Hồi Thứ Một Trăm Lẻ Một Ngưu ma trận đả bại Lê Hoàn
Kế thần đấu trí triệt ngoại nhân
Tướng quân Lê Hoàn mang theo hai tướng Trịnh Tú và Đỗ Tuấn Kiệt dàn binh một giải dài theo trận pháp “Nhất tự trường xa”. Đây là trận rất thường được các tướng cầm quân thời xưa sử dụng. Trận giăng dài đối diện với binh trận của đối phương, quân đông thì khi vào trận đầu đuôi có thể cùng lúc tiếp ứng cho trung quân. Sức công phá nhờ thế mà trở thành mạnh gấp ba lần thực lực. Nhưng, nếu như quân thưa tướng ít, thì trận “Nhất tự trường xà” cũng vẫn dễ chuyển động uyển chuyển để cả ba phần tiếp nối được cho nhau, làm cho trận pháp có thể liên miên chẳng biết.
Nay, Lê Hoàn vượt qua được các tiền trạm phòng vệ đường xa của Tế Giang, chẳng mấy khó khăn, lại hết sức chặn bắt tế tác không cho về báo cho doanh sau được biết. Khi vào đến giới địa Xuân Lâm thì thận trọng dàn trận tính toán kỹ càng chứ không dám khinh xuất. Ba tướng Hoa Lư tin chắc là trận thế của mình vững vàng, có thể lấy xong Xuân Lâm không mấy khó khăn. Nhưng, việc đời khó lường, nhiều lúc tuy đã suy tính kỹ lại vẫn gặp phải những chuyện bất ngờ không thể nào biết trước được. Thành ra việc đời mới có lắm thịnh sự để mãi cho đời sau suy nghĩ.
Lê Hoàn bày trận xong, thì trận đã sẵn sàng chuyển động được ngay. Hoàn không muốn để mất đi cái thế “binh tiến như vũ bão, như thể từ trời cao áp xuống, như từ dưới đất chui lên”. Làm cho binh tướng địch không kịp trở tay! Nhưng, trong trận doanh Xuân Lâm đã có dị nhân Áo Ly ở Vũ Lâm Bắc phương đến giúp lập Ngưu Ma Vương trận. Lê Hoàn không biết việc này!
Tướng quân Lê Hoàn chỉ còn đợi tin của tế tác ở phương Nam báo cho hay việc cứ doanh Phục Tượng của Tế Giang bị nguy khốn là ông cho quân vào trận ngay. Lê Hoàn chẳng phải đợi lâu, tinh mơ hôm ấy tin đã đến ba tướng Hoa Lư ở mặt Bắc. Tức thì Lê Hoàn lệnh cho trận “Nhất tự trường xà” chuyển động, ba đạo quân di chuyển rời vị trí tiến đến trận doanh Xuân Lâm của Tế Giang. Tế tác luôn luôn đi trước mở đường dò la tin tức, tin trình về là trấn doanh Xuân Lâm im lặng, không thấy có dấu hiệu gì tỏ ra là trấn doanh quan trọng này có xếp đặt để nghênh chiến.
Sở dĩ tế tác của Hoa Lư trong trận này không thu thập được tin gì về cử động của Xuân Lâm, ấy bởi vì Xuân Lâm giữ nguyên doanh trại nhưng trận thế thì lại lui xa hẳn ra phía Đông. Thành thử tế tác không thể nào vượt trấn doanh để sang phía Đông được.
Tướng Hoa Lư cầm quân ở mặt trận này đã bị lâm nguy mà không biết!
Khi đại binh đông đến mười bốn nghìn quân bộ lẫn quân kỵ của Hoa Lư, do ba tướng phát lệnh lặng lẽ tiến đến trấn doanh Tế Giang, rồi bất thần hò reo vang trời dậy đất nhất tề xông tới cướp doanh. Cả ba tướng thoạt đầu cho là Tế Giang không hay biết. Quân tiến sát doanh rồi hò reo tiến lên thì lúc ấy Lê Hoàn mới giật mình kinh hãi. Ông không thấy trong doanh có mảy may nào tỏ ra là có trấn binh, như thể là đã bị mắc lừa Tế Giang rồi!
Lập tức, Lê Hoàn không còn đắn đo gì nữa, phát lệnh cho cả đạo quân lui lại cho nhanh. Lúc ấy, hai tướng Trịnh Tú với Đỗ Tuấn Kiệt cũng chợt nhận thấy có chuyện bất thường. Cả hai chưa kịp có hành động gì thì đã có lệnh gấp lui quân của soái tướng Lê Hoàn.
Đạo quân lớn vừa mới như làn sóng thần tràn đến, tiếng hò reo vừa mới nổi lên đầy hùng khí thì đã hấp tấp lui lại. Tiếng hò reo vào trận chuyển thành tiếng kêu gọi rút lui trong kinh hoàng!
Nhưng, chậm mất rồi, cả đạo quân lớn còn chưa lui ra hết hẳn ngoài trấn doanh của Tế Giang, thì phía Đông đã nghe thấy có những tiếng trống lạ!
Trong trận của Tế Giang ở đây nghe chẳng giống tiếng trống trận ở nơi nào. Các tướng Hoa Lư từng vào ra trận mạc tai quen nghe những tiếng động ở chiến trường, trong trận thì đủ thứ nhưng chẳng ở đâu lại có thứ trong trận lạ thế này! Binh tướng Hoa Lư không còn ai kịp suy nghĩ, cả đạo quân ào ạt lui lại cố lập lại trận thế “Nhất tự trường xà”. Ba tướng Hoa Lư dốc hết sức ra mới tạm an được quân. Trận thế còn chưa lập xong tai đã nghe thấy lẫn trong những tiếng trống còn có những tiếng động ầm ầm. Nghe ra chẳng phải là tiếng vó ngựa trận đang gấp đường bay tới. Ba tướng ra sức hò hét truyền quân mau mau chỉnh đốn hàng ngũ chờ nghênh chiến.
Bụi sớm vẩn mù trời phía Đông, binh lạ của Tế Giang đang tràn đến mãnh liệt. Mặt đất rung rinh trong tiếng vó ngựa đạp như muốn san bằng tất cả, rồi binh tướng Hoa Lư thấy xa xa trong nắng sớm cả một mảng đen sì như sóng biển cuồng nộ ầm ầm xô tới. Không thấy có cờ trận, không trông thấy binh tướng nào cả, chỉ có một mảng cực lớn đen sì lớn dần trong bụi như sa mạc dang trong trận cuồng bão.
Ba tướng Hoa Lư kinh hãi không hiểu sự gì đang xảy ra, đạo quân bộ lẫn kỵ của ba tướng giăng dài chợt xao động. Chiến binh cũng hoang mang kinh hãi không hiểu quân địch là thế nào?!
Chợt Trịnh Tú thét lên:
- Mau lui lại, Ngưu Trận rồi!
Trịnh Tú mắt sáng hơn sao, tinh tường vô cùng. Đã trông thấy thấp thoáng trong lớp bụi dày những con trâu đen sì, ông hiểu ngay sự việc.
Cùng với tiếng thét, Trịnh Tú thúc con chiến mã Ô Truy ngày xưa đoạt được của tướng triều đình Lê Hoạt Hoàng, đã bay lên mở đường cho đạo quân tháo chạy. Hai tướng Lê Hoàn, Đỗ Tuấn Kiệt nghe Trịnh Tú thét rồi thấy con ngựa đen bóng bay lên bỏ chạy, thì hai tướng cũng vội hô quân mau mau tháo lui.
Trận “Nhất tự trường xà” của tướng Hoa Lư, may mà giăng rộng trấn suốt mặt Đông Bắc cứ doanh Xuân Lâm. Cho nên khi lui lại không mấy bị dồn ép hỗn loạn, hai đầu trận có thể an toàn triệt thoái. Còn trung quân do tướng Lê Hoàn cai quản thì chính là nơi để trâu trận của Tế Giang nhắm tới công kích.
Tình cảnh thật nguy cấp, ba tướng Hoa Lư thúc ngựa băng băng chạy ngược lên phía Bắc. Cả đạo quân mười bốn nghìn người như sóng biển tràn theo, quân kỵ lần bước quân bộ vượt lên trước, quân bộ chậm chạp, tình cảnh mới thật là thê thảm!
Con Ô Truy của Trịnh Tú đang băng băng mở đường lui binh. Ông ngoái cổ lại nhìn trận trâu xem sự thể thế nào thì kinh hãi đến rụng rời tay chân. Cả một đàn trâu đồng không biết bao nhiêu, đang ầm ầm chạy tới. Bây giờ đã trông thấy thật rõ. Cứ như thế này thì cả đạo quân Hoa Lư có khi tan nát hết, tướng quân tay vừa co cương cho con Ô Truy gấp bước lên nữa, thì thần linh chợt lóe trong đầu. Tướng quân kéo cương Ô Truy như cánh diều không thể nào nỡ lòng tìm cách thoát thân để cho chúng binh của mình bị hãm khốn trong trận trầu khốc liệt của Tế Giang!
Giữa tiếng ầm ầm của hơn ngàn chân trâu đang đạp đất phóng tới, tiếng hò hét của đạo quân kinh hoàng triệt thoái. Tướng quân Trịnh Tú nhón người vận hết sức thét lớn lên:
- Kỵ binh! Chiến đấu!
Tiếng thét át tất cả mọi tiếng động chẳng khác nào như một tiếng sét vừa nổ ngay cạnh tai. Hai tướng Lê Hoàn, Đỗ Tuấn Kiệt bừng tỉnh cũng giạt ngựa quay trở lại. Đến lượt Đỗ Tuấn Kiệt thét:
- Kỵ binh theo ta!
Tướng quân Lê Hoàn giọng nói vốn trầm mà ấm, tự biết lúc này ông có ra sức hò hét cũng không ai nghe được. Tướng quân thúc con chiến mã sắc đen như vệt khói bay đi. Tướng quân bảo quân hãy nhất loạt kêu to:
- Quân bộ lui lại, quân bộ lui lại! Quân kỵ tử chiến! Quân kỵ tử chiến!
Lệnh của Lê Hoàn ban ra, cả đạo quân đang ầm ầm tháo lui tự dưng như dòng nước trôi mạnh, chợt có nhiều vật cản lại. Binh chia đôi ngả: Quân kỵ nhất tề quay ngựa lướt theo các chủ tướng, quân bộ tiếp tục triệt thoái lên phía Bắc. Đường triệt thoái lúc này không còn bị vướng như trước nữa, trận Trường Xà từng quãng giãn ra.
Ba tướng Hoa Lư quyết chiến với trận trâu để cứu binh nhà, bỏ chạy là chết cả.
Trịnh Tú với chiến mã Ô Truy hiếm có ở đời đã bay lên trước, bỏ xa dần quân kỵ đang kéo theo. Chiến binh Hoa Lư rạp mình trên lưng ngựa, ai cũng hiểu là chiến trận cực nguy hiểm, nhưng nhìn tình hình thì đủ biết tinh thần và quân kỷ của binh Hoa Lư thật tuyệt vời. Trước cái chết thế mà không ai chùn bước!
Bầy trâu trận của Áo Ly đã tới nơi, trống trận ở phía xa xa vẫn có lúc dồn dập có lúc khoan thai. Trống trận thay đổi cũng làm cho bầy trâu vào trận thay đổi. Bây giờ thì Trịnh Tú là tướng đi đầu đã trông rõ những con trâu sừng cột gươm dài dao nhọn. Giữa hai sừng lại còn cây giáo dài chĩa ra, mười phần không khiếp! Tướng quân nghiến răng, không còn đường lui lại. Trong một thoáng cực nhanh tướng quân đã nhìn thấy hình ảnh quân kỵ của mình chết thảm trong trận này trước bầy trâu trận.
Trịnh Tú tin chắc ở con ngựa thần và tay gươm của mình. Tướng quân thét lớn:
- Tránh đường trâu chạy! Len vào giữa!
Ông chỉ kịp kêu như vậy thì tay gươm đã hoa lên. Ngay từ đầu, tướng quân đã phải tận lực thi thố tài nghệ của “Hoa Lư kiếm pháp”. Gươm dài như kéo dài thêm ra, mở rộng phạm vi sát phạt. Tướng quân ra sức chém bay những gươm đạo giáo nhọn cột ở đầu trâu, cốt tránh cho quân kỵ của ông bớt được nguy hiểm. Bầy trâu ầm ầm xô tới, Trịnh Tú như lún sâu vào trong trận.
Ngay lúc ấy, đến lượt Lê Hoàn với con Ô Truy xông vào trận trâu với gươm Thụ Thiên. Thép lấy từ núi Khâu Hoắc, huyện Cam Hoa, luyện theo phép phối âm dương một trăm ngày trên đỉnh núi. Sau lại đem ngâm xuống nước Ao Tiên trên đỉnh Khâu Hoắc Sơn, nhờ mây phủ làm màn che nắng cũng đủ trăm ngày nữa. Thanh gươm quý do đạo sĩ họ Khôi rèn đúc từ thời Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ. Lưu lạc qua biết bao tay hào kiệt trong thiên hạ đến thời nay thì lọt vào tay Lê Hoàn. Tên gươm là Thụ Thiên, sắc bén có thể gọt đá cắt gang nhẹ nhàng như cắt chuối chín. Gươm báu tung hoành giữa trận trâu chỉ trong chớp mắt là đã giết được mấy con, nhưng không làm sao cản được bầy trâu hung dữ lạ thường. Gươm báu với chiến thần mã cũng chỉ đủ để bảo vệ được cho Lê Hoàn không bị bầy trâu giết chết.
Còn tướng Đỗ Tuấn Kiệt vốn là tùy tướng giữ cờ hiệu của soái tướng Lê Hoàn trong cuộc Bắc phạt thu phục Tế Giang. Vốn người ở chân núi Hạng Đàm, phía trên ngã ba Bạch Hạc. Dòng dõi thổ hào, tính nết hết sức cương trực, hấp thụ khí thiêng rừng núi thừa hưởng khí huyết của cha ông cương cường, giỏi nghề võ. Rất được Lê Hoàn thương yêu. Kiệt xử ngọn búa đồng nặng sáu mươi cân cán bằng bạc rất lợi hại. Nay vào trận, thấy ngay trước mắt chưa biết phải đối phó thế nào với bầy trâu, tai đã nghe tiếng thét của Trịnh Tú thì chợt hiểu ra. Liền tay búa mở đường như búa thiên lôi đập trâu trận dán hộ phù linh Ba Tư Hỏa Thần Giáo, gục ngã ba bốn con liền. Trâu trận ngã chết, Đỗ Tuấn Kiệt mắt thấy ngay hai đạo quân bùa xanh đỏ dán ở bụng trâu, thì kinh hãi tay búa khựng ngay lại. Lập tức một con trâu lớn ầm ầm xô đến, ngọn giáo nhọn giữa đầu trâu xốc thẳng vào bụng Kiệt, đem Kiệt băng băng chạy đi.
Nguyên Đỗ Tuấn Kiệt gốc người thổ dân miền núi nhiều mê tín từ nhiều đời thấm sâu vào tâm hồn. Nay vào trận giết trâu thấy bùa thì sợ hãi cho là mình đã giết trâu thần. Vì thế tinh thần hoang mang tay búa dừng lại nên mới mang họa!
Lê Hoàn vào trận, gươm báu Thụ Thiên tung hoành như vũ bão cũng chỉ rẽ được bầy trâu ra chứ không thể cản nổi chúng. Mắt Lê Hoàn luôn luôn quan sát trận thế, thấy tùy tướng của mình tung hoành trong trận vững vàng thì yên bụng. Nhưng chợt lại thấy Đỗ Tuấn Kiệt bị trâu đâm trúng một giáo đem cả xác đi theo, thì Lê Hoàn hồn vía lên mây. Tay cương tự động kéo nghiêng thúc vó ngựa thần như tia chớp vọt đi cùng với thanh gươm báu. Lê Hoàn xả một đường gươm cực mạnh chém rụng đầu con trâu khiến xác Đỗ Tuấn Kiệt bị tung lên. Hoàn nhân đà ngựa xốc tới gươm lại xỉa ra ngập vào đầu con trâu nhấc bổng lên. Rồi Hoàn ôm lấy Đỗ Tuấn Kiệt với cả đầu trâu và ngọn giáo với hai lưỡi gươm bén cột ở hai sừng trâu. Cứ thế Lê Hoàn tay gươm không dám chậm, nén đau đớn trong lòng cố hét to:
- Lui binh! Lui binh!
Tiếng hò của Lê Hoàn không lớn, nhưng quân kỵ của ông đang tận lực chống trả bầy trâu trận cũng đã nghe thấy, lập tức chung quan hô lên báo lệnh. Trận chiến dù quân kỵ Hoa Lư dũng mãnh xem thường cái chết, theo chủ dốc hết lực ác chiến với bầy trâu, cũng không làm sao hơn được bầy trâu. Nhiều người đã bị chết vì gươm đao giáo nhọn, hay bị trâu xéo chết. Tình cảnh thật bi thảm, thế mà kỵ binh vẫn không chịu bỏ chạy, cho đến khi có lệnh của soái tướng Lê Hoàn!
Xa xa, tướng Trịnh Tú với tay gươm “Thiên hạ đệ nhất kiếm” mới đầu vào sâu trong trận, sau thấy chẳng ích lợi gì mà phía sau kỵ binh của mình thì đang bị nguy khốn. Ông cho thần mã Ô Truy quay trở lại, tay cương giật mạnh cùng với hai gót chiến hài thúc như búa bổ vào sườn khiến cho con thần mã hét lớn một tiếng át cả tiếng động ầm ầm, bốn vó nhấc bổng đạp bừa lên lưng lên đầu bầy trâu bay ngược trở lại. Tướng quân Trịnh Tú cùng với con thần mã lúc ấy chẳng khác nào như tướng nhà Trời dũng mãnh mà đẹp chưa từng bao giờ có trận chiến nào lại thấy có hình ảnh như vậy! Tà áo chiến vải thô dày của ông đẫm máu trâu thế mà cũng tung bay lên, quả thật Trịnh Tú là hổ tướng hiếm có ở đời.
Kịp khi nghe tiếng quân hô “Lui binh”. Trịnh Tú biết là lệnh của Lê Hoàn, ông càng thúc cho con thần mã bay nhanh hơn nữa. Bốn vó Ô Truy dường như chỉ điểm nhẹ lấy điểm tựa trên lưng trên đầu trâu mà lướt đi. Chớp mắt Trịnh Tú đã chặn đầu bầy trâu, ông đã thấy Lê Hoàn!
Trinh Tú khiếp hãi, rồi tức thì giạt ngựa chẹn ngang đầu bầy trâu. Tay gươm múa lên hào quang loang loáng như bão tuyết chém bay bao nhiêu là gươm đao, giáo nhọn, sừng trâu bay vọt lên như lá khô gặp trận gió mạnh cuốn tung. Trịnh Tú đã cứu được nhiều phần kỵ binh của ông.
Lê Hoàn hô quân kỵ theo bộ binh gấp lên sườn núi trước mặt để tránh bầy trâu. Kỵ binh vừa lui vừa tiếp tục chiến đấu.
Cùng lúc ấy, trong trận Tế Giang ở xa xa đổi khác, bầy trâu trận dừng bước, bụi lại vẫn mù trời. Tế Giang đã ra trống lệnh cho trâu trận ngừng cuộc chiến. Kỵ binh Tế Giang còn đang theo sau bầy trâu cũng quay cả trở lại.
Lúc ấy, mới vào đầu buổi sáng, nắng xuân đẹp vô ngần vàng óng, trên sườn núi đen kịt binh Hoa Lư lánh nạn! Trận chiến không lâu, thế mà thế trận “Nhất tự trường xà” của tướng Lê Hoàn đã tan nát vì bầy trâu trận!
Tướng quân dừng ngựa, Trịnh Tú cũng vừa tới. Hai tướng chẳng kịp nhìn nhau thì Lê Hoàn đã đặt cái đầu trâu với xác tướng Đỗ Tuấn Kiệt xuống. Ngọn giáo nhìn xuyên suốt giữa bụng Kiệt. Xác ông ghim chặt vào đầu con trâu giữa hai sừng còn hai lưỡi gươm đẫm máu. Hai tướng cùng đám quân xúm quanh không ai nói một lời. Nước mắt Lê Hoàn bỗng đổ xuống, ông nức nở chẳng thốt lời nào.
Trịnh Tú thẫn thờ giơ gươm cắt ngọn giáo kéo xác Đỗ Tuấn Kiệt ra. Kiệt chết hai mắt còn mở trừng trừng có vẻ kinh hoàng! Trịnh Tú xách đầu con trâu quăng xuống chân núi, sửa sang lại áo quần cho Kiệt, rồi cùng với quân khoét đá làm huyệt chôn xác tướng Đỗ Tuấn Kiệt ở sườn phía Nam gần dưới chân rặng núi Lạn Kha ở mé Tây. Tú lại mượn gươm báu Thụ Thiên của Lê Hoàn vạch lên đá lớn hàng chữ: “Hoa Lư dũng tướng Đỗ Tuấn Kiệt chi mộ”. Rồi đem phiến đá ấy đặt lên mộ để ghi nhớ, ông không viết là Kiệt chết trận.
Còn Lê Hoàn chiến bào thấm đầy máu trâu với máu Đỗ Tuấn Kiệt. Khi thấy mồ Kiệt đá đã xếp kín xong cả, mới bảo với Trịnh Tú:
- Tôi không hiểu lúc ấy ông Kiệt đang tung hoành tốt lắm, cứ như thế thì chẳng bao giờ lại có thể bị nạn được. Thế mà không hiểu vì sao tự dưng ông ấy dừng tay búa để đến nỗi chết thảm như thế!
Hai ông không hiểu được nguyên nhân cái chết của tướng Đỗ Tuấn Kiệt là phải, nhưng hai ông thì biết đạo quân của mình bị thiệt hại nhiều lắm!
Kiểm điểm lại cả hai quân kỵ bộ, hai tướng thẫn thờ: Kỵ binh mất đến gần sáu trăm người, bộ quân may được quân kỵ che chở vả lại quay ngay lại từ đầu kịp tránh lên sườn núi nên chỉ thiệt hơn hai trăm! Như thế, chỉ một trận chẳng giết được một người lính nào của Tế Giang, Hoa Lư đã thiệt một tướng với gần nghìn quân, ngựa chiến, thêm hơn ba trăm người nữa bị chiến thương. Chưa bao giờ Hoa Lư lại có trận bị thảm bại đến thế này! Cả đạo quân lớn tạm trấn đến đen cả một sườn núi thấp, thế mà chẳng có tiếng người nói, chẳng một ai còn muốn lên tiếng. Trận chiến bại này mới thật là bi đát!
Đứng trên cao, bên cạnh mộ đá vùi thây tướng Đỗ Tuấn Kiệt. Hai tướng Lê Hoàn, Trịnh Tú lặng lẽ nhìn xuống khoảng trống tinh mơ còn ngập cỏ cây bờ bụi ngút ngàn, rồi rừng đen mờ ở phía xa. Bây giờ nắng lên cao soi tỏ một vùng không còn một ngọn cỏ một bụi cây nào nguyên vẹn, vó ngựa chân người, móng trâu trận giày xéo đến tan nát trống trải. Rải rác xác người, xác ngựa, xác trâu chỗ nhiều chỗ ít. Trong cảnh im lặng ấy của chiến địa, đứng trên cao này thoảng ngửi thấy mùi máu tanh. Chưa bao giờ chiến địa lại lạ lùng như thế này!
Tướng quân Lê Hoàn truyền trông nom cho các chiến binh bị thương, tìm chỗ tránh được nắng sắp lên cao mà tạm ẩn. Rồi bảo Trịnh Tú chấn chỉnh lại hai quân, chia làm hai phần. Quân kỵ xuống cả dưới thấp hơn lập trận phòng ngự, quân bộ chuyển lên cao đi quá sang phía Đông làm thế trợ chiến, đề phòng Tế Giang lại mở trận.
Lê Hoàn cho tế tác hết sức gấp đường xuống Nam trình báo để Quân sư và Động chúa rõ mọi việc. Tế tác đi rồi, Lê Hoàn một mình một ngựa xuống xem lại chiến trường, nhìn binh nhà chết trận thảm thương thì lại không ngăn nổi nước mắt. Xem xác trâu bị giết con nào sừng cũng cột gươm đao, đầu cột giáo nhọn, bụng con nào cũng dán hai đạo bùa xanh đỏ thì lấy làm lạ. Xem hồi lâu Lê Hoàn không thấy có con trâu nào dưới bụng lại không dán bùa. Ông nghĩ mãi không hiều thể là thế nào, liền gỡ lấy hai lá cẩn thận giữ lấy.
Trở lại, Lê Hoàn đưa cho Trịnh Tú xem các lá bùa ấy, rồi bảo:
- Tôi chắc đây là bùa phép gì đấy của Tế Giang dán cho đám trâu. Tôi nghe nói có người biết pháp thuật, lập bùa linh dán vào lưng, hoặc treo trước ngực thì cung tên gươm giáo cũng không giết chết được. Ở đây con trâu nào cũng dán bùa mà vẫn bị chết thì là thế nào?
Trịnh Tú bảo:
- Tôi cũng có nghe về bùa phép linh thiêng ấy. Người ta còn bảo người có bùa ấy dù bị giết thì bảy ngày sau cũng sẽ sống lại, việc ấy tôi không tin. Người ta hay con vật gì đã chết thì chỉ còn có việc đợi cho thịt tan xương nát mà thôi, chứ làm sao sống lại được! Bầy trâu trận của Tế Giang dán bùa dưới bụng, những hình hay chữ gì vẽ viết trên đấy trông chẳng giống bùa phép của bọn thuật sĩ pháp sư, cũng chẳng thấy có chút gì là bùa chú của nhà Phật như thường thấy. Thế thì bùa này không phải là để cho bầy trâu sẽ sống lại, mà chắc là để cầu muốn một điều gì đây!
Hai tướng bàn mãi cũng không làm sao hiểu được. Rồi Trịnh Tú bàn:
- Tế Giang cự chiến lại ta, trước sau chẳng thấy bóng một tên binh tướng nào cả, mà bầy trâu thì chết thật. Như thế rõ ràng không phải là âm binh thần tướng gì cả. Giả sử như Tế Giang lại mở trận nữa, lại là trận trâu như vừa rồi, thì ta phải đối phó thế nào? Ta nên đề phòng trước là hơn.
Lê Hoàn đáp:
- Phải, chẳng có bùa sinh tử hay âm binh thần tướng nào cả, nhưng có chiến trận trâu điên. Tế Giang chưa cho binh mã vào trận, như thế là nó sẽ còn mở nhiều trận nữa. Sau trận trâu, không thấy nó mở tiếp trận khác, tôi nghĩ một là nó sẽ dốc hết lực vào trận đánh thứ nhì. Làm sao để có thể lại cho trâu vào trận được mà quân mã bộ cùng vào trận theo chứ không như trận trước chỉ có trâu. Hai là, ở phía Nam, Động chúa cầm binh với ông Đinh Điền đã phá xong cứ doanh của nó khiến cho Lữ Đường không dám ở lại phủ đường. Như thế cứ doanh phía Bắc của nó là Xuân Lâm cũng không dám ở lại, sợ là sẽ bị quân ta hai mặt Bắc Nam ép vào giữa. Cho nên nó chưa mở trận, hay không mở trận nữa là thế!
Tướng quân Lê Hoàn luận việc chiến trường quả thật sắc bén. Ông đã đúng được phần nào, nhưng cái đúng của ông vẫn là cái sai mà chẳng tướng nào lại có thể biết được! Tướng quân nói xong, sai tế tác gấp vào chiến trường tiến sâu xuống phía Nam xem trận doanh Xuân Lâm của Tế Giang động tĩnh thế nào.
Ở doanh trấn Xuân Lâm, khách lạ là bạn lớn của văn sĩ Tổ Sinh Bá, tướng trấn doanh Bồi Thành Đức cùng hết thảy các tướng khác của Tế Giang đem binh dàn ra. Đợi xem Ngưu Ma Vương trận chuyển động thế nào. Đến khi Áo Ly truyền nổi trống trận, theo hiệu cờ của chính ông ta chỉ huy, thì các tướng Tế Giang tận mắt thấy sự lạ: Bầy trâu giữ ở phía sau đồi trận, nghe tiếng trống thì mới đầu có vẻ bứt rứt, dậm chân nghểnh cổ, có con kêu rít lên từng hồi. Đến khi Áo Ly ra lệnh cởi dây buộc, thay đổi hiệu trống, tức thì bầy trâu như biển lớn chợt dậy sóng cuốn đi ào ạt. Bầy trâu đông nghịt chen nhau chạy, thế mà hình như vẫn có hàng lối. Tiếng vó đập xuống mặt đất nhịp nhàng ăn khớp với tiếng trống trận thật lạ lùng, rầm rập mà rất khít khao như thể chính những tiếng vó nện ấy mới là lệnh xuất chiến, chứ không phải là lệnh phát ra từ giàn trống trên mấy đỉnh đồi nhỏ!
Trâu trận đi trước, tướng Bồi Đức Thành lập tức cho lệnh quân kỵ kéo theo, nhưng cách một khoảng xa xa để phòng nghịch biến. Còn quân bộ thì giữ trận thủ doanh không vào trận. Trên đồi tuy chẳng cao nhưng cũng đủ để các tướng Tế Giang mới đầu còn thấy bầy trâu vào trận. Sau chỉ thấy bụi vẩn mù trời, cả một vùng bao la phía Bắc bên ngoài rừng là khoảng trống thật rộng lớn, cỏ cao cây bụi lúp xúp. Chẳng mấy chốc tế tác theo trận ở hai mặt Đông Tây giục ngựa liên miên trình về: Trâu thần vào trận tàn sát binh Hoa Lư, tướng Hoa Lư đã phải lui binh bỏ chạy!
Tin tiếp tục trình về, các tướng Tế Giang mừng như đang dự hội lớn. Tiếng cười tiếng nói chen lẫn tiếng trống trận theo hiệu cờ của kỳ nhân Áo Ly vẫn tiếp tục. Tướng nào vẻ mặt cũng hân hoan vui sướng. Văn sĩ Tổ Sinh Bá lại càng khoan khoái vênh váo hơn nữa. Chỉ có văn sĩ Trang Tử Đồng thoạt đầu thấy việc lạ cùng kinh ngạc lắm, sau thì có vẻ hết sức đăm chiêu nghĩ ngợi, cố moi óc lục trong trí nhớ xem ở đâu có những việc lạ như thế này để hiểu việc hôm nay! Nghĩ mãi mà không được, Trang Tử Đồng đành tạm thôi nghĩ để cùng mọi người theo dõi xem Ngưu Ma Vương trận kết quả thế nào.
Lúc này, từ trên mấy đỉnh đồi nhỏ, các tướng Tế Giang chỉ còn thấy bụi mờ phía Bắc. Tuyệt nhiên không còn trông thấy chút cảnh vật nào, nhưng tai thì vẫn còn nghe thấy tiếng ầm ầm kỳ lạ của vó trâu đạp đất.
Trang Tử Đồng cũng như các tướng khác chẳng phải đợi lâu, tế tác đã về trình: Tướng Hoa Lư một người thiệt mạng, hai người ra sức chống trả lui được binh lên triền núi tránh nạn.
Nghe trình, Áo Ly liền bảo tướng Bồi Thành Đức mau mau cho lệnh quân kỵ trở về ngay, rồi thay đổi hiệu cờ. Trống trận huyền diệu cũng đổi giọng, chẳng mấy chốc đã lại nghe thấy tiếng vó trâu đạp đất ầm ầm. Bụi mờ vẩn cao nhanh chóng dày đặc, và rồi là âm thanh rầm rập như sấm lăn trên trời cao, mảng biển lưng trâu trận đen sì đã thấy rõ.
Quân kỵ rẽ ra hai đường Đông Tây lui về trận, nhường khoảng giữa mênh mông cho trâu trận trở về.
Trống trận khoan thai, ngọn cờ trắng bay bay trong nắng. Bầy trâu đi trận về bỗng lại thấy thật hiền lành, nhiều con mình đẫm máu có con gươm trên sừng, giáo trên đầu còn dính cả da thịt hay áo quần tử sĩ Hoa Lư, một số bị thương.
Thế là trận Ngưu Ma Vương lần thứ nhất cả thắng. Chưa một quân nào của Tế Giang vào trận mà đã giết được binh tướng Hoa Lư nhiều lắm thế, cả doanh Xuân Lâm hò reo ca ngợi thần nhân Áo Ly, ca ngợi thần trận, tung hô vạn tuế Sứ quân. Chiến thắng đánh lui hẳn binh tướng Hoa Lư có lẽ chỉ có Tế Giang là làm được, và đây là chiến thắng đầu tiên của một Sứ quân đả bại Hoa Lư! Làm sao binh tướng Tế Giang lại không vui mừng có thể phát cuồng lên được!
Áo Ly cùng các tướng kiểm điểm đoàn trâu, thấy chỉ thiệt hơn sáu chục con, bị thương khoảng hai mươi tám con, như thế kể như trận trâu vẫn còn nguyên sức để lại vào trận. Vì thế Áo Ly nói với Bồi Thành Đức:
- Mới chỉ vào trận, ta đã cả thắng. Vậy hãy mau mau bàn việc tiến quân!
Thế là các tướng kéo nhau vào sảnh doanh hội nghị, ông nào tinh thần cùng vô cùng phấn chấn. Bao nhiêu lo sợ bồn chồn khi nghe các tiền doanh mau lẹ bị Hoa Lư đánh chiếm lúc đầu. Bây giờ dường như tan biến trong lòng các tướng! Sảnh doanh râm ran tiếng cười tiếng nói chẳng khác nào như doanh đang buổi mở hội vui.
Khách thần Áo Ly lên tiếng trước:
- Hoa Lư vừa mới thua một trận, thiệt tướng thiệt quân. Lúc này tinh thần nó thế nào cũng đang hoang mang khiếp sợ, ta nên gấp mở trận liên tiếp đánh không cho nó kịp lấy lại hơi thở. Vả lại, nó là quân viễn chinh bị thua thế nào cũng vội vàng báo về cho chủ nó biết để cầu cứu, tiếc rằng doanh ta không có lực để đón bắt hết bọn tế tác của nó không cho mang tin đi! Tuy thế, một mình trấn doanh Xuân Lâm này với trận phép Ngưu Ma Vương của ta, cũng đủ giết hết binh tướng Hoa Lư rồi. Nay, nó không có đường chạy, trong lúc gấp rút cùng đường thì trèo lên cao tránh chết. Để lâu nó có thì giờ dàn trận, trên cao có thể dễ dụng trận đá, dễ đánh hỏa công. Trận đá thì phải có thì giờ để xếp đặt, hỏa công thì phải trữ sẵn nhiên liệu. Hai thứ ấy lúc này nó không có, không thuận tiện để thi hành. Ta đừng cho nó kịp trở tay, phải tiến đánh ngay mới được! Lại nữa, bình nó xuất chiến đánh trấn doanh Xuân Lâm, thế nào nó cũng tưởng là dễ dàng chiếm được như đã chiếm các tiền doanh trước, vì thế lúc này nó bại trận phải chạy lên núi, lương thực tất thiếu thốn. Ta tuyệt đường lương thực của nó thì chẳng cần đánh nó cũng phải tan!
Luận về chiến tình của Áo Ly quả thật sắc bén lợi hại, các tướng Tế Giang nghe mà thấy trong lòng càng như mở hội. Tướng Bồi Thành Đức nói:
- Thưa ngài, nhờ phép thần bùa linh thiêng của ngài mà ta cả tháng, dồn được binh tướng Hoa Lư lên sườn núi chờ chết. Ta nên tiến quân ngay là điều rất phải! Thưa ngài, trâu trận của ngài có thể chiến ở trên sườn núi cao được không?
Áo Ly đáp:
- Trâu không bằng ngựa, đằng sơn khai trận vừa khó vừa bất lợi nhiều lắm. Trận đầu nó chưa biết cho nên mới thiệt hại lớn, nếu ta lại sai trâu thần vào trận thì tôi chắc là nó sẽ cố thủ không xuống đâu. Chi bằng ta phải dùng đến kế khác mới được.
Bồi Thành Đức lại hỏi:
- Ngài đã nói đến mưu kế, vậy chắc là ngài đã có mưu thần diệu kế rồi!
Vẻ mặt Áo Ly không vênh vênh, huênh hoang bằng Tổ Sinh Bá. Văn sĩ tranh lời nói:
- Đã hẳn là cố hữu của tôi có kế hay! Cho dù nó có chạy lên tận đỉnh núi cao, xuống sâu dưới đáy vực, thế nào cũng phải chết!
Tổ Sinh Bá nói nịnh chứ chẳng nói ra được điều gì đáng nói. Áo Ly như chẳng để vào tai những lời khó nghe của Tổ Sinh Bá, đáp:
- Như tôi vừa nói, nó viễn chinh trong lúc gấp rút cùng đường phải chạy lên núi cao, lương thực thế nào cũng khó khăn. Nó đã khó khăn ta làm cho nó càng khó khăn thêm bằng cách: Nổi lửa đốt dưới chân núi xua nó càng phải lên cao không có đường xuống. Trong khi ấy ta dàn trận đợi nó tuyệt lộ phải liều chết xuống núi vượt lửa thoát thân, lúc ấy ta mặc sức chém giết nó!
Thật là diệu kế tuyệt độc, quả nhiên Áo Ly tinh tường về cách đối phó với chiến trận! Các tướng Tế Giang nghe thế thì xuýt xoa khen là thần mưu hiếm có.
Bồi Thành Đức lại hỏi:
- Như vậy, ngài bảo ta nên dàn trận như thế nào để đợi nó?
Áo Ly nghiêm giọng:
- Giết một đạo quân của Hoa Lư, chẳng phải là điều khó, cũng chẳng phải là điều ta mong muốn! Triệt hạ trọn vẹn Hoa Lư, triệt hạ trọn vẹn các Sứ quân khác để về Cổ Loa đây mới là việc lớn? Thế nhưng, phá xong được đạo binh Bắc Xuân Lâm này của nó thì vững được phủ đường. Quay sang phía Tây thu hồi lại các nơi đã mất, tràn xuống Bình Kiều là vùng đất lẽ ra phải thuộc về ta, rồi sau đấy lần lần lấy lại cả thiên hạ mới là đại cuộc. Còn bây giờ, nếu ta lại cho trâu thần xuất trận thì chắc chắn nó cố thủ không xuống núi, mà đã đốt chân núi thì nó lại phải tràn xuống thoát thân. Ta bầy trận “Tây phục Mã Trận, Đông trấn Bộ Quân, rồi mới sai trâu thần ở phía Nam kéo lên”. Tôi nói thế tướng quân hiểu rồi chứ?
Các tướng Tế Giang lại lần nữa xuýt xoa khen ngợi bàn tán. Ông nào cũng gật gù ra vẻ thán phục khách lạ Bắc phương quá chừng!
Tướng Bồi Thành Đức là người thống quản việc quân ở vùng phía Bắc giang sơn Tế Giang của Sứ quân Lữ Đường, lẽ ra phải là người quyết định việc bài binh bố trận, đề quyết chiến sách phòng giữ hay đánh địch. Nay lại để cho người lạ mới chỉ biết mặt chẳng quá đôi ngày đứng ra chỉ xử việc quân trong tình thế như thế này, quả là một lỗi lầm lớn!
Tướng quân nghe lời Áo Ly tức thì huy động quân kỵ kéo hết sang phía Đông. Dựa vào địa thế bằng phẳng rộng rãi dễ cho kỵ binh xung trận, sai tướng Phạm Đồng Văn cai quản đạo quân kỵ này. Vâng lệnh tướng soái, Phạm Đồng Văn tức thì vác búa sắt đi duyệt quân sửa soạn kéo đi ngay.
Đại tướng Đồng Văn ra khỏi nghị sảnh, tướng quân Bồi Thành Đức lại gọi Phan Minh Hồ sai mang hết quân bộ gấp đường về phía Tây, trấn ở nơi thật xa dòng Nghĩa Trụ. Tức là uy hiếp ngay vùng đất vừa mới bị binh tướng Hoa Lư đi qua chiếm giữ, muốn chặn đường thoát lui của bọn Lê Hoàn chạy lửa từ trên triền núi đổ xuống.
Đồng Văn lĩnh mệnh đi điểm quân ngay. Áo Ly lại bảo Bồi Thành Đức chấn chỉnh lại vùng gò Thất Tinh, xem xét lại các dàn trống trận, cờ hiệu.
Áo Ly bảo Bồi Thành Đức cho được đi thu thập hỏa liệu cho thật nhiều để đốt chân núi. Thành Đức sai tướng Võ Nguyên đi làm việc này. Cuối cùng, Áo Ly bảo Bồi Thành Đức:
- Như thế, binh ta dàn ra các mặt, không còn đường nào cho bọn Hoa Lư chạy thoát! Chỉ còn đợi hỏa liệu xong là ta hành động ngay!
Bồi Thành Đức cả mừng, hỏi:
- Như vậy, ý ngài nghĩ thì khoảng nào ta khai trận được?
- Giả sử như ngay trong lúc này binh các mặt của ta đã dàn ra xong, hỏa liệu đã có đủ, thì ta có thể vào trận được ngay. Nhưng, binh chưa xuất doanh, hỏa liệu chưa có, tôi tính cũng phải nửa đêm hôm nay hoặc muộn hơn một vài khắc là ta mở trận được rồi!
Nghe Áo Ly nói thế, Bồi Thành Đức tức thì ra lệnh cho các tướng ai nhận việc nào phải hết sức thi hành cho mau, càng sớm càng tốt không được bê trễ!
Các tướng lĩnh mệnh vốn đã rất hăng hái sau trận trâu đầu tiên cả thắng binh Hoa Lư. Nay nhận lệnh lặp trận mới rõ ràng là sẽ thật lớn lao tuyệt vời, ông nào cũng thấy như trong lòng đang có lò lửa cháy lớn, hăm hở muốn lên tiếng thúc giục chúng quân mà không được thì trong lòng lại càng thấy sôi nổi. Vì chúng quân chẳng một ai lại chịu nhường ai về nỗi niềm rạo rực phấn khích lạ thường về chiến trận sắp mở ra!
Chỉ có tướng Võ Nguyên lĩnh mệnh mang quân đi thu thập hỏa liệu thì cho dù quân đã hăng hái chẳng kém gì tướng. Nhưng việc này lại chẳng thể nào thi hành nhanh cho được, bởi lẽ hỏa liệu chẳng sẵn như quân binh đang có sẵn ở trong doanh. Thành ra Võ Nguyên mới huy động đến cả dân chúng quanh vùng, lệnh là “bao nhiêu những chất gì có thể dễ cháy, dễ bắt lửa đều phải cấp tốc đem nộp. Sai lệnh là tội chém đầu tại nhà!” Võ Nguyên vốn là thợ đá tính trầm tĩnh, thế mà lúc này cũng trở thành nóng nảy. Hai bàn tay từng làm cho ông được người đời mệnh danh “Thiết Thủ Thiên Vương” lúc nào cũng thấy ngứa ngáy chỉ thèm được chém, được băm cho tan đá nát cây mới chịu nổi sức thôi thúc ở trong lòng!
Võ Nguyên dữ dội như thế, cho nên bao nhiêu dầu đèn hay chất cháy dễ của dân đều bị thu hết, thậm chí đến rơm cỏ khô cũng thu sạch chẳng dành lại cho dân một cọng. Có nơi thấy mái tranh mới lợp óng ả Võ Nguyên cũng sai dỡ xuống, mặc cho dân mất nhà kêu than! Đến khi nắng chiều bắt đầu nhạt, thì hỏa liệu đủ thứ chất cao như núi, rơm rạ cỏ khô thu thập được nhiều không kể xiết! Thật là một kỳ công của một tướng thi hành mệnh lệnh đến thế là tuyệt đỉnh! Ngược lại, trăm họ vốn bình thường đã chịu cảnh chèn ép cướp đoạt ngang ngược của binh tướng thuộc hạ Sứ quân. Đến lúc này thì xem việc thu thập hỏa hiệu của tướng Tế Giang chẳng qua cũng chỉ như là thêm một tai họa nữa. Cho dù vàng bạc hay đồ cúng tế trên bàn thờ nhất định chẳng phải là hỏa liệu mà cũng bị lấy đi. Đàn bà con gái chẳng ai lại đem làm đuốc đốt giặc thế mà cũng bị bắt mất!
Kỳ công thu thập hỏa liệu của tướng Võ Nguyên được Áo Ly khen lắm, lập tức sai quân tải đi hết để sửa soạn đốt cả rặng núi Lạn Kha phía Nam!
Cùng lúc ấy, hai quân mã bộ đã sẵn sàng xuất doanh. Bồi Thành Đức nghe lời Áo Ly sai quân tải hỏa liệu cùng rơm cỏ khô đi trước, lại hẹn: “Đến trước giờ Hợi thì phải thi hành xong việc rải hỏa liệu ở chân núi. Chất rơm cỏ khô ở chung quanh, để cho Ngưu trận bắt đầu vào cuối giờ Tý!”.
Võ Nguyên vâng lệnh ra đi, kéo theo đoàn quân hỏa liệu, quân không đủ thì Nguyên lại sai vào các thôn xóm bao nhiêu thanh niên trai tráng hay người già mà còn khỏe mạnh bắt đem về hết. Lệnh là phải theo quân đi gánh cỏ rơm khô đánh giặc. Đầu năm chưa hết tháng Giêng, bá tánh phía Bắc Tế Giang không dưng bị họa lớn giáng xuống, tình cảnh thê thảm không làm sao kể hết được, nhưng cực khổ cũng không được mở mồm than khổ. Chỉ được phép lên tiếng ca ngợi Sứ quân cùng binh tướng của ngài là bậc nhân thần biết làm việc lớn, biết thương dân lo đánh giặc giữ vững phủ đường! Và bảo là trăm họ tự thấy hăng hái tranh nhau đi giúp việc quân, chẳng ai bị ép buộc! Thế là bao nhiêu ân đức của Bồi Thành Đức thi thố cho dân đều bị Võ Nguyên mà ra mây khói cả!
Kể đến bọn Lê Hoàn, Trịnh Tú hai người cùng cả đạo bài binh gấp đường chạy lên triền núi. Nhìn xuống chiến trường thì cả hai tướng trong lòng buồn vô hạn. Từng khắc mong đợi tin tế tác sai đi gấp trình về để Động chúa cùng Quân sư được rõ! Hai tướng thừa hiểu: Cho dù tế tác có đi nhanh bằng gió chăng nữa, cũng phải trước khi trời nhọ mặt người mới tới được đại doanh. Vậy mà ngay từ bây giờ hai tướng cũng vẫn ngóng đợi.
Đến lúc trời ngả về chiều, từ trên triền dốc không cao lắm hai tướng cùng cả đạo quân thấy rõ binh tướng Tế Giang đông như kiến cỏ kéo tới. Hai tướng lại tưởng là binh Tế Giang mở trận đánh lên núi, liền truyền quân sẵn sàng cự chiến. Đợi hồi lâu chẳng thấy quân ấy tiến lên, chỉ thấy tất cả lúi húi dưới chân núi. Nhìn ra xa lại vẫn thấy đông nghẹt những người gánh vác những gánh lớn, trời chiều mờ bóng thành ra chẳng thấy được rõ là thứ gì. Lê Hoàn, bảo tế tác thật cẩn thận chia nhau nhiều đường xuống xem binh Tế Giang làm gì.
Lê Hoàn lại bàn với Trịnh Tú:
- Lúc này binh tướng Tế Giang kéo đến, không tiến đánh ta tất là chúng đang dùng mưu gì? Dù thế nào chăng nữa, thì binh Tế Giang đã tới đây tức là không lo bầy trâu trận của nó, nó đi được mà không lo bị trâu trận giết, thì ta cũng có thể dốc binh xuống đánh chúng được!
Trịnh Tú cho là phải, lập tức lên ngựa hô quân kỵ chực kéo xuống thì tế tác hấp tấp chạy lên trình: “Thậm nguy! Binh Tế Giang đang rải hỏa liệu ở chân núi!”. Nghe tin, Trịnh Tú bàn với Lê Hoàn:
- Như thế là nó định đốt núi không cho ta chạy, mà không chạy xuống thì chẳng lẽ chịu chết cháy cả ở triền núi thấp này hay sao? Tôi nghĩ ta phải đem hết quân xuống ngay mới được!
Lê Hoàn nghĩ ngợi rồi đáp:
- Ông nói đúng, chúng định phóng hỏa thiêu cả triền núi, cỏ khô đầu xuân cho dù cây có tươi xanh cũng phải cháy thành than cả. Ta ở trên này không khác gì thịt nướng trên lò than đỏ! Nhưng, khi binh nó kéo đến rắc hỏa liệu, tất nó phải nghĩ đến lúc ta thấy nguy xuống đánh nó. Thế mà nó có phần ung dung, không lo sợ, lại còn làm ra vẻ sơ hở lộ liễu để cho ta thấy. Như thế là nó đã có phục binh yểm trợ để lừa hay phòng lúc ta xuống! Hấp tấp xuống ngay là ta lọt vào bẫy của chúng đấy!
Trịnh Tú chưa kịp nói gì thêm, quân kỵ đã lên ngựa đợi chờ hai tướng quyết định, thì tế tác đã lại hấp tấp kéo lên trình: “Tế Giang đem quân rải hỏa liệu, lại bắt chúng dân đi theo phục dịch gánh vác. Chúng tôi lén hỏi dân thì họ nói: Cứ một quân tính ra có đến bốn dân phải phục dịch gánh vác rơm cỏ khô theo quân, thành ra dân chúng đi gánh hỏa liệu đông cả mấy nghìn người!”.
Hai tướng nghe tế tác trình thi kinh hãi. Lê Hoàn bảo:
- May thật! Sớm một chút binh ta xuống núi, làm sao tránh khỏi được thảm họa chết chóc cho dân! Động chúa ta vẫn nói binh ta là binh nhân nghĩa, xả thân cứu muôn dân, gìn giữ giang sơn. Từ lúc ra khỏi Hoa Lư xuất chinh trăm trận, chưa bao giờ lại mang họa đến cho dân lành! May thật! Ta chưa kịp xuống núi! Giặc Lữ Đường ác độc, xem rẻ mạng con dân, lấy khổ ải đày đọa bá tánh để giữ cái ghế Sứ quân giặc cướp của mình, chúng đáng tội chết!
Lê Hoàn vừa dứt lời, tế tác lại như gió thổi đến hổn hển trình: “Bẩm thậm nguy! Tế Giang đem quân kỵ trấn ở mặt Tây có ý chẹn không cho ta có đường triệt lui!”.
Hai tướng nghe trình thì lo lắng quá, quả nhiên Tế Giang đã có phục binh. Quân Hoa Lư xuống núi là bị phục binh ấy bất thần đánh ngay, nguy hiểm thật!
Hai tướng lo lắng chưa xong, tế tác lại hấp tấp đến trình: “Mặt phía Đông, Tế Giang trận quân bộ chiến, chực ở đấy là có ý chặn không cho binh ta thoát ra phía Đông”. Lần này thì hai tướng thật sự kinh hãi, trong quân Tế Giang có người tài bày trận. Hoa Lư xuống núi là bị hai mặt áp đánh ngay, hèn gì bọn rải hỏa liệu mới có thái độ ung dung lộ liễu như thế!
Trời chiều đã ngả màu tro, sắp sửa tối, hai tướng nhìn nhau ngao ngán chưa biết phải đối phó với tình thế này như thế nào?
Nhìn xuống chân núi, đám quân Tế Giang còn đang tiếp tục công việc, bá tánh gánh vác hỏa liệu cỏ rơm khô càng lúc càng nhiều, rõ ràng mở trận là chết dân vô tội nhiều lắm. Mà mở trận là trúng kế “lưỡng đầu thụ địch” của Tế Giang!
Trịnh Tú bảo:
- Hay là ta cho quân kéo hết sang phía Đông, vào hẳn phạm vi chân núi Bát Vạn rồi kéo xuống Nam. Như thế vừa giữ được quân, vừa đe dọa được phía Đông phủ đường. Nếu lúc ấy ở mặt Nam mà ông Đinh Điền vượt được Phục Tượng, đến sát được phủ đường. Thế nào Lữ Đường cũng phải bỏ chạy sang phía Đông, ở mặt ấy có Động chúa đang đem quân đi lấy Siêu Loại. Binh ta kéo đến thành ra lại vừa chặn được Lữ Đường, vừa giúp thêm được cho Động chúa, ông nghĩ thế nào?
Lê Hoàn hoang mang, chuyển cả đạo quân lớn thất thế như thế này sang phía Đông, chưa chắc đã an toàn kịp thoát hỏa kế. Vả lại như thế lỡ ra phạm lỗi lầm khiến làm rung động đến chiến kế lấy Siêu Loại của Quân sư thì sao? Hai tướng thấy rõ ràng tiến không được, thoái không được, mở trận lại càng không được. Nhìn trời bắt đầu tối thì trong lòng như có lửa lớn cháy dữ quên cả đói mệt, quên cả việc ăn uống của quân. Quân hiểu tình thế cũng chẳng một ai kêu ca, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng rên rỉ của quân bị thương nặng trong trận trâu hồi sáng!
Bóng tối vừa nhọ mặt người, tế tác lại như bóng dơi đêm bay đến gấp trình: “Động chúa Quân sư đã hay tin. Đinh Điền đã xong trận Phục Tượng. Động chúa đã vào phủ đường, Sứ quân Lữ Đường đã lánh ra Đông. Quân sư sắp tới rồi!”. Hai tướng nghe trình thì như người còn đang mơ ngủ, bàng hoàng vui lo lẫn lộn. Mặt Nam đã hoàn thành mệnh lệnh, mặt bắc làm hỏng chiến kế lại còn làm cho cả đạo quân lớn bị nguy ngập. Hai tướng quên cả lo sợ, bây giờ chỉ còn mừng vì “Quân sư sắp tới rồi!”.
Lê Hoàn hỏi vội:
- Quân sư ngài sắp tới, ngài có dặn ta điều gì không?
- Bẩm, tôi vâng lệnh tướng quân trình rõ về trận đánh. Quân sư bảo: Nhắc tướng quân cố tránh, không được mở trận, nếu binh Tế Giang tiến đánh cũng không được nghênh chiến! Phải cố tránh giao tranh!
Thật là đại hạnh, suýt chút nữa thì hai tướng chuyển quân, mở trận xuống núi! Từ xa mà Quân sư đã biết cả rồi hay sao?
Quân sư có biết hay không thì không biết, hai tướng còn đang vui mừng lẫn thắc mắc. Tế tác đã lại tới trình: “Quân sư lệnh gấp tin cho tướng quân hay: Nương vào bóng đêm, chuyển quân xuống thấp, giăng dài theo hướng Đông Tây, quân kỵ ở phía Tây, quân bộ sang Đông, rồi chờ lệnh!”.
Lại vẫn từ xa, Quân sư điều binh khiển tướng ứng phó với tình hình cực nghiệt, hai tướng nhìn nhau như cùng hỏi: Thần nhân thật chăng!?
Rồi hai tướng lập tức cho di quan theo lời dặn của Quân sư, trong lòng hai ông chẳng còn chút lo lắng nào về hỏa kế của Tế Giang ở dưới chân núi thấp. Hai quân mã bộ nghe tin và lệnh truyền, thì lại thấy hừng hực trong lòng. Quận sư đã lại đến, Quân sư đã lại có lời sai bảo! Tất cả đều tin ở Quân sư, như tin ở đại nghĩa của Động chúa. Như tin chắc đường tên thần của Hồ Tường Thụy một khi đã ra khỏi dây cũng là không thể sai đích!
Thế mới biết, người làm tướng phải làm sao dựng được niềm tin vững nhu núi lớn ở trong lòng chúng quân về mọi quyết định của mình. Ngồi xa ngàn dặm chẳng ra khỏi tướng doanh cũng nhìn thấu trăm việc. Vào trận là thắng, đã quyết là đúng! Tuy vậy, dường như bao giờ cũng còn có trời cao thêm thử thách!
Bởi thế, trước khi Động chúa lấy xong trấn doanh Phục Tượng, thì ở phủ đường Tế Giang Sứ quân Lữ Đường đã được biết về tình hình. Vội vàng thu thập tài sản, cùng với Minh Minh phu nhân có các tướng còn lại hộ tống đem hết quân binh rời phủ đường đến ngay cứ doanh đầm Cự Linh, rồi lệnh cho Hỏa Châu Bát Tràng phải sẵn sàng tiếp chiên yểm trợ.
Động chúa được tin trình đắn đo nửa muốn tới phủ đường cho dứt khoát mọi việc, nửa lại nóng lòng muốn lên ngay phía Bắc xem Lê Hoàn có việc gì hệ trọng đến nỗi Quân sư phải đi ngay như thế? Nhưng nghe lời các tướng nói là ở phủ đường Tế Giang, bá tánh hay tin Sứ quân đã bỏ chạy thì không những dã chẳng sợ binh lửa tràn đến mà lại còn ăn mừng chờ đợi Động chúa tới. Thậm chí có nơi còn bày cả hương án ra ngoài lộ kính cẩn đợi chờ Động chúa đi qua thì lạy mừng.
Do vậy, Động chúa không thể không tới phủ đường Tế Giang, không thể phụ lòng trông đợi của trăm họ ở Tế Giang được. Động chúa liền quyết định để Đinh Điền ở lại thu xếp việc Phục Tượng. Động chúa cùng các tướng đem một ít quân thăng đường tới phủ đường ngay.
Quả nhiên trong đêm hôm ấy, tận mắt Động chúa được thấy trăm họ dường như không ngu, nhà nào cũng treo đèn sáng trước cửa, nhiều nơi đem hương án bày trước ngõ, khói hương nghi ngút. Chẳng ở đâu lại không mong chờ được thấy vị anh hùng Hoa Lư đến vỗ an. Lại thêm nhiều người đến trước ngựa Động chúa kêu van những nỗi oan ức tan cửa mất nhà, chết người thân thích vì tay các thuộc hạ của Sứ quân. Trăm họ nài xin Động chúa giải oan cho họ, cứu vớt trăm dân. Quang cảnh ấy làm Động chúa bồi hồi cảm động, suýt chút nữa ngài lên Bắc thì có phải là để cho lòng người ân hận mãi là không được đón tiếp ngài không? Mà ngài thì lại không được tận mắt nhìn, tai nghe cảnh khổ của bá tánh?
Động chúa cùng chúng tướng sĩ kéo đi trên quan lộ, trăm họ đón rước tung hô “Vạn tuế! Vạn tuế!” chẳng khác nào như lạy chào đấng quân vương đi qua. Trăm họ mừng rằng từ đây bao nhiêu oan khổ áp bức sẽ không còn nữa, an bình từ đây mãi mãi sẽ là hạnh phúc của trăm dân. Bởi thế, khi vào phủ đường, Động chúa hội các tướng, cho gọi cả những tướng cũ văn võ của Tế Giang còn ở lại theo Hoa Lư, đến nghe ngài hiểu dụ.
Động chúa nói:
- Các ngươi đã tận mắt thấy nỗi lòng trăm họ, con dân mong ước những gì các ngươi đều đã rõ! Chính bởi đám giặc cướp của Sứ quân, cho nên lòng người mới mong mỏi được thấy có ngày hôm nay! Ta không thể vì đại nghĩa mà thừa cơ thắng thế tha hồ chém giết bừa bãi, nhưng cũng lại không thể không nghiêm minh quyết xử những kẻ gây nên tội ác đối với trăm dân. Vì thế để cho việc trị an được vững vàng, tội ác không còn có cơ hội hiện ra, ta không thể không dùng đến cực hình để tru diệt tội ác. Nước không có phép trị nghiêm minh tất trăm họ lầm than, việc ấy chẳng ai là còn không biết. Từ hôm nay trở đi thì tất cả sẽ được thấy thế nào là chính sự vĩ đại nghĩa, hào kiệt bị an nhàn là để đi đòi lại cho trăm dân bình an, công lý!
Rồi Động chúa ban những lệnh cực nghiêm, thu hồi hết thảy tài sản muôn ức của Sứ quân cùng đám tay chân chạy không kịp còn để lại. Ngay trong đêm hôm ấy đem ra trước chợ chém đầu mười sáu kẻ núp bóng Sứ quân ức hiếp dân lành, tội nhiều chẳng ai là không oán hận. Động chúa lại sai mở kho trợ cấp cho người đói khổ, phá ngục thả những người bị hàm oan tù tội. Những việc làm của Động chúa ở Tế Giang chẳng khác nào như tiếng sấm lớn nổ trên trời cao lan đi khắp nẻo, đâu đâu cũng ầm ầm hò reo lập hương án bái vọng Động chúa. Bá tánh còn gọi Động chúa là “Đấng minh quân trời cao vừa sai xuống để cứu muốn dân”. Vì thế chẳng mấy lúc trăm họ không còn gọi là “Động chúa Hoa Lư” nữa, mà kính cẩn vui mừng gọi ngài là “Vạn Thắng Vương”. Ý mong mỏi ngài đã thắng nhiều, sẽ thắng mãi mãi, thắng hết thảy để an định được lòng người. Bình định được cả giang sơn đất nước.
Từ đây, trong quân ngoài dân đều tôn xưng Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh là “Vạn Thắng Vương” là vì vậy.
Người kể chuyện cũng từ đây ứng theo việc, không gọi là Hoa Lư Động chúa nữa, mà gọi Đinh Bộ Lĩnh là Vạn Thắng Vương cho đúng.
Vương vừa tạm dàn xếp xong việc phủ đường Tế Giang, toan đem binh tướng dốc đường đuổi theo Lữ Đường thì đã có tế tác giục ngựa như gió cuốn, cờ hiệu Tế Sứ trương cao. Xin vào trình vương việc quân khẩn ngay.
Tế tác quy trình:
- Tâu trình đại vương. Quân sư sai gấp trình về vương việc quân phía Bắc. Trong quân của Lữ Đường có ngoại nhân trợ giúp, lập trận Ngưu Ma Vương xua trâu dán bùa thiêng vào trận, khiến cho tướng quân Lê Hoàn không thể nào đương cự được, phải lui quân tạm lánh lên sườn núi cao. Quân sư khẩn trình vương gấp chia binh tướng lên Bắc, đánh vào phía Nam trấn doanh Xuân Lâm, một phần đuổi theo Lữ Đường đã vào Cự Linh toan cố thủ!
Nghe tế tác tình, trên từ vương xuống đến hàng các tướng thảy đều sửng sốt. Như vậy là bao nhiêu tính toán xếp đặt của Quân sư lại có việc bất ngờ xảy đến làm sai lạc cả!
Riêng Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh nghe trình có “Ngưu Ma Vương trận”, ngài chưa biết trận trâu có bùa phép linh thiêng sai khiến như thế nào, nhưng dường như tự trong tâm hồn ngài vẫn còn những dư ảnh của ngày xưa thơ ấu cưỡi trâu lấy cỏ lau làm cờ bày trận giao tranh. Tự dưng ngài thấy sôi nổi hào hứng vô cùng, tự cho là ngài chẳng còn lạ gì về những đặc tính của trâu, tin chắc là mình chế ngự được trận trâu của ngoại nhân ở Xuân Lâm!
Thế là vương sai tướng Đỗ Thạch Bình nguyên là phó tướng thủy chiến của Đỗ Hùng Liệt ở lại xem xét mọi việc trị an ở phủ đường Tế Giang. Lại dặn: Loạn vừa mới dứt, không thể không giữ cho pháp trị được thật nghiêm minh. Tội chết không thể tha nhưng cũng lại phải uyển chuyển để phát huy nhân đức của người cai trị.
Vương lại sai Chu Kỷ Toàn cầm binh đuổi theo ngay Sứ quân Lữ Đường đã vào đầm Cự Linh. Để ngài đem theo Hồ Tường Thụy mang quân lên Bắc đánh vào phía Nam trấn doanh Xuân Lâm.
Vương nghĩ: phía Bắc Quân sư phải gấp mời ngài đưa binh lên uy hiếp phía Nam doanh Xuân Lâm nhất định là để giải nguy cho Lê Hoàn, tất là trận rất lớn, quan trọng lắm. Vì vậy ngài cho lệnh gấp đi gọi thêm tướng Đinh Điền mau mau tới cùng đi với ngài, bảo Điền trao binh quyền lại cho người khác.
Tế tác đi lại liên miên như mắc cửi, khiến cho Vương ở mặt Nam, Quân sư ở mặt Bắc, tướng Chu Kỷ Toàn ở phía Đông, tuy xa cách nhau thế mà vẫn thấy như có nhau ở trước mặt. Tin tức đi về khiến cho ba nơi tưởng như lúc nào cũng họp bàn được với nhau về mọi việc.
Ở mặt Bắc, Quân sư đến đúng vào lúc trời vừa tối, binh tướng Tế Giang còn chưa xong việc rải hỏa liệu, chất cỏ rơm quanh chân núi. Quân sư cùng ba tướng đứng trên vách cao nhìn xuống, quan sát mọi việc. Tà áo văn sĩ của Quân sư bay trong gió chiều đầu xuân, phong cách Quân sư phiêu phiêu như thần tiên bên cạnh ba tướng lặng lẽ.
Hai tướng trình cho Quân sư xem hai lá bùa xanh đỏ dán ở bụng trâu. Quân sư vừa thấy hai đạo bùa thì giật mình, hai tướng cùng tướng Mạc Sa Cảnh thấy rõ. Cả ba ông thấy thót ruột kinh sợ, thế nào cũng có việc lạ!
Quân sư xem xét kỹ hai lá bùa, rồi bảo:
- Gớm thật! Bọn Hỏa Thần Giáo lộng hành khắp nơi, nó đã có mặt ở trong quân của Tế Giang, giúp cho Xuân Lâm lập trận trâu ma hại binh ta! Hai lá bùa này, là hộ phù Ba Tư của Hỏa Thần Giáo, hợp với bài kệ riêng thì nó có ma thuật sai khiến được trâu ngựa bằng những tiếng trống. Gỡ bỏ bùa đi thì trâu trở lại bình thường hiền lành. Binh tướng của ta không thể đối phó được với trận trâu ma của Hỏa Thần Giáo là phải! Chắc là A Khả Ly rồi đây!
Lê Hoàn, Trịnh Tú không hiểu Quân sư nói A Khả Ly là ai, nhưng Mạc Sa Cảnh thì biết! Tuy thế, Quân sư không biết người bày trận trâu ma lại không phải là A Khả Ly, và chính A Khả Ly ngay sau khi Phương Mai quận chúa bị giết, hai thuộc tướng hộ vệ âm thầm bỏ trốn, thì lúc này ông ta ở đâu cũng chẳng ai biết.
Lê Hoàn, Trịnh Tú nghe nói thì lạ lắm, bây giờ hai ông mới biết đôi chút về Hỏa Thần Giáo đã vào Giao Châu. Quân sư bảo:
- Tống triều sai bọn Hỏa Thần Giáo vào nước ta giúp cho Tế Giang để cướp Cổ Loa, mở đường cho nhà Tống lấy nước ta. Nó mở trận đầu tiên ở đây, không biết còn ở những nơi nào nữa không?
Quân sư đưa mắt nhìn Mạc Sa Cảnh. Cảnh hiểu cái nhìn ấy.
Hồi lâu, Quân sư bảo ba tướng:
- Lúc này, thế nào Động chúa cũng sắp tới nơi đã định, chỉ không lâu nữa thế nào ta cũng thấy có chuyển động!
Tướng Lê Hoàn hỏi:
- Thưa Quân sư, nếu ở đây hỏa công của Tế Giang thực hiện được, thì lúc ấy hai mặt Bắc Nam trận thế sẽ thế nào?
- Cho đến lúc này, quân Tế Giang vẫn chưa xong việc sửa soạn hỏa kế, giả sử ta đem binh đánh xuống ít tiêu diệt được bọn quân này. Ngặt một điều còn có quá đông dân chúng, ta hành động như thế thì đúng như hai ông nghĩ là ta sẽ làm cho dân chúng bị chết nhiều. Ta