← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Chín Mươi Ba Kế Quân sư: Động chúa lên Bắc
Gặp nguy cơ: tìm thế liên minh

Tế tác trình:

- Trình Quân sư, chúng tôi, tế tác đường bộ phía Tây, được lệnh gấp trình về Quân sư hay: Hỏa Thần giáo ở Tế Giang đã ngồi ghế Quân sư cho Sứ quân Lữ Đường để mưu đồ cướp Cổ Loa...

Quân sư hỏi:

- Các ngươi có được tin gì của tướng quân Lê Hoàn không?

- Bẩm, chúng tôi đi lại mặt phía Tây, giữ đường sông, thành ra không được rõ về quân đường bộ của ta.

Quân sư chưa kịp nói gì thêm, đã lại có tế tác mang hiệu trắng đỏ tìm đến. Tướng Mạc Sa Cảnh nhìn màu hiệu của tế tác ấy thì hiểu ngay, ông hỏi:

- Có tin gì?

- Tình tướng quân, binh của tiên phong Lê Hoàn đã vào lãnh thổ Tế Giang. Lúc này đang xảy ra giao chiến ở vùng sông Kim Ngưu, chưa có tin binh tiến thế nào.

Mạc Sa Cảnh cho tế tác lui, ông quay sang Quân sư:

- Thưa Quân sư, binh của ông Lê Hoàn tiến nhanh quá, như thế phép dùng binh có gì bất thường không?

Quân sư từ lúc nghe tế tác trình thì cố vẻ suy nghĩ lắm. Khi nghe Mạc Sa Cảnh hỏi thì đáp:

- Binh tiến thần tốc, giữ im lặng đến độ vào sâu lãnh thổ địch mà địch vẫn không hay biết, như thế tướng cầm quân là người giỏi. Đi đường ra tới, binh công thành không nghỉ ngơi lấy sức mà đã mở trận ngay, thì một là tướng cầm quân sơ hở, hai là tướng ấy đã lượng được sức quân rồi mới hành động. Lê Hoàn là người cẩn thận, đa nghi, tất ông ấy không thể sơ hở được. Ông là tướng coi về tế tác, nên để ý đến những chỗ ấy để tin đi về được thật đúng với tình thế. Giúp cho người nhận tin không bị sai nhầm lúc ước lượng tình tình. Nay, đã xảy ra giao chiến tất thế nào ông ấy cũng tính trước cả rồi, nhưng chắc là ông ấy không biết hiện giờ Tế Giang lại có thêm bọn Hỏa Thần giáo giúp đỡ. Thành ra vấn đề có thể xảy ra rắc rối!

Mạc Sa Cảnh lo âu:

- Thưa, Quân sư thấy có thể có rắc rối ở chỗ nào?

- Hỏa Thần giáo không thể đem bất cứ thứ binh tướng nào ở ngoài vào trong nước ta được, tất nó chỉ cử bọn người cầm đầu đi mà thôi. Ngoài ba người xuống Nam đã được Động chúa đón nhận. Không biết ở Tế Giang còn có những kẻ như thế nào?

- Quân sư ước lượng hai bọn người ấy như thế nào?

- Ở mặt Nam đi gặp Động chúa, ta thấy có hai đàn ông, một thiếu nữ thật xinh đẹp. Như thế là nó muốn dùng mỹ nhân kế, kèm theo thế nào cũng phải là hai tay cự phách cả về văn lẫn võ. Chúng sẽ tùy cơ hội, tùy công việc mà hành động. Ở Tế Giang, mưu đồ của chúng nhất định phải là lớn lao hơn mặt Nam nhiều. Thế nào chúng cũng hết sức phù trì cho Lữ Đường để cướp Cổ Loa. Tạo ra hỗn loạn ở Giao Châu, giúp cho Bắc phương có cớ có đường để đưa quân xuống nước ta. Mặt Nam triệt hạ hay cầm chân Hoa Lư chắc phải là kế sách thứ yếu của nó, chủ yếu là ở Tế Giang!

- Thưa, Quân sư ước lượng ta có thể đối phó với nó như thế nào được?

- Lúc này ta chưa đủ hết tin tức, cần đợi chờ thêm chút nữa. Tuy nhiên, ngay trong lúc này ta cũng có thể có chủ trương. Nếu như đúng Hỏa Thần giáo đã xuống Nam dùng kế mỹ nhân để ngăn cản Hoa Lư ta. Thì ta sẽ lại lật ngược kế của nó để hại nó xem sao!

Mạc Sa Cảnh thấy hào hứng, hỏi:

- Quân sư định dạng kế của nó để lật ngược như thế nào?

- Nếu nó chủ tâm ngăn cản hay ám hại Động chúa, tức là mở đường để phá tan Hoa Lư ta. Giúp cho bọn ở Tế Giang thảnh thơi diệt các Sứ quân khác, đưa quân ngoài vào. Thì ta sẽ nhân đấy chuyển hướng, cầm giữ không cho bọn chúng thoát thân. Động chúa sẽ bất thần sang Tế Giang chứ không phải là tới Siêu Loại nữa!

Mạc Sa Cảnh tươi vẻ mặt, hăm hở:

- Hay lắm! Như thế là ta rõ ngay âm mưu của ba kẻ ấy!

Quân sư nghiêm giọng:

- Như vậy, ông phải hết sức dò la bọn xuống Nam. Chúng là những ai, là người thế nào. Lại cố để biết rõ từng hành động một của chúng. Dù là những hành động của kế mỹ nhân trong chốn riêng tư mê hoặc Động chúa, ông cũng phải làm sao không để lọt một việc gì mới được!

Mạc Sa Cảnh xin vâng lệnh. Quân sư nói tiếp:

- Dù là lúc này ta chưa biết, nhưng cũng phải sửa soạn trước để khi hành động là ta đã có đủ hiểu biết về tất cả mọi mặt rồi. Vậy ông nhắc tế tác ở khắp nơi phải hết sức hoạt động. Không chú trọng hơn vào một mặt nào, mà phải dốc lực vào tất cả. Siêu Loại hay Tế Giang, Nguyễn Bặc hay Lê Hoàn, Động chúa hay Đinh Liễn bên kia sông. Mặt nào cũng phải làm hết sức mình không được bê trễ. Ông có cần tôi giúp gì thêm không?

- Bẩm, tế tác của ta lúc này rất đông, tôi thấy ta đủ sức để xem xét các mặt, kể cả ở Cổ Loa. Nếu thiếu thì thiếu sự nhận xét phán đoán sự việc rồi phát lệnh ứng phó mà thôi. Vậy khi nào cần cho một công việc gì, thì tôi xin được Quân sư chỉ dạy!

Quân sư bảo:

- Tế tác vừa có tin: binh của ông Lê Hoàn đã giao chiến ở vùng sông Kim Ngưu. Vậy trước hết ta hãy tới đấy xem sao?

Hai người tiếp tục gấp theo tế tác đi vào giang sơn Tế Giang của Sứ quân Lữ Đường. Dọc đường đi, tế tác đến trình tin liên miên. Nhiều tin làm cho cả Quân sư lẫn tướng Mạc Sa Cảnh phải lo âu, nhưng cũng lại có nhiều tin làm cho hai người mỉm cười yên lòng.

Đến gần sáng, lúc trời còn tối. Hai người theo tế tác dẫn đường đã gặp được tướng Lê Hoàn.

Thấy Quân sư, Lê Hoàn ngạc nhiên quá, liền hỏi:

- Thưa, Quân sư cùng Động chúa đi Siêu Loại. Sao bây giờ lại bất thần tới đây thế này?

- Ông thấy việc tôi đến đây là thế nào?

- Thưa, nhất định là phải có gì lạ lùng lắm, mới khiến Quân sư phải thay đổi đường đi như thế!

- Ông thấy có gì lạ lùng?

- Thưa, cho đến lúc này binh tôi vượt đường vào Tế Giang, giao chiến với binh tướng của Lữ Đường một trận chẳng quan trọng gì. Chắc lúc này Tế Giang đã được tin, chỉ ngày mai là thế nào cũng có chiến lớn. Chỉ có vậy chứ không có gì lạ lùng cả!

Tế tác không báo tin về Hỏa Thần giáo cho Lê Hoàn biết. Cho nên Lê Hoàn mới ngạc nhiên khi thấy Quân sư bất thần ở đây.

Quân sư hội các tướng lại, rồi nói:

- Mới đây, Hỏa Thần giáo cho người xuống Giao Châu, hành động mở đường cho đại quân của Triệu Khuông Dẫn vào nước ta mai sau. Bắc phương chọn Lữ Đường ở Tế Giang này làm nơi nương náu, lại cho người vào Hoa Lư dùng kế mỹ nhân để kìm hãm Động chúa. Vì thế tôi phải lên Tế Giang xem xét tình hình…

Lê Hoàn hỏi:

- Như thế, Quân sư có điều gì chỉ dạy cho chúng tôi ở đây không?

- Trước hết, việc các ông tiến binh lấy nhanh để thắng, thế là hay. Nhưng dù nhanh đến đâu cũng không chỉ một trận mà xong được việc. Bởi thế chắc chắn Lữ Đường đã được tin về chiến trận. Lại thêm, thế nào bên cạnh Lữ Đường còn có bọn Hỏa Thần giáo giúp đỡ, xúi bậy. Công việc của ta có thể gặp nhiều khó khăn đấy!

Đinh Điền bàn:

- Binh ta xuất chiến, gặp ngay phải những khó khăn, không thể biết trước được. Cho nên tôi nghĩ bây giờ ta dốc hết lực cố đánh cho xong Tế Giang càng nhanh càng hay. Cố làm cho bạn dị giáo không kịp trở tay là hay hơn cả!

Hồ Tường Thụy tiếp lời Đinh Điền:

- Kế ấy của ông Đinh Điền là hay hơn cả thật! Tôi nghĩ binh ta đông, ta gấp rút trong vòng vài ba ngày dứt cho xong Tế Giang là hay nhất!

Quân sư mỉm cười, hỏi:

- Các ông ở đây có sáu ông, ông nào cũng là hổ tướng cả. Bình thường mà nói thì các ông quả thật dễ dàng xong việc. Nhưng các ông lại phải nhớ rằng: Tế Giang có chủ là Lữ Đường, một hảo hán quen việc sông hồ. Dưới trướng lại có mấy chục hổ tướng quen việc chém giết, sức mạnh hung ác. Lại có thêm tà thuật của tay đại pháp sư ngồi ghế Quân sư, giỏi giết người bằng pháp thuật yêu ma. Bây giờ giả sử lại có thêm bọn Hỏa Thần giáo, đến giúp đỡ nữa. Ắt hẳn Tế Giang đáng là nơi ta phải nể mặt, không thể hấp tấp được!

Các tướng im lặng, Quân sư tiếp:

- Nói như thế là để biết cách phá địch, chứ không phải là để bó tay ngồi xem địch hành động! Tế Giang đường thông lên Cổ Loa, tại sao Lữ Đường không dám bước thẳng tới. Ấy là vì y còn phải sợ Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du, Bình Kiều ở phía Nam tức là ta ngày nay. Vả lại nếu lấy Cổ Loa liệu sức Lữ Đường có đủ để đương cự với binh tướng triều đình không? Bởi vậy, Lữ Đường không dám tiến tới, vì thế mới có việc bọn Hỏa Thần giáo chọn Lữ Đường để giúp đỡ. Lữ Đường dù gan to bằng trời cũng không dám tự thân một mình nhòm ngó Cổ Loa. Tôi cho là Hỏa Thần giáo cũng như Lữ Đường không biết tình hình thật ở Cổ Loa. Thế nào Hỏa Thần giáo cũng tính đường xa lâu dài, chứ không hiểu để gấp trong đôi ba ngày là gây được náo động cho Giao Châu ta! Nhờ thế, ta kịp để phá Tế Giang, tru diệt bọn Hỏa Thần giáo. Vừa không cho một dị giáo tràn vào nước ta làm khổ đầu óc trăm dân. Vừa phá được thế tung hoành của Triệu Khuông Dẫn mai sau, giữ yên được cơ đồ đấy!

Các tướng nhẹ nhẹ thở ra, việc đời quả thật chẳng đơn giản dễ dàng như việc tướng giỏi xua quân đông, đánh chiếm một tòa thành nhỏ!

Quân sư tiếp:

- Lúc này, ta chưa biết chiến kế của Hỏa Thần giáo, tất cả trông mong vào ông Mạc Sa Cảnh. Làm sao để càng biết được nhiều, được rõ mưu định của họ với Lữ Đường, là ta hành động được tốt đẹp. Còn lúc này, trong khi chờ đợi để biết được hết, ông Lê Hoàn cứ tiến binh, binh nên chia ra làm hai đạo: Một gấp đi đường đến sông Nghĩa Trụ khúc chỗ Tây Bắc phủ đường Tế Giang; Một theo đường đến sông Kim Ngưu quãng Đông Nam Tế Giang. Quân hành lên mạn Bắc phải men theo đường sông vào địa phận Gia Lâm, mặt Nam chậm lại một chút để hai mặt kịp mở trận cùng một lúc. Không cho Tế Giang kịp chống đỡ.

Lê Hoàn hỏi:

- Thưa Quân sư, thế trận “vòng tay lớn ôm cả Bắc Nam” ấy. Binh hai mặt của ta nên vào trận như thế nào?

Quân sư nghiêm trang, đáp:

- Phải, tướng quân hỏi điều này là đúng lắm! Lẽ ra, nếu tôi không tới đây, tướng quân là người chỉ xử mọi việc thì hẳn là quyết định lấy thế trận. Nay vì có ý của tôi nên tướng quân nhất thời chưa kịp nhận thấy thế trận, hỏi như vậy là rất phải! Vậy, quân hành lên mạn Bắc chắc chắn là khó khăn hơn ở mặt Nam nhiều lắm. Đường đi xa lại khó che kín được hình tích, thành ra mặt ấy khó che đậy. Nhưng có điều may, là quân thủy của ông Nghi Bá Tường đã lên cao, tướng Lưu Cơ ở Cổ Loa đã xuống gặp Tường. Ta nhân đấy có thể dùng được mẹo “gõ chuông cho tiếng vang đi xa”. Ông Cảnh hãy cho người phao tin thật nhiều là Cổ Loa xuống Nam vào Bình Kiều, sắp cho người đi cầu thân với Hoa Lư làm thế “phên giậu”. Vì thế, tướng cũ Bình Kiều không theo về với Hoa Lư đã đưa quân lên chống đỡ cố cản không cho Cổ Loa tràn xuống. Như thế Lữ Đường vừa e sợ binh triều, vừa mừng là có binh Bình Kiều giúp đỡ mặt này. Có thể Tế Giang tạm thời giảm được mối lo, nhờ thế binh ta vào được đúng nơi mong muốn...

Quân sư ngừng lại, các tướng bồn chồn có ý muốn được nghe tiếp ngay, nên không ông nào lên tiếng hỏi gì cả. Quân sư tiếp:

- Còn mặt Nam, ta không kín đáo nữa mà rầm rộ sửa soạn, dốc lực thật mạnh đánh chiếm ngay vài nơi. Ông Cảnh lại cho người phao tin: đích thân Động chúa Hoa Lư cầm quân phá Tế Giang để tiến đến Cổ Loa.

Đến đây thì Lê Hoàn hỏi:

- Thưa Quân sư, ta hãy nói đến mặt Bắc trước đã. Binh ta lên cao như thế, sẽ phải đánh chiếm lấy gấp hay chặn giữ những nơi nào?

- Mặt Bắc ta đến phía sông Nghĩa Trụ, là muốn nương vào thế quanh co của con sông này mà lại sát phủ đường Tế Giang. Con sông này, ở cách phía Nam huyện Gia Lâm khoảng hơn hai chục dặm. Một dòng do nước đồng ruộng các xã Lê Xá, Phú Thị hội nhập với nhau chảy quanh sang phía Đông Nam vào lãnh thổ huyện Siêu Loại. Dòng chảy này dài khoảng gần ba chục dặm vào xã Xuân Lâm thuộc huyện Tế Giang, sông Nghĩa Trụ. Còn ngoằn ngoèo đi nữa, nhưng binh ta chỉ dùng đến các nơi ấy mà thôi. Ở cả ba xã này, Lữ Đường có các nơi trấn quân phòng giữ mặt Bắc. Rặng núi Lạn Kha ở phía Đông Bắc hơi xa nên không có lợi nhiều cho Lữ Đường ở Tế Giang. Binh ta qua ngả này, đường xa nhưng cũng có chỗ lợi là Lữ Đường nhờ vào rừng rậm chen với ruộng đồng. Cho nên vừa có lương thực lại vừa có chỗ ẩn nấp trông coi binh ngoài kéo xuống. Lấy được các nơi ở mặt Bắc Tế Giang nơi dòng Nghĩa Trụ, ấy là ta đã có thể đẩy được Lữ Đường ra khỏi Tế Giang rồi. Ở mặt Nam, đường sống Kim Ngưu có lợi đường gần, nhưng là trọng địa của Tế Giang lập các nơi trấn giữ phía Nam. Đỡ mặt Bình Kiều tiến lên. Phía Đông tranh giành đất đai với Lý Khuê ở tận Siêu Loại. Phía Tây lập thủy trại để phòng giữ Cảnh Thạc ở bên kia sông. Nay, quân thủy của ông Tường bất ngờ kéo lên Bắc đón tướng Lưu Cơ rồi dồn xuống Nam. Thế là nhất thời tranh mất lợi thế của Tế Giang ở mặt này, nhưng vì ông Tường không hành động gì tỏ ra xâm phạm đến Tế Giang, thì Lữ Đường tạm yên lòng. Chỉ còn mặt chống giữ binh ta từ Nam đánh thúc lên mà thôi.

Đến lượt Trịnh Tú hỏi:

- Thưa Quân sư, mặt Bắc với sông Nghĩa Trụ thì như vậy rồi, còn mặt Nam với dòng sông Kim Ngưu thì thế nào? Quân sư có biết tại sao sông này lại gọi là “sông Con Trâu Vàng” như thế không?

Quân sư mỉm cười, đáp:

- Sông này không lớn, chảy cách phía Đông Nam huyện Văn Giang chừng năm dặm. Đầu nguồn là từ sông Nhị Hà chảy vào một nơi ngoài cửa đê Công Luận qua các xã Kim Ngưu, Đa Ngưu. Dòng nước chảy quanh trong huyện hạt dài đến gần ba mươi dặm đến các nơi như Khổ Nhu, Bình Dân, Yên Cảnh, Yên Lịch, Đại Quan. Cuối dòng sông lại ăn thông với Xích Đằng [→6] . Dòng chảy thật quanh co làm cho thế đất trở thành yếu hiểm. Hồi từ Cổ Loa xuống Nam khi đi qua vùng này. Thấy địa thế vừa đẹp vừa tuyệt vời, tôi có dừng lại ở đây ít ngày. Thấy được nhiều điều hay về cách dựng thành lập doanh trấn giữ các Sứ quân Lữ Đường. Còn về tên sông là Kim Ngưu, thì theo lời dân gian nói là vì ngày trước ở Tế Giang có con trâu vàng (Kim Ngưu). Vào ngày thiêng của đất trời, mạch đất chuyển vần, vượng khí tìm đến nơi thích hợp mà tích tụ lại thành linh mạch. Cho nên con trâu thần bằng vàng từ mạch châu Vũ Ninh chạy sang. Cao Biền thời xưa lúc đi khảo sát địa thế phong thủy xứ ta biết việc con trâu vàng này, mới sai người đào đất để truy tìm con trâu. Cao Biền muốn triệt hạ linh mạch của người nước Nam nhưng không tìm được con trâu vàng ấy. Chỗ đào sâu rộng thành một lũng ao, nay vẫn còn dấu tích.

Trịnh Tú lại nói:

- Như thế, Lữ Đường chiếm giữ Tế Giang là trấn trên linh mạch của đất nước. Sao ngày nay lại mơ màng tin theo ngoại nhân để toan tính hại nước như thế!

Quân sư bảo:

- Việc trâu vàng có thật hay không hãy để sang một bên, ta xét đến kế sách phá Lữ Đường đã. Chẳng riêng một mình Lữ Đường mà tất cả đám Sứ quân cát cứ mỗi người một vùng lớn nhỏ khác nhau. Nhưng chí của họ đều như nhau cả, tất cả đều ở trên vùng đất linh thiêng miền Nam này nhưng lại mơ màng tăm tối vọng ngoại. Đời nào cũng có những kẻ muốn rước ngoại nhân vào hại nước. Các ông phải thấy rõ như thế mới vững được hàng chí vệ quốc an dân được!

Các tướng im lặng lắng nghe những lời dặn dò của Quân sư. Những lời dặn dò mà đời nào cũng cần nhắc để trăm họ cùng nhớ.

Quân sư tiếp:

- Phá Lữ Đường, như đã nói từ đầu, ta chia binh hai mặt Bắc Nam tiến đánh. Mặt Bắc đường xa phải hành động trước, cố gắng chỉ trong hai ngày vào được trọng địa. Mặt Nam tạm dừng quân, thời gian này là lúc ta gấp thỉnh mời Động chúa hãy kín đáo rời trọng binh Đông phạt tới ngay Tế Giang. Sau đấy thì cho Tế Giang biết: đích thân Động chúa cầm quân phá Tế Giang. Làm như thế, ta được nhiều lợi, uy danh Động chúa dễ làm địch kinh hoàng, tinh thần dễ tan rã. Việc quân hành của ta nhờ đó giảm bớt được đôi phần khó khăn. Mặt khác, ta làm cho đường đi của bọn Hỏa Thần giáo chỉ mới vào giang sơn ta là đã bị tàn vong không kịp gieo rắc mầm mống độc hại vào đầu óc dân tộc ta. Lợi nữa là nếu như bọn ba người hiện đang ở bên Động chúa, nếu quả thật là người của Hỏa Thần giáo thì lúc ấy sẽ bị lỡ bước bơ vơ, ta dễ triệt hạ!

Các tướng lắng hết tinh thần vào nghe những lời nói xếp đặt của Quân sư. Ông nào cũng thấy ghê ghê trong lòng trước nhân vật văn sĩ nho nhã này. Quả thật chí của Quân sư là chí nghìn đời của cả dân tộc đúc thành, hùng vĩ mà quyết liệt!

Rồi Quân sư bảo:

- Ở đây lúc này có sáu ông, thì ông Lê Hoàn, ông Trịnh Tú, ông Đỗ Tuấn Kiệt cầm mười bốn nghìn quân lên Bắc. Các ông Đinh Điền, Chu Kỷ Toàn, với ông Hồ Tường Thụy ở lại mặt Nam. Mặt Bắc, ba ông gấp đem quân đi ngay. Men theo bờ sông lớn lên đến ngã ba Xích Đằng, hết sức tránh những nơi dân cư, cố giữ im lặng. Nhớ kỹ là: trước tiên vào xã Lê Xá, rồi đến Phú Thị, theo dòng Nghĩa Trụ tràn xuống Xuân Lâm. Vượt được Xuân Lâm là đánh vào mặt Bọc phủ đường Tế giang của Lữ Đường rồi! Nếu các ông thành công thì khoảng xế trưa ngày kia, cùng lắm là chiều tối, đại binh miền Nam đã tới nơi rồi. Lúc ấy dù các ông chưa dứt được trận chiến thì hai mặt đánh ép Lữ Đường vào giữa. Thế nào cũng xong việc Tế Giang trong đêm hôm ấy!

Ba tướng nghe Quân sư chỉ dạy, thấy hào khí dâng cao, tướng Hồ Tường Thụy nói:

- Thưa Quân sư, Tế Giang có tên pháp sư yêu quái, y nhiều phép ma. Lúc vào trận nếu tôi gặp y xin được vì thiên hạ, vì anh em, tôi dùng đến cung tên bắn chết y ngay có được không?

- Tại sao lại không? Thế nào mới là được?

- Thưa, ngày trước mấy tướng của Đỗ Động mạng vong vì tay pháp sư yêu ma ấy chỉ vì muốn tránh cái tiếng “đánh lén”. Nay nếu đương trường gặp thế gấp rút thì tên bắn từ xa có lợi nhưng không báo trước cho địch biết được. Thành ra như thế có thể nào mang tiếng là “đánh lén” được không?

- Vào trận, cốt sao giết được tướng giặc, giữ được phong độ quân tử trong cuộc giao tranh là tốt. Còn không thì phép chiến trận vẫn cho phép người làm tướng làm đủ mọi cách để đạt được mục đích của mình! Ông cứ ra tay, vả lại, một tầm tên ông phát đi, cho dù ở nơi xa thì lời báo trước tôi chắc cũng không làm cho đường tên của ông sai lạc được! Ông cứ báo trước cho yêu nghiệt ấy hay, rồi tận lực ra tay là xong. Như thế cái danh “thần tiễn” của ông vẫn chói lòa chẳng vì máu nhơ bẩn của tên pháp sư yêu ma ấy làm hoen ố!

Hồ Tường Thụy hân hoan, đến lượt Trịnh Tú lên tiếng:

- Thưa Quân sư, ông Lê Hoàn cầm quân tất bận rộn, tôi cứ nghĩ là mình sẽ gặp Lữ Đường. Vậy ta hàng phục y hay là giết chết y?

- Lữ Đường là tay giang hồ xuất thân, biết võ nghệ. Chí là chí của kẻ đại đạo cường sơn. Nhân buổi loạn ly triều đình suy yếu thì nổi lên chiếm giữ một nơi. Trên chẳng sợ vua, dưới chẳng màng đến nỗi khổ của trăm dân. Thu thập nuôi dưỡng thủ hạ làm nhiều điều bạo thiên nghịch địa, nay có phải chết cũng là điều phải. Tuy thế, con sói con beo nếu đã biết cúi đầu quỳ gối xin tha mạng, thì kẻ trượng phu ở đời có hẹp hòi gì chẳng ban cho kẻ thất phu ấy được sống để ăn năn tội lỗi. Tướng quân vào trận được tùy theo hoàn cảnh mà xuống tay hay là mở đường cho y được sống!

Trịnh Tú vâng lời. Thế là ba tướng lập tức đi điểm quân. Lê Hoàn là tướng cai quản mặt trận này.

Lúc các tướng đem quân đi rồi. Quân sư đã thảo xong một bức thư gửi Động chúa. Sai tướng Tế sứ Mạc Sa Cảnh gấp đường trở lại đại doanh trình thư rồi đón Động chúa. Quân sư cũng thảo một thư lệnh gửi riêng cho tướng Chu Trạch Phương. Mạc Sa Cảnh nhận lệnh, dàn xếp tế tác xong thì lên đường ngay. Lúc ấy binh lên Bắc đang lặng lẽ ra đi. Quân sư dặn Mạc Sa Cảnh:

- Trong thư gửi Động chúa, tôi không nói gì về việc ba người ta nghi là của Hỏa Thần giáo. Ông cẩn thận đừng để lộ chút nào cho Động chúa biết. Cũng đừng để Động chúa biết tôi có thư riêng cho ông Phương. Ông Phương là hào kiệt ở đời, tinh thần chính trực độ lượng, tính tình thận trọng điểm tĩnh. Trong thư tôi có nói cho ông ấy biết việc, nhưng cũng cần ông sai thêm nhiều tế tác nữa, hết sức giúp đỡ cho ông Phương lúc Động chúa đi vắng nhé!

Mạc Sa Cảnh vâng lệnh, lập tức một mình một ngựa xuống Nam về đại doanh.

Động chúa tinh mơ hôm ấy nhận được thư trình của Quân sư do tay tướng Mạc Sa Cảnh trao, trước khi Sứ quân mở thư tướng Cảnh nói:

- Bẩm Động chúa, Quân sư dặn tôi là xin Động chúa mở thư ngay!

Động chúa nhận thư ngạc nhiên lắm, có việc gì ở mặt Bắc mà phải đích thân tướng Mạc Sa Cảnh về gặp Động chúa? Mà Quân sư có thư trình gì gấp thế? Binh Hoa Lư lên Tế Giang bất lợi chăng?

Động chúa mở thư, thư dài Động chúa chăm chú đọc, nhiều lúc Cảnh thấy Động chúa nhíu mày có vẻ khó khăn, ngạc nhiên điều gì. Đọc xong, Động chúa hỏi cảnh:

- Quân sư gửi thư cho ta, có dặn thêm điều gì không?

Mạc Sa Cảnh đã được Quân sư dặn trước, thản nhiên đáp:

- Bẩm, Quân sư chỉ bảo: đợi Động chúa đọc thư xong, khi nào Động chúa xuất doanh thì tôi phải đi cùng Động chúa. Lại phải đặt nhiều tế tác mật bảo vệ Động chúa mà thôi!

Động chúa bảo:

- Tình hình binh Bắc gặp khó khăn cần đến ta phải đến đấy ngay, tình thế ấy Quân sư có nói trong thư, tất ông cũng biết. Quân sư dặn ta là nên bí mật ra khỏi doanh, kế sách xuất quân Đông phạt vẫn giữ đúng như trước. Tướng Chu Trạch Phương trông nom mọi việc lúc ta vắng mặt. Vậy ông đợi ta sửa soạn rồi đi ngay.

Mạc Sa Cảnh thưa:

- Trong lúc đợi Động chúa, tôi xin đi gặp ông Phượng dặn ông ấy ít điều về việc đón tế tác trình tin. Để khỏi làm kinh động đến Động chúa lúc di vắng!

Động chúa bảo Cảnh đi gặp tướng Chu Trạch Phương ngay.

Mạc Sa Cảnh gặp Chu Trạch Phương, Phương cũng ngạc nhiên. Cảnh ra hiệu bảo Phương đừng nói gì, rồi nói:

- Tôi vừa về, đã vào lạy Động chúa, ngài có lệnh cho ông!

Chu Trạch Phương hiểu ý, đuổi hết quân hầu ra. Cảnh trao thư của Quân sư cho Phương. Phương là hổ tướng, tính tình thật chín chắn trầm tĩnh, thế mà khi nhận thư thì Cảnh thấy rõ hai bàn tay Phương khẽ run run. Chu Trạch Phương hiểu rằng đây là một tin thật hệ trọng.

Phương kính cẩn mở thư, Mạc Sa Cảnh ngồi nhìn gương mặt Phương đọc thư, ông nhận thấy gương mặt Chu Trạch Phương nhiều lúc tỏ ra thật gay cấn, rồi Phương ngửng đầu nói:

- Tôi ở ngay bên cạnh mà chẳng hay biết gì cả, ông như gió thoảng bay khắp nơi lại biết hết! Quân sư có nói cho tôi biết cả về việc ba người lạ rồi! Xin ông trình lên Quân sư hộ tôi là: “Riêng tôi nhận xét thấy, thì hai người đàn ông phải là những tay bản lĩnh ghê gớm. Cứ xem bộ tướng cử động của họ thì có thể biết được. Họ kín đáo, khiêm nhường, thái độ cung kính đối với cô gái, nhưng có cử chỉ tôi thấy họ là người chỉ xử cho cô gái mới đúng! Cô gái thì thật diễm lệ, những nét trên mặt tôi thấy có nhiều điều để nói được rằng: cô ấy không phải là người Giao Châu ta. Ông hãy cẩn thận về điểm này nhé. Tuy rằng cô ấy chẳng lộ chút gì để ta có thể nghi ngờ được, chỉ thấy nói gốc gác là “Phượng Mai quận chúa, cháu của Nam Tấn Vương, nhưng là con gái của vương nào thì chẳng ai biết”. Động chúa yêu thích cô gái này lắm. Cho đến lúc này, ba người mới vào doanh được hơn một ngày, chưa thể có hành động mờ ám nào được”. Vâng lệnh Quân sư, tôi sẽ tìm đủ mọi cách để không cho họ biết là Động chúa đã ra khỏi doanh, ông cũng giúp tôi với nhé!

Mạc Sa Cảnh tủm tỉm cười, đáp:

- Quân sư có dặn tôi thêm nhiều tế tắc dò xét từng cử động một của ba người ấy, tôi chắc sẽ có nhiều việc ông không biết nhưng Quân sư sẽ biết! Quân sư rất Vững tin ở ông, tôi chắc trong mật thư Quân sư cũng cho ông hay như thế. Tôi đặt riêng cho ông một bộ tế tác riêng. Bất cứ lúc nào ông cần đến cứ việc thốt câu “Cầu mong quân ta đi xa được thành công”, là sẽ có người nói câu “Việc quân thắng bại không thường, có thể thành hay bại”. Kẻ nào nói câu ấy chính là mật tế của ta, ông cứ sai bảo.

Chu Trạch Phương cảm động, đáp:

- Tôi không ngờ tình thế lại nhiều rắc rối nghiêm trọng đến như thế! Một mình tôi ở đây, thật trong lòng lo lắng lắm. Tôi chỉ mong việc chóng xong để Động chúa sớm trở lại. Về ba người này, Quân sư dặn tôi là trong lúc Động chúa đi vắng, phải hết sức giữ họ không cho ra khỏi doanh, thật là khó đây! Ông giúp tôi nhé!

- Ông cần thế nào sẽ có người giúp ông ngay, tôi không thể ở lại giúp ông được. Theo như lời Quân sư nói, thì chỉ chiều ngày kia là ông Lê Hoàn vào trận được rồi. Mà cũng có thể là mặt phía Nam, Động chúa cũng sắp vào được Tế Giang. Xong việc, Động chúa trở lại doanh ngay.

Cùng lúc ấy, Động chúa cho quân hầu đến gọi Chu Trạch Phương, hai ông liền đi ngay.

Động chúa bảo Phương:

- Ta lên Bắc gấp để lo cho xong việc Tế Giang rồi trở lại ngay. Ông cứ theo đúng như đã định, cho quân lên đường đi Siêu Loại. Còn việc ta vắng mặt, ông đừng cho ai biết cả. Cứ nói là ta đang ở trung quân, ông là tướng tiên phong vậy cứ liệu tình thế mà ra lệnh tiến quân. Bảo là lệnh của ta truyền như thế!

Động chúa không nói gì về việc ba người lạ, nhưng Chu Trạch Phương khôn khéo hỏi:

- Bẩm, còn ba người khách mới tới? Tôi vẫn lưu họ lại trong quân hay để họ tùy ý đi đâu?

- Ông cứ tiếp họ, liệu cách nói là ta bận chút việc quân sẽ lại tiếp họ sau. Cũng đừng cho họ biết là ta đã xuất doanh.

Chu Trạch Phương vâng lệnh. Động chúa thay đổi y phục không mặc chiến bào. Chỉ bình thường như khách thương hồ kín đáo mang tay nải lớn trên vai bên trong cất giấu cây đại phủ. Ngay lúc trời chưa sáng rõ, Động chúa đã cùng Mạc Sa Cảnh ra khỏi doanh, lặng lẽ nhắm hướng Bắc giục ngựa đi gấp.

Tạm gác việc Tế Giang và Siêu Loại. Kể lại binh của Đinh Liễn bên kia sông với việc Tây Phù Liệt.

Lúc ấy, đại binh của tướng Phù Liệt do Từ Ngọc Tỉnh thống lĩnh tự nhiên gấp đường rút về Bắc. Đang lúc dồn tướng Đinh Liễn phải lùi dần xuống phía Nam. Đinh Liễn thấy thế mừng lắm lập tức đưa quân lên đuổi theo.

Binh của Đinh Liễn chẳng cần phải giao chiến với binh của Phù Liệt, chỉ đợi binh Phù Liệt rút về đến đâu thì chiếm đất giữ đến đấy. Đinh Liễn tiến quân như vậy lên đến sát Phù Yên vẫn không thấy có binh nào cản trở thì lấy làm lạ lắm. Liền bàn với Vương Bảo Quyền:

- Lúc đầu binh Phù Liệt ép ta kỳ cùng, khiến binh ta phải liên tiếp lui. Tưởng là binh ta thế nào cũng phải trả lại cho Phù Liệt hết những nơi đã chiếm được. Thế mà không hiểu vì đâu Phù Liệt lại bất thần rút quân gấp như thế? Ta e Phù Liệt có nghiệt kế gì chăng?

Vương Bảo Quyền đáp:

- Quả thật có việc lạ ấy! Chỉ tiếc một điều là ta không liên lạc gì được với đạo binh của ông Phạm Cự Lượng. Lại thêm ông Phạm Hạp đưa lão bá về cũng lâu quá, sao chẳng thấy trở lại? Tình hình lúc trước thật bi đát, bỗng nhiên đổi ngược hẳn lại. Tôi tin là việc ông Hạp về Hoa Lư Động chúa và Quân sư đã biết cả mọi việc. Thế nào cũng có dàn xếp ta không biết được cho nên mới có sự thể như lúc này. Từ Ngọc Tỉnh thật lợi hại, ông ta gấp rút lui quân thì nhất định có việc hệ trọng đã xảy ra ở phủ đường Nguyễn Siêu rồi! Dù thế nào chăng nữa, ta cũng cứ nhân cơ hội tốt này tiến binh thật nhanh!

Đinh Liễn bây giờ thì yên lòng, cùng Vương Bảo Quyền chỉnh đốn binh mã, cứ nương theo gót chân của binh Phù Liệt lui đến đâu thì tiến đến đấy. Mấy lần Đinh Liễn toan thúc quân thừa cơ hội đánh phá binh Phù Liệt, nhưng mấy lần đều nhận thấy: Binh Phù Liệt tuy triệt hồi, nhưng lại dàn xếp hết sức gắn bó. Nếu Liễn tiến binh đánh úp thế nào cũng bị hậu quân của hai đạo tả hữu dực của Phù Liệt phá nát ngay. Đinh Liễn đành cứ chậm chậm tiến binh, trong lòng thấy nể nang lão tướng Từ Ngọc Tỉnh lắm.

Lúc binh của Đinh Liễn lên gần sát thành Phù Yên. Liễn được tế tác gấp đến bảo: “Binh Hoa Lư đã vượt Xích Đằng sang đất Phù Liệt, phủ đường Phù Liệt sắp mất vào tay Hoa Lư”. Đinh Liễn được tin cả mừng bảo Vương Bảo Quyền:

- Quả nhiên lời ông nói chẳng sai, binh ta đã sang sông sắp vào đến phủ đường Phù Liệt! Ta tuy chưa được rõ tình thế tại sao lại như vậy, nhưng cũng nên thúc quân gấp tiến lên mới đúng.

- Đưa quân gấp tiến lên là phải rồi, nhưng mấy phen ta muốn tiến đến bị Từ Ngọc Tỉnh cản lại. Y quả là tay đáng nể lắm. Nay ông thấy ta nên tiến như thế nào?

Hai tướng loay hoay chưa biết phải hành động ra sao để vượt được đạo binh triệt hồi của Từ Ngọc Tỉnh, thì tế tác đến báo: Tướng quân Phạm Hạp đã trở về. Hai tướng nghe báo thì mừng lắm. Có Phạm Hạp ở đây thì thế nào cũng được biết rõ tất cả!

Ngựa Phạm Hạp về đến nơi chưa kịp thở, tướng Vương Bảo Quyền đã hỏi vội:

- Đinh lão thế nào?

Phạm Hạp xuống ngựa, chậm chạp nói:

- Lão bá về trời rồi!

Đinh Liễn tưởng như vừa có tiếng sét giáng ngang tai, ông chỉ kêu lên hai tiếng: “Trời ơi!” Thì đã bưng mặt khóc rống lên. Vương Bảo Quyền ngơ ngác chưa nói được gì thêm, thì Phạm Hạp đã vội bảo Đinh Liễn:

- Động chúa không để việc này lọt ra ngoài, nhưng bảo tôi cứ nói cho ông hay, và dặn: Ông phải hết sức bình tĩnh, không được để chúng quân hoặc người ngoài biết. Ở đây chỉ có ông Quyền là biết, còn các tướng khác ở các nơi chưa ông nào hay cả. Vậy ông đừng khóc nữa, phải giữ bình tĩnh mới được!

Đinh Liễn cố nén nghe Phạm Hạp kể hết đầu đuôi, nghe xong Liễn bảo:

- Thế là ông tôi chẳng còn nữa, sao ông lại ra đi vào lúc này?

Rồi Liễn lại khóc khiến Phạm Hạp phải cau mày. Vương Bảo Quyền nói:

- Thôi, việc lão bá như thế là đủ rồi, ta hãy cất kín thương tiếc ở trong lòng để vững lòng quân. Xong được việc lớn đã!

Quay sang Phạm Hạp, Vương Bảo Quyền thuật lại việc thất thế lui quân, rồi đến việc binh của Từ Ngọc Tỉnh bất thần lui gấp. Quyền nói:

- Hai chúng tôi ở đây chẳng hiểu gì cả, nhưng cho là thế nào cũng có việc lạ. Ông về Hoa Lư có được Động chúa với Quân sư chỉ bảo gì không?

Phạm Hạp đáp:

- Các việc ở đây Quân sư đều biết cả rồi, khi tôi về trình Quân sư cười rồi bảo: “Không sao, thế nào ông Đinh Liễn cũng lấy xong Phù Liệt bây giờ đấy!”. Tôi lạ quá, lúc tôi lên đường đưa lão bá về thì quân ta đang thất thế cứ phải lui mãi, thế mà Quân sư lại bảo như vậy!...

Phạm Hạp kể hết các dàn xếp cho hai tướng nghe, rồi bảo:

- Như vậy, thì binh của ta ở đây vẫn là trọng binh vào phủ đường Phù Liệt, chứ không phải là đạo quân của ông Lưu Cơ hợp với Nghi Bá Tường từ phía Bắc đánh xuống! Lại nữa, ông Phạm Cự Lượng cũng đã được lệnh đem quân lên Bắc chực sẵn đợi binh ta tiến lên là đánh vào mặt phía Tây Phù Liệt. Ông ấy cũng chặn không để cho bên Đường Lâm có thể thừa cơ hội nhòm ngó việc của ta!

Đinh Liễn với Vương Bảo Quyền nghe Phạm Hạp nói tưởng như mình đang nằm mơ! Hóa ra tất cả những gì xảy ra ở đây Quân sư đều đã biết cả. Người ở xa mà lại thấy rõ việc hơn cả người trong cuộc!

Đinh Liễn nói:

- Như vậy, thì Từ Ngọc Tỉnh gấp rút lui binh ấy là để cứu phủ đường Tây Phù Liệt! Binh ta không phải là yếu mà thua Tỉnh, chẳng qua là Tỉnh biết cách làm cho ta phải lâm vào thất thế. Nay ông ta triệt binh chẳng cần gìn giữ chỗ nào cả, rõ ràng là phủ đường lâm nguy. Cứ theo như lời ông Hạp nói thì ông Lưu Cơ ở Cổ Loa xuống hợp với binh của ông Tường chẹn đường không cho Tây Phù Liệt vượt sông xâm phạm Cổ Loa. Chứ không phải là trọng binh triệt hạ Phù Liệt, binh của ta mới là binh vào phủ đường. Nếu ta xong việc thế nào ông Lưu Cơ cũng lui ngay. Ông ấy không thể nào giải thích được về việc “Cổ Loa dẹp được Phù Liệt”. Như vậy, tôi tin là binh ta từ đây tiến lên chỉ có thắng chứ không còn bị nguy nào nữa. Thế nào Quân sư ta cũng có những dàn xếp khác để giúp ta vào được phủ đường Phù Liệt dễ dàng. Ta hãy gấp tiến lên!

Phạm Hạp nghe Đinh Liễn nói, thì bảo:

- Đúng thế! Lúc này, trọng binh của ta hai đường một tiến lên phía Bắc đánh Tế Giang, một sang Đông đánh vào Siêu Loại. Tôi có nhớ Quân sư dặn là hai mặt Tế Giang với Siêu Loại tuy không dính dáng gì tới Tây Phù Liệt, nhưng lại giúp cho Phù Liệt dễ xong việc. Quân sư không nói thêm, chỉ bảo “Tây Phù Liệt ta làm tan rã từ trong, sau ta giúp cho tan rã nốt bên ngoài là xong.” Vì thế tôi chắc là ngài có dàn xếp cả rồi!

Đinh Liễn hào hứng tiếp lời:

- Phù Liệt lâm nguy, không biết Quân sư dàn xếp thế nào đến nỗi Từ Ngọc Tỉnh phải hấp tấp chạy về cứu nhà. Nhân cơ hội ta dốc lực phá đạo binh này không cho y về cứu nguy, để xem ông Lượng hành động ra sao, sau đó ta sẽ tiếp tay.

Thế là Đinh Liễn lại cho lệnh tiến binh, đích thân Liễn đi đầu, để Vương Bảo Quyền đi ở trung quân tiếp trợ. Phạm Hạp đem một cánh quân tách rời hẳn ra lùi lại phía sau một chút làm đạo bồi chiến.

Binh của Đinh Liễn trước thắng thế, tinh thần lên cao vòi vọi, đến lúc lâm nguy phải liên tiếp tháo lui nhưng cũng chưa đến nỗi mất tinh thần. Bây giờ thì tinh thần lại trỗi dậy, cả đạo quân ào ạt tiến ngược lên phía Bắc. Sức mạnh của quân Hoa Lư theo chủ tướng đánh phá thành địch tưởng chỉ trong chớp mắt là san bằng được thành Phù Yên ngay trước mặt.

Lão tướng Từ Ngọc Tỉnh lui binh về Phù Yên, lão tướng muốn để hai đạo tả hữu làm nghi binh trấn bên ngoài thành. Chặn không cho binh Hoa Lư tiến nhanh, nhưng lại sợ như thế binh về bị chậm, mất một ít sức. Liền hội tướng trấn thành là Trần Thành Công, tướng tiên phong tả đực là Lê Thẩm, tướng nghi binh trợ chiến mặt Tây là Lâm Thành Điện lại bảo rằng:

- Binh ta phải gấp về phủ đường, giặc thế nào cũng đuổi đánh, tuy thế cũng không phải là giặc muốn đánh chiếm chỗ nào cũng được. Ta lui binh nhưng giặc phải tan, ta tiến thì giặc phải lui là thường rồi! Vậy, tôi mang đại quân trở về, ông Lê Thẩm giữ năm trăm quân thật kín đáo triệt hồi ở mặt Đông. Ông Lâm Thành Điện mang năm trăm quân kín đáo đi ở mặt Tây. Hai đạo quân chưa rút hơn về Bắc, cốt làm sao cho giặc tưởng là trọng binh của Phù Liệt ta triệt hồi về đến Phù Yên thì kéo hết vào thành. Binh Hoa Lư tất sẽ thừa cơ hội đánh úp thành, tới lúc ấy hai mặt binh Đông Tây hãy kẹp giặc vào giữa mà sát phạt. Binh của ông Trần Thành Công cũng nhân đây hợp với hai đạo tả hữu dực cùng phá địch. Sức của ba ông thừa phá đạo quân không lớn của trưởng tử Hoa Lư Động chúa là Đinh Liễn rồi. Tôi cũng lại nhắc để các ông rõ: Đinh Liễn chỉ là tên tướng hữu dũng vô mưu. Các ông chỉ cần làm cho nó mắc lừa ta, thì đủ để lòng mình sôi nổi khiến cái vũ dũng của Đinh Liễn thua nhé! Còn đạo binh trợ chiến của Hoa Lư ở phía Tây thì ta còn một đạo quân cầm giữ rồi, không cần phải lo gì nữa!

Dặn xong, lão tướng thu hết quân, đem hết các tướng còn lại gấp đường kéo lên phía Bắc. Đại binh của lão tướng không đi qua ngả thành Phù Yên, mà lại đi vòng ra mé Đông để ngược lên Nhân Hiên.

Từ Ngọc Tỉnh là tướng vào hàng kiệt xuất của Tây Phù Liệt, tính toán việc thật chi li. Hiểu rõ địch, dàn xếp trận thế như xếp đặt việc con con thật nhẹ nhàng. Làm sao Đinh Liễn đối địch được với một tướng soái cầm quân như thế! Nhưng, việc đời chẳng thể nào biết trước được. Cho nên Sứ quân Nguyễn Siêu chỉ là một tay hào phú mơ chuyện đế vương trong tưởng tượng chẳng có bản lĩnh nhưng trời cho được có nhiều người tài phù trợ, trong số đó có Từ Ngọc Tỉnh. Từ Ngọc Tỉnh khinh thường Đinh Liễn, tính việc như thế thì chắc chắn Đinh Liễn không thể thoát nguy hiểm, nhưng Tỉnh không làm sao biết được hết mưu thần của Quân sư Hoa Lư

Khi đón Phạm Hạp đưa Đinh lão về, nghe đích thân Hạp từ mặt trận trở về thuật rõ tình hình. Quân sư đã bảo là cứ yên lòng, ấy là vì Lê Thảo đã nhìn thấy tất cả. Lê Thảo thừa biết Đinh Liễn không phải là người đối địch được với Từ Ngọc Tỉnh. Cho nên đã định mưu cho tướng Tế sứ là Mạc Sa Cảnh, sai tế tác đưa tin đồn khắp nơi ở Phù Liệt. Nhất là cốt đến tai Từ Ngọc Tỉnh, là: Cổ Loa hưng binh, trước hết đánh phạt Phù Liệt về tội liên minh với Tế Giang tiếp trợ cho ngoại nhân phương Bắc mưu tính việc đánh chiếm Cổ Loa. Phủ đường Phù Liệt đã bị binh triều đình vây hãm, Sứ quân Nguyễn Siêu cùng đường đã lén vượt sông chạy sang phía Nam Chu Diên. Hiện đang bị binh tướng Hoa Lư truy nã.

Thế rồi việc Sứ quân đem đại quân sai tướng Âu Nam Dương đi tiên phong rõ ràng là Sứ quân đã ra khỏi phủ đường thật. Đường đi chưa được bao lăm đã thấy có đạo binh lớn trương cao cờ hiệu triều đình tràn xuống. Sứ quân không còn hồn vía vội thu quân, thì đã nghe tin đồn khắp nơi, khiến cho Sứ quân phân vẫn lo lắng không biết hư thực ra sao. Cho người đi hỏi đạo quân của Từ Ngọc Tỉnh thì Tỉnh cũng hoang mang mơ hồ nói rằng: Cũng cho người đi hỏi xem phủ đường thế nào, chỉ biết có một đạo quân ở mé Tây đang gấp đường đánh tới phủ đường. Sứ quân được tin phía Nam, với hội chúng tướng văn võ lại bàn:

- Ta những tưởng nhân cơ hội tốt, nhờ Hoa Lư thao túng thiên hạ ta nhanh chân vào Cổ Loa trước, nào ngờ chưa ra khỏi lãnh thổ đã sinh biến khắp nơi! Các người nghĩ lúc này ta nên làm thế nào?

Nguyễn Siêu không có chí lớn, chỉ một mực tưởng mình là bậc đế vương theo đòi cung cách người xưa phương Bắc. Tự cho mình là bậc trưởng giả, xuất binh viễn chinh lại chẳng lo liệu trước mọi mặt, ra đi mà chẳng hiểu tình thế chung quanh. Bây giờ trong lúc bối rối chẳng tự đề quyết được lại đi hỏi thuộc hạ như thế, thật là nực cười!

Thật ra, Nguyễn Siêu cát cứ Tây Phù Liệt trong hơn hai chục năm trời, thu dụng thuộc hạ đủ thứ kể có trăm người. Lúc thiên hạ đại loạn thì chủ trương lấy võ nghiệp làm thế lực, cho nên dưới trướng có nhiều tay vũ dũng, như Từ Ngọc Tỉnh, Địch Hồng Hà, Âu Nam Dương. Còn thì toàn là hạng đâm chém dữ dội mà không có đầu óc. Chiếm giữ một giang sơn, Nguyễn Siêu chẳng biết thế chung quanh. Cho là danh ngôn thánh hiền thời xưa ở Bắc phương đủ soi tỏ cho Siêu các phép hành động, cho nên Siêu chuộng võ nhiều mà quên mất văn. Vì vậy dưới trướng chỉ có tay văn sĩ Đốc Mạnh Khanh là người biết chữ nghĩa đọc sách. Nhưng Khanh lại hay hùa vào để lấy lòng Sứ quân cho nên có văn sĩ bên cạnh mà Siêu cũng chẳng mở được đầu óc.

Nay trong doanh lúc quân hành, nghe chủ hỏi thì Đức Mạnh Khanh lại là người lên tiếng đáp trước:

- Bẩm Chúa công, tiên hiền liệt thánh thời xưa lúc quân hành bàn việc lớn, uy vũ thì như Hạng Vũ, Bạch Khởi, thảy đều lấy uy nghi của bậc thượng nhân để tính việc...

Đốc Mạnh Khanh mới chỉ nói đến đây, Sứ quân Nguyễn Siêu đã bật nói:

- Phải! Phải! Ta thật vô tâm thiếu lễ! Bối rối quá thành ra quên mất cả nghi vệ theo phép người xưa! Vậy, trước hết hãy tỏ cho đủ khí tượng bậc đại nhân. Thiết lập nơi quân doanh dù đang bận rộn cũng phải có đủ hình thức. Người xưa có nói “Không có hình thức, ấy là tự làm mất phẩm giá, không đủ danh xưng ấy là tự mất địa vị” đấy!

Rồi Sứ quân truyền lập bàn thờ lớn ngay tại doanh sảnh, gọi là án “Tiên hiền tùng chinh”. Sứ quân mang các tướng thuộc hạ đến trước bàn thờ kính cẩn khấn vái cầu xin người xưa theo quân, chỉ cho Sứ quân biết đường tiến thoái hôm nay. Trong đám các thuộc hạ của Sứ quân, ai cũng quá quen thuộc với những cung cách như vậy của Sứ quân, cho nên chẳng ai có thái độ gì. Chỉ mình tướng Âu Nam Dương là nhúc nhích chẳng yên, trong lòng ông bứt rứt lắm nhưng không dám có hành động gì.

Hành lễ cầu tiên hiền xong, Sứ quân mới trở lại hội nghị, Sứ quân nói:

- Kính lễ chư tiên hiền xong, quả nhiên lòng ta yên tĩnh, sáng suốt, rõ ràng là có tiên hiền phù trợ! Nay, xét việc quân vượt sông lên Bắc gặp trở ngại, binh quay về thì tin báo việc quân ngoài xâm phạm phủ đường. Binh mặt Nam đang phải gấp về cứu phủ đường. Còn mặt Bắc ta, một là ta cũng gấp trở về hội quân với mặt Nam giữ phủ. Hai là nếu quả thật tình thế khó khăn thì ta sang sông vào Bình Kiều, sau sẽ tính việc khôi phục lại giang sơn, các ông thấy thế nào?

Đến đây, thì tướng Âu Nam Dương liền nói ngay:

- Bẩm Chúa công, binh ta ra ngoài đi không được, vì chưa rõ tình hình. Sao lại sang sông vào đất người để chuốc lấy phiền muộn là thế nào?

Đốc Mạnh Khanh hỏi lại:

- Ông thấy chuốc lấy phiền muộn ở chỗ nào?

- Bình Kiều vốn trước là giang sơn của Sứ quân vương gia Ngô Xương Xí. Sau bỏ hoang đến lượt Hoa Lư cho người đi lại cai quản. Tuy Hoa Lư chưa tuyên cáo rằng đây là đất của mình, nhưng cả thiên hạ ai còn chẳng biết đây là đất mới của Hoa Lư sau Đằng Châu? Nay, nếu ta tiến binh vào có khác gì muốn tranh giành với Hoa Lư không? Mặt Bắc ta bị vướng, phía Nam binh Hoa Lư vào giang sơn ta đến tận phủ đường khiến cho ông Từ Ngọc Tỉnh phải gấp về cứu nguy. Sao ta không về hợp sức với ông Tỉnh, lại sang sông là thế nào?

Âu Nam Dương có vẻ giận dữ, trong giọng nói có phần không đủ lễ với Sứ quân, thành ra Sứ quân trong lòng có đôi chút chẳng vui. Đốc Mạnh Khanh là tay giảo hoạt, khinh đám võ tướng là ngu dốt. Bây giờ nghe Âu Nam Dương lý sự với giọng gay gắt có vẻ chê bác ý của Sứ quân, liền nói:

- Ông là nhà tướng mà xem ra thích ở yên một chỗ cầu an, sợ đi xa, ngại gian khổ! Ông quên mất thánh hiền có nói rằng: “Không sang sông thì chẳng đến gần được Tần Thủy Hoàng Đế” hay sao. Vì thế mới có việc Kinh Kha vượt sông Dịch. Ngay đến như văn nhược Phùng Khuyên cũng chẳng quản đường xa việc khó, một mình một gươm gỗ vào đất Tiết mua ân nghĩa cho Mạnh Thường Quân mai sau. Thế thì nay thân làm tướng sao ông lại chẳng vì Chúa công mà hết lòng như thế! Chúa công sang Bình Kiều, ấy là thế lớn một lúc trọn vẹn được cả hai. Vừa mở rộng được giang sơn, vừa lập được đại thế chống ngoại địch. Sao lại bảo là tự chuốc lấy phiền muộn là thế nào?

Đốc Mạnh Khanh nói một hơi dài chẳng hiểu gì về việc chiến trận, chẳng thông thời thế. Chỉ cốt lấy lòng chỉ khiến cho tướng Âu Nam Dương giận quá liền lớn tiếng:

- Ông nói như thế, có khác nào xúi Chúa công bỏ nhà mình cho người ngoài chiếm giữ, rồi chạy ra nơi đồng hoang đất trống để bảo là tìm thế mở rộng giang sơn được không? Luận việc thời xưa, xưng tụng thánh hiền là cốt để lập được đức, tu được thân, chứ chẳng thể nào cứ mượn lời mượn việc của người xứ ngoài từ ngàn xưa mà làm gạch ngói cho là dựng được nhà, dựng được nghiệp, an được thiên hạ đâu? Ông giỏi luận việc thời xưa, sao chẳng hiểu việc thời nay, trước mắt còn mù mịt như thế thì nói làm gì đến việc nghìn năm trước ở những đâu đâu ấy?

Đốc Mạnh Khanh mặt đỏ bừng bừng. Chưa kịp trả lời thì Sứ quân Nguyễn Siêu đã nói:

- Thôi, thôi! Các ông đừng lớn tiếng với nhau làm gì nữa, ông nào cũng phải cả! Thánh hiền thời xưa không làm điều sai, nhờ thế ngày nay ta chẳng lỗi lầm! Về lại phủ đường là điều ta mong muốn, nhưng cứ theo tin trình về thì lúc này phủ đường đã bị Từ Ngọc Tỉnh phản bội, đem quân xuống Nam. Chẳng cản binh Hoa Lư thì chớ, lại dẫn đường cho trưởng tử của Động chúa Hoa Lư là Đinh Liễn kéo lên phủ đường. Ngụy trá là về cứu phủ đường! Như vậy, ta về phủ đường làm sao được đây?

Lời nói của Sứ quân làm cho hết thảy các tướng kinh hoàng! Từ Ngọc Tỉnh đã làm phản rồi sao? Phủ đường chỉ sớm tối là vào tay Hoa Lư, quả thật không thể nào về được rồi! Lời bàn của văn sĩ Quân sư Đốc Mạnh Khanh đúng quá! Tướng Âu Nam Dương nghe Sứ quân nói thì ngẩn người. Đốc Mạnh Khanh vênh mặt:

- Đại tướng danh vang bốn cõi, tài dụng binh còn trên cả Hoàng Thái Công, thầy của Ngô Khởi, Tôn Tẫn. Lúc này đem binh về phủ đường dễ như lật bàn tay, binh tướng nào của Hoa Lư chống lại được? Từ Ngọc Tỉnh nào xong được việc mưu phản nào?

Sứ quân thù người, chúng thuộc hạ hết nhìn nhau lại rì rầm bàn tán, không hiểu các ông bàn với nhau những gì? Sứ quân rầu rĩ nói:

- Ta không thể nào ngờ được chỉ trong một thoáng có đôi ba ngày. Siêu Loại ta hùng mạnh an bình, thế mà chỉ một lần xuất chinh rõ ràng lúc đầu là thắng lớn ở cả hai mặt Bắc Nam. Thế mà đi chưa được mấy bước, trận chưa vào lần nào, thế bại vọng lại thê thảm đến thế này? Bây giờ, ngồi mà than thở cũng chẳng ích gì, thôi thì tạm theo gương hiền Khổng thánh tổ thời xưa. Lui về mà hóa ra lại là vào trong thiên hạ muôn đời vậy!

Các tướng chưa hiểu ý của Sứ quân. Đốc Mạnh Khanh lại hùng hồn dạy dỗ:

- Bẩm, chính thế! Kể từ thời thánh Khổng, lần lượt trải qua mười một đời hậu duệ của ngài. Bao nhiêu người hiền, thế mà người đời nói: Núi cao ta trông, đường rộng ta đi. Tuy đích chưa đến, nhưng lòng hướng về! [→7] . Như thế đủ rõ cái đức của bậc chí thánh chỉ mặc áo vải, truyền hơn mười đời. Các hiền học giả thánh nhân đều tôn làm thầy. Thế thì việc ngài lui về bỏ tất cả có phải là tan hết đâu! Nay, Chúa công sang sông, tức là về Đông tạm lánh. Mai sau sự nghiệp nghìn năm sao lại chẳng dựng được!

Sứ quân nghe Đốc Mạnh Khanh hùng hồn kể sự tích Khổng thánh thì trong lòng kính ngưỡng lắm. Cho nên ngài dường như xem việc hôm nay phải bỏ phủ đường mà chạy. Chẳng qua chỉ là một bước lui về của bậc hiền thánh mà thôi! Thái độ của Sứ quân chưa bao giờ lại như hôm nay, làm cho các tướng hoang mang quá! Sự nghiệp mấy mươi năm bồi đắp, xương máu của thuộc hạ văn võ đổ ra biết bao nhiêu. Thế mà chỉ một sớm một chiều bỗng dễ dàng nhanh chóng để cho tan ra mây khói cả hay sao?

Tướng quân Âu Nam Dương hiểu tình thế, hiểu tính tình của Sứ quân. Cố vớt vát lần cuối:

- Bẩm, nếu quả thật tình thế lại đến như thế. Thì tôi xin Chúa công cho phận tôi tớ làm tướng của tôi được hết lòng với chủ. Chúa công cứ sang sông với ông Đốc. Tôi xin đưa binh về trước là hỏi tội phản loạn Từ Ngọc Tỉnh. Sau liều chết cố tìm cách thu phục lại giang sơn!

Âu Nam Dương nói xong, đầu cúi xuống chờ đợi, dáng điệu thật thiểu não. Sứ quân Nguyễn Siêu chưa kịp phán bảo thế nào, đã thấy tế tác vội vào trình: “Từ Ngọc Tỉnh đưa binh Hoa Lư vào phủ đường, chém giết tất cả những ai còn nhớ tiếc Sứ quân. Lại lén cho liên lạc đi đón binh triều đang tràn xuống Nam. Tình thế nguy ngập vô cùng”. Thế là thế nào? Từ Ngọc Tính theo về Hoa Lư thì nghe ra rất phải. Sao lại còn quay sang đón rước cả Cổ Loa là kẻ thù của Hoa Lư?

Đến lượt Sứ quân hoang mang, Âu Nam Dương năn nỉ:

- Bẩm, Chúa công cho tôi gấp tiến binh hỏi tội Từ Ngọc Tỉnh. Chính vì y mà sinh ra mọi mối loạn như thế này. Nếu ta ra tay nhanh, giết được Từ Ngọc Tỉnh thì cự được với kẻ địch!

Âu Nam Dương không nói địch là ai. Sợ nói ra hai cường địch dễ làm Sứ quân e ngại, làm cho các tướng kinh sợ.

Sứ quân còn chưa quyết. Đốc Mạnh Khanh thấy tình thế nguy ngập thôi thì tự cứu lấy mình trước đã, liền nói:

- Thưa, thôi thì ông Âu muốn đưa binh về phạt nguy, thì Chúa công cứ để ông ấy đi. Còn Chúa công hãy gấp sang sông đừng để cho Hoa Lư kịp chẹn mất đường, chiếm mất địa thế tốt!

Sứ quân bằng lòng, lại bảo các tướng ai muốn sang sông, ai muốn cùng Âu Nam Dương về phủ đường chiến với Từ Ngọc Tỉnh thì được tự do lựa chọn. Đám thuộc hạ của Sứ quân số đông vốn chẳng phải là những chính nhân quân tử. Chẳng qua chỉ là hạng vong mạng thời loạn kéo bè kết đảng, tụ lại với nhau để cùng vơ vét cướp bóc. Lúc được thời thì huênh hoang tự cho mình là hàng vương giả xênh xang mũ áo. Đến lúc lâm nguy thì lộ ngay ra là những kẻ tồi tệ. Nay nghe Sứ quân nói như thế, thì chỉ còn chờ xem có người nào mở đầu là cả bọn hùa theo để được an thân riêng mà thôi!

Giữa lúc tình hình buồn thảm ấy, có quân trình vào:

- Bẩm trình Chúa công, có phu nhân tới!

Sứ quân như người đang trong cơn mê mệt sắp thiếp đi ngủ gục xuống, thì được người ta dội cho gáo nước mát tỉnh cả người. Nghe trình thì chợt mừng, rồi truyền:

- Mời phu nhân vào ngay!

Nguyên, lúc còn hàn vi chưa xưng hùng xưng bá chiếm giữ một giang sơn Tây Phù Liệt. Nguyễn Siêu là tay bản lĩnh lại kết giao với thiên hạ. Lấy trí xảo hợp với vũ lực mà khuynh đảo chúng, cho nên tay chân thật nhiều. Siêu lúc nào cũng vì mơ tưởng đến những tiên hiền liệt thánh của phương Bắc. Cho nên ở đâu có danh thắng có di tích thần kỳ là Nguyễn Siêu lần tìm đến. Trước gọi là để chiêm ngưỡng thần kỳ, sau là để “Lắng nghe lời dạy của liệt thành tiền hiền”. Cho nên ngày nọ Siêu lang thang lạc bước đến làng Nam Mẫu, châu Bạch Thông (Thái Nguyên), vào vùng Ba Hồ Biển (tức Hồ Ba Bể). Rộng tổng cộng hơn một nghìn mẫu, tức là nơi Nam Mẫu có đầm sâu Du Hải. Tầu Hải ở Cao Thượng và Hoàn Hải ở Thượng Giáo, là vùng có dân cư ở ngay bên cạnh, nước và đá lẫn lộn, cây cối um tùm. Ở giữa ba bể này chồng hết núi nọ đến núi kia, ẩn hiện trên mặt sông. Gặp lúc gió lặng sóng êm, thuyền đánh cá cái ngược cái xuôi, bốn mặt đổ ra, trông cảnh trí thật đẹp. Tục truyền trong dân gian ở vùng ba bể này, kể rằng vùng biển này có hội gọi là Vô Già Đại Hội. Người đến xem kín cả bốn mặt, có một bà lão bệnh phong hủi đến ăn xin. Chúng thấy dơ bẩn, thét đuổi đi, nên bà lão ấy chẳng được ai cho tí gì cả. Đến chiều khi ra về bà gặp hai mẹ con người ở làng này, bà kể lại chuyện đó. Mẹ con người này thương hại bà lão tiều tụy mới báo: tôi có cơm trưa chưa ăn, xin nhường bà ăn cho đỡ đói. Đoạn hai mẹ con ra về. Đến đêm hôm ấy bà lão tìm đến bảo rằng: hồi sáng nay tôi được hai mẹ con bà nhường cho ăn, bà thật là người nhân từ. Nay tôi không có chỗ nghỉ xin bà cho tôi ngủ nhờ một đêm. Hai mẹ con vui lòng cho ở, đến đêm nghe tiếng bà lão ngủ ngáy như sấm, mới đốt đèn ra xem thì thấy bà đã hóa ra con Thuồng Luồng. Hai mẹ con sợ quá phải đóng cửa đi ngủ không dám lên tiếng. Đến sáng ngày ghé mắt qua khe cửa thấy bà lão vẫn nằm ở đó như người thường, mới mở cửa ra để thi lễ. Bà lão bảo rằng: “Ta vừa xem hội, thấy đám hội nhộn nhịp nhưng xem ra toàn là những hạng “khẩu Phật tâm xà” chẳng bao lâu sẽ bị chìm đắm hết. Duy nhà bà có lòng từ bi, ta đến cứu độ cho. Nếu thấy nơi này có sự gì lạ, thì nên chạy lánh trước lên gò cao, sẽ tránh được tai họa”. Bà l