Hồi Thứ Chín Mươi Mốt Động chúa đưa quân lên phía Bắc
Hoa Lư định kế ra mặt Đông
Tế sứ nhìn Quân sư ra hiệu thì hiểu ngay, ngừng trình việc, Quân sư hỏi:
- Tế sứ phương Bắc ở lộ nào tới?
- Bẩm trình, thuộc hạ ở Tây Phù Liệt về.
Quân sư gật đầu, Động chúa có phần nóng lòng, ngài tin chắc là có tin quan trọng về binh của Đinh Liễn. Quân sư không cho trình tin như thế ắt là có điều bất lợi lớn!
Động chúa ra lệnh cho các tướng cứ tiếp tục đường đi, ngài cùng Quân sư dừng ngựa đợi chờ. Hồi lâu, các tướng đã đi xa rồi, lúc ấy Quân sư mới bảo tế sứ trình việc.
Tế sứ nói:
- Bẩm trình, tướng quân Đinh Liễn vào sâu trọng địa Phù Liệt, bất thần liên tiếp đánh chiếm ba thành, rồi vây hãm thành Phù Yên. Nhưng không lấy được thành. Phủ đường Phù Liệt sai đại tướng Từ Ngọc Tỉnh mang binh cứu viện. Tỉnh đưa quân đi vòng xuống Nam chẹn phía sau binh ta làm mất đường tiếp tế quân lương, khiến cho ông Đinh Liễn phải liên tiếp lui binh, tình thế khẩn cấp nguy hiểm lắm!
Động chúa nghe trình thì kinh hãi. Hóa ra những điềm thiên tượng hôm trước chẳng phải chỉ ứng vào việc Đinh lão quy tiên, mà còn ứng cả vào việc binh của Hoa Lư ở Tây Phù Liệt bị thất bại nữa! Quân sư cho tế sứ lui, chỉ còn Động chúa và Quân sư đi ở phía sau, cách xa các tướng. Động chúa có phần giận dữ, bảo:
- Như thế là Đinh Liễn làm hỏng cả chiến kế của ta! Quân sư tính việc có chỗ nào sơ hở để xảy ra việc không hay chăng?
Quân sư bình tĩnh đáp:
- Bẩm, những việc tế tác vừa khẩn trình. Thật ra chính Đinh lão bá lúc cùng Đinh Liễn đem quân đi đã biết rồi. Vì thế Lão bá không có hành động gì khi Liễn xua quân ào ạt đánh chiếm ba thành của Tây Phù Liệt!
Động chúa kinh ngạc, hỏi:
- Như vậy, thì việc Liễn tiến rồi lui là chiến kế của ta chăng?
- Bẩm chính thế! Trước tôi đã có nói: chắc chắn không phải Nguyễn Siêu thật lòng muốn gây sự với ta, mà y muốn dòm ngó Cổ Loa. Đến khi Nguyễn Siêu lặng lẽ sai đại tướng Âu Nam Dương cầm trọng binh lên Bắc. Siêu lẳng lặng tùng quân, sai Từ Ngọc Tỉnh xuống Nam. Trước là làm ra vẻ cản Đinh Liễn, sau là bất thần cướp Hoa Lư ta. Kế ấy của Siêu bịt được mắt Đỗ Cảnh Thạc, làm cho Ngô Nhật Khánh phải hoang mang chờ xem. Chứ làm sao che được mắt ta! Vì thế, ông Lưu Cơ đã xuống Nam, Động chúa đã biết, vì thế Nghi Bá Tường xuất thủy quân lên khỏi Chu Diên. Ba tướng Lưu Cơ, Hồ Song Đao, Nghi Bá Tường thúc binh giả dạng Cổ Loa xuống Nam chinh phạt Tây Phù Liệt, giúp ta tiêu diệt Nguyên Siêu, giữ yên các Sứ quân khác!
Bây giờ thì Động chúa hài lòng, ngài tươi tỉnh hỏi:
- Giả sử các Sứ quân kia không chịu ở yên thì sao?
- Bẩm đúng thế! Tôi nghĩ: ở phía Tây, ông Liễn sai tướng Phạm Cự Lượng lặng lẽ đi yểm trợ, nhưng rồi Lượng không liên lạc được với Liễn thành ra bị bơ vơ. Tình thế hết sức khó khăn, việc của ta thì lại không thể trì hoãn được. Cho nên tôi đã quyết định: ta nhân lúc binh nhà lâm nguy, chọn ngay lấy cái nguy ấy để tìm chỗ thủ thắng, xoay chuyển tình thế vậy!
Động chúa bảo:
- Xưa nay ta chỉ nghe nói: nhân cơ hội tốt mà ra tay tìm lợi, chứ chưa bao giờ lại nghe “tìm cái lợi trong lúc bị nguy!” Vậy Quân sư định tìm lợi như thế nào?
Quân sư đáp:
- Bẩm, trước tôi vẫn lo các Sứ quân lúc bị nguy có thể dàn xếp để liên minh với nhau, vì thế mới có việc Hoa Lư ta khuấy động cả thiên hạ. Làm cho thiên hạ oán thù nhau, ấy là để chờ những lúc như thế này đây! Nay, ta ra quân gặp khó, ta lại có thể dùng chỗ oán thù của thiên hạ đề hại thiên hạ. Ta hãy cho tế tác gấp đường sang Phù Liệt theo đường thẳng đi gặp ngay tướng Phạm Cự Lượng. Bảo Lượng đem binh giả dạng binh Phù Liệt kéo lên đánh úp Đỗ Động Giang khiến Đỗ Cảnh Thạc phải nổi giận đề binh xuống Phù Liệt. Ấy là ta vừa chia xẻ được sức mạnh của Phù Liệt, vừa giúp cho ông Liễn tiến nhanh lên phía Bắc được. Ở mặt Bắc, binh của tướng Lưu Cơ trương hiệu cờ Cổ Loa đánh xuống, ắt thế nào cũng làm cho Đỗ Cảnh Thạc không dám tiến xuống sâu hơn nữa, mà phải quay về. Lúc ấy Nguyễn Siêu mấy mặt thụ địch, thế nào cũng phải tan!
Động chúa vui vẻ, bảo:
- Tôi bằng lòng với diệu kế của ngài. Thế còn việc phó tướng của Nghi Bá Tường sẵn sàng quân để làm gì? Lúc này ta rất cần đến tế sứ. Ông Mạc Sa Cảnh theo quân ở đây có làm thiệt hại gì đến việc thu thập tin tức của ta ở phía Bắc không?
Quân sư đáp:
- Bẩm, các mặt tế tác của ta thu thập tin cho binh tiến, tôi tin chắc là thừa dùng rồi. Việc ông Mạc Sa Cảnh ở đây là điều quan trọng để ngồi một chỗ mà quan sát được hết các mặt. Nhờ thế mà Mạc Sa Cảnh đã được biết: Nam Tấn Vương trúng tên chết, Giao Châu không có chủ. Do đó Triệu Khuông Dẫn không thể không xúc động tà tâm muốn đánh chiếm Giao Châu ta. Nhưng vì còn chưa bền vững được ngôi vị. Sợ cái họa “Tướng mạnh ở ngoài có lúc quay binh làm phản”, nên Triệu Khuông Dẫn chưa nghe lời Hầu Nhân Bảo. Lại thêm Lư Đa Tốn bàn thêm: “Nên xuất kỳ bất ý, đem binh tập kích mà lấy Giao Châu, thế là sấm đánh không kịp bưng tai. Còn nếu cho gọi Nhân Bảo về sợ mưu bị lộ. Giao Châu biết mà phòng bị, đấy không phải là kế vẹn toàn.” Triệu Khuông Dẫn nghe lời Lư Đa Tốn mới chậm lại việc đề binh bất thần đánh Giao Châu ta. Tuy thế, tôi lại được tin là Hỏa Thần Giáo do Tô Lỗ Chi (Zoroastle) sáng lập, truyền vào Trung Quốc từ lâu nay đang muốn tìm cách bành trướng. Vì vậy bọn Hỏa Thần Giáo mới xin với Tống Thái Tổ được đi tiên phong xuống Giao Châu ta. Lập thế để cướp Giao Châu ta cho Tống triều. Tống Thái Tổ chuẩn y. Lúc này đã có bọn Hỏa Thần Giáo vào Giao Châu, bọn ấy lấy Tế Giang làm căn cứ. Mua chuộc Lữ Đường đợi lúc Giao Châu không chủ đại loạn là mở đường cho binh Bắc tràn xuống. Vì thế mới có việc tướng Mạc Sa Canh ở lại nhà, rồi sẽ lên Tế Giang nhận tin tức. Thế nào cũng có phen binh Hoa Lư ta giao chiến với bọn Hỏa Thần Giáo!
Động chúa cho ngựa chậm chậm bước đi, ngài có vẻ suy nghĩ lung lắm, rồi hỏi:
- Như thế, liệu ta thu phục Giao Châu có kịp hay không? Hỏa Thần Giáo liệu có làm được gì không?
Quân sư ngồi thẳng trên lưng ngựa, hùng hồn đáp:
- Bẩm, dù rằng Giao Châu ta lúc này tạm thời không có chủ, nhưng vì mỗi nơi đều có một Sứ quân chiếm giữ thành ra không có cái cảnh “con cháu trong nhà chẳng có cha mẹ”. Giao Châu loạn nhưng không bị tan rã ngay, binh ta ra tay dẹp các Sứ quân, chẳng khác nào cắt từng cái gai trên cành cây. Công việc lớn mà tiến hành dần dần được là nhờ ở chỗ ấy. Dù thế, tôi cho rằng: lúc nào ta đã tỏ cho cả thiên hạ thấy cái thắng của ta, thì lúc ấy thế nào cũng phải có việc với Tống triều! Chưa có lần nào trong lịch sử lại có việc phương Nam ta hoàn toàn tự chủ, mọi việc lại chẳng cần phải tranh giành từng tí một với Bắc phương! Lần này cũng thế, nhưng cái thế “đại thắng” của ta sẽ làm cho Tống triều phải nhượng bộ!
Đinh Bộ Lĩnh nghe Quân sư nói, ngài thấy bao nhiêu là việc lớn lao quả thật một mình sức ngài khó lòng nghĩ đủ, hay trông nom cho hết được! Đinh Bộ Lĩnh lấy sức mạnh thanh gươm, yên ngựa làm thế tranh hùng với thiên hạ. Nhưng lại không đủ coi trọng mặt dàn xếp của trí mưu. Ngài tự biết mình được trời phù trợ đưa hiền sĩ đến giúp rập. Bất giác Đinh Động chúa kín đáo liếc mắt nhìn Lê Thảo, trong lòng Động chúa chợt nảy sinh nhiều mối nghĩ ngợi. Quân sư vẫn thản nhiên, tiếp lời:
- Bẩm, binh ta lúc mới xuất doanh ở Hoa Lư chẳng được đông, nhưng bây giờ có thêm binh lấy ở Đằng Châu, rồi sắp thêm ở Bình Kiều. Tướng tài không thiếu, sức mạnh của ta hơn hết thảy các Sứ quân. Chinh phục các Sứ quân không khó. Khó ở chỗ làm thế nào ta vẫn tiến hành được cuộc đánh dẹp, mà lại vẫn kìm hãm được Tống Thái Tổ. Giữ cho Triệu Khuông Dẫn không đề binh xuống nước ta!
Đinh Động chúa hỏi:
- Thế ta đã lo liệu về mặt ấy như thế nào rồi?
- Bẩm, tướng Mạc Sa Cảnh sẽ thu thập không thiếu một việc gì lại chẳng biết, nhưng cái biết ấy sẽ giúp ta có hành động đối phó thật đúng việc đúng lúc. Tôi nghĩ nước ta sức yếu, lại bị cái họa Sứ quân làm cho trăm dân xơ xác. Từ trước đến giờ Giao Châu vẫn chưa lập hẳn thành một nước rõ rệt. Vì thế không làm sao làm cho đất nước trở thành giàu có thịnh vượng, dân tình mở mang được. Nay nếu lại phải mang binh cự với Bắc phương thì là thêm một họa lớn. Dù ta có thắng cũng lâm cái cảnh “người chạy trăm dặm về rồi ngã xuống mà thở dốc, chưa chết cũng là may lắm rồi!”. Như vậy, nếu ta khéo dàn xếp cả trong lẫn ngoài. Tống triều chưa thuận tiện để chiếm Giao Châu ta, tất thế nào cũng tìm cách đi lại mua chuộc ta. Mong ta sẽ cam tâm làm tôi tớ cho họ, hoặc cùng lắm là ta ngoan ngoãn thần phục họ. Thế là họ vừa được tiếng Giao Châu ta quy phục, vừa lại chẳng mất sức tốn công! Nếu xảy việc đúng như vậy, phải hết lòng tính toán, nhất định phen này Hoa Lư ta phải giữ cho được ngôi trị vì trăm dân, tìm đủ mọi cách để mở mang đất nước. Sau đấy ta sẽ nghĩ đến việc ganh đua với phương Bắc!
Đinh Động chúa nghe Quân sư trên đường đi luận quốc sự thì trong lòng vô cùng hào hứng, vô cùng phấn khởi. Nhìn vào ngày mai như biết chắc trước là “thế nào đại nghiệp cũng dựng xong!”.
Thế là, tin đưa đến Phạm Cự Lượng đã xong. Tướng quân Mạc Sa Cảnh lại giữ trọng mệnh lên Tế Giang phao tin: “Sứ quân Nguyễn Siêu sắp cho người lên Tế Giang cầu thân với Sứ quân Lữ Đường để cùng đánh Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc”. Nhưng Sa Cảnh được dặn là: phải lợi dụng thế lợi hại của dòng Xích Đằng chia ranh giới Tế Giang với Đỗ Động mà phao tin vào đất Đỗ Động. Còn ở Tế Giang thì phải làm thế nào để các tin ấy chỉ vừa đủ để Sứ quân Lữ Đường nghi ngờ đôi chút mà thôi.
Tế sứ với tế tác các mặt lĩnh mệnh lên đường ngay. Binh Hoa Lư vẫn đều đều, kín đáo, gấp đường kéo ngược lên mặt bắc vào đất Bình Kiều. Ở mặt Nam Bình Kiều là trách nhiệm của hai tướng Trịnh Tú, Chu Kỷ Toàn. Hai tướng đích thân đi trước dẫn đường cho binh Động chúa. Hai tướng cùng đi với tướng tiên phong Lê Hoàn, kéo đại binh và thẳng phủ đường, an binh các ngả, rước Động chúa vào đại sảnh mà trình việc. Động chúa hỏi han mọi việc, nghe hai tướng thuật hết việc Bình Kiều từ ngày Sứ quân Ngô Xương Xí lâm bệnh rồi chết, ông Lê Hiền dặn dò các tướng ra sao… Sau bỏ đi, cho đến nay thì một số các tướng cũ của Bình Kiều nghe lời dặn dò của Lê Hiền ở lại với Hoa Lư.
Quân sư Lê Thảo nghe trình việc, dù rằng đã biết cả rồi, thế mà vẫn thấy bùi ngùi nhớ đến người anh chẳng biết hiện giờ đang ở đâu?
Động chúa còn đang nghe trình việc, đã có quân từ ngoài vào trình:
- Có mấy tướng cũ của Sứ quân Ngô Xương Xí xin vào lạy ra mắt!
Động chúa nghe trình liền hỏi ngay:
- Có ông Lê Hiền đến chăng?
Trịnh Tú đứng dậy xin ra đón các tướng ấy. Lát sau Tú dẫn bảy người vào. Bảy người ăn vận theo lối dân giã nhưng tươm tất, vào đại sảnh thì vòng tay vái lạy Động chúa. Hoa Lư Động chúa chưa kịp đáp lễ thì một người đã lên tiếng, giọng người này sang sảng, lễ độ nhưng đầy khí độ hiên ngang mà rằng:
- Bẩm ngài, chúng tôi là người cũ của Bình Kiều trước kia được theo hầu dưới trướng ngài Lê Hiền. Sau được nghe ngài Lê Hiền dặn dò mọi việc, lại bảo là hãy đợi chờ đến lúc Động chủ xuất hiện thì đến mà lạy mừng. Chúng tôi nay nhớ lời ngài Lê Hiền nên tuy chẳng có ngài ấy ở đây, chúng tôi cũng xin tuân lời đến trình trước Động chúa!
Quân sư nghe người ấy nói càng nhớ đến Lê Hiền, lặng lẽ chẳng nói. Động chúa vui vẻ nói:
- Như vậy là các ông vì ông Lê Hiền mà tới đây, chứ chẳng phải muốn theo về với ta chăng?
Người ấy đáp:
- Bẩm, chúng tôi kính trọng ngài Lê Hiền vô cùng, đấy là một lẽ. Lẽ khác nữa là nếu chúng tôi tới mà Động chủ thấy chẳng có chỗ dùng đến, thì chúng tôi lại xin ra đi. Như vậy chúng tôi vẫn không sai lời ngài Lê Hiền chỉ dạy!
Quân Sư Lê Thảo chợt hỏi:
- Các ông có biết anh tôi hiện giờ ở đâu không?
Đám bảy người lạ mặt nghe hỏi thì chăm chú nhìn Lê Thảo, vẫn người đối đáp ấy trả lời:
- Thưa, ông Lê Hiền ra đi từ đấy chẳng ai biết tung tích, còn ngài là em ông Lê Hiền? Như vậy ngài là Quân sư Lê Thảo của Hoa Lư có phải không?
Quân sư ung dung đáp:
- Phải, chính tôi là Lê Thảo?
Người lạ như suy nghĩ, rồi chợt tươi hẳn nét mặt mà rằng:
- Thưa ngài, trước kia tôi được Thần núi Yên Tử dạy dỗ. Thần lại còn dặn tôi là “Theo người anh thì để hận muôn đời, theo người em thì thành đại nghiệp”. Tôi nghĩ mãi không hiểu lời nói ấy, đến lúc ông Lê Hiền sắp ra đi dặn dò các việc, rồi đến bây giờ thì mới chợt hiểu ra! Thưa, bây giờ chúng tôi không có chủ, việc đi về cũng chẳng có gì là bó buộc. Giả sử Động chủ không chê chúng tôi là những kẻ không thờ một chủ mà thu dụng, chúng tôi xin được theo ở dưới cờ Hoa Lư!
Động chúa thật vui, hỏi các tướng lúc ấy mới biết: người nói từ đầu đến lúc này chính là Triệu Mai Nhân. Họ Triệu lần lượt giới thiệu lên Động chúa các tướng Lâm Linh Mẫn, Phạm Tuy Nguyên, Châu Đức Nghiệp, Đào Long Vân, Hà Bảo Ninh và Trương Đức Xuân. Bảy tướng lần lượt hầu chuyện Đinh Động chúa. Rồi Quân sư Hoa Lư nói:
- Bẩm Động chúa, các tướng cũ của Bình Kiều nay đã trông thấy thế lớn của Hoa Lư, tự nguyện tìm đến, đấy là một điều mừng. Binh ta không đóng ở đây lâu, tôi xin Động chúa đem đức lớn của bậc trượng phu mà để Bình Kiều này lại cho các ông ấy trông nom. Như vậy vừa tỏ cái ý “thiên hạ đất rộng, nhưng là một nhà của Hoa Lư ta trông nom”. Lại vừa tránh được những khó khăn ở địa phương!
Động chúa chưa kịp nói, Triệu Mai Nhân đã vội lên tiếng:
- Bẩm Động chúa, thưa Quân sư. Hoa Lư rộng lượng như thế là một điều phúc lớn chẳng phải chỉ cho riêng anh em chúng tôi, mà còn là phúc lớn của cả cõi Giao Châu sau này nữa! Tuy nhiên, anh em chúng tôi là võ tướng, việc trông nom săn sóc trăm dân quả thật không hợp. Vả lại anh em chúng tôi nhớ đến lời dặn của ông Lê Hiền thì không thể nào lại muốn tìm chỗ an nhàn cầu thọ được. Anh em chúng tôi tài chẳng có gì, cũng xin được theo vó ngựa Hoa Lư giúp sức nhỏ vào việc bình thiên hạ!
Quân sư tươi nét mặt:
- Bẩm Động chúa, trước Động chúa vẫn thường bảo: “Hoa Lư mang trách nhiệm dẹp loạn cứu dân chứ không màng quyền thế”. Vì vậy Động chúa mới trao lại cho các nơi quyền trông nom săn sóc trăm dân. Nay đến Bình Kiều này cũng vậy, nhưng đại nghĩa nơi Hoa Lư quả nhiên đã làm cho cả thiên hạ cùng thấm. Hoa Lư không màng quyền thế, chẳng muốn chiếm đoạt đất đai, vậy mà các nơi vẫn đều tự ý thuận theo về! Vậy, trước xin Động chúa làm cho sáng tỏ đức lớn của bậc trượng phu lúc dựng nghiệp, là chẳng hẹp hòi mà không mời các ông ở Bình Kiều này cùng dự việc lớn. Sau là nhất định chẳng đòi hỏi gì ở Bình Kiều, mà chỉ đóng binh lại ở đây để xem xét mọi việc xong là lại lên đường ngay!
Động chúa rất hài lòng, thu nhận tất cả các tướng cũ của Bình Kiều, rồi sai mở tiệc lớn để cùng các tướng mừng công việc.
Sáng hôm sau, tinh mơ Động chúa đã cho giục trống tập quân, hội các tướng lại mà rằng:
- Hoa Lư ta vì đại nghĩa phải ra ngoài thiên hạ cứu trăm họ ở Giao Châu, việc binh biến tất cũng có lúc làm cho dân chúng bị thiệt thòi. Những thiệt thòi ấy đều phải ghi nhớ để mai sau hoàn trả đền bù lại cho dân! Binh Hoa Lư xuất chiến không phải chỉ muốn chiếm giữ một mảnh đất đai nào của ai, mà việc lớn là dẹp loạn ở Giao Châu này cho quang đãng, quét cho sạch họa nước họa dân. Vì thế binh Hoa Lư không đóng lâu ở Bình Kiều mà lại phải lên đường! Các tướng cũ của Bình Kiều đã muốn được dự việc lớn cùng Hoa Lư, vậy mời các ông cùng theo. Việc Bình Kiều trước có ông Thẩm Thụy Hùng quán xuyến, nay cứ để ông Thẩm trông coi mọi việc. Ông Thẩm trước kia là người được ngài Thống đốc Thủy bộ Lê Hiền biết tài đức tin dùng. Việc Bình Kiều bây giờ không còn có gì phải lo lắng nữa, thì ông Thẩm thế nào cũng hoàn tất được tốt đẹp. Mai sau, công thành đại định, lúc ấy sẽ nói đến việc khác sau!
Rồi Động chúa truyền Thẩm Thụy Hùng được tự ý xem xét mọi việc, cai trị trăm họ, lại dặn dò là phải hết sức tránh đừng để bá tánh phải thiệt thòi khổ cực. Rồi Động chúa phát lệnh cho các nơi thuộc các tướng khác của Hoa Lư trước kia quản lý, nay trao lại quyền hành cho họ Thẩm. Rồi gấp rút theo quân của Động chúa tiến lên Bắc phạt. Miền Bắc Bình Kiều trước kia thuộc hai tướng Lê Hoàn, Nguyễn Bặc trông nom. Nay hai ông tạm rời quân để thu xếp trao lại quyền cho Thẩm Thụy Hùng.
Tướng quân Lê Hoàn xong việc lại trở về với sứ mạng tướng tiên phong, đưa binh lên Bắc ngay.
Binh của Động chúa lên đến gần Chu Diên thì sức đã mạnh ghê gớm. Binh lúc mới ra khỏi Hoa Lư đã hai mươi bốn nghìn. Nay lấy thêm ở Đằng Châu rồi Bình Kiều thành ra được đến gần năm mươi nghìn. Sức mạnh của Hoa Lư không một Sứ quân nào có thể đương được. Tướng giỏi ngoài các ông Hồ Tường Thụy, Đinh Điền, Trịnh Tú, Chu Kỷ Toàn, Lê Hoàn, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ... Còn có thêm bọn tướng cũ của Đằng Châu, bọn thuộc tướng của Sứ quân Ngô Xương Xí thời xưa đông vô kể.
Đại binh Động chúa lên đóng ở Chu Diên thật im lặng, binh đông tướng nhiều như vậy mà không một tin tức gì để lọt ra ngoài. Quân sư nhắc tướng Mạc Sa Cảnh phải ra sức trông nom dặn dò các tế quản các mặt. Chặn giữ không cho một tin nào về đại quân Hoa Lư đã lên Chu Diên. Binh vừa an trại ở Chu Diên, Quân sư đã trình xin Động chúa đãng đường triệu hội các tướng đến nghe lệnh.
Vào hội, Quân sư trịnh trọng mở lời trước. Quân sư nói:
- Bẩm Động chúa, hiện giờ tình hình các mặt Giao Châu thật ra không có gì đáng gọi là quan trọng hơn việc Nam Tấn Vương đã chết. Nam Tấn Vương chết thì Giao Châu là đất không có chủ. Các Sứ quân ai cũng muốn dòm ngó ngai vàng ở Cổ Loa, nhưng ông nào cũng sợ bị đánh lén đằng sau lưng. Vì thế các Sứ quân còn đang gấp bước tranh giành ngấm ngầm. Cái họa các Sứ quân to một, họa Tống triều đề binh Nam phạt mới là to gấp trăm nghìn lần! Binh Hoa Lư ta xuất chiến chưa phải đổ một giọt máu, cũng dàn xếp xong hai đất Đằng Châu, Bình Kiều. Anh hùng trong thiên hạ chẳng cần phải tranh cũng tự tìm đến. Cái thế hùng mạnh của Hoa Lư ta là như vậy, nhưng cả thiên hạ vẫn chưa biết, đây là chỗ lợi của ta. Sức mạnh tàng ẩn đợi đúng lúc xuất hiện sẽ làm cho núi phải rung chuyển, sông phải đổi dòng, biển nghiêng, đất lệch. Ai là người có thể chống cự lại được nữa?! Nhưng, chỉ nay mai lúc binh ta lấy xong Tây Phù Liệt, thì lúc ấy tiếng sét nổ mới làm cho tất cả phải bừng tỉnh. Nhưng tiếng sét nổ rồi còn bưng tai làm sao kịp nữa?
Các tướng lắng nghe Quân sư nói, không ông nào lại chẳng cảm thấy say sưa như đã ngấm men rượu mạnh. Động chúa cất giọng sang sảng:
- Binh ta không phải là mới lần đầu xuất chiến, binh ta từng làm nên những kỳ công ở cõi Giao Châu, nhưng cũng vẫn chưa phải là làm như vậy đã là tận cùng hết sức, mà chẳng qua mới chỉ là dàn xếp loanh quanh. Bây giờ, vì việc lớn chung của dân tộc, mắt nhìn thấy họa lớn Bắc phương, lại không thể nào ngồi đợi thêm nữa để cho trăm dân phải tàn lụi suy kiệt hẳn với bọn Sứ quân tội lỗi. Vì vậy binh Hoa Lư ta phải đứng hẳn dậy mưu đồ việc lớn chung. Dẹp yên các đảng cướp, bọn Sứ quân, thật ra chẳng có gì là trở ngại. Vỗ về trăm dân đem lại no ấm cho mọi người cũng chẳng có gì là khó, cái khó là nước ta bé nhỏ, sức đã yếu nay lại kiệt quệ vì hoa Sứ quân. Làm thế nào để chống đỡ nổi với Bắc phương dũng mãnh? Tống Thái Tổ còn đang lúc chói lòa với đại thắng phá Thập Quốc? Đại họa ấy mới là điều đáng lo. Vì thế binh ta không đợi chờ hơn được nữa. Xuất chiến lấy nhanh để dẹp yên bên trong, lấy uyển chuyển văn hợp với võ quyết liệt để đối phó với bên ngoài. Văn võ ấy mà sai lạc chẳng gắn bó với nhau, sơ hở một chút là đại nghiệp có thể thành đại họa! Các ông ở đây tuy chưa đủ hết, có người cùng với ta chung sức từ thời còn non trẻ, có ông vì dại nghĩa mà mới tìm đến, hết thảy ta coi là anh em một nhà. Họa của trăm dân cũng là họa của riêng nhà ta. Vậy trong cuộc phấn đấu mở đầu từ nay ta đã hẳn tin chắc là các ông hiểu rõ được việc làm của mình là thế nào rồi!
Các tướng nghe Động chúa nói hào khí bốc cao. Ông nào cũng tưởng là mắt đang nhìn thấy rõ cuộc tranh hùng khốc liệt ở những ngày mai rồi.
Quân sư trịnh trọng sửa lại vành khăn, ai cũng hiểu là cử chỉ ấy của Quân sư báo trước Quân sư sắp nói ra những việc khác thường kỳ lạ.
Quân sư hướng về Động chúa. Quân sư thật kín đáo gật nhẹ đầu như thể xin phép mà cũng là để báo trước việc. Quân sư nói:
- Các ông thấy trong lúc này ta vắng mấy tướng, ấy là vì binh ta đang vào Tây Phù Liệt!
Các tướng “Ồ” lên một tiếng kinh ngạc, việc tướng Đinh Liễn mang quân gấp lên phía Bắc ngay từ đầu không ai biết. Nay thì đích thị Liễn đang ở mặt trận ấy rồi! Đúng thế, và Quân sư tiếp:
- Tướng Đinh Liễn cai quản mặt ấy, đã vào sâu đất Tây Phù Liệt, đoạt ba bốn thành, binh ta tiến như dòng thác lũ chẳng binh nào của Phù Liệt dương cự nổi. Thế nhưng việc binh thắng bại là lẽ thường, bất ngờ lúc nào cũng đều có thể xảy ra được. Vì thế ông Liễn thắng thế lại lâm vào thế nguy, tạm phải lui quân nhường bước cho Tây Phù Liệt!
Các tướng lại lao xao, có những việc rung trời chuyển đất như vậy xảy ra chỉ trong vòng có mấy ngày nay, chẳng ai biết! Các tướng nghe Quân sư nói như thể đang trong giấc mơ, Quân sư tiếp:
- Việc ông Liễn thất thế là có thật, nhưng chẳng phải là vì thế mà ta không có đường hành động. Ấy cũng bởi đây, Động chúa đã có lệnh biến sơ ý thành dạng ý, chuyển nguy thành an. Đưa ra cái kế “tự thân hành xác” chịu khổ nhất thời, để cho địch bị lầm rồi giúp ta quay trở lại tiến mạnh hơn nữa! Lúc này đây, kế ấy của ta chắc đã đưa ông Liễn có khi đến sát phủ đường Tây Phù Liệt rồi cũng nên!
Lần này thì các tướng không “ồ” cũng chẳng lao xao bàn tán nữa. Tất cả như đang choáng váng với những biến đổi kỳ ảo.
Hướng hẳn về phía các tướng, Quân sư rắn giọng:
- Các ông là những người cầm gươm lên ngựa, dụng đến cái sức mạnh lớn lao để tranh thắng, nhưng có lúc cũng vận dụng đến trí xảo để khiến cho đường gươm ngọn giáo của mình biến chiêu lừa thức. Làm cho địch mắt tuy vẫn thấy các ông múa bài gươm “đăng sơn, kích hải” nhưng kỳ thực lại là cái cảnh “đợi trăng, đón gió”. Chứ chẳng phải là bạt núi khuấy biển nữa! Phép chiến đấu ấy cũng là mưu của ta ở Tây Phù Liệt đấy! Và mưu của ta nhất định thành công, ta tin như vậy!
Quân sư dừng lại, sắp sửa giảng giải thêm nữa, thì bên ngoài tế tác đã xin vào trình tin. Động chúa hơi nhíu mày có vẻ không hài lòng. Hội nghị đang trong hồi nghiêm trọng, tin gì đến cần trình ngay?
Quân sư lệnh cho tế sứ vào. Quang cảnh nghị sảnh khiến tế sứ lúng túng có phần kinh mang. Quân sư ra hiệu cho tế sứ lại gần, và tế sứ khẽ giọng trình tin chỉ đủ một mình Quân sư nghe. Trăm cặp mắt dồn cả vào nhìn Quân sư, nét mặt thanh tú của Quân sư không tỏ hiện có gì đặc biệt, rồi Quân sư gật đầu cho tế sứ lui.
Hướng sang Động chúa, Quân sư nghiêm giọng:
- Bẩm trình Động chúa, quả nhiên binh của ông Liễn đã lấy xong thành thứ tư của Phù Liệt, là thành Phù Yên!
Động chúa sửng sốt, các tướng cũng sửng sốt! Chỉ mới đây tin báo cho biết là Đinh Liễn thất thế phải liên tiếp lui binh, thế mà nay lại báo là đã lấy xong thành thứ tư là thành Phù Yên! Như thế, thì chẳng những Liễn đã không lui binh nữa, đoạt lại mấy thành đã phải bỏ để triệt lui, rồi tiếp tục tiến nhanh lên lấy được Phù Yên. Phép lạ nào làm được như thế? Động chúa dù đã được Quân sư trình rõ từ trước, bây giờ cũng vẫn kinh ngạc. Biến chuyển có thể nào lại nhanh được đến như vậy sao?
Quân sư tiếp:
- Trước khi ta vượt sông tiến sang phía Đông, ta vẫn còn thì giờ để bành động. Vậy tôi xin nói về lệnh kế của Động chúa để các tướng rõ. Có thế binh tiến mới an lòng, tin chắc là mình sẽ chiến thắng. Lúc đại binh Hoa Lư ta chuẩn bị vượt Xích Đằng. Ông Liễn đã đem binh lên phía Bắc đánh Phù Liệt, cùng đi với Liễn có Phạm Cự Lượng, Phạm Hạp, Vương Bảo Quyền. Ông Liễn bất thần tiến binh nhanh lấy một loạt ba thành của Phù Liệt. Đang hãm thành thứ tư là Phù Yên thì bị Phù Liệt sai đại tướng Từ Ngọc Tỉnh cầm binh xuống đánh cản làm cho Liễn thất thế phải bỏ các thành đã đoạt được mà lui binh tránh thảm bại. Như thế, thì tướng Từ Ngọc Tỉnh là người thế nào mà lại lợi hại đến như vậy?
Các tướng chưa từng ai được thấy Từ Ngọc Tỉnh, nhưng nghe Quân sư nói thì cũng cảm thấy nể nang họ Từ lắm.
Quân sư tiếp:
- Từ Ngọc Tỉnh người ở Đồng Vệ, tài có lẽ còn hơn cả tướng Địch Hồng Hà xưa kia nữa. Từ Ngọc Tỉnh văn võ toàn tài, tính việc rất chắc chắn, hành sự không hấp tấp. Chính ở chỗ chín chắn không hấp tấp ấy của lão tướng họ Từ, cho nên ta có thể được yên lòng về chỗ tướng Đinh Liễn sẽ không bị nguy ngay trong một hai ngày. Tướng Từ Ngọc Tỉnh nhất định thế nào cũng dàn xếp các mặt trước, nhìn thấy thắng hoàn toàn mới chịu cho quân cất bước. Ông ta chẳng bao giờ lại nóng nảy để lỡ việc! Ta nhờ vả được ở ông ta điểm ấy. Hóa ra nhiều khi thận trọng cũng lại không có lợi, phải định được cả thời gian hành động của mình lẫn hành động của địch nữa mới được. Các ông nên nhớ điều này! Nhờ thế, ta kịp thì giờ dàn xếp đưa binh thủy chiến theo dòng Xích Đằng lên sát Chu Diên. Rồi sang sông đánh xuống phía Nam gấp tiến đến phủ đường Tây Phù Liệt. Như thế là ta lợi được ở chỗ bất ngờ, vừa vào được đất dịch dễ dàng, vừa giúp cho ông Liễn ở phía Nam lại xua binh tiến lên. Tướng Từ Ngọc Tỉnh không thể không gấp triệt binh về cứu phủ đường! Còn tướng già Từ Ngọc Tỉnh đáng nể, thì cái quá khứ của ông ta rành rành. Bây giờ chẳng phải chỉ một mình Từ Ngọc Tỉnh lui về cứu phủ đường, mà còn có cả đạo trọng binh của đại tướng Âu Nam Dương từ phía Bắc bị binh thủy của tướng Nghi Bá Tường xua ngược trở về. Một mình ông Liễn không thể thủ thắng được hai đại danh tướng ấy, nhưng ông Liễn đã có lệnh khác rồi! Chỉ trong nay mai là thế nào ta cũng có tin lớn ở Phù Liệt. Còn bây giờ...
Động chúa hỏi:
- Nếu lão tướng Từ Ngọc Tỉnh là người như vậy, tại sao lại không biết khuyên bảo cho Sứ quân Nguyễn Siêu mà lại mang binh xuống Nam chịu mắc lừa kế của ta như vậy? Nếu ông ta chín chắn, tất không làm như vậy mà phải khuyên Nguyễn Siêu vững các mặt. Sau mới đem quân chống binh ta ở mặt Nam mới phải chứ?!
Quân sư đáp:
- Bẩm, binh ta đánh ở Phù Liệt, tuyệt đối im lặng, lại thêm thật bất ngờ nhanh quá, không một nơi nào được biết. Rồi đến việc thành ải của Phù Liệt lần lượt mất vào tay binh ta mau lẹ như vậy, thì việc Sứ quân Nguyễn Siêu phải thảng thốt cử lão đại tướng họ Từ xuống Nam cứu nguy là lẽ rất thường! Vả chăng, biết đâu họ Từ lại chẳng có lời khuyên Sứ quân Nguyễn Siêu rồi? Ta cứ đợi đến khi ông Liễn vào được phủ đường Phù Liệt là biết rõ cả!
Động chúa tiếp ngay:
- Bây giờ, ta lên đến Chu Diên vẫn giữ được yên lặng. Binh ta cùng một lúc gấp quay sang phía Đông tiến đánh Siêu Loại. Bỏ Chu Diên tiến lên phía Bắc phá Lữ Đường ở Tế Giang, mặt phía Tây Phù Liệt chỉ trong nay mai là xong. Lúc ấy Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động, Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm đều kinh hoàng và cũng là lúc Tiên Du của Thủ Tiệp thấy được ngày tàn vong của y! Đánh ba sứ phía Đông để yên ổn sau lưng ta lúc ta quay sang phía Tây. Hai sứ Lý Khuê, Lữ Đường phải tiếp ta trước, vậy ta nên tiến binh như thế nào?
Quân sư như đã xếp đặt sẵn trước cả rồi, đáp ngay:
- Bẩm, tới lúc này binh xuất chiến của ta rất mạnh, ta chia hai đường đánh Tế Giang với Siêu Loại. Hai mặt này thì cả hai phía sức lực không bên nào mạnh hơn, mỗi bên có được một vài biệt tài. Như Nguyễn Siêu có yêu nữ xưng là Luy Lâu Thần Nữ, Lữ Đường có pháp sư chuyên dùng ma thuật giết hại người. Nhưng đấy chỉ là những trò yêu ma ta không sợ. Hai sứ ấy mỗi người dưới trướng có một số tướng tài thực sự biết chiến trận. Vậy, xin Động chúa quyết định ngài sẽ đi chinh phục Sứ quân nào trong hai sứ ấy?
Động chúa nghĩ trong một thoáng rồi đáp:
- Ta cầm quân đi đường xa đánh Lý Khuê ở Siêu Loại. Còn phía Bắc đánh Lữ Đường ở Tế giang thì giao cho ông Lê Hoàn cầm quân. Quân sư có thể đi cùng ta được không?
Quân sư đáp:
- Bẩm, Tế Giang đất hẹp, nhưng có nhiều tướng giỏi, trước kia có Trình Kế Ngọc nức danh. Sau đi trận đánh Tây Phù Liệt bị tử trận. Hiện giờ Lữ Đường có hai người đáng nể: Một là tướng Lương Tích Lịch có cây gươm tên là A Hồ Lục Cương kiếm rất giỏi. Thứ hai là An Dương Thanh Sứ đại pháp sư, là một tay yêu ma có nhiều ma thuật giết người nguy hiểm lắm. Ngoài ra, Lữ Đường còn có tướng Hồ Minh Duy giữ chức quân lương tướng. Chẳng biết nịnh nọt Sứ quân thế nào mà được Sứ quân ưa lắm. Duy có tật tham lam vô cùng, tài sản vơ vét dược có khi còn nhiều hơn cả của chủ. Tên này ta sẽ dùng được việc đấy. Như thế, đánh Tế Giang trao vào tay tướng Lê Hoàn là được lắm. Tuy nhiên ông Hoàn cũng sẽ có một số lời dặn.
Các tướng nô nức, tướng Đinh Điền nói:
- Thua Động chúa, Lữ Đường có tướng Lương Tích Lịch sử cây A Hồ Lục Cương kiếm thật lợi hại. Danh vang khắp nơi, vậy tôi xin đi cùng ông Lê hoàn đánh Tế Giang có được không?
Động chúa cả cười, đáp:
- Ngày trước sang Đằng Châu ông ngã gãy cả cột, ngồi sụm cả ghế, vỗ chết ngựa, giơ tay là cong cả côn sắt. Nay ông lại muốn thử xem gươm A Hồ có sắc không, ta hẹp gì lại chẳng cho ông được hài lòng!
Thế là Động chúa để Quân sư tùy nghi cử các tướng đi theo tướng tổng quản Lê Hoàn. Quân sư bảo:
- Ông Đinh Điền muốn thử tài tướng Lương Tích Lịch là đúng. Ông phải làm sao hàng phục được tưởng này, đừng giết y, khi nào cần tôi sẽ giúp ông. Đối phó với tên ma thuật pháp sư thì phải nhờ đến tay Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm Trịnh Tú. Ông Tú lại có con ngựa quý ngày trước đoạt được của tướng triều đình. Tên pháp sư ấy lợi hại lắm, có khi đối mặt với nó cũng vẫn không làm gì được nó. Cho nên ông Hồ Tường Thụy hãy đi cùng, môn cung tiễn của ông có khi giúp được ông Trịnh Tú cùng các ông khác nhiều đấy.
- Các ông tiến đánh Tế Giang, thêm khó khăn là đất ấy phía Tây có sông rộng. Lữ Đường có thủy trại lớn, vừa để canh chừng Cảnh Thạc ở Đỗ Động, vừa làm thế che chở yểm trợ cho binh trên bộ ở trong. Vậy ông Lê Hoàn tiến binh cũng có lợi là không phải lo mặt sông nước ấy, khi nào xong việc Tây Phù Liệt tức khắc sẽ có thủy tướng Nghi Bá Tường lên tiếp chiến.
Các tướng vâng lệnh. Quân sư bảo Lê Hoàn đem theo hai mươi bốn ngàn binh. Quân sư nói:
- Tướng quân đem theo số quân lớn, nhưng chắc là chẳng cần phải đưa cả ngần ấy quân vào trận. Trước, tướng quân đã từng ở lâu ngày ở Bình Kiều nên quen thuộc địa thế. Nay vào trận xét cần bao nhiêu là đủ thì đem vào trận, còn cũng phải để lại một số trấn giữ các nơi trọng địa. Vừa làm thế viễn phòng, vừa làm thế yểm trợ cho tiền quân ở xa.
Quay sang Động chúa, Quân sư thưa:
- Bẩm Động chúa, mặt phía Đông đánh Lý Khuê, Động chúa đích thân cầm quân thật phải lắm. Lý Khuê ở Siêu Loại tuy xa nhưng được cái lợi là phía Đông có sông lớn núi cao, bên ngoài sông là cả một cõi bao la phong phú tha hồ sử dụng. Khi quay sang phía Tây không lo bị thế lực nào đánh lén sau lưng. Vì thế Khuê được cái thế “sau nhà vườn rộng, trước mặt cây che”. Tiến thì vững, lui có nơi rộng chân mặc sức bay nhảy. Dưới trướng Lý Khuê lại có một số nhân vật có tài thật sự. Như tướng Ân Mạnh Thiệu là tướng cầm quân giỏi lắm; Lý Khắc Tịnh nổi tiếng là tướng hung tàn dữ dội; Điểm Quân Hồng rất giỏi về nghề cung tên; Đỗ Bá Đoàn giỏi tất cả mọi mặt. Lý Khuê là tay phú hào trẻ tuổi, thích việc ăn chơi trác táng, giỏi nghề võ. Có người vợ lúc mới lấy Khuê chỉ mới mười sáu tuổi, cô gái này người ở vùng biển, có sắc đẹp mê hồn, nhưng lại là người thông minh tuyệt vời. Bị Khuê bắt ép mà phải lấy Khuê, thường giúp Khuê được nhiều lời khuyên bảo thật tuyệt vời. Khuê yêu quý mà nể nang nghe lời lắm, xây cho tòa nhà lớn ở giữa sau cái hồ nhỏ trồng sen vàng, trắng, hồng. Cho nên gọi tòa nhà lộng lẫy ấy là “cung Lục Hồ”...
Động chúa cùng các tướng nghe Quân sư nói về Lý Khuê đến chỗ Lý Khuê xây cung Lục Hồ thì thú vị lắm. Động chúa hỏi:
- Thế Lý Khuê xây cung Lục Hồ giam mỹ nhân ở đấy để vui thú, ắt thế nào cũng có những kẻ bịa đặt nịnh hót làm nhiều thứ để mong lấy lòng Lý Khuê chứ? Thế mỹ nhân cung Lục Hồ tên gọi thế nào?
Quân sư tủm tỉm cười đáp:
- Bẩm, đúng thế! Nịnh bợ thì ở đâu cũng có những hạng người ấy. Trước hết, vì mỹ nhân cung Lục Hồ người ở vùng biển, gió mặn làm cho săn da, vóc dáng thanh tao mà chắc chắn. Da dẻ trắng hồng như vỏ quả đào đang tơ, gốc gác thì tôi không biết rõ. Nhưng hồi tôi từ Cổ Loa tới đây, xem dòng sông Bái, ngắm cảnh Kinh Phố lúc hoàng hôn. Có nghe người địa phương kể đến mỹ nhân, thấy gọi là Bạch Lý, họ Lương. Người đời còn kể: họ Lương sinh được bảy con trai, mãi sau mới sinh được một gái chưa biết đặt tên là gì cho xứng, thì gia nhân báo: “Trong đêm cô gái ra đời, trong nhà cây hoa Lý thường cánh hoa vẫn trắng phơn phớt xanh nhạt, hương thơm phảng phất chỉ một góc vườn. Sáng ra hoa lý hết thảy đều chuyển màu sang trắng tinh như thể cánh hoa thủy tiên, hương thơm thanh tao ngào ngạt cả một vùng rộng lớn. Họ Lương lấy làm lạ cho là thần tiên đã xuống thế nhập nơi con gái mình. Vì thế mới đặt tên cho con là Bạch Lý”...
Động chúa thốt lên:
- Hay thật! Sao những vưu vật của thế gian lại hay thường rơi vào tay những phường giặc cướp thế nhỉ?! Tiếc thay!
Các tướng cũng cười vui, Động chúa nói:
- Rồi sao nữa? Quân sư ngày ấy đã được thấy dung nhan mỹ nhân chưa?
Các tướng lại cười, Quân sư vui vẻ đáp:
- Khuê là người như thế, cho nên tôi không tìm cách gặp Khuê. Thành thử chưa được thấy dung nhan người ngọc, nhưng tính tình thuần hậu thanh tao của Bạch Lý thì cả Siêu Loại đều ca tụng. Nhờ ở Bạch Lý, Lý Khuê bớt được nhiều điều càn rỡ. Chúng thuộc hạ vì thế cũng không dám tham tàn lộ liễu quá. Có điều, danh tiếng của Bạch Lý bay xa, lại dẫn đến việc có mỹ nhân khác ghen tức quyết tranh giành Sứ quân với Bạch Lý. Cho nên mới có việc Luy Lâu Thần Nữ xuất hiện!
Cả hội sảnh lại ồ lên, hào hứng tưởng như đây là lúc thanh bình các tướng tụ hội để mừng vui. Chứ không phải là tướng nghị trước lúc xuất chinh!
Đợi cho mọi người yên lặng, Quân sư tiếp:
- Nay, thì giờ còn rộng rãi, tôi cũng xin đem những điều biết được để nói cho các tướng nghe việc thiên hạ có liên quan tới ta. Cũng là điều hay lúc binh ta đi thu phục thiên hạ. Nguyên Siêu Loại, đời Hán gọi là huyện Luy Lâu, ở xã Mỹ Tự có một ngôi chùa. Trong chùa có 4 pho tượng tên gọi: Pháp Lôi, Pháp Điện, Pháp Vũ, Pháp Vân, người đời bảo là rất có linh tích. Trong sách “Pháp Vân Phật truyện” chép: thuở Sĩ Nhiếp làm Thái thú, cai trị thành Luy Lâu, còn gọi là thành Lỏa Lâu. Có tăng Kheo Đà La ngụ ở núi xanh phía tây thành Luy Lâu. Gặp cô gái tu định là A-Man bị tăng mê mệt tìm cách xúc phạm đến nên có thai, sinh ra một gái.
Cả hội im lặng lắng nghe Quân sư kể chuyện lạ, chuyện lạ này ngày trước tướng Trình Kế Ngọc của Lữ Đường đã kể cho Sứ quân cùng các thuộc hạ của Sứ quân nghe. Nay đến lượt Quân sư Hoa Lư kể. Động chúa Đinh Bộ Lĩnh hỏi:
- Yêu nữ ngoài tài phóng đao ra, còn có tài gì?
- Thưa, phép phóng liễu diệp đao của Luy Lâu Thần Nữ lợi hại lắm, lại hợp với ý định của thần nữ mà có thể nhiếp hồn tướng địch. Do đó tướng địch trước khi bị giết nhiều khi vẫn không hiểu được đích xác mình bị mấy ngọn đao ấy vây hãm như thế nào...
- Quân sư có cách gì trị được y thị không?
- Bẩm, y thị vốn là đúc kết của yêu khí huyết thống mấy trăm năm của thầy tăng Kheo Đà La với cô gái tạo thành. Kết quả của mối tình khao khát thì nhiều nhưng thỏa mãn thì chưa đủ. Cho nên Luy Lâu Thần Nữ cực kỳ dâm dục. Người ta nói một ngày y thị không được hợp tình với một người trai tươi đẹp khỏe mạnh, thì như người điên cuồng. Thần Nữ có phép màu lạ lùng khiến cho người trong cuộc mây mưa cảm khoái đến tuyệt cùng. Vì thế nàng ta đã chinh phục được Sứ quân Lý Khuê. Trước là để thỏa ganh tỵ với nàng Lương Bạch Lý, sau là làm cho Lý Khuê hao kiệt mất cả nguyên khí. Lại thúc giục Khuê năng cho binh ra ngoài cốt để nàng tìm người trai trẻ hợp nhãn. Lúc trước, tướng Dương Ngọc Kỳ của Nguyễn Thủ Tiệp mang trách nhiệm giữ thành Đại Bái đã bị sa vào lưới cám dỗ của Luy Lâu Thần Nữ, rồi táng mạng, mất thành. Gây ra nhiều rắc rối cho Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp. Các tướng của ta ra trận phải cẩn thận đề phòng. Trị yêu nữ Luy Lâu, phải lấy “chánh đạo” mới trừ được “ma đạo”. Y chẳng qua chỉ là yêu nữ không ai biết gốc gác, cũng có đủ mọi sinh hoạt như các người khác. Tự bịa đặt cho mình một nguồn gốc ma quái để lừa bịp thiên hạ, như thế thì chẳng qua y thị mê hoặc được người đời ấy là vì nhan sắc vốn đã dễ làm cho con người mê man. Lại thêm những lời nói cử chỉ của y thị cố tình mê hoặc người đời, hỏi mấy người tránh khỏi cơn mê được! Động chúa yên lòng, các tướng của ta đều là những hào kiệt một thời, đại nghĩa dễ gì bị ma đạo làm hoen ố được. Tuy thế tôi sẽ có cách, đến khi cần sẽ dùng đến để đối phó với yêu nữ ấy!
Nghe Quân sư nói, nhiều người bâng khuâng. Ai cũng ngầm ước được đối mặt với Luy Lâu Thần Nữ một lần để chiêm ngưỡng dung nhan con người lẫy lừng tên tuổi, nhưng chẳng ai dám nói ra.
Quân sư nói tiếp:
- Đến khi Sứ quân Lý Khuê hao kiệt cả nguyên khí, thì Luy Lâu Thần Nữ thỏa lòng cho là mình đã hơn được Lục Hồ phu nhân. Thần Nữ tạm buông tha cho Sứ quân để theo quân ra ngoài thiên hạ.
Động chúa hỏi:
- Còn địa thế của Siêu Loại ra sao?
- Bẩm, huyện Siêu Loại [→4] , trước là huyện Luy Lâu. Tiếp giáp với huyện Tế Giang ở phía Tây, giáp với huyện Tiên Du ở phía Bắc. Phía Đông Siêu Loại có sông chi lớn của sông Nhật Đức, gọi là sông Lục Đầu. Giang sơn của Siêu Loại thật mênh mông, nhưng Lý Khuê không vượt dòng Lục Đầu để mở mang sang phía Đông. Ấy cũng là cái chí của Khuê chẳng thể lớn được mà chỉ thỏa mãn với một giang sơn con con của một Sứ quân ưa hưởng thụ mà thôi. Cùng chung đất với Lý Khuê là Thủ Tiệp ở phía Bắc, phía Tây là Lữ Đường, giang sơn của ba Sứ quân này may nhờ có sông ngòi núi non ngăn cách nên chẳng ai dễ dàng xâm phạm được ai là vì thế. Nay, ta xuất binh viễn chinh, dù rằng đánh riêng rẽ chỉ một, hoặc hai tay Sứ quân trong cùng một lúc. Ta cũng còn có chỗ có thể yên lòng được phần nào là: Việc binh bị chẳng động chạm gì đến chỗ khác, vì thế các Sứ quân có thể yên lòng! Nhưng mặt phía Tây thì lại khác, các Sứ quân chen nhau cát cứ trên một giang sơn hẹp. Cho nên dễ sinh sự với nhau hay dễ liên kết với nhau là vì vậy. Siêu Loại cách xa Bình Kiều, Lý Khuê lấy thế làm yên lòng, chẳng sợ Bình Kiều dòm ngó. Nay ta gấp vượt đường đánh tới, thế nào cũng làm cho Lý Khuê kinh hoàng. Cơ đồ của Khuê sẽ chóng tàn, giang sơn của Khuê chẳng mấy chốc ta thu phục xong!
Hội nghị thật hào hứng, sôi nổi bàn tán. Nghe những việc Quân sư kể ai cũng nô nức muốn đến ngay Siêu Loại.
Quân sư đưa ý kiến. Động chúa nghe kể hết các việc thì bảo:
- Lý Khuê ở xa, binh ta từ Bình Kiều xuất phát đã hẳn là không thể đi nhanh hơn binh đánh Tế Giang được. Vì thế nếu như việc Tế Giang xong xuôi được tốt đẹp. Thì cũng là một thế yểm trợ cho ta ở phía Tây, có sức cầm giữ không cho Thủ Tiệp ở Tiên Du thừa cơ hội dòm ngó Cổ Loa. Tuy thế, ta cũng phải gấp tiến binh vào sâu được giang sơn của Lý Khuê, thì mới làm cho Thủ Tiệp dù có muốn xuất kỳ bất ý xua binh tới Cổ Loa, cũng không dám cử động nữa. Trong số các tướng ở đây, ta muốn cử ông Nguyễn Bặc cầm cờ tiên phong, có ai muốn tranh công với ông Bặc không?
Nguyễn Bặc người cùng làng với Đinh Bộ Lĩnh. Dáng người tầm thước chắn chắn, vai như vai gấu, tướng đi như cọp vờn mồi, sức mạnh ngang thánh thần, tính tình trầm tĩnh ít nói lầm lì mà gan dạ vô cùng. Nguyễn Bặc xử cây giáo sắt nặng tám mươi cân. Vào trận thường hay lợi dụng sức nặng của giáo, hợp với sức mạnh của Bặc để sát phạt thật lợi hại. Người thời ấy xếp Bặc vào cùng hàng trong bọn “Giao Châu Thất Hùng”. Nay nghe Động chúa cử cầm cờ đi tiên phong trong chuyến viễn chinh lên Đông Bắc, thì hào hứng lắm. Bặc thưa:
- Thưa Động chúa, như thế là Động chúa tin ở tôi để giao cho sứ mạng vinh dự cầm cờ tiên phong. Tôi mừng rỡ nhận lệnh Động chúa!
Quay sang Quân sư Lê Thảo, Nguyễn Bặc nói:
- Thưa Quân sư, việc quân vào đất địch, tướng cầm quân mở đường chẳng thể nào không biết rõ đường lối, không biết rõ nơi mình sắp vào, không biết rõ binh mình cự chiến với binh nào! Nay, tôi nhiệm mệnh Động chúa mang cờ đi mở núi phá đá, thu phục Siêu Loại, thật ra chưa được biết Siêu Loại đất đai, núi sông thành quách như thế nào. Lại cũng chưa thấu hiểu binh tướng Siêu Loại ra sao, mới chỉ được nghe Quân sư nói đến một yêu nữ lợi hại. Như thế tướng tiên phong không thể nào thủ thắng được! Vậy, trước hết, tôi xin Quân sư giảng cho tôi biết, mà cũng nhân đây nói cho các tướng khác biết rõ về Siêu Loại.
Lẽ ra, tướng được nhận cờ tiên phong, là người phải biết rõ tất cả mọi việc liên quan đến nơi binh mình sẽ đến. Nhưng Nguyễn Bặc tính tình vốn trung hậu, thận trọng, cho nên ông có thể nhờ vào những tin tức do tế tác dò la biết được định kế tiến quân. Nay ông lại đặt việc quân lên trên cả danh dự của người làm tướng cầm cờ tiên phong, nên khiêm nhường mà xin vấn kế Quân sư.
Quân sư đáp:
- Trước hết, tướng quân Mạc Sa Cảnh sẽ có đầy đủ tin các nơi cho ông biết, trên đường quân hành binh ta đi đến đâu thì tế tác của ta bao giờ cũng đi trước. Có khi một ngày, có khi một tháng, có khi lại nhiều tháng trước, chực chờ để biết hết thảy những gì liên quan đến việc quân của ta. Nhờ thế, ta được biết là: Siêu Loại sau khi trúng phải kế của Hoa Lư ta đem binh gây hấn với Thủ Tiệp. Thắng mà hóa ra vội vàng lui quân bỏ chạy khiến cho nội bộ chia rẽ, lục đục. Lục Hồ phu nhân phải chính thức can dự vào việc của Sứ quân với các tướng. Cho đến ngày có việc tiêu - địch cùng hòa trên dòng Kinh Phố thì Siêu Loại hỗn loạn lắm rồi. Nay, Siêu Loại binh tướng vẫn đầy đủ, nhưng cái cảnh người nọ dòm ngó người kia, nghi ngờ kèn cựa nhau sẽ là đầu mối để ta tiến binh mà tin chắc được là mình sẽ thắng. Tuy thế, không thể xem thường mọi việc, coi nhẹ Lý Khuê. Tướng quân tính vốn thận trọng nay cần phải thận trọng hơn nữa!
Quân sư ngừng nói. Nguyễn Bặc vẫn nghiêm trang cung kính lắng nghe. Các tướng cũ của Đằng Châu lần đầu tiên được nghe việc quân trong doanh Hoa Lư. Không ông nào trong lòng lại chẳng hoang mang, mừng là Sứ quân Phạm Phòng Át sớm biết đường theo về với Hoa Lư. Nếu không thì cứ quang cảnh sự việc như ngày hôm nay, tai nghe mắt thấy ở nơi các hào kiệt Hoa Lư. Đằng Châu cự chiến ắt không thể không sớm bại vong, chết mà cũng còn khó toàn thây được cả! Mừng thay!
Quân sư tiếp:
- Siêu Loại chung đất với cả Bình Điều này, tất Siêu Loại cũng ngầm có tế tác đi lại thăm dò ta. Nay ta ra quân tất Siêu Loại phải biết. Trước hết, binh của ông Lê Hoàn tiến lên mặt Bắc, tế tác Siêu Loại thế nào cũng có tin về cho Lý Khuê biết. Nhưng trọng binh của ta ở đây chưa động đậy, tế tác Siêu Loại thế nào cũng cho là ta là đạo binh trợ chiến phía sau cho ông Lê Hoàn. Tôi đã lệnh cho ông Mạc Sa Cảnh một đằng phải chặn tế tác Siêu Loại. Một đằng phải cố làm cho tế tác Siêu Loại tin là trọnng binh của ta trợ chiến cho ông Lê Hoàn thật. Tướng Mạc Sa Cảnh đã làm việc này từ trước khi binh ông Lê Hoàn xuất trận!
Các tướng lại kinh ngạc, hóa ra Quân sư đã định liệu trước tất cả! Nhìn ra, chỉ thấy Động chúa tủm tỉm cười, ngài là người duy nhất đã được biết hết từ trước rồi!
Quân sư lại tiếp:
- Binh ta lúc xuất doanh Bình Lục, được hai mươi bảy nghìn. Sang Đằng Châu rồi Bình Kiều, quân hội lại nhiều lên gấp bội, tướng quân Lê Hoàn mang theo mười bốn ngàn quân. Nay ở đây quân còn nhiều ta không cần mang theo nhiều làm gì. Tướng tiên phong Nguyễn Bặc chỉ nên đem theo năm nghìn quân khinh kỵ cho dễ xoay sở, đi lại được mau lẹ. Phía sau tướng quân sẽ có các đạo trợ chiến. Trước hết, tướng quân mang quân thật lặng lẽ, theo một trong hai đường mà tới Siêu Loại. Đường thứ nhất, là đường qua huyện An Bình vào sườn phía Tây huyện Siêu Loại. Đường thứ hai vượt qua huyện Gia Lâm cũng đến giới địa phía Tây của Siêu Loại. Hai đường này đường nào cũng lợi hại cả, tướng quân nên chọn đường An Bình, để đường Gia Lâm đại binh của Động chúa sẽ kéo đi làm thế trợ chiến. Sau lấy hai mặt đánh rốc vào phủ đường Siêu Loại.
Động chúa hỏi:
- Quân sư biết đường An Bình, đường Gia Lâm như thế nào? Kế sách tiến quân ta nên chọn cách nào?
Quân sư suy nghĩ đôi chút, rồi đáp:
- Đường An Bình thật ra không nhà tướng nào lại lựa chọn đường này mà đi! Huyện lỵ An Bình hơi chếch về phía Đông Bắc phủ đường Siêu Loại, kéo giật về phía Tây. Phía Bắc chạm Quế Dương, phía Nam thông với Gia Lâm. An Bình tiếp nối với các nơi khác có đủ cả sông ngòi núi rừng chen nhau lẫn lộn, khe động sâu thẳm hiểm trở. Cho nên bọn bất đắc chí thường ra vào làm loạn. Vì thế đường An Bình thiên hạ xem là con đường “Người hiền chẳng nên qua, quân ác năng tụ tập”. Sứ quân Lý Khuê ở mặt này ác liệt, lại có rặng núi Bát Vạn do Nguyễn Thủ Tiệp xây thành trấn giữ ở phía Đông. Đường thông lên Cổ Loa có rặng Lạn Kha như cái nút chặn. Địa thế như vậy làm cho Siêu Loại chẳng khác nào như đáy hũ lớn. Đường vào hiểm trở như vậy, sau lưng rộng lớn làm cho Lý Khuê có thể an tâm đi lại một cõi bao la. Nay, tướng quân Nguyễn Bặc đem khinh kỵ binh đi đường An Bình là vào con đường khổ cực gần như không thể đi được ấy. Để bất thần như binh từ trời cao ập xuống sát tim gan siêu Loại!
Cả hội nghị hết sức chăm chú nghe Quân sư nói về đường đi đến Siêu Loại, nhất là tướng Nguyễn Bặc. Quân sư tiếp:
- Tướng quân Nguyễn Bặc đem khinh kỵ binh đi, đã hẳn là không thể đem được cái quân cụ cần để gặp sông thì bắc cầu, vướng núi thì xẻ đường. Cho nên tướng quân phải tùy cơ mà ứng biến, làm sao đi đến được nơi đã định trong vòng ba hay bốn ngày là cùng!
Hội nghị “ồ” lên một tiếng, dù rằng đang ngồi trong nghị sảnh nơi doanh trại. Thế mà ai cũng cảm thấy như mình đang vất vả vượt chặng đường gian khổ vô cùng. Động chúa bật hỏi:
- Tại sao ta lại chọn con đường An Bình khó khăn đến như thế mà đi. Sao không đi đường Gia Lâm có được không?
Phải, Quân sư chọn đường cho đạo khinh kỵ binh công kích Siêu Loại lại là con đường quá đỗi gian khổ, ắt là có dụng ý. Nghe Động chúa hỏi, Quân sư đáp:
- Bẩm, chính thế! Nếu như ta chọn đường Gia Lâm thì thật nhàn nhã. Nhưng, binh ta đi đường An Bình để bất thần hiện ra ngay nơi tim gan siêu Loại. Như thế mới mong mau chóng phá xong Siêu Loại. Chọn đi con đường này, sau khi binh ta lấy xong Siêu Loại, cũng có lợi là làm cho Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du phải “Dựng tóc gáy, sởn da gà” kinh hãi binh ta. Đến khi ta tiến lên Tiên Du thì binh tướng Tiên Du lúc ấy đã mang nặng tâm tư khiếp sợ rồi. Giúp ta giảm bớt được khó khăn với Thủ Tiệp, trong khi đại binh theo đường Gia Lâm của ta chỉ giữ thế yểm trợ. Hư danh là trọng binh công kích, vẫn trọn vẹn sức mạnh chẳng tốn một mũi tên, chẳng hao một bờm ngựa. Sức ấy ta dành cho mai sau.
Động chúa rất hài lòng, các tướng lại thấy sôi nổi trong lòng. Động chúa hỏi thêm:
- Thế còn đường Gia Lâm?
- Bẩm, đường Gia Lâm thênh thang, đại binh ta trống rong cờ mở mà đi. Tế tác lại cho tin vào trong thiên hạ là: Binh Hoa Lư đi đường lớn đánh tới Siêu Loại, làm cho Siêu Loại phải dốc hết sức đón đỡ binh ta ở mặt này. Như thế là ta đã phân được lực của Siêu Loại. Bao nhiêu sức mạnh Siêu Loại dồn sang cả mặt này để đón ta. Lúc ấy ông Nguyễn Bặc đánh tới tất được dễ dàng!
Lần này thì hội nghị thật vui mừng, các tướng lao xao bàn tán. Động chúa tiếp lời Quân sư:
- Như vậy, thì cũng cần phải có vài tướng nữa đi với ông Nguyễn Bặc mới được!
Quân sư tươi cười:
- Bẩm, chính thế! Ông Bặc quản lĩnh mặt trận này, đi cùng với ông càng nhiều tướng càng tốt. Tôi để tùy ông chọn, cũng để tùy các ông ai muốn chịu khổ thì đi cùng ông Nguyễn Bặc!
Hội nghị ồn ào với những tiếng cười tiếng nói, nhiều tướng muốn được cùng với Nguyễn Bặc chọn con đường khó cho thỏa chí tung hoành. Nhưng nhiều người cũng lại muốn được đi cùng Động chúa, vì nghĩ rằng: Thế nào Động chúa cũng phải là đạo quân trọng yếu, mặt trận này thế nào cũng xảy nhiều điều lạ. Cuối cùng, Nguyễn Bặc xin thêm ba tướng cùng đi. Là các ông: Nam Nhật Huy, Đào Bích Hải, Cao Hồ Đạo. Các tướng này là tướng cũ của Đằng Châu, mỗi người giỏi một nghề riêng.
Lúc tướng Nguyễn Bặc sắp đem quân đi, Quân sư dặn:
- Bây giờ ông lên đường, sức binh như thế đương trường dàn ra để cướp thành lấy ải là không mạnh. Nhưng nhờ ở bất ngờ vào sâu trong tim gan địch thì tự nhiên cái thế của đạo quân lại là rất mạnh. Sức có thể nói hơn hẳn binh Siêu Loại đấy! Vả chăng, còn có đạo quân của Động chúa kéo theo, làm cho sức của Siêu Loại bị chia ra. Ép Siêu Loại vào cái thế “Cự thì chết, chạy không có đường”. Nhưng, để có được cái thế dữ dội ấy, tướng quân cần phải biết đường mình đi, hãy nghe cho kỹ!
Nguyễn Bặc cùng ba tướng kia nghe Quân sư nói thì ai cũng hồi hộp, hết sức chăm chú đợi nghe. Chẳng riêng gì bốn tướng đi đường An Bình chú ý lắng đợi nghe, mà hết thảy các tướng khác cũng nóng lòng đợ