← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Chín Mươi Hai Quân sư lên đường tới Tế Giang
Động chúa dạo thuyền gặp mỹ nhân

Tế tác trình: “Hỏa Thần Giáo từ Bắc phương bí mật xuống Giao Châu, đã chọn Tế Giang làm nơi ẩn nấp. Tế tác mới biết tin, chưa hiểu hết các hoạt động cùng mưu tính của họ”. Quân sư cho tế tác lui, lại dặn là phải hết sức dò la tin tức về các hành động của Hỏa Thần giáo. Được tin này, Quân sư nói với Động chúa Hoa Lư:

- Như thế, tin nói về Hỏa Thần giáo vào nước ta nay đã rõ ràng!

Động chúa hỏi:

- Hỏa Thần giáo chọn Tế Giang, ngài thấy có điều gì lạ không?

- Bẩm, xét về nhân sự, thì Tế Giang với Lữ Đường là một tay giang hồ sông nước, võ nghệ siêu quần. Dưới trướng có tay pháp sư ma vương giỏi thuật nhiếp hồn, tính tình cực dâm dục. Ngoài pháp sư ma vương này Lữ Đường còn tụ tập dưới trướng được nhiều người giỏi, nhưng phần lớn là bọn hung tàn bạo ngược. Phá Tế Giang tru diệt Lữ Đường lẽ ra không khó, nay có bọn Hỏa Thần giáo tìm đến đấy, thì có thể là họ chọn đúng người để lôi kéo. Lại chọn đúng chỗ để đặt chân vừa gần Cổ Loa, lại vừa thuận tiện dòm ngó ngăn ngừa được các Sứ quân ở chung quanh, nhất là Hoa Lư ta! Việc có thể gặp khó rồi đây!

Động chúa nghe Quân sư nói vậy, thì hỏi:

- Như thế, việc ông Lê Hoàn thống quản đạo binh đi lấy Tế Giang có nguy hiểm hay bất lợi gì không?

- Bẩm, thật ra lúc này ta chưa biết rõ về ý đồ cũng như hành động của bạn Hỏa Thần giáo, thành ra chưa thể xét hết tình thế được. Tuy nhiên, tôi nghĩ: một bọn dị giáo đi xa theo mệnh lệnh của một triều đình lớn phương Bắc, tất không thể nào lại là bọn người kém cỏi được. Mục đích của chúng không thể nào khác hơn là việc tìm cách thôn tính nước ta. Như thế thì trong việc này bọn dị giáo được hưởng lợi như thế nào ta không biết, mà ta cũng chẳng cần biết. Ta chỉ biết: phải hủy diệt bọn công tác tiền phương này của Bắc phương. Chậm hay không thực hiện được việc hủy diệt ấy, là ta làm cho Giao Châu lại bị Bắc thuộc lần nữa. Để cho dị giáo thao túng tung hoành ở Giao Châu ta, nghĩa là đem một tư tưởng mới, một tôn giáo mới vào nước ta. Cũng là trọng tội đối với dân tộc đất nước. Ta cần phải hiểu rõ như thế mới được!

Động chúa băn khoăn, ngài ngồi im lặng nghe Quân sư nói tay chống lên mặt bàn lớn gỗ lim. Khi Quân sư dứt lời, ngài hỏi:

- Ngài thấy ta có cần phải thay đổi gì về chiến sách tiến quân không?

Quân sư đáp ngay:

- Thưa, chiến sách của ta không thay đổi, các mặt tiến quân của ta nhất định xong. Mặt Tế Giang nếu để một mình ông Mạc Sa Cảnh điều động các tế tác của ông ấy cũng là đủ, nhưng tôi thấy: tôi cũng cần lên Tế giang cho rõ tình thế một phen mới được!

Động chúa vui vẻ:

- Quả đúng ý ta! Ta đã muốn ngài hãy lên Tế Giang ngay, trước là trợ giúp cho ông Lê Hoàn, sau là đích thân xem xét việc Hỏa Thần giáo. Nay ngài cũng muốn lên Tế Giang, thì lúc nào ngài lên đường?

- Bẩm, ngay chiều hôm nay, ông Mạc Sa Cảnh sẽ đi với tôi!

Rồi Quân sư cho lệnh mời tướng Mạc Sa Cảnh, Quân sư bảo Cảnh:

- Việc Tế Giang với bọn Hỏa Thần giáo, có thể là mối nguy lớn cho dân ta sau này, ông đã biết. Nay, tôi phải đích thân cùng với ông đi Tế Giang một lần cho rõ mọi việc. Vậy ông gấp sửa soạn những gì cần thiết, ngay trong chiều hôm nay ta lên đường!

Mạc Sa Cảnh vâng lệnh, lập tức cho tế tác các mặt hết sức đi lại thu thập tin tức. Không mặt nào tế tác coi nhẹ hơn mặt nào, nhờ thế mà các lộ quân tuy mở trận ở những nơi khác nhau mà vẫn biết rõ được tình hình của nhau.

Trước khi lên đường, Quân sư lại gọi tướng Nguyễn Bặc tới bảo:

- Việc tướng quân vào phủ đường Siêu Loại, có ảnh hưởng lớn đến đại kế chiến của ta, tướng quân hãy cẩn trọng, tôi dặn tướng quân như vậy là thừa rồi. Từ đây cho đến khi tướng quân vào tới phủ đường Siêu Loại, tôi tuy không thể cùng đi với tướng quân được, nhưng tướng quân có đoàn tế tác ngày đêm đi lại giúp sức. Cứ yên lòng theo đúng xếp đặt mà lập đại công!

Nguyễn Bặc xin tuân lệnh, lại hỏi:

- Tôi sẽ dốc hết lực, nhưng Quân sư khuyên tôi nên phải chú ý đến chỗ nào nhất?

- Con đường ấy thật ra không có chỗ nào lại chẳng nên chú ý, có đủ mọi thứ trở ngại đón đợi ta, nhưng tôi tin là ông vượt qua được. Luôn luôn nhớ: “Không chạm vào lửa không biết lửa nóng, không xuống nước tốt không biết nước lạnh”. Vậy tướng quân cứ mang hết tâm thành vận hết hùng lực ra mà vượt con đường, thế nào cũng xong!

Nguyễn Bặc chưa hết thắc mắc, hỏi nữa:

- Thưa, Quân sư có báo trước rồi, là khi tôi tới được phủ đường cứ việc vào trận, chẳng kể là đạo quân Gia Lâm có tới được phủ đường hay không. Nhưng, giả sử trên đường đi quá trở ngại, sức tôi bị hao mòn nhiều quá. Liệu lúc ấy tôi có còn sức để chiến ở phủ đường Siêu Loại không?

- Đúng! Tướng quân thắc mắc thật đúng! Nhưng, tướng quân vẫn cứ yên lòng, bao nhiêu việc làm, bao nhiêu trở ngại tướng quân gặp phải, ở đây sẽ biết ngay. Động chúa cũng biết ngay, tướng quân sẽ được an toàn!

Đến đây thì Nguyễn Bặc cảm thấy yên lòng, tuy thế vẫn còn thắc mắc đôi chút, chỉ sợ khi đến được phủ đường lỡ ra sức còn lại yếu quá thì không biết phải làm sao?! Nhìn vẻ mặt viên tướng đầy nghị lực và thận trọng này. Quân sư tủm tỉm cười bảo:

- Thôi được, ông không thể nào hoàn toàn yên lòng được. Vậy trước khi theo quân lên đường, tướng quân hãy đến gặp tôi!

Nguyễn Bặc không hiểu Quân sư còn có điều gì dặn thêm, nhưng cũng cáo từ đi điểm quân cùng với các thuộc tướng sửa soạn để nửa đêm về sáng sẽ kéo quân đi. Suốt đêm hôm ấy, các lộ quân tấp nập sửa soạn lên đường. Chỉ riêng có đạo trọng binh do chính Động chúa thống quản thì còn được thanh thản không phải gấp rút sửa soạn gì.

Vào cuối giờ Sửu, Nguyễn Bặc cùng các tướng Nam Nhật Huy, Đào Bích Hải và Cao Hồ Đạo đến trình Động chúa, Quân sư, để xin lệnh xuất quân.

Động chúa thân mật, cảm động cầm tay tướng Bặc dặn dò:

- Ông đem quân đi trước tôi, đường vất vả nhưng công thành sẽ lớn lắm, ông cố bảo trọng. Hoa Lư ta trông cậy cả vào trận này của ông đấy!

Quay sang ba tướng cũ Đằng Châu, Động chúa bảo:

- Các ông nay cùng với Hoa Lư đi chinh phục thiên hạ cứu dân tộc. Từ đây vất vả thì nhiều, nhưng vinh quang của người làm trai trong trời đất cũng từ đây sáng mãi với vó ngựa trận của các ông. Vậy các ông hãy nghĩ đến hành động của Hoa Lư ta mà hết sức hết lòng nhé!

Động chúa lại sai đem rượu, thứ rượu Nhượng Thể đến ban cho mỗi tướng một bát lớn.

Đây là lần đầu tiên trong lúc xuất quân tiễn tướng, Động chúa lại ban cho rượu ở trước quân. Chứ không mở tiệc rượu tiễn như cách của các người xưa lúc xuất chinh.

Rượu của Động chúa tiễn tướng trước quân, là thứ rượu trong veo (cho nên gọi là Nhượng) màu đỏ như hồng ngọc (cho nên gọi là Thể) mạnh lắm. Người tửu lượng kém chỉ uống một chung nhỏ cũng thấy choáng váng hoa mắt đứng không vững [→5] . Động chúa tự tay trút rượu từ bình lớn vào bát men trao cho các tướng lúc ấy ngồi trên lưng ngựa trận. Các ông nhận rượu không nói lời nào, chỉ ngửa cổ uống một hơi hết bát lớn. Cùng lúc ấy, Động chúa cầm bát men đập mạnh xuống đất, bát vỡ tan. Động chúa bảo:

- Đi đi! Phá cho tan quân giặc nước, hay là hãy kết thúc cuộc đời chinh chiến như bát men này!

Bốn tướng ngồi thẳng trên lưng ngựa, mặt nghiêm nghị như bốn pho tượng. Nguyễn Bặc cất tiếng thật rành mạch:

- Men rượu mạnh người Hoa Lư ta nhận. Bát men tan ấy là thế tàn của giặc nước trong ngoài!

Bặc nói như một lời thề của chung cả bốn tướng. Quân sư thong thả bước tới, ngài nói:

- Tướng quân lên đường, hào khí dâng cao. Người đi rồi, ta sẽ gặp lại nhau bên thành giặc tan nát chứ không phải là cái thế của: “Tráng sĩ khứ hề bất phục hoàn” thất bại của người xưa!

Quân sư đưa ra một ống trúc nhỏ thường dùng để đựng văn chỉ, bảo:

- Khi nào không còn cách gì đối phó được với hoàn cảnh, tướng quân hãy mở ống trúc này!

Nguyễn Bặc vẫn ngồi trên lưng ngựa trịnh trọng đỡ lấy ống trúc, ông nói:

- Có nghiêm lệnh của Động chúa, lại được Quân sư cùng đi. Chúng tôi thế nào cũng dứt xong họa Lãng công!

Nguyễn Bặc chỉ nói có vậy rồi lệnh cho quân lên đường ngay. Năm nghìn khinh kỵ binh mang đeo cung dài bao tên lớn. Cả đạo quân lưng đều treo gươm ngắn rõ ràng là đạo hùng binh quyết tử cận chiến. Binh lên đường trong lúc bóng đêm còn tối. Khí trời lạnh run nhưng dường như sức nóng của ngần ấy lòng người và vó ngựa trận làm cho cả một vùng rực lửa. Lúc ấy chỉ là lửa đuốc tiễn quân.

Quân đi như nước chảy mây tuôn. Nguyễn Bặc dẫn đầu, tả dực là tướng Nam Nhật Huy, hữu dục là Cao Hồ Đạo. Đi đoạn hậu là hổ tướng Đào Bích Hải với danh hiệu người đời tặng cho là “Lữ Bố Đằng Châu”.

Giữa lúc vó ngựa khinh kỵ khua bụi vẩn cao trong tiết xuân nơi doanh bên sông. Quân sư quay sang Động chúa lúc ấy còn cùng với các tướng đứng nhìn theo đạo khinh binh. Quân sư nói:

- Bây giờ, đến lượt tôi phải lên đường ngay cùng với ông Mạc Sa Cảnh. Động chúa cứ chậm chậm, hai hay ba ngày nữa hãy lên đường cũng được. Trọng binh xin cứ thong thả mà đi, tôi dù ở xa chẳng được theo ngựa Động chúa, nhưng lúc nào cũng sẵn sàng đợi lệnh của Động chúa. Tôi tin là việc binh của ta không gặp khó khăn gì, nếu có khó khăn thì phải là khó khăn ngoài việc binh. Chúc ngài vào Siêu Loại thật tưng bừng!

Rồi Quân sư cùng với tướng Tế sứ Mạc Sa Cảnh ra đi, nhắm hướng Bắc gấp giục ngựa. Động chúa cùng các tướng im lặng đứng nhìn hai người dần dần khuất bóng. Tà áo văn sĩ của Quân sư còn thấy tung bay và vó ngựa của Mạc Sa Cảnh chạy song song với ngựa của Quân sư. Động chúa có vẻ bâng khuâng nghĩ ngợi, hình ảnh chàng văn sĩ mặt đẹp như ngọc năm xưa ôm đàn vào động, một tay khuấy động cả một phương trời. Hình ảnh ấy nay đã là một trang trung niên chững chạc đẹp vô cùng. Con người ấy bôn ba khắp nẻo, giúp Hoa Lư dàn xếp trăm ngàn việc lớn nhỏ. Giờ đây lại lận đận với việc lên Bắc xét họa ngoại cường vừa vào bờ cõi! Động chúa yên lòng với mưu trí tuyệt vời của Quân sư. Ngài cũng nghe tướng Phạm Cự Lượng mấy lần kể về dũng lực võ tướng của Quân sư. Lần nào kể lại xong Lượng cũng bảo: “Cả Hoa Lư này, có lẽ ít người đương cự nổi với Lê Thảo, có lẽ nào trong cái hình hài văn nhã ấy lại ẩn tàng một sức mạnh vô địch chăng?! Quân sư đi tay không chẳng thấy cây Giao Long Trủy Thủ, cũng chẳng thấy con ngựa Á Lôi. Một là Quân sư ỷ tài, hai là Quân sư biết sẽ chẳng có nguy hiểm gì xâm phạm được đến tính mệnh của ngài. Vả chăng, bên cạnh Quân sư còn có tướng Mạc Sa Cảnh. Một tay kiếm vững vàng, đặc biệt là sử đoản đao rất lợi hại.

Lúc nãy tiễn đưa đạo binh kỵ lên đường, Động chúa chợt thấy bâng khuâng trong dạ. Bây giờ đứng nhìn Quân sư với tướng Mạc Sa Cảnh tế ngựa lên Bắc, ngài lại thấy hoang mang. Nỗi hoang mang của kẻ ở, người đi trước một ngày mai ai cũng biết là sẽ đầy sóng gió.

Các tướng không ai biết Quân sư đi việc gì, ở đâu, nhưng nhìn cung cách thì hiểu rằng Quân sư đi việc khẩn cấp lắm. Không nghe Động chúa nói, cũng chẳng được Quân sư giảng, ông nào cũng thắc mắc nhưng không dám hỏi Động chúa.

Động chúa tiễn Quân sư đi rồi, quay lại doanh, cho gọi tướng Thẩm Thụy Hùng đến bảo:

- Khi tướng Nghi Bá Tường vâng lệnh đem thủy quân lên Bắc, có để tướng Lê Đường Hào ở lại trấn ở Chu Diên làm thế trợ chiến. Nay các việc bên Phù Liệt tạm yên, ông mời cho ta ông Lê Đường Hào tới đây.

Tướng Thẩm Thụy Hùng lập tức cho quân đi mời tướng Lê Đường Hào.

Lê Đường Hào người ở Tế Giang, vốn là con nhà dòng dõi, trong thời loạn tụ tập bạn bè đổi sang nghề sông hồ để sinh sống. Nhờ đi lại nhiều nơi cho nên kết bạn được với nhiều nơi, có kiến thức rộng rãi, tính tình trầm tĩnh nhìn việc không vội vàng xốc nổi. Thế mà cũng phải có phen chịu không nổi đành phải ra tay vì những việc làm của đám thầy trò Sứ quân Lữ Đường. Nhất là những hành vi dâm tà bạo ngược của tay pháp sư An Dương Thanh Sứ. Ngày nọ, Lê Đường Hào vừa xong chuyến hàng từ Bắc trở về, neo thuyền tại bến Thạch Kiều rồi cả bọn kéo nhau lên tửu quán ở cầu Đoan Bái. Nơi đây là chốn thị tứ sông nước cho nên người qua kẻ lại tấp nập, mà cũng là nơi thiên hạ tứ xứ tụ tập làm ăn sầm uất lắm.

Khi bọn Lê Đường Hào kéo nhau vào tửu quán lớn nhất ở bến Thạch Kiều này, thì nhà hàng chạy ra vẻ sợ sệt, khẽ khẽ nói:

- Xin quan nhân vui lòng, tạm đi nơi khác. Hôm nay quán chúng tôi không thể tiếp đón quan nhân được!

Bọn Lê Đường Hào lúc ấy mới nhìn kỹ, thì ra tửu quán đóng cửa. Bên trong có nhiều tiếng thét tiếng cười, rõ ra là đang có đông người ăn uống. Hỏi ra mới biết, pháp sư An Dương Thanh Sứ hiện mang đám bộ hạ đầu trâu mặt ngựa đến đây. Pháp sư nghe nói quán có mấy cô hầu, người nào cũng xinh đẹp mặt hoa da phấn, nhưng đến nơi các cô sợ hãi đã trốn chạy trước cả mất rồi. Vô phúc cho nhà họ Thôi người gốc Phúc Kiến bên Tàu. Có hai cô con gái, cô lớn là Liêu Liêu, cô nhỏ là Cổ Cổ. Cả hai chưa quá hai mươi tuổi, nức tiếng bến Thạch Kiều là hai trang nữ lang nhan sắc hơn người. Pháp sư kiếm gái trong quán rượu không có, lại nghe danh hai cô gái họ Thôi liền thét đám thuộc hạ đi mời cho được hai cô. Gái nhà lành ai chịu làm những chuyện nhơ nhuốc, nhưng bọn pháp sư dùng cường lực cướp hai cô gái đem đến tửu lầu sai hầu rượu. Cha mẹ hai cô gái lạy lục van xin đến đứt cả lưỡi cùng không được, lại kéo nhau lôi thôi lếch thếch đến tận quán rượu để khóc lóc van xin. Bọn pháp sư bực mình, đánh Thôi lão rụng cả răng, lọi cả chân. Rồi sai quán đóng cửa đuổi hết khách ra để cho bọn chúng được một mình ăn uống cưỡng hiếp gái nhà lành.

Dân tình chung quanh sợ hãi đua nhau đóng cửa. Thành ra cả một khu bến tàu sầm uất, hốt nhiên hóa thành vắng vẻ, nhưng thấp thoáng vẫn còn nhiều người tụ tập chỉ chỏ bàn tán. Bọn Lê Đường Hào nghe biết chuyện, thì máu giang hồ nổi lên, hè nhau phá cửa xông vào. Mặc cho chủ quán hết lời lạy lục van xin.

Vào đến trong, bọn Lê Đường Hào thấy quang cảnh thì cơn giận lại càng bốc cao. Bọn pháp sư gần chục đứa vừa uống rượu vừa nhồm nhoàm ăn uống, lại bắt hai cô gái phải thay nhau chuốc rượu cho bọn chúng. Hai cô gái bị cả bọn lôi kéo đến tan nát cả xiêm y, nước mắt đầm đìa nhưng vẫn phải luôn tay chuốc rượu.

Bọn Lê Đường Hào xuất hiện thoạt đầu làm cho bọn pháp sư ngỡ ngàng kinh ngạc, sau thì pháp sư thét lên the thé:

- Bọn bây là những đứa nào, hết muốn sống rồi cho nên mới lạc loài đến đây thế này?

Lê Đường Hào, cũng như hết thảy mọi người đều từng nghe kể nhiều hành vi bạo thiên nghịch địa của pháp sư thuộc hạ Sứ quân Lữ Đường. Bây giờ tận mắt nhìn quang cảnh thì lửa giận chẳng thể nào nén được. Hào lại biết pháp sư có bản lãnh ma thuật lợi hại, chậm tay là mang họa ngay. Cho nên khi nghe pháp sư thét hỏi, thì Lê Đường Hào chẳng nói chẳng rằng bốc mình lên phóng ra một ngọn đá theo thế “Gió thu quét lá” mạnh mà nhanh vô cùng. Pháp sư vốn là tay lanh lợi vừa thoáng thấy cử động của Đường Hào thì lập tức né tránh ngay. Pháp sư ngồi thụp xuống núp dưới gầm bàn khiến cho ngọn cước của Đường Hào như cơn gió mạnh cuốn đi, trúng ngay một thuộc hạ của pháp sư. Tên thuộc hạ ấy chẳng kịp kêu tiếng nào, bốc bay đi đập mạnh vào vách, phá toang một khoảng lớn ở vách gỗ rồi rơi xuống chết ngay tại chỗ.

Đường Hào như con cọp đã quay ngay trở lại vừa kịp lúc pháp sư đứng lên. Hào thét lớn một tiếng:

- Yêu nghiệt!

Cùng với tiếng thét, tay quyền của Hào đánh ra nhằm giữa đỉnh đầu pháp sư đập xuống. Pháp sư hồn vía lên mây, vội tạt người sang một bên mà tránh. Bàn tay Hào đập xuống mặt bàn “rầm” một tiếng thì mặt bàn đã vỡ vụn, chiếc bàn sụm xuống.

Việc xảy ra nhanh quá, đám thuộc hạ của pháp sư chưa kịp ra tay ngăn cản Đường Hào, thì Hào đã đánh ra hai đòn toan lấy mạng pháp sư, nhưng không được. Bây giờ thì đám thuộc hạ đã tỉnh hồn, chúng hò hét gọi nhau mau mau bao vây Lê Đường Hào. Hào thấy thế không lợi, chỉ mặt pháp sư mắng lớn:

- Tên yêu nghiệt! Tội mày cao như núi, trời không dung, người không tha. Ta tiếc là hôm nay không tru diệt được mày, có ngày mày sẽ chết không toàn xác!

Dứt lời, Lê Đường Hào tay bốc bổng chiếc bàn bên cạnh lên vận lực ném về phía pháp sư. Thuận đà lại vươn chân quét rộng một đường đá bay đám thuộc hạ của pháp sư đi, mở đường chạy ra ngoài. Pháp sư bị chiếc bàn ném trúng gãy cánh tay trái, từ đấy thành tật. Nhờ có vụ Lê Đường Hào đại náo quán rượu bến Thạch Kiều, hai cô gái nhà họ Thôi thừa cơ trốn được. Việc làm cho cả Tế Giang náo động ai nghe thấy cũng hả lòng lắm. Còn Lê Đường Hào ngay sau đấy biết là không xong rồi, liền nhổ sào theo dòng dưa thuyền xuống Nam. Sau theo về với Sứ quân Phạm Phòng Át. Việc làm của Đường Hào cả một vùng từ phía Bắc Gia Lâm xuống đến tận Bố Hải ai cũng nghe biết.

Nay vâng lệnh tướng Nghi Bá Tường coi quân trấn giữ Chu Diên làm thế phòng trợ cho Tường. Lúc Tường đem quân thủy lên bộ đánh Tây Phù Liệt, thì Hào mong ước có phen được vào trận. Nhất là đánh lên Tế Giang. Khi được tin là Động chúa Đinh Bộ Lĩnh triệu gọi. Lê Đường Hào vội đến ngay.

Vừa gặp Hào, Động chúa vui vẻ nói ngay:

- Anh hùng năm xưa ra tay không tru diệt được yêu nghiệt, nhưng cứu kịp mỹ nhân, danh vang bốn cõi. Nay cầm quân trên dòng sông lớn, ông có thấy thỏa lòng chút nào không?

Lê Đường Hào vốn nghe danh Động chúa từ lâu. Biết những việc rung trời chuyển đất của Động chúa, lòng vẫn mong có ngày được gặp. Nay trước mặt Động chúa thì hồi hộp lắm. Khi nghe Động chúa hỏi như vậy thì vội đáp:

- Thuộc hạ lạy chào Động chúa. Việc năm xưa không thành ấy cũng bởi tôi kém cỏi, xin Động chúa tha thứ!

Đinh Động chúa cười ha hả, bảo:

- Hào kiệt khắp nơi đi lại trên sông hồ, chỉ mình ông dám ra tay hành động. Việc thành hay bại là do ở mệnh trời, còn người dám làm mới là chân hào kiệt. Ông đáng được cả thiên hạ xưng tụng đấy! Lúc này trấn quân yểm trợ cho bên kia sông, ông có đề phòng Tế Giang hay Đỗ Động bất thần đánh lén ta không?

- Bẩm, Đỗ Động ở xa, vả lại còn có Tây Phù Liệt chắn ở phía dưới. Lại thêm lúc này có quân của ta lên bộ, thì mặt Đỗ Động tôi nghĩ không có gì phải lo lắng cả. Về mặt Tế Giang, có thể Lữ Đường nhân lúc ta bận rộn với Phù Liệt, bất thần đem quân đánh lén. Muốn thế thì Tế Giang phải chọn một trong hai đường, đường thủy hay đường bộ, hay là cùng một lúc cả hai mặt cùng hành động. Chọn một đường hay là chọn hai đường cùng một lúc, thì đường thủy hay đường bộ Tế Giang cũng không có lợi gì, chỉ có hại mà thôi!

Động chúa hài lòng lắm, bây giờ nghiêm giọng bảo:

- Các ông là những tay giỏi về thủy chiến, biết nén mình để cùng chung sức trong việc lớn. Như vậy là đáng quý lắm! Các ông là những người giúp nhiều cho Hoa Lư ta, công lao ấy ta không quên! Nay đại binh ta lên đây không phải là chỉ đi kinh lý vài việc rồi về, mà là dem binh vào thiên hạ. Giao Châu ta sông nước chằng chịt, thì ông tất sẽ có cơ hội để tung hoành. Binh ta lên dây, cả thiên hạ đều hay biết. Bản doanh thủy quân của các ông cũng tuân lệnh lên theo, liệu đã bị lộ chưa?

Lê Đường Hào kính cẩn đáp:

- Bẩm Động chúa! Doanh thủy quân chúng tôi lên phía Bắc, quả thật lúc nào cũng giữ kín đáo không để lộ. Tuy thế, nay việc quân mở rộng khắp nơi, ắt thế nào Tế Giang cũng hay biết. Bẩm, bên kia sông là Phù Liệt, trên phía Bắc là Đỗ Động với Tế Giang. Các nơi ấy đều có thủy quân, nhưng thảy đều im lặng. Thế thì, một là bản doanh thủy quân của ta lên Bắc không làm cho nơi nào náo động cả. Hai là các nơi ấy có thể có mưu kế gì lặng lẽ hành động chăng?

- Tế tác của ta đi lại khắp nơi, các nơi ấy có hành động thế nào là ta biết ngay, ông hãy yên lòng. Hãy chú tâm vào việc yểm trợ cho quân ta lên bộ bên kia sông, thế nào cũng sắp cho nhiều việc hay! Còn lúc này, tình hình tuy có vẻ yên tĩnh, ta không thể cứ ngồi im tin cậy ở cái yên tĩnh ấy được. Cho nên ta muốn ngược dòng đi lên phía Bắc xem xét tình hình. Vậy ông hãy kín đáo sửa soạn cùng đi với ta, đừng để cho ai biết cả!

Đinh Động chúa từ lúc sang sông vào Đằng Châu, nay lên Bình Kiều. Ở đâu Động chúa cũng thật cởi mở, ở đâu ngài cũng ôn tồn làm như thể từ lâu vốn vẫn có các tướng Đằng Châu Bình Kiều ở dưới trướng. Tuyệt nhiên không có gì là xa cách khiến các tướng phải rụt rè sợ hãi. Mới đầu Lê Đường Hào nghe lệnh đến trước Động chúa thấy trong lòng hồi hộp lo lắng bao nhiêu, thì nay cảm thấy yên lòng gần gũi với Động chúa bấy nhiêu. Khi nghe Động chúa bảo vậy thì Lê Đường Hào kính cẩn đáp:

- Thuộc hạ tuân lệnh! Thưa, như vậy có cần phải cho binh đi hộ tống không?

- Không, một mình ông đi với ta là đủ, đừng làm náo động!

Lê Đường Hào tuân lệnh, nhưng thật ra trong lòng vẫn thấy băn khoăn lo lắng lắm, cho nên lại hỏi:

- Bẩm, sông nước yên tĩnh, nhưng lúc này đang trong bồi quân dàn lập trận. Tôi nghĩ, ta nên cẩn thận có để phòng là hơn!

- Ông bảo ta nên đề phòng cái gì? Mà đề phòng thế nào?

- Bẩm, nếu như Động chúa không muốn quân đi hộ tống, thì cũng nên cho tế tác bí mật theo ta.

- Ta thấy cũng chẳng cần tế tác theo ta làm gì, ông cứ yên lòng!

Lê Đường Hào đành tuân lệnh, sửa soạn một thuyền nhỏ, lại đem cả vũ khí cất giấu dưới thuyền mà không cho Động chúa hay biết. Đến lúc trời bắt đầu ngả về chiều, thì Động chúa cùng Lê Đường Hào ra bờ sông. Nhìn sông nước mênh mông, lau sậy bạt ngàn. Động chua chợt thấy sôi nổi trong lòng, liền bảo Lê Đường Hào:

- Ta thấy sông nước hùng vĩ, quang cảnh tuyệt vời thế này, lại động lòng muốn vùng vẫy cho thỏa ước muốn thời thơ ấu. Vì vậy trong chuyến đi này cùng một lúc, ta vừa ngao du vừa xem xét tình hình cũng là điều hay đấy!

Lê Đường Hào thưa:

- Bẩm, Động chúa muốn đi chơi như vậy cũng không sao. Từ đây ngược lên mạn Bắc hay xuôi xuống Nam, ven sông vốn không có dân cư đi lại làm ăn. Nay vì chiến trận nên tế tác của ta đi lại liên miên tuần phòng xem xét các thuyền bè qua lại. Động chúa đi chơi một lát cũng không sao!

Động chúa hài lòng, ngài vui vẻ bảo:

- Việc quân cẩn thận như vậy là tốt, nhưng cũng đừng vì thế mà ngăn trở quá, làm cho việc đi lại làm ăn của dân chúng bị phiền hà thiệt hại. Liệu tế tác có biết việc ta đi như thế này không?

Lê Đường Hào ngập ngừng đáp:

- Bẩm, đúng phép đúng lệnh, thì tế tác của ta không thể không biết, thế nào cũng có tin trình về doanh, vắng tôi thì tế tác sẽ tìm để trình tin. Nhưng Động chúa yên lòng, tế tác lúc nào cũng giữ kín mọi việc, tin chỉ có người trách nhiệm mới biết, ngoài ra không bao giờ tế tác lại đưa tin cho người khác.

Động chúa vui lắm, ngài cùng với Lê Đường Hào xuống chiếc thuyền nhẹ rồi tự tay đẩy chèo ra khơi. Thuyền Động chúa ngược dòng lên mạn Bắc, sông Xích Đằng vào xuân nước chảy êm đềm. Động chúa đẩy thuyền đi nhanh như tên bắn. Ngài vui vẻ nói chuyện với Lê Đường Hào về những lúc thời trẻ dại vùng vẫy ở sông hồ. Động chúa cứ thế đẩy thuyền lên mạn Bắc, càng lúc càng đi xa. Trời dần dần tối mà Động chúa vẫn không để ý, khiến Lê Đường Hào thấy như có lửa lớn càng lúc càng cháy lớn trong lòng. Mấy lần toan lên tiếng nhắc Động chúa, nhưng thấy Động chúa tay chèo vẫn đều, miệng liên miên kể chuyện thời thơ ấu. Hào chẳng dám ngắt lời, đành cứ như ngồi trên lửa mà lắng nghe, lại kín đáo quan sát chung quanh chẳng lúc nào lơ là.

Trời sắp tối hẳn, thuyền Động chúa lên đến gần Gia Lâm, tức là vượt được quãng đường dài. Đi qua cả giang sơn sông nước của Tế Giang.

Thấy trời sắp tối, lúc ấy Động chúa mới xoay chèo quay thuyền trở về. Động chúa bảo:

- Ta đi suốt một dọc ngược mãi lên tận chỗ này. Chỉ toàn thấy hai bờ sông lau sậy mịt mù, tuyệt nhiên không có thuyền tuần của ai cả. Như vậy đủ biết là các Sứ quân ở chung quanh đây người nào cũng lo cầm cự với nhau, không ai dám có hành động gì khiến cho người khác nghi ngờ. Lẽ khác nữa, là các Sứ quân đều là những kẻ bất tài, không hiểu rõ cái lợi của việc phòng ngự! Cứ xem quang cảnh này thì ta ra tay dẹp loạn lớn nhỏ ở Giao Châu này cũng không có gì là quá khó khăn cả đâu!

Lê Đường Hào đáp:

- Bẩm, tôi có nghe tế tác của ta đi lại khắp nơi, chỗ nào cũng có tai mắt cả. Lại thêm ông Nghi Bá Tường nói rằng thuyền tuần tế tác của thủy quân đi lại khắp nơi hai mặt Nam Bắc đều có cả. Sao chẳng thấy thuyền nào là thế nào?

Động chúa mỉm cười:

- Ông nhận xét thế quả thật là đúng! Nhưng ta nghĩ tế tác của ta hoạt động kín đáo, thành thử vì thế mà dù khắp nơi chung quanh đây không thấy có bóng dáng thuyền qua lại, nhưng kỳ thực tế tác của ta vẫn canh chừng cũng nên!

Động chúa vừa dứt lời, chợt Lê Đường Hào kêu khẽ:

- Có thuyền trên mạn ngược!

Động chúa dừng tay chèo quay lưng nhìn lại, quả nhiên trên mạn ngược có thuyền nhỏ vừa xuất hiện. Động chúa cũng tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng chỉ một thoáng thôi là Động chúa đã thản nhiên:

- Thuyền bè qua lại cũng có thể là bình thường, có gì đâu, cũng như thuyền ta đang đi dây có gì là lạ!

Tuy nói thế, nhưng Động chúa cũng chậm chậm mái chèo, đưa con thuyền hơi tránh vào phía trong có ý đợi chờ nhường đường đi cho chiếc thuyền mạn Bắc đi xuống. Chiếc thuyền nhỏ trôi rất nhanh xuống mạn dưới. Thuyền lạ lại gần, Động chúa nhận ra con thuyền không nhỏ lắm, trên thuyền có ba người. Trong bóng chiều vào xuân sắc trời vàng thật đẹp, còn thấy rõ thuyền lạ có ý lại gần thuyền của Động chúa!

Động chúa thản nhiên đẩy mái chèo, Lê Đường Hào hỏi nhanh:

- Bẩm, ta để mặc cho thuyền này đi qua hay giữ lại?

Động chúa nghĩ nhanh rồi đáp:

- Ta cứ để mặc xem họ hành động ra sao đã!

Thoáng lát, chiếc thuyền lạ lại gần, bây giờ Động chúa cũng như Lê Đường Hào thấy rõ trên thuyền có hai người đàn ông ngồi hai đầu đẩy mái chèo, giữa thuyền là một người con gái. Động chúa ngang ngang mái chèo ghìm cho con thuyền không theo dòng nước trôi đi nữa, Thuyền lạ vùn vụt lại gần thuyền động Chúa rồi cô gái cất tiếng lanh lảnh hỏi:

- Hai ông có về Vũ Diệp không, cho thuyền em theo cùng với?

Động chúa thong thả đáp:

- Thuyền ta không về Vũ Diệp nhưng cũng xuôi Nam! Các người đi đâu mà vội thế?

Cô gái đáp:

- Em về Vũ Diệp, trời tối mất rồi đường xa sợ lắm! Tưởng hai ông cùng đi thì đợi thuyền em với!

Động chúa hỏi:

- Sông nước là của chung thiên hạ, ai muốn đi đâu thì đi, có gì mà phải sợ?

Cô gái lại đáp:

- Lúc này giặc cướp nhiều lắm! Vả lại em từ mạn trên xuống có nghe nhiều tin dữ. Đêm xuống không về kịp một thuyền bơ vơ em sợ lắm!

Động chúa lại hỏi:

- Lúc này giặc cướp ẩn nấp ở đâu chứ làm gì có ở trên sông! Cô nghe nhiều tin dữ là tin gì thế?

Thuyền cô gái bây giờ đi sát thuyền Động chúa. Trong bóng tối mờ cô gái nhìn đã rõ hai người trên thuyền lạ đều vận chiến bào, cô ngập ngừng:

- Hai ông chắc không phải là khách sông hồ, có phải hai ông là tướng cầm quân ở quanh đâu đây không?

Đến lượt Lê Đường Hào lên tiếng:

- Nếu là tướng cầm quân thì sao?

Hai người đàn ông trên thuyền cô gái gác mái chèo chăm chú nhìn rộng chúa và Lê Đường Hào. Cô gái cũng cố nhìn cho rõ nét mặt Động chúa rồi Lê Đường Hào. Nhưng bây giờ bóng tối đã đậm, cô gái không thấy rõ. Cô gượng đáp:

- Nếu hai ông là tướng cầm quân, thì chắc chắn là thiếp được an toàn xuôi Nam…

Động chúa cắt ngang hỏi:

- Các người đi đâu trong lúc này mà vội vàng thế? Các người có biết đây là đâu không?

Người đàn ông ngồi ở mũi thuyền cất giọng thật chắc nịch đáp:

- Lúc nãy ngài có nói sông nước là của chung, ai đi đâu cứ việc đi, sao bây giờ lại hỏi chúng tôi đi đâu!

Động chúa cười thành tiếng mà rằng:

- Phải, ai muốn đi đâu cũng được! Thế nhỡ các người gặp thuyền giặc thì sao?

Vẫn người đàn ông ấy đáp:

- Nếu gặp giặc, thì từ nãy đến giờ chắc chúng tôi chẳng được yên rồi! Chúng tôi từ mạn trên có nghe tin. Binh Sứ quân Nguyễn Hữu Công ở Phù Liệt sắp động binh chiến với Đỗ Động. Vì thế về đến đây chúng tôi e ngại gặp thuyền tuần của Sứ quân làm khó dễ!

Động chúa lại hỏi:

- Ngay thẳng thì các người sợ gì khó dễ? Các người là thủ túc của Động chúa Đỗ Động xuống Nam chăng?

Thuyền lạ mau lẹ đẩy chèo nhích ra xa, rồi cô gái cất giọng lanh lảnh đáp:

- Chúng tôi không phải là người của Sứ quân nào cả! Bây giờ gặp các ông ở đây thì liệu là lành hay dữ đây?

Động chúa cười lớn mà rằng:

- Gặp ta tất là phải lành rồi! Ta hỏi phải nói thật: nếu không là người của Sứ quân, thì là người của giặc Hoa Lư chăng?

Cô gái rắn rỏi đáp:

Hoa Lư chưa từng khuấy động thiên hạ, có lần thắng binh triều mà vẫn để binh triều được yên lành trở về, như thế thì Hoa Lư sao lại là giặc được? Tôi không phải là người của Hoa Lư, nhưng nếu gặp được tướng Hoa Lư tất yên lòng!

Lê Đường Hào bảo:

- Hoa Lư ở mãi xa xôi phía Nam, làm gì có tướng Hoa Lư ở chỗ này được!

Người đàn ông ngồi ở đằng lái thuyền chợt nói:

- Hoa Lư chiếm được Đằng Châu, lấy được Bình Kiều, thì chỗ sông nước này có thể có tướng Hoa Lư chứ!

Cô gái lại nói với:

- Thiên hạ nói là Hoa Lư đã lấy xong Bình Kiều, thì các ngài nếu chẳng là tướng của Hoa Lư tất cũng là tướng giữ Bình Kiều?

Động chúa nghiêm giọng bảo:

- Phải, ta là tướng của Hoa Lư, các người thấy thế nào?

Cô gái cũng nghiêm giọng đáp:

- Tướng Hoa Lư khí độ khác thường, quả nhiên gặp các ngài ở đây là điều rất may cho chúng tôi!

Động chúa bảo:

- Tại sao lại may được? Nhưng dù may hay không may bây giờ các người cũng phải theo ta về để xét sau mới được!

Cô gái giọng không run đáp:

- Nếu quả thật các ngài là tướng Hoa Lư, thì đêm nay chúng tôi không về được Vũ Diệp, nhưng thế nào cũng được yên lành! Chúng tôi ngay thẳng không có gì phải trốn tránh! Vậy xin tuân lệnh!

Dứt lời, cô gái dõng dạc ra lệnh:

- Đẩy thuyền!

Hai người đàn ông lẳng lặng khua chèo. Động chúa cũng thản nhiên đẩy thuyền. Nghe cô gái nói rồi thấy hành động của hai người đàn ông. Động chúa và Lê Đường Hào trong lòng thầm nghĩ: “Cô gái này chắc là chủ nhân của hai người kia. Xem giọng nói cùng cung cách đối đáp thì nhất định có không phải là gái kín cổng cao tường”.

Về đến bản doanh thì trời cũng đã muộn. Lúc ấy đạo binh của tướng Lê Hoàn đã ra đi, trong doanh im lặng nghiêm trang. Chỉ có tiếng trống tuần canh đều đều điểm nhịp.

Động chúa rời thuyền lên bộ vào thẳng đại doanh. Tướng Lê Đường Hào đưa hai người đàn ông và cô gái đi theo ngả khác mà vào tướng doanh.

Cùng lúc ấy, tế tác vào trình tin về quân bị các mặt, rồi lại trình: Tướng Lê Đường Hào dẫn ba người vào nghe lệnh. Động chúa cho lệnh tướng Hào trở lại quân doanh thủy quân, ba người hãy vào doanh ngay.

Trong doanh đèn đuốc sáng nhưng không lọt ra bên ngoài. Bản doanh tạm lập tuy không thật tráng lệ nhưng vẫn không thiếu khí độ uy nghiêm. Động chúa mình vẫn mặc áo trận mỏng, cây đại phủ gác trên giá. Quân bước vào kính cẩn thưa:

- Bẩm, ba người đã tới!

Động chúa cho lệnh dẫn vào. Trong ánh sáng rực rỡ, ba người lạ có phần ngập ngừng đứng sững không hiểu vị tướng oai nghiêm này là ai. Ba người đứng ngẩn người rồi một người đàn ông cất giọng kính cẩn:

- Bẩm tướng quân, chúng tôi xin bái kiến!

Dứt lời người ấy vòng tay bái Động chúa thật trịnh trọng. Người đàn ông kia và cô gái cũng vội thi lễ.

Động chúa từ lúc thấy ba người bước vào cũng ngẩn người. Ngài không ngờ cô gái lúc nãy trên sông lại có nhan sắc diễm lệ đến như vậy! Lúc nãy, trên sông nước tối tăm, ngài chỉ thoáng thấy lờ mờ vóc dáng cô gái chứ không nhìn được rõ ràng như lúc này. Đến khi nghe người đàn ông nói thì ngài như chợt tỉnh, cất giọng ôn tồn nhưng ngập oai khí mà rằng:

- Ta miễn lễ! Mời ngồi!

Tướng Chu Trạch Phương bước tới kéo ghế mời ba người ngồi trước tướng án, rồi nghiêm trang nói:

- Bẩm Động chúa, hạ tướng xin đợi lệnh!

Cả ba người lạ nghe Chu Trạch Phương nói thảy đều giật mình, thì ra đây là Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh! Cô gái thoáng liếc nhanh về phía Động chúa rồi cúi đầu xuống có vẻ phân vân. Hai người đàn ông cảm thấy lạnh ở trong gan ruột không dám ngửng đầu lên.

Động chúa bảo:

- Mọi việc đã xong xuôi, ông cũng ngồi đây đợi ta luôn!

Bây giờ cô gái chợt đứng dậy kính cẩn:

- Bẩm, thiếp quả thật có tội lớn! Không được biết trước ngài lại chính là Hoa Lư Động chúa! Thiếp xin tạ tội!

Hai người đàn ông cũng vội đứng dậy. Động chúa ôn tồn:

- Không sao? Không sao? Các người cứ ngồi xuống nghe ta hỏi!

Ba người vẫn cứ một mực đứng chứ không dám ngồi. Động chúa bảo:

- Các người ngay thẳng không có gì phải sợ! Vậy cứ thẳng thắn trả lời ta, các người là người ở đâu? Đi có việc gì vội vã thế?

Cô gái nhẹ nhàng đáp:

- Bẩm Động chúa, thật có trời cao dẫn dắt, thành ra thiếp mong xuống Vũ Diệp rồi tới Hoa Lư lại hóa ra được gặp ngài ở đây! Chỉ tiếc một điều là lúc nãy không biết nên mới có những lời vô lễ như vậy! Dám xin Động chúa lượng thứ!

Động chủa mỉm cười:

- Không biết, thì chẳng có tội có lỗi gì. Vả lại, các người có làm ra tội gì đâu? Các người là ai, muốn tìm đến Hoa Lư có việc gì?

Hai người đàn ông vẫn cúi đầu kính cẩn đứng im, cô gái đáp:

- Bẩm, việc dài lắm, thiếp xin được lần đầu trình Động chúa rõ cả. Trước hết, thiếp xin được trình lên Động chúa một vật để làm bằng đã!

Vừa nói, cô gái vừa lần tay tháo chiếc vòng ngọc vàng như mật ong ở cổ tay ra, rồi hai tay kính cẩn trình lên Động chúa. Động chúa ngạc nhiên, cặp mắt một mí vạch một đường như lưỡi kiếm của ngài như có hào quang trào ra. Ngài nhìn đôi tay cô gái với cổ tay nõn nà, cặp mắt thật êm đềm nhưng lại có sức mạnh ghê gớm phủ xuống đôi bàn tay. Hai bàn tay ngọc khẽ run lên. Động chúa giơ bàn tay to lớn đỡ lấy chiếc vòng ngọc lựu. Ngài ngắm nghía rồi chợt nhíu mày. Động chúa ngẩng cao đầu đăm đăm nhìn cô gái, nàng vẫn cúi gằm vẻ bối rối, xúc động.

Chu Trạch Phương mặt đỏ như trát chu sa ngẩn người trước sắc đẹp của cô gái. Bây giờ lại càng ngơ ngẩn không biết chiếc vòng ngọc lựu ấy là thế nào mà Động chúa ngắm nghía chưa lâu đã tỏ ra ngạc nhiên đến như vậy! Lê Đường Hào kín đáo đưa mắt nhìn hai người đàn ông, cả hai vẫn chỉ lặng lẽ kính cẩn cúi đầu.

Động chúa cất giọng thật ấm mà rằng:

- Chiếc vòng ngọc lựu này có chạm nổi hình con phượng ngậm cành mai, thì có phải nàng là Quận chúa “Phượng Mai” ở Cổ Loa đấy không?

Cô gái kính cẩn:

- Bẩm, chính là tiện nữ!

Động chúa im lặng một thoáng, rồi bảo:

- Ta thường nghe nói ở Cổ Loa có quận chúa Phượng Mai từ bỏ cành vàng lá ngọc muốn theo gót hai bà họ Trưng thời xưa, té ra bây giờ lại gặp Quận chúa ở đây! Quận chúa muốn xuống Hoa Lư tìm ta có việc gì?

Quận chúa Phượng Mai nhẹ thở ra, rồi ngẩng đầu đáp:

- Bẩm Động chúa, từ lúc triều đình đổ nát, đến lúc hoàng thúc Nam Tấn Vương thọ nạn qua đời, thiếp vẫn biết vận số nhà Ngô đã hết. Lòng muốn đi tìm bậc anh hùng trong thiên hạ mà giúp rập, mãi đến nay mới gặp được ngài!

Giọng Quận chúa Phượng Mai thật thánh thót, êm vô cùng, sức quyến rũ mạnh vô kể. Trong cái giọng thành thật ấy lại như hàm chứa vẻ nũng nịu trách móc kẻ anh hùng vô tình!

Động chúa trong một thoáng bâng khuâng, rồi tươi cười đáp:

- Anh hùng trong thiên hạ thiếu gì! Biết bao nhiêu Sứ quân tài đức vượt đời, mỗi người hùng cứ một nơi, sao Quận chúa chẳng đến mà giúp đỡ?!

Quận chúa Phượng Mai nở nụ cười như muốn chiêu hồn Động chúa mà rằng:

- Bẩm, nếu bảo rằng các Sứ quân ấy là anh hùng tài đức vượt đời, sao Động chúa còn phải vất vả đem binh đi xa nghìn dặm mà dẹp họ là thế nào? Anh hùng trong thiên hạ đời nay, thiếp thấy chỉ một mình Động chúa mới xứng đáng nhận cái danh ấy!

Động chúa vui vẻ lắm, ngài ngửa cổ cười vang. Chu Trạch Phương cũng chợt thấy trong lòng thoải mái. Phương đăm đăm nhìn Quận chúa như chỉ sợ đây là giấc mộng dễ tan mất! Hai người đàn ông từ đầu đến giờ vẫn đứng im như hai cây cột, bây giờ mới thấy nhúc nhích đôi chút. Quận chúa Phượng Mai đợi Động chúa dứt chuỗi cười sảng khoái, lại vui vẻ mà rằng:

- Bẩm Động chúa, thiếp xin được trình lên Động chúa hai tùy tướng hộ vệ!

Rồi Quận chúa hướng về hai người đàn ông, nói tiếp:

- Một người là tướng cũ của triều đình, tên gọi Chu Kim Nhật!

Người đàn ông có gương mặt thanh tú, tuổi trên dưới bốn mươi vội kính cẩn thưa:

- Mạt tướng bái kiến Động chúa!

Quận chúa tiếp luôn:

- Bẩm, còn người kia vốn là gia tướng, tên gọi là Triệu Chính Đức!

Người đàn ông vội kính cẩn:

- Gia nhân kính bái Động chúa!

Động chúa cười thật vui nhìn họ Triệu, ông ta tuổi cao hơn tướng họ Chu nhiều, nước da sạm nắng gió phong trần, cặp lông mày thật đậm dè trên đôi mắt mở to nhưng thật kín đáo.

Động chúa bảo:

- Quận chúa hãy ngồi! Nàng tìm ta chỉ để nói như vậy thôi sao?

Trong ánh sáng rực rỡ của tướng doanh, tướng Chu Trạch Phương thấy hai má Quận chúa đỏ bừng. Cặp mắt Quận chúa chớp chớp thật nhanh, rồi nàng đáp:

- Bẩm, việc lớn của Động chúa còn dài, thì việc thiếp sắp trình Động chúa cũng còn dài lắm. Xin được lần lượt nói sau…

Thế là, Quận chúa Phượng Mai từ đấy ở trong doanh Động chúa, theo bên cạnh Động chúa không rời nửa bước. Trên bước đường chinh phục các Sứ quân, Động chúa từ buổi gặp Quận chúa Phượng Mai thì ra vẻ tương đắc lắm. Tai nghe biết bao nhiêu việc thăng trầm của Cổ Loa, đến việc Quận chúa bảo “Dòng dõi Ngô Vương tuy chưa hết, nhưng nếu cứ dựa vào đây để tôn phù những kẻ bất tài thiếu đức lên ngôi chủ tể ắt cả Giao Châu khó thoát lầm than…” Nào là: “Nàng sẽ giúp Động chúa thu phục các tướng cũ văn võ của triều đình”, nào là “nàng tuy là gái nhưng thích việc của bậc anh hùng nên thường đọc sách suy nghĩ, nay xin được đem phận gái giúp đỡ Động chúa.” Rồi sắc đẹp của Quận chúa một đằng làm cho Động chúa mê mẩn, một đằng kiến thức của nàng lại tuyệt vời rộng rãi hiểu mọi việc kim cổ Bắc Nam. Bàn luận thật xác đáng về lẽ tiến lui, thậm chí đến việc đối phó với Bắc phương nàng cũng tỏ ra sâu sắc. Vì thế được Động chúa yêu quý vô cùng!

Ngay trong đêm hạnh ngộ, Động chúa đã không rời Quận chúa. Sau ngài lại đặc biệt đãi hai tướng của nàng thật rộng rãi. Cho Triệu Chính Đức được theo hầu nghe lệnh nàng sai bảo. Lại cho Chu Kim Nhật được cầm gươm đứng chung hàng với các tướng cùng lo việc binh đao!

Đôi trai anh hùng gái thuyền quyên ngay từ buổi đầu tình đã mặn, nghĩa xem ra đã gắn bó lắm! Việc quân doanh không vì cuộc tình ấy mà trễ nải. Cho nên nhớ lời Quân sư trước khi lên đường lên Tế Giang dặn: “Trọng bình cứ chậm chậm hai hay ba ngày sau hãy lên đường”. Động chúa dừng quân trước là để cho đúng hẹn khớp với mọi xếp đặt. Sau nữa là để hưởng những hoan lạc với người đẹp. Nhưng Động chúa quên mất rằng: dù Quân sư đi vắng, tế tác của tướng Mạc Sa Cảnh trước đã được lệnh: hàng ngày phải đưa tin các mặt của đại doanh tới Quân sư không được chậm trễ.

Lệnh trao cho tế tác, nhờ vậy mà không một việc nào dù lớn nhỏ ở đại doanh trọng binh Quân sư lại chẳng biết. Ngay đến việc trong chiều Động chúa dạo thuyền gặp ba người lạ, đang trên đường cùng với tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh lên Tế Giang, Quân sư cũng được tế tác trình cho biết ngay.

Được tin, Quân sư bảo Mạc Sa Cảnh:

- Tế tác của ông chẳng ở đâu lại không có, suốt từ Ngọc Đồng, Bằng Nho lên đến Chu Diên, còn có thuyền nào lại chẳng bị tế tác của ông hay biết! Tình hình thủy trại của ba sứ phía Bắc Hoa Lư ta lúc nào mà chẳng có tai mắt dòm ngó, thế mà ngay trong chiều ta rời doanh lên Tế Giang. Động chúa lại một mình đưa thuyền lên đến tận Gia Lâm mà chẳng hề bị Tế Giang làm khó dễ, có phải là có điều ta phải nghi ngờ không?

Tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh đáp:

- Bẩm, đúng thế! Suốt một dải sông dài, nếu ta không chặn hỏi thì ắt phải có thuyền tuần tế tác của Tế Giang hay Đỗ Động ra tay chặn hỏi ngay. Thế mà Động chúa đi được bình yên, lại gặp khách lạ. Tôi nghi hoặc lắm cho nên đã lệnh cho tế tác là trong đêm hôm nay phải trình rõ về những người khách lạ ấy.

- Tế Giang im lặng, thế còn Đỗ Động thì sao?

- Bẩm, có thể doanh đường Đỗ Động ở hơi xa về phía Tây, vả lại Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc không muốn hoặc không dám cho thuyền tuần đi quá nhiều về phía Đông. E đụng chạm với Lữ Đường, vì thế mà thuyền của Động chúa cũng không gặp thuyền tuần Đỗ Động!

- Phải, ta có thể nghĩ như vậy về phía Đỗ Động được. Nhưng còn Tế Giang thì nhất định ta phải nghi ngờ!

- Thưa, Quân sư thấy ta phải nghi ngờ như thế nào?

- Ông hẳn chưa quên việc ta được tin bọn tiền phương, biệt động Hỏa Thần giáo từ phương Bắc xuống Giao Châu ta theo lệnh của Tống đế. Như thế thì việc thuyền của Động chúa lên Bắc thế nào Tế Giang cũng biết, nhưng làm ngơ. Tại sao họ lại làm ngơ? Tế Giang với Hỏa Thần giáo đang âm mưu gì?

Động chúa gặp ba người khách hai nam một nữ, ta e rằng đây là người của Hỏa Thần giáo. Động chúa có thể đang làm công việc “Nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà” rồi!

Mạc Sa Cảnh băn khoăn, rồi hỏi:

- Thưa Quân sư, nếu đúng như thế thì Hỏa Thần giáo có thể sẽ hành động như thế nào, hành động những gì?

- Ngay lúc này ta chưa được biết gì thêm, nhưng chính ông sẽ cho biết tất cả. Còn Hỏa Thần giáo sẽ hành động những gì, hành động như thế nào, ta có thể luận ra được là: Bọn dị giáo ấy đi tiên phong, có thể trương cao cờ tôn giáo, nhưng đằng sau tôn giáo ấy lại là những hiểm mưu để biết rõ tim gan ta, khéo léo làm lệch đường đi của ta. Vì thế mọi kế sách của ta đều bị Bắc phương biết hết!

- Quân sư nghĩ có thể nào họ chỉ ba người mà có thể làm sai lệch hẳn kế sách lớn của ta được chăng?

- Ba người có trường hợp là ít, mà cũng có khi là nhiều. Một người cũng đủ làm nghiêng ngả cả giang sơn, làm tàn vong một triều đại cũng được, nữa là Hoa Lư ta chỉ mới bước chân vào thiên hạ, đã làm gì có được cái thế lớn của một triều đình! Ông quên việc người xưa chỉ một nụ cười, một khóe mắt mà mỹ nhân Đát Kỷ đủ hủy diệt nhà Trụ; Một Bao Tự đủ đẩy Kiệt vương xuống địa ngục; Một Tây Thi đủ để làm cho sự nghiệp của Ngô vương Phù Sai tan ra mây khói rồi sao?

Đến đây thì Mạc Sa Cảnh đã hiểu việc, nhưng ông nói:

- Thưa Quân sư, đúng thế. Nhưng ba người gặp Động chúa trên sông ta chưa biết, thì có thể nào ta đã đoán quyết được một việc gì chăng?

Quân sư mỉm cười, bảo:

- Đúng, ông nói đúng lắm, không bao giờ nên quyết đoán về một việc gì mà lại chẳng hiểu rõ hết ngọn ngành của nó. Tuy thế, trong việc trên sông vừa rồi, cứ xem tình hình im lặng của Tế Giang, tế tác của ta đi lại kín đáo mà dày đặc khắp nơi. Tại sao không ngăn được hay không biết được tung tích của ba người ấy ngay? Ta phải nghĩ: bọn ấy có xếp đặt trước, nếu xuất phát từ Tế Giang thì nhất định phải có Sứ quân Lữ Đường giúp sức. Vả lại ta đã được tin như thế nào về Hỏa Thần giáo với Tế Giang. Do đó ta có thể tạm nói chắc được rằng: Hỏa Thần giáo đã ra mặt, và bước đầu họ thắng ta ở chỗ đã tới được với Động chúa, ta không cản được họ ngay từ đầu!

Mạc Sa Cảnh cảm thấy ông có lỗi trong việc này, nên im lặng. Quân sư tiếp:

- Họ che được mắt ta, đến được với Động chúa, chẳng phải là tế tác của ta không lanh lợi, mà chính là ở bản lĩnh của họ đáng để ta coi trọng. Cũng từ bản lĩnh ấy, tôi tin rằng họ không manh động, không nhân cơ hội kề cận Động chúa để ra tay ám hại Động chúa ngay. Mà họ còn muốn dàn xếp để cho Bắc phương một khi đã đề binh Nam chinh là phải thành công ngay. Do đó an nguy của Động chúa, của Hoa Lư và của cả Giao Châu ta, trong lúc này tạm còn ổn định. Chưa thành sự thể để ta phải ra tay ngay. Vậy từ đây ông hãy hết sức thu thập tin tức, đừng nghĩ rằng một hành động hay một câu nói nào của đám người ấy là không đáng quan tâm. Thu thập tin bọn người bên cạnh Động chúa là một phần quan trọng, thu thập tin về Hỏa Thần giáo với Tế Giang còn là một phần quan trọng hơn nữa đấy!

Mạc Sa Cảnh chăm chú nghe Quân sư luận giảng, thỉnh thoảng lại thốt lên: “Xin vâng!” để đáp lời Lê Thảo.

Hai người gấp tiếp tục đường đi, đêm tối đầu năm trời trong nhưng không sáng. Tế tác đi lại chằng chịt khắp nơi dò đường giữ bình an cho Quân sư luôn luôn trình việc. Lúc Quân sư vượt Chu Diên sắp vào lãnh thổ Tế Giang của Lữ Đường, chợt có tế tác đường bộ gấp đến tin trình việc. Quân sư cho tế tác đến gặp ngài ngay.

Chưa biết lại có tin gì, xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—