mưu để hóa giải nguy cơ, cho nên lúc này ta thất thế đôi chút. Nhưng mưu trí của ta thế nào cũng chuyển nguy thành an!
- Liệu trong lúc nào thì nguy của ta thành an?
- Bẩm, tôi chắc cũng không lâu! Trí mưu của ta đã đến tận Cổ Loa, đã theo thuyền chiến lên khỏi Chu Diên vào phía Bắc giang sơn Tây Phù Liệt tranh lấy vượng khí phía Bắc của y. Chỉ trong không lâu là ta có tin tốt, xin Động chúa an lòng!
Động chúa chưa kịp nói thêm, tế tác tiền phong đã vào trình:
- Tướng quân Phạm Hạp đã về tới!
Động chúa và Quân sư cùng đứng lên, cả hai hấp tấp ra ngoài doanh đón Đinh lão.
Đinh lão nằm cáng che kín đặt trên lưng hai ngựa. Phạm Hạp cho ngựa đi một bên, phía sau có bốn quân sĩ mang gươm dài đi hộ tống. Động chúa chạy tới bên cáng khẽ gọi:
- Chú?
Không thấy có tiếng trả lời. Động chúa muốn đi lên mở rèm nhưng vướng hai bên hai con ngựa chở cáng thành ra không thể vào bên trong được. Động chúa quay sang hỏi Phạm Hạp:
- Tình hình thế nào?
Phạm Hạp đã xuống ngựa, ông liếc nhìn nhanh Quân sư, rồi đáp:
- Lão bá dường như suy sụp sức khỏe, tuổi già mệt nhọc, suốt dọc đường đi gấp, tôi luôn luôn theo dõi. Dường như lão bá mệt lắm, thiếp ngủ liên miên.
Động chúa lo lắng, đích tay ngài cầm dây hàm thiết dắt ngựa gấp vào trong doanh.
Khi vén rèm cáng, Đinh lão nằm thiêm thiếp như người đang ngủ. Động chúa kinh hãi gọi:
- Chú!
Lần này thì Đinh lão khẽ cựa mình, vẫn không mở mắt, ông đã nghe được tiếng gọi của cháu. Ông thều thào:
- Con!...
Động chúa nhìn Quân sư đứng bên cạnh, ngài hỏi vu vơ:
- Bây giờ làm sao?
- Tôi đã cho ông Đại gấp đi đón Thần y.
Đáp rồi, Lê Thảo lại bên giường đưa tay xem mạch Đinh lão. Lần đầu tiên Động chúa Đinh Bộ Lĩnh và tướng quân Phạm Hạp thấy Quân sư xét việc chẩn đoán người bệnh! Quân sư như không để ý đến sự ngạc nhiên của Động chúa và Phạm Hạp, lắng hết tinh thần vào đầu ba ngón tay đặt nhẹ lên của mạch trên cổ tay to tròn của Đinh lão. Quân sư xem đi xem lại, ba đầu ngón tay thay nhau buông nhấn, cặp mày lưỡi kiếm của Quân sư nhíu lại không thôi. Động chúa càng thêm lo lắng.
Hồi lâu, Quân sư buông tay, quay sang Động chúa Lê Thảo nói khẽ:
- Bẩm, tôi không chuyên về y học, nhưng cũng nhận thấy mạch của lão bá trầm mà tán lắm. Như thế tỏ ra trong mình Lão bá không bệnh tật gì, nhưng đến lúc tinh kiệt khí cạn. Bao nhiêu sinh lực theo các huyệt đạo tán cả ra ngoài, tim không còn đủ sức để chuyển vận huyết khí lưu thông trong các huyết mạch được nữa. Đây là giai đoạn của cửa “việt sinh” đi qua sự sống mỗi con người đều phải trải qua! Tôi không biết Thần y có tài giải được tai nạn này không!?
Động chúa, tướng Phạm Hạp nghe Quân sư nói trong lòng tự dưng thấy sợ quá! Người ta ở đời không ai thoát khỏi cửa “việt sinh”. Ngay cả đến bậc hào kiệt lẫy lừng như Đinh Bộ Lĩnh nào có xem cái chết ra gì, thế mà khi nghe Quân sư nói tự nhiên ngài lại cảm thấy lo sợ! Ngài lo sợ không phải cho ngài, mà cho người chú kính yêu, cho đại cuộc vừa mới mở ra thì đã gặp trở ngại.
Động chúa trầm ngâm, rồi khẽ bảo Quân sư:
- Người ta ai cũng phải chết một lần, nếu như chú tôi đến lúc này phải ra đi thì là điều thật đáng tiếc cho người! Vả lại, ông cụ ra đi giữa lúc này liệu có gì đáng ngại không?
Quân sư hiểu ý, chậm rãi đáp:
- Bẩm, ngài đã hiểu rõ lẽ tử sinh, thì không còn có gì là hệ trọng nữa! Giả sử lão bá đến lúc này ra đi, ta cũng không nên cho mọi người hay biết. Trước là để yên lòng binh tướng, sau là giữ được cho thiên hạ khỏi có điều dị nghị không lợi cho ta. Việc lớn không có gì trở ngại, ta đành để khi khác sẽ cho mọi người hay vậy!
Đinh lão đang thiêm thiếp trên giường, bỗng cười lên thành tiếng thật nhẹ. Động chúa, Quân sư và tướng Phạm Hạp vội xô tới. Động chúa cúi thấp xuống ghé sát mặt Đinh lão hỏi:
- Chú tỉnh rồi ư? Chú thấy trong người thế nào?
Đinh lão nằm im một lát, rồi thu tàn lực thều thào:
- Ta nghe Quân sư nói cả rồi! Đúng thế, khoan khoan đừng để mọi người biết vội e không tốt cho đại cuộc. Con hãy cố gắng, lắng nghe hết thảy những gì Quân sư khuyên bảo. Ta cầu mong con thành công đúng như ta mong ước…
Đinh lão nói lâu lắm mới được đến đấy. Đinh Bộ Lĩnh vẫn ghé tai sát môi Đinh lão lắng nghe, hai hàng nước mắt bỗng lăn xuống. Đợi thêm lát nữa, không thấy Đinh lão nói gì thêm. Đinh Bộ Lĩnh quay đầu ghé sát tai Đinh lão gọi:
- Chú! Chú! Con đợi nghe...
Đúng lúc ấy, Quân sư bước sát tới đưa tay điểm vào giữa ngực Đinh lão, vẻ mặt Quân sư gay cấn lắm, đây là lúc Quân sư đem nội lực phổ vào ngón tay án lên huyệt “tục sinh” cầm giữ sinh mạng Đinh lão không cho tắt. Quân sư gọi to:
- Lão bá! Lão bá!...
Thì ra, đứng bên cạnh Quân sư vẫn chăm chú theo dõi thần khí trên mặt Đinh lão. Đến khi thấy các nét mặt Đinh lão chợt giãn ra chùng xuống thì cặp mắt cực tinh anh của Lê Thảo đã nhận thấy ngay, cho nên Quân sư mới gấp hành động như thế!
Ngón tay Lê Thảo đè trên huyệt mạch Đinh lão được một lát ngắn, thì Đinh lão gắng thều thào:
- Quân sư, cháu ta...
Ông chỉ nói được có thế, tài của Quân sư cũng chỉ đến được có thế. Gương mặt Đinh lão bỗng trở nên thanh thản, bao nhiêu nét gắng gượng chợt biến mất cả. Ông đã ra đi thật êm đềm.
Động chúa kêu lên:
- Chú!
Trong tiếng kêu ấy nghe nghèn nghẹn. Đinh Bộ Lĩnh để mặc cho nước mắt tuôn trào, người thân bề trên cuối cùng trong đời ngài đã ra đi nốt. Tướng quân Phạm Hạp đứng lặng, chứng kiến từ đầu, nước mắt vị tướng trầm tĩnh đầy trung cương này đổ xuống từ lâu.
Cùng lúc với tiếng kêu gọi chú của Đinh Bộ Lĩnh, bên ngoài nghe rầm rập vó ngựa gấp rút. Quân sư quay người nhìn ra đúng lúc tướng Đỗ Mậu Đại quăng cương phóng từ trên lưng ngựa xuống. Đại vừa ào vào vừa hỏi to:
- Sao? Đinh Lão bá làm sao?
Nhìn quang cảnh, Đỗ Mậu Đại hiểu ngay, ông gào to lên:
- Trời ơi! Lần nào ta đi gọi Thần y cũng đều về trễ cả! Hỏng mất rồi!
Và bây giờ thì Thần y bước vào, đãy thuốc đeo ở sau lưng. Thần y bước tới nhìn Đinh lão nằm trên giường, ông không xem mạch mà chỉ rói:
- Ta lại đến chậm! Sinh lực tán hết rồi, huyệt mạch trong ngoài đều đoạn cả, không cứu được nữa!
Thần y bước tới nhẹ giơ tay xem mạch nơi cổ tay Đinh lão. Chỉ có những ngón tay thần của danh y Hồ Xích Tú mới cảm nhận được tận cùng dưới đường mạch cực trầm, thoảng còn vương luồng sinh khí đang tan nốt. Thần y lắng hết tinh thần vào tay mạch, rồi ngửng đầu nói:
- Cụ tuổi cao, hỗn loạn chung quanh làm cho kinh mạch đổi hướng. Sinh lực tán phát hết, đây là tuổi già được chết trong bình an đấy!
Năm ấy, Đinh Mão (967), ngày hai mươi bốn tháng Giêng. Đinh lão tục danh là Đinh Công Dự, chú ruột của Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh về trời, hưởng thọ được bảy mươi hai tuổi. Cũng năm này Đinh Bộ Lĩnh được bốn mươi lăm tuổi.
Thế là chỉ mới bảy ngày sau khi binh tướng Hoa Lư ra khỏi giáo trường Bình Lục, Hoa Lư đã phải chịu tang lớn. Nhưng Động chúa bảo giữ kín việc Đinh lão, chỉ nói là: Đinh lão đang nghỉ dưỡng sức ở Hoa Lư. Rồi Động chúa đích thân đưa linh cữu chú về táng ở Hoa Lư. Để ghi nhớ những ngày buổi đầu theo chú dựng nghiệp còn nương náu ở đây. (Người đời sau lập miếu thờ chung với Đinh Tiên Hoàng Đế. Miếu cổ trong động nay vẫn còn, ngoài cửa động có khắc ba chữ lớn Hoa Lư Động).
Xong việc Đinh lão, Động chúa gấp trở lại doanh Bình Lục ngay; ngoài Quân sư, hai tướng Phạm Hạp, Phạm Cự Lượng, Đỗ Mậu Đại và Thần y ra, thì chẳng một ai biết việc này. Động chúa để Thần y ở lại Hoa Lư chứ không cho đi theo.
Trước khi trở lại với Đinh Liễn, tướng Phạm Hạp được Động chúa bảo là cứ cho Đinh Liễn biết việc nhưng không được để lộ ra ngoài. Quân sư thì chỉ dặn: “Các ông cứ tiến binh, lấy cho xong Phù Liệt rồi án binh ở đấy đợi chờ, không được tiến xa tới nơi khác”. Phạm Hạp vâng lệnh đi ngay, trong lòng thắc mắc không hiểu lúc này chiến trận trên đất Tây Phù Liệt thế nào. Chứ lúc Hạp lên đường đưa Đinh lão trở về thì binh Hoa Lư đang thất thế, không biết chừng Đinh Liễn tan quân lúc nào cũng chưa rõ. Thế mà Quân sư lại thản nhiên bảo phải lấy cho xong Tây Phù Liệt, xem ra lời nói của Quân sư có phần tin chắc làm cho Hạp băn khoăn lắm. Băn khoăn thì cứ băn khoăn, Phạm Hạp vốn là người trung cương, nghiêm chỉnh với kỷ luật. Nghe lệnh thắc mắc thì hỏi ngay, còn khi đã vâng lệnh thi hành thì dù thế nào chăng nữa cũng không hỏi lại, chỉ một lòng chu toàn nhiệm vụ.
Lúc Động chúa cùng Quân sư trở lại doanh Bình Lục đem theo tướng Đỗ Mậu Đại, thì bình đã sang sông xong rồi. Tướng quân Lê Hoàn cho binh tạm trấn ở Hải Triều. Các tướng có người hỏi tin, Động chúa chỉ nói: “Thần y đang trông nom cho Đinh lão ở Hoa Lư.”
Sang đến Đằng Châu, Hoa Lư Động chúa gom thêm binh của Đinh Điền, lại lấy thêm vài tướng cũ của Đằng Châu cho đi theo. Ấy là các tướng Chu Trạch Phương, Đào Bích Hải, Cao Hồ Đạo, lại sai gấp đưa lệnh tin lên cho tướng thủy chiến Nghi Bá Tường. Động chúa dặn Tường: “Lệnh kế vẫn thi hành gấp, để cho thuộc tướng Lê Đường Hào sắp sẵn một cánh quân thủy đợi lệnh, có khi phải vào trận”.
Tại doanh, Động chúa nghe tướng quân Đinh Điền trình bày mọi việc, lại đưa các tướng cũ của Đằng Châu tới lạy chào, thì bài lòng lắm. Đinh Điền trình thêm: “Tướng Phác Đức Giật của Đằng Châu không chịu khuất phục đã bỏ đi. Bảo là Hoa Lư thất ước, lừa Sứ quân Phạm Phòng Át. Làm cho hai tướng Phí Tiên Yên, Nguyễn Trọng Xuân cũng bỏ đi theo, còn các tướng khác thì đều xin ở lại và theo về với Hoa Lư”. Đinh Bộ Lĩnh nghe trình xong, lên tiếng phủ dụ các tướng rồi thu dùng cả. Người nào chức tước ra sao thì vẫn giữ nguyên như cũ, các tướng Đằng Châu ông nào cũng hoan hỉ. Thảy đều cầu xin Hoa Lư Động chúa đừng bao giờ để cho Phạm Phòng Át trở lại Đằng Châu nữa. Lại có người như bọn Hồ Địch Vọng, Hạ Nam Cung còn chẳng tiếc lời chê bai chủ cũ đủ điều. Nói là cả Đằng Châu đều oán ghét Phạm Phòng Át vô tài bất đức làm khổ trăm dân bao nhiêu năm rồi.
Đinh Bộ Lĩnh nghe chỉ mỉm cười, bỏ ngoài tai các lời chê bai của các tướng ấy, chỉ bảo: “Việc cũ qua rồi, nay các tướng trở về với Hoa Lư là đã nhìn thấy minh đạo, vậy mọi tăm tối đều không nói đến nữa, hãy hết lòng góp sức cứu trăm dân...” Động chúa bảo:
- Các tướng cũ của Đằng Châu hỏ đi, lại lên tiếng trách Hoa Lư là điều không đúng. Tuy thế nghĩa khí của các ông ấy cố giữ trung thành với chủ cũng là điều đáng khen. Chỉ tiếc là các ông ấy không hiểu thời thế, không nhìn rộng ra được việc lớn của non sông. Lòng trung của các ông ấy nên coi trọng, nhưng nên tiếc cho các ông ấy chẳng biết đường đền đáp nợ cơm áo của trăm dân. Không hiểu mối nguy ngoại thuộc lúc nào cũng lăm le đổ xuống đầu dân ta....
Rồi Động chúa truyền mở đại tiệc trước là để cho các tướng cũ của Đằng Châu có dịp được chung bàn với chủ mới. Sau là để nghe nói về việc lớn trong thiên hạ.
Trong tiệc, Động chúa truyền các tướng cũ Đằng Châu ở lại đất cũ, thay thế cho các tướng Hoa Lư để các tướng từ đây theo đại binh của Động chúa đi thu thiên hạ.
Hoa Lư Động chúa sang Đằng Châu chỉ nghỉ lại một đêm. Sáng hôm sau cho lệnh đại quân xuất doanh lên Bắc ngay. Tướng quân tiên phong Lê hoàn vâng lệnh, truyền các tướng ai vào phận sự người nấy ngay, hẹn là giữa Thìn thì binh bắt đầu ra khỏi doanh.
Trọng Thìn, trời quang đãng thật đẹp, trống lệnh đại doanh vừa gióng hết ba hồi thật hùng dũng, cửa lớn đại doanh mở rộng. Binh Hoa Lư đi đầu là tướng quân Lê Hoàn với đạo quân kỳ lệnh ra khỏi doanh, trăm họ Đằng Châu từ tinh mơ đã tụ tập ở trước doanh để đón xem binh tướng Hoa Lư ra trận. Người người hoan hỉ với mắt nhìn những người chủ mới trong niềm tin yêu, ai cũng tin là cuộc đời mới đang bắt đầu.
Cuộc sống ở Đằng Châu mấy năm sau này khi Sứ quân Phạm Phòng Át còn ở bên Hoa Lư. Các tướng Hoa Lư quản nhiệm việc trị an thì kỷ luật cực nghiêm. Tướng quân Đinh Điền nhớ lời dặn của Động chúa, cho thi hành quân pháp nghiêm ngặt ra cả ngoài trăm họ. Trộm cướp đều bị tội chém đầu, giặc giã ở các nơi đều bị dẹp yên. Nhờ thế mà dân chúng Đằng Châu được yên ổn làm ăn, đêm ngủ chẳng cần đóng cửa, sinh sống chẳng còn sợ những người Tàu chèn ép. Hoa Lư còn ở xa mà trăm họ đã một lòng hướng cả về. Nay lúc Hoa Lư xuất quân, ai cũng nô nức chỉ mong được thấy mặt Hoa Lư động chủ.
Binh Hoa Lư xuất doanh như nước chảy mây trôi, đến giữa Ngọ thì đã hết. Cuối cùng, là Động chúa Hoa Lư có Quân sư bên cạnh, theo sau là các tướng chẳng thiếu một ai. Đoàn ngựa trận thong thả đi giữa tiếng hò reo rung trời chuyển đất của bá tánh đứng hai bên đường. Động chúa tươi nét mặt, thỉnh thoảng ngài giơ tay vẫy chào trăm họ. Những lúc như thế thì trăm họ lại càng ra sức hò hét lớn hơn nữa, có người còn bắt cả loa hô lớn lên: “Vạn tuế Động chủ! Vạn tuế Động chủ!” trăm họ hô theo. Binh ra trận vui vẻ tưởng như đám rước mừng, ai cũng cảm thấy trong lòng nao nao niềm vui lạ!
Động chúa cùng Quân sư và các tướng còn đang say với quang cảnh trăm họ tiễn đưa, thì từ đằng xa một kỵ sĩ trương cao cờ hiệu tế sứ với chữ “Mạc” màu đen thêu trên lụa đỏ chói. Kỵ sĩ giục ngựa chạy men theo quan lộ, bụi tung mù. Động chúa nheo nheo cặp mắt sắc một mí nhìn, ánh tinh quang như chiếu ra dữ dội.
Kỵ sĩ tới trước Động chúa thì lật đật xuống ngựa, tay vẫn giơ cao cờ hỏa tốc tế sứ. Quân sư giơ tay ra hiệu, bảo khoan trình tin.
Chưa biết lại có tin gì khẩn cấp mà tế tác ở đâu phải trương cờ chạy đến như thế, xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—